1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện Ngắn Ma Văn Kháng

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi despi, 26/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Con bạc
    ma văn kháng
    Lỏng khỏng những lóng xương khô, đứng thì trông như cái cây rủ lá, đi thì đầu đổ đằng trước, tay vẩy phía sau, nhưng công bằng mà nói, thủ trưởng Văn Chửng của tôi hao hao giống như một nhân vật công chức trong các truyện ngắn của Sêkhốp, nghĩa là có cái vẻ bí ẩn và sang trọng tỉnh lẻ, nếu thêm cái áo bành tô, cái nơ đen gài cổ. Nhìn ông hôm nay với cái vẻ cô thần ở khuôn mặt lưỡi cày có cái mũi quặp như mỏ diều hâu và cái vẻ khác người ở thần thái điệu bộ, chẳng ai có thể nghĩ, ông đã có thời gian hơn bảy năm tham gia bộ đội, mà là bộ đội tên lửa, tức binh chủng hiện đại bậc nhất trong chiến tranh kia. Tất nhiên lúc ấy, từ chức danh giáo viên ngoại ngữ đầu quân, ông chỉ là sĩ quan phiên dịch thôi. Năm mươi tuổi tròn, nhưng ông Văn Chửng như một kẻ chủ trương sống cuộc đời độc thân, hoàn toàn khép kín. Suốt một ngày dài, giam mình trong căn buồng trên cửa gắn biển chức danh phó chủ nhiệm, ông đọc sách, tìm nguồn tư liệu, soạn bài, duyệt bản thảo cho tờ chuyên san của chúng tôi - một chuyên san xã hội học, bàn toàn những vấn đề triết lý cao siêu, thuộc một lĩnh vực hẹp, ít người đọc, mỗi quý phát hành nhõm có một lần.
    Công việc của hơn chục nhân mạng già trẻ trong cơ quan vì vậy khá nhàn nhã. Nhàn nhã, nên nhịp điệu cuộc sống ở đây là rảnh rang đủng đỉnh, sớm chẳng vừa, trưa chẳng vội. Nhàn nhã nên cái tật nhòm ngó đời tư kẻ khác có cơ hội tha hồ khai triển. Công bằng mà nói, với công việc, ông Văn Chửng là một cán bộ mẫn cán. Hai năm nay, ông thay thế ông chủ nhiệm đã về hưu, nghĩa là đứng mũi chịu sào toàn bộ công việc của một cơ quan cấp vụ, nhưng vẫn chỉ được mang danh quyền chủ nhiệm, vậy mà ông vẫn chăm chỉ hết lòng với công việc và chẳng một lời thắc mắc, than vãn. Bấy giờ được một cán bộ như thế là tốt quá rồi. Lúc này, hống hách cửa quyền, thụt két là căn bệnh phổ biến của một số vị đứng đầu các cơ quan nhà nước. Lúc này, đồng tiền đi trước, công việc theo sau, khối anh tiếng là lãnh đạo mà bỏ bê công việc chỉ vì vài cái thiệt thòi vật chất nhỏ mọn thôi. Ông Văn Chửng không có những tính xấu đáng trách như thế. Còn như ông khác người ở sự độc thân, ở thái độ có vẻ như âm thầm tiết chế, cũng như ông có cái quan hệ rất lạ lùng với cô Bình, vợ một người đàn ông chột làm nghề cắt tóc ở cạnh cơ quan, thì cũng chỉ là đầu đề của những câu chuyện phiếm, vô hại, chẳng có quan hệ gì đến lợi ích cộng đồng mà trách cứ!
    Quả thật, ông Văn Chửng giống như một kẻ mắc căn bệnh ám thị giới nữ. Ông chẳng giao tiếp với ai, ngoài cô Bình ba mươi sáu tuổi, sống bằng nghề chân gỗ, chuyên ghi số đề. Cô Bình đã có hai con, nhưng còn sắc nước lắm. Cô Bình đít bồ câu, đầu chim ngói, mặt nhỏ như cái niêu đất, nhưng xinh xẻo, hai mắt lúc nào cũng lúng la lúng liếng, cứ như đang còn gái tơ vậy. Cô Bình quen biết ông Văn Chửng từ lúc nào? Chả ai biết! Chỉ biết rằng đã cả chục năm nay cô Bình giữ độc quyền ra vào cái căn buồng thủ trưởng của chúng tôi. Một mình cô thôi. Một mình cô, ngày nào cũng như ngày nào, cứ quãng mười một giờ là tay ve vẩy, tay xách cặp ***g cơm, cô đi qua dãy phòng làm việc của chúng tôi, vào buồng ông Văn Chửng. Cô Bình đem cơm cho ông Văn Chửng ăn. Rồi cửa đóng lại, cô Bình ở đó đến hai giờ chiều mới đi ra, lúc đó tóc tai đã gọn gàng, quần áo đã phẳng phiu. Thóc mách, có người nói họ quan hệ với nhau như vợ chồng thật. Nhưng, mấy ông đứng tuổi ở cơ quan tôi thì lắc đầu quầy quậy: Làm gì có chuyện ấy. Văn Chửng thuộc loại pê-đê, hai người ấy chỉ âu yếm nhau thôi.
    ấy thế, quanh cô Bình, ông Văn Chửng và quan hệ của họ luôn luôn có ý kiến trái ngược nhau. Kẻ bảo cô Bình là con đàn bà chuyên nghề đào mỏ, thấy anh chàng Văn Chửng độc thân là sán lăn vào lợi dụng; chứ anh chàng đực rựa này có gì mà hấp dẫn. Người ta nói: Văn Chửng khô chân gân mặt vừa đáng mặt đàn ông vừa có duyên thầm. Cái cô Bình thiếu là thiếu cái tình, cái tình lãng mạn và cái háo dục mà chồng cô không có. Liệu có thể tin được miệng lưỡi thiên hạ không? Chịu. Vì ngay như chuyện cô Bình giàu hay cô Bình nghèo, ý kiến cũng còn khác nhau lắm. Nhất trí với nhau, họa chăng là ở mấy anh em chúng tôi, mà cũng chỉ là nhận xét về mặt tính tình cô Bình thôi. Cô Bình đúng là tính khí hơi thất thường thật. Cô có tính đồng bóng. Lắm khi cô lên cơn ghen trắng trợn. Cứ như cô là vợ chính thức của ông Văn Chửng vậy. "Lại đi ăn bánh bao của con bỏ mẹ nào rồi, hả? Không ăn thì đổ cho chó nó ăn!". ấy là hôm cô đem cặp ***g cơm vào buồng, thấy ông Văn Chửng ôm bụng kêu no, không ăn được nữa. Tuy vậy, nóng là nóng xổi nóng thì vậy thôi. Lát sau lại thấy anh chị cười rúc rích, vô tình ngó vào còn thấy chị đè anh ra bón cho anh ăn nữa kia. Ông Văn Chửng được săn sóc từ miếng ăn đến manh áo mặc. Ông là kẻ vô lo. Vì từ việc lĩnh lương đến cái việc lĩnh nhuận bút ở các tờ báo, tạp chí mà ông cộng tác dịch thuật hay biên soạn, cô Bình lo hết. Đã cầm đến đồng tiền của nhau, tức quan hệ đến mức già nhân ngãi, non vợ chồng rồi. Quan hệ đến mức như vậy xét về nhiều mặt là rất chướng. Tuy vậy, phải nói ngay là cô Bình chẳng tỏ ra kín đáo ngại ngùng hay giấu giếm, che đậy gì hết. Đôi khi cô còn như là công khai đóng vai người vợ quyền uy, đáo để, lấn át cả ông nữa kia. "Rời tay con này ra ấy à thì rã họng. Như *** chó phơi nắng bảy ngày ấy, có chó nó lấy mà bảo tôi kiềm chế". Thế đấy, đã có lúc cô Bình còn lu loa vậy.
    Lạ cái là anh chồng cô Bình, một gã đàn ông chột dựng gương đặt ghế cắt tóc ở vỉa hè trước cơ quan chúng tôi, trông dữ tướng ra phết, lại chẳng bao giờ có ý kiến về quan hệ này. Có họa là anh ta đui điếc, chứ tuyệt không phải là nhắm mắt, bịt tai làm ngơ. Vì làm ngơ thế quái nào được. Ngay trước mắt anh ta, ngày nào mà cô Bình chẳng một lần ton tót đi vào cổng cơ quan, leo lên gác, chui vào buồng ông Văn Chửng. Chưa kể nhiều hôm, cô Bình tay ôm cái làn đựng đầy hương hoa, đồ cúng, tay ôm eo ông Văn Chửng, ngồi trên chiếc Wave phóng như bay, thấy chồng chẳng hề lúng túng, ngượng ngập lại còn giơ tay vẫy vẫy, nói với lại: "Đi chùa Trấn Quốc đây. Không ăn cơm nhà đâu đấy!".
    Cái gì lạ lùng mà lặp đi lặp lại mãi cũng trở nên vừa tai, vừa mắt. Chả ai bình luận về họ nữa! Cuộc sống cứ tiếp tục đi theo lối quen. Ông Văn Chửng ngày ngày tới cơ quan, đóng cửa làm việc, đến trưa thì cô Bình mang cặp ***g cơm tới, rồi đầu giờ tầm chiều thì cô đi ra. Có lúc cô nổi giận đùng đùng. Có hôm tiếng cô cười vang rộn cả mấy gian buồng. Có buổi, cô xách cả một túi lớn giò chả và bia lon tới, xộc vào buồng chúng tôi, toang toang: "Này, ăn mừng hộ lão Văn Chửng đi! Hôm qua đề về con 38. Lão Chửng chơi 500 nghìn theo luật một ăn bảy mươi, xơi 35 triệu ngon ơ!". ấy thế, cô chơi đề, chơi xổ số hộ cả ông quyền chủ nhiệm của chúng tôi. Và như vậy, muốn hay không thì quan hệ giữa chúng tôi và cô Bình đã trở nên thân tình. Thân tình đến mức, khi chúng tôi trách cô sao cứ níu giữ, không cho ông Văn Chửng đi lấy vợ, thì cặp mắt một mí của cô long lên sòng sọc: "Đấy, cho tự do đấy! Có đứa nào nó rước hộ thì tôi đốt pháo ăn mừng". Thân tình nên đã có lúc cô hỏi thẳng chúng tôi: "Sao các cậu không đề nghị cấp trên cắt Q(*) cho lão ấy, cho lão ấy nhận chức chủ nhiệm chính thức đi, lão ấy có khuyết điểm gì đâu? Khổ! Sao đời lão ấy lại chịu nhiều thiệt thòi, buồn đau thế!". Nói câu sau cùng, đang vui vẻ là thế, mặt cô xịu ngay xuống. Còn cặp mắt cô lăn tăn ánh cười, thoáng cái đã lại sập xuống và hoe hoe đỏ như có điều gì uẩn khúc trong lòng không nói được ra.
    Tuy nhiên, điều đặc biệt ai cũng nhận ra là giữa những náo động do cô Bình tạo ra, ông Văn Chửng vẫn là một hòn đảo âm u mù mịt. Ông chẳng trò chuyện gì với chúng tôi. Mặt ông chẳng biểu lộ vui buồn. Âm thầm, ông chỉ biết chúi đầu vào công việc, và chỉ giao lưu với thế giới bên ngoài, qua mỗi cánh cửa mở là cô Bình, người đàn bà đa tạp, thất thường, có tình cảm đặc biệt với ông, người đã dẫn dắt và uốn nắn ông hàng chục năm nay.
    Ông Văn Chửng vẫn lặng lẽ một bóng hình hiền lành, đơn độc khác người. Cả tuần, ông không vắng mặt một buổi ở cơ quan, trừ ngày chủ nhật, và gần đây, khi chuyển sang tuần làm việc bốn mươi giờ, thì thêm ngày thứ bảy.
    Nhưng tuần ấy, vào đầu giờ chiều ngày thứ sáu, khác với thường lệ, mở cửa bước ra không phải chỉ có cô Bình. Có cả ông Văn Chửng. Ông Văn Chửng mũ cátkét che trán, áo dài da, tay cắp cặp, lần này tự đặc tả theo mẫu một nhân vật công chức tỉnh lẻ thời xưa, khiêm nhường và lễ độ, chờ cho cô Bình đi khuất mới dừng lại trước phòng hành chính, khe khẽ và trịnh trọng: "Các bạn! Tôi xin phép nghỉ sớm một buổi chiều nhé". Ông báo cho chúng tôi biết, theo phép lịch sự thôi, chứ ông là ông chủ ở đây, điều đó chính ông biết rõ.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  2. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    ***
    Nghỉ việc chiều thứ sáu đã là một việc chưa từng xảy ra đối với ông Văn Chửng. Vì con người này xưa nay vốn nghiêm túc về mặt thời gian lắm cơ. Tuy nhiên, điều đáng nghi ngại lại là sáng thứ hai, chúng tôi không thấy ông có mặt ở cơ quan. Ngong ngóng suốt buổi trưa, cho đến đầu giờ chiều thì chúng tôi lo ngại thật sự. Trước nay, ông quyền chủ nhiệm chưa bao giờ bặt vô tăm tích như thế.
    Hay ông Văn Chửng ốm? Câu trả lời có ngay là không, khi hai nhân viên cơ quan chúng tôi đèo xe nhau đến tận nhà ông ở phố Ngọc Linh và trở về nói là nhà ông khóa trái cửa. Hay là ông quyền chủ nhiệm về quê? Vừa đặt câu hỏi đã thấy ngay là vô lý. Bao nhiêu năm nay có bao giờ thấy ông Văn Chửng nói về quê hương bản quán. Ông không có quê. Nói cách khác, ở quê ông giờ chẳng còn ai thân thích, ông chẳng còn dây mơ rễ má gì ở cái làng quê ngoại thành của ông cả. Ông sống một thân một mình. Ông tứ cố vô thân. Hay là ông thủ trưởng của chúng tôi đèo cô Bình đi lễ chùa? Vừa có người nói vậy, chúng tôi đã reo ầm ầm. Chứ còn gì. Cô Bình chăm lễ bái lắm. Người đàn bà này xem ra cũng có nhiều u uẩn, khúc mắc. Mà bây giờ đang là tháng bảy ta, tháng xá tội vong nhân, chùa chiền đang mùa hương khói! Chùa Tây Phương, chùa Thầy, chùa Trăm Gian... Quanh Hà Nội, có đến vài chục ngôi chùa đẹp nổi tiếng, đáng tiêu phí thời gian vào đấy lắm chứ. Nhưng mà nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy rằng, giải thích như thế thật không thỏa đáng; ông Văn Chửng của chúng tôi đâu có phải là con người không đàng hoàng.
    Ngày thứ ba, buồng ông quyền chủ nhiệm vẫn im ỉm khóa. Bây giờ thì đám các ông nhiễu sự sau mấy ngày ngậm tăm mới phá lên cười: "Các chú thiếu nhạy cảm quá". Hiển nhiên là các ông nghĩ rằng, để che mắt anh chồng chột, dịp này hai anh chị dại gì mà không lợi dụng cơ hội nấp bóng chùa chiền, rủ nhau đi thật xa để tình tự cho thỏa tình thương nhớ. Lúc này là thời cởi mở, nhà trọ, khách sạn sẵn như quần áo secondhand, lại thông thoáng vô cùng.
    Không, ông Văn Chửng của chúng tôi quyết không phải là hạng người ấy. Chúng tôi, mấy anh em trẻ tuổi, nhất quyết phản bác lại ý kiến của đám người nọ. Và như để chứng minh rằng chúng tôi đúng, chiều ngày thứ ba ấy, từ đâu trở về, cô Bình xộc lên cơ quan chúng tôi vẻ hớt hơ hớt hải khác thường. "Lão Văn Chửng của các cậu đi đâu mất mặt từ chiều thứ sáu?". Nghe cô hỏi giật, nhìn hai con mắt bồ câu của cô ngơ ngác, chúng tôi cũng sững sờ. Cô Bình trước nay vẫn là người rất thành thật. Thành thật trong cả sự dan díu với ông Văn Chửng! Và bây giờ chính cô cũng không biết ông Văn Chửng đi đâu mấy ngày qua. Cô Bình còn không biết thì hỏi ai có thể biết ông Văn Chửng đi đâu. Chả lẽ ông Văn Chửng đã biến vào vô tăm tích?
    ***
    Ông Văn Chửng không biến vào vô tăm tích.
    Ông đã trở về, trở về đột ngột trong sự mong đợi của chúng tôi. Sáng bửng ngày thứ tư, chúng tôi đến cơ quan đã thấy cửa buồng ông mở và ông đang đánh răng rửa mặt ở cái vòi nước cạnh sân. Thấy chúng tôi, ông quay lại. Khác hẳn mọi khi, mặt ông tươi tỉnh, thái độ ông vui vẻ khác thường. Một linh hồn xa lạ đã nhập vào ông, đã biến cải gương mặt, giọng nói ông. Không còn nỗi niềm âm u, mờ mịt xa cách. Tất cả đều sáng láng, rõ ràng và gần gũi. Mặt ông giãn ra, trắng hồng. Giọng ông trong trẻo vang lộng và trẻ trung như của một người khác vậy.
    - Này! ở đây có cậu nào đã từng chơi tổ tôm chưa nhỉ? Chưa hả? Thế thì phải tập chơi đi thôi! Tập chơi đi!
    Ông nói dồn dập, đột ngột và cũng đột ngột ông tiến vào buồng làm việc của chúng tôi. Đang kéo ghế ngồi xung quanh bàn trà, chúng tôi cùng quay cả lại. Ngạc nhiên vì sự xuất hiện của ông một phần, lại càng kinh ngạc hơn vì bỗng dưng ông lại mở đầu câu chuyện về thú chơi tổ tôm.
    - Mời anh ngồi ạ.
    - Thôi, khỏi! Mình nói một tý rồi còn phải làm việc - Xua tay, nuốt nước bọt, ông Văn Chửng nhướng hai con mắt lớn, không hề biết đến sự kinh ngạc của chúng tôi, chành cái miệng rộng, tiếp - Trước hết, quan trọng nhất là phải hiểu: Chơi tổ tôm, đó không phải là đánh bạc. Đó là thú chơi tao nhã, thanh lịch và...
    - Có phải xưa các cụ vẫn gọi đó là đánh chắn không ạ?
    - Không phải! Chắn cạ là tổ tôm đàn bà. Tổ tôm chính ra là thế này. Cỗ bài nó có 120 quân, được chia thành 6 phần. Năm phần năm người cầm, một phần để bốc nọc. Cần nhắc lại ngay rằng, đây không phải là phạm trù cờ bạc. Đây là thú chơi cao cấp, lịch sự và thanh tao nên hạng thứ dân chỉ có thể ngồi chầu rìa. Và vì nó là cao cấp, sang trọng nên không có dính dáng gì đến tiền nong. Cao cấp vì nó có nhiều nước, nước ăn nước bốc, loại nào cũng lắm nước cao. Bởi vậy, có anh đánh đến bạc đầu còn chưa biết hết các nước cơ mà. Ui chà, được cái ù chi nảy, tức là ù to nhất, nghĩa là chờ mỗi con chi, nhưng lại không phải mình mà lại phải là người khác bốc cơ, thế nên mới phải vỗ đùi cười ha há, sướng như lên tiên. Nghĩa là mê hơn mê gái. Mê đến mức đánh từ chập tối đến năm giờ sáng mà không biết mệt là gì sất cả, các cậu ạ.
    - Thích nhỉ.
    - ấy thế! Nhưng tôi xin nhắc lại rằng: đó không phải là cờ bạc. Cho nên gom nó thành một cụm từ tổ tôm - sóc đĩa là sai. Tổ tôm là thú chơi dân tộc, cao sang. Anh em cứ để ý mà xem, anh nào chơi tổ tôm, phong thái nó tao nhã, tinh tế, ý nhị khác hẳn người thường.
    Lạ chưa! Chưa từng bao giờ chúng tôi được nghe ông Văn Chửng nói chuyện một cách cởi mở như thế, mà lại nói về tổ tôm với vẻ say sưa hăng hái như thế. Ông nhiệt liệt ca ngợi thú chơi tổ tôm. Ông nói, tổ tôm thuộc về dân tộc. Tổ tôm đã được xã hội hóa cao độ. Từ tổ tôm, chữ nghĩa nhảy ra ngoài đời vô khối rồi đấy. Ví dụ: chầu rìa, gàn bát sách, phỗng tay trên... Chà, chà! Nghe ông nói, chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng mỗi một con người gần gũi với ta đây là cả một vùng bí ẩn hàm chứa bao điều chưa khám phá ra. Mới ngẫm ra rằng, chẳng bao giờ ta có thể giải tỏ được toàn bộ ẩn mật của chính ta và những người xung quanh ta.
    - Tôi nhắc lại, lần cuối - Ông Văn Chửng nhấn mạnh trước khi quay ra cửa buồng chúng tôi - Tổ tôm không phải là món cờ bạc, một trong tứ đổ tường đâu. Nó là một thú chơi giải trí có tầm vóc văn hóa dân tộc. Và tôi nói điều này, anh em kiểm chứng hộ xem có đúng không nhé: Con người hơn con vật ở cái chỗ là nó biết thưởng thức cái thú vui tao nhã đó.
    Kết luận một câu chắc nịch kèm một tiếng cười cụt ngủn, và giơ tay chào mọi người, ông Văn Chửng hấp tấp trở về buồng mình. Cũng đã đến giờ làm việc buổi sáng. Cũng là lúc, ở cầu thang có tiếng dép cô Bình.
    * * *
    Cô Bình xộc ngay vào buồng chúng tôi. Mặt hăm đỏ, mắt lóng lánh, môi mim mím, cô như đang nén cơn uất nghẹn.
    - Các cậu có báo hôm nay không?
    - Chị tìm báo gì?
    - Báo An ninh thành phố chứ còn báo gì! Báo họ đăng tin bắt được một vụ đánh bạc, con bạc toàn là cán bộ nhân viên nhà nước ở phường Ngọc Linh.
    - Cơ quan không đặt mua báo An ninh thành phố, chị ạ.
    Cô Bình bỏ ra cửa. Liền đó chúng tôi nghe thấy cánh cửa buồng ông Văn Chửng cạch mở, rồi sập đánh rầm, và từ trong khe cửa lọt ra tiếng rít chói tai của cô Bình:
    - Trời ơi! Ngu đâu có ngu đến thế, hở? Lại đi toe toe khoe với thiên hạ. Bị muỗi đốt ba đêm có sướng không? Giờ thì chó nó cắt Q cho. Thật là kiếm củi ba năm thiêu một giờ nhá! Thế có khổ thân tôi không!
    Cô Bình khóc. Cao điểm của trạng thái tinh thần là tiếng khóc. Tiếng khóc của cô Bình ai oán và đau đớn lắm. Nghe cô khóc mới nhận ra rằng, chỉ có những người ruột thịt, những người đã trao xương gửi thịt cho nhau, là vợ là chồng của nhau mới khóc như thế! Tiếng khóc của cô Bình giải tỏa nỗi niềm sâu kín của cô! Tiếng khóc của cô Bình, may thay, đã giúp chúng tôi giải mã toàn bộ bí mật của mối quan hệ giữa cô với thủ trưởng của chúng tôi. Thì ra, cô Bình trước đây đã từng là vợ có hôn thú của ông Văn Chửng. Ông Văn Chửng lấy cô Bình khi ông là giáo viên giảng dạy tiếng Anh ở một trường trung học, còn cô là nhân viên cửa hàng lương thực. Chiến tranh, ông Văn Chửng nhập ngũ, làm sĩ quan phiên dịch trong một trung đoàn tên lửa có chuyên gia Nga. Cùng đơn vị, ông vào chiến đấu ở chiến trường Vĩnh Linh. Ông đã hy sinh tại miền đất đỏ bazan này. Giấy báo tử báo vậy khi đơn vị ông chuyển quân sâu vào chiến trường phía nam. Cô Bình để tang chồng ba năm rồi mới lấy anh thợ cắt tóc thương binh hỏng một bên mắt.
    Chuyện này do chính anh thương binh treo gương đặt ghế mở cửa hàng cắt tóc ở trước cửa cơ quan chúng tôi kể. Anh chép miệng khi đọc báo và được biết, ông Văn Chửng của chúng tôi bị Công an gọi là con bạc, bị bắt quả tang trên chiếu tổ tôm và bị phạt hành chính hai triệu đồng:
    - Khổ! Con bạc gì! Anh ấy hiền lắm. Đã nhiều lần, tôi bảo anh ấy, hay là anh trở về sống với cô Bình đi, nhưng anh ấy không nghe. Anh ấy là con người cao thượng. Đây chẳng qua là chơi để giải buồn thôi, tội cho anh ấy quá. Tội cho anh ấy quá.
    Ôi, cái cuộc đời còn biết bao nẻo đường ngoắt ngoéo, có lắm chuyện cười dở, mếu dở, ít ai ngờ tới này!
    --------------------------------------------------------------------------------
    (*) Một cách nói hài hước, tức chính thức làm Chủ nhiệm, không còn là Quyền chủ nhiệm.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  3. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hoa gạo đỏ
    Ma Văn Kháng
    Khi những người U Ni ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt vai vào cổ trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát thì hoa gạo bắt đầu nở.
    Khắp đất nước, có lẽ không ở đâu hoa có cung mầu đẹp tuyệt như ở đây. ở đây, trời xanh trong văn vắt, thanh lọc đến kỳ hết vẩn bụi và mặt nước nhìn được vào tận cõi vô cùng. ở đây, sau một mùa đông giá lạnh, xo ro, cây bung nở hết mình cái sức tích tụ bao tháng ngày.
    Suốt một rẻo biên giới, trên những nương lúa đã bỏ hóa, hoa gạo rừng rực cháy đỏ một vệt dài tít tắp. Trong cái ngẫu hứng tài tình của tự nhiên ấy, ta cứ nghĩ tới một sự sắp xếp cố tình của con người. Ôi chao, thì ra thiên nhiên cũng muốn tham gia vào đời sống con người. Biên giới không chỉ hoạch định bằng cột mốc. Mà còn bằng cây cỏ. Và như vậy, những hạt gạo đuôi xòe lông tơ từ một miền nảo miền nào theo gió phát tán tới đây, giống như một hiện tượng chim đậu đất lành, lại như là có ý thức hẳn hoi trong việc xác định ranh giới quốc gia.
    Đất vắng, rộng, thật là thung thổ hợp với loài gạo. Gạo ưa hạn, chịu sáng, quen chịu đựng mọi khắc nghiệt. Cho đến bây giờ thì gạo đã thật sự có những hàng đại thụ, thân hai ba người ôm, mùa xuân này, nghềnh ngàng các nhánh ngang vùng vẫy, đốt đuốc trên bầu trời. Chẳng có thứ cây nào mà lại hào phóng sắc đỏ đến thế. Và hoa thì vừa to vừa lực lưỡng đến đậu trên cành trông không khác một đốm lửa, phấp phới vẫy gọi những đàn sáo từ xa đến thưởng ngoạn cái đẹp của chính mình. Bọn sáo vô tư, líu lo, nhảy nhót, đôi lúc vô ý đánh gãy một bông hoa. Nhưng, hoa chỉ giật mình trong chốc lát, trên đường rơi nó đã kịp giữ thế cân bằng quay tít như cái chong chóng năm cánh hoa dày.
    Ông Lý A Lừ, người làng San Cha Chải áp quả núi cao có cột mốc biên giới, vào mùa hoa gạo nở, là vác cái rìu, đeo con dao, tạm biệt bà vợ, ra đi. Ông Lừ đi làm thuê. Như tất cả những người ở vùng cao heo hút nghèo đói này, cấy lúa xong là đem thân đi đục đá, phá ruộng, xây nhà, thu hái lâm sản thuê, cho tới tháng mười, vào vụ gặt, mới quay trở về làng, lúc ấy cũng là lúc cây gạo trụi lá.
    Thời gian để lại dấu chân trên cây gạo.
    Với ông Lý A Lừ hiền lành, chất phác và kham khổ, cây gạo còn có một mối quan hệ gắn bó hơn. Xưa nay, cây gạo là loại cây cho thứ gỗ kém cỏi lắm. Bộp, đến mức cho vào bếp người ta cũng chê là chỉ tổ khói. Nhưng, sự đời đã có một biến đổi đến bất ngờ, vào mùa xuân ấy bỗng nhiên loài gỗ nọ trở thành một đối tượng để kiếm tìm. Thì ra đã có một phát minh. Một nhà chế biến gỗ làm một thí nghiệm: Họ xẻ ván gạo, cho xuống nước ngâm, ngâm cho kỳ mủn gỗ ra, rồi mang lên phơi, thì ôi chao, thứ gỗ bộp nọ đã biến thành loài tứ thiết, không biết cong vênh là gì. Và rắn đanh đến mức đinh tây đóng vào cũng nhụt!
    Nhà chế biến gỗ nọ là người hàng năm vẫn thuê ông Lừ hạ cây, xẻ ván, đem chuyện nọ ra kể. Ông Lừ kêu:
    - Thế thì lên làng tôi. Làng tôi nhiều cây gạo lắm.
    - Có to không?
    - Không biết nó mọc từ bao giờ. Tôi nghe các cụ già kể: Từ thời lập quốc, cây gạo bắt đầu mọc rồi. Giờ to lắm.
    - Vậy thì vụ xuân tới tôi sẽ lên và bác làm giúp tôi nhé.
    Vụ xuân này chính là vụ hạ gỗ đã hẹn hò đây.
    Nhưng, cuộc hò hẹn của người thợ chặt hạ và nhà chế biến nọ đã không thành. Vừa quay vào đóng cửa ông Lý A Lừ nghe thấy tiếng mõ gỗ, mõ tre khua động từ nhà lý trưởng Tráng Vần Đa. Đó là mõ gọi họp toàn thể dân làng.
    Chẳng còn cách nào, vốn người gắn bó với việc làng nước, ông Lừ bước vào nhà cất rìu, dao rồi ra bãi chơi đầu làng. Trong cái lều nhỏ ở giữa bãi chơi, lý trưởng Tráng Vần Đa mặc cái áo dạ xám, đội mũ lưỡi trai dạ đen, đứng với mấy người lính lệ mới từ huyện về. Người làng lục tục đến, người đến trước ngồi trên những tảng đá nổi, người đến sau ngồi trên cái đu quay, trò chơi còn sót lại từ ngày hội gà ma thù của cả bản.
    - Mọi người đến đủ cả chưa?
    Lý trưởng Đa bước ra khỏi lều, chống tay lên sườn, cố cho dáng to ra và bệ vệ, để hợp với lời nói hách dịch:
    - Cả làng nghe cho rõ mà theo mà làm. Mùa này từ hôm nay, trai làng, ông già không ai đi bán công nơi xa nữa. Huyện vừa có giấy sức về đây. Việc này hệ trọng hơn mọi việc. Vua nước An Nam ta sắp vào thăm bản ta, tổng ta.
    Bởi vậy, làng phải cắt cử người sửa đường, sửa cầu, và ra huyện khiêng kiệu rước Đức Kim Thượng về.
    Lý trưởng Đa chưa dứt lời, vùng đất đã như có đàn sáo bay tới. Chưa bao giờ San Cha Chải vang động đến như thế vì một cái tin do lý trưởng Đa nói ra.
    *
    Ông Lừ là người đi bán công xa nhà bản, ông lại đã gặp, đã làm việc với người Kinh, chính là nhà chế biến gỗ nọ, nên bếp lửa nhà Lừ đông người đến chơi nhất.
    - Vua là thế nào, ông Lừ?
    - Vua là người to nhất người An Nam mình.
    - Tôi cứ nghĩ, ta chỉ có một vua là Tráng Vần Đa.
    - Ông Đa đang là vua cái nước nhỏ San Cha Chải ta thôi.
    - Còn người An Nam ta?
    - à ở chỗ bắt đầu là nước ta, ông giời gieo xuống một thứ cây ra hoa đỏ để đánh dấu, để ta dễ nhớ. Từ đó ra đến biển... rồi ra nữa... Rộng vô kể, ta đi ngày qua ngày, tuần qua tuần...
    Mọi người cùng ngẩn ra. Cái câu nói của người đàn ông đã ra tới huyện vẽ một khoảng rộng mênh mông, chẳng biết đo bằng gì, chỉ hình dung ra bằng những ngày những tuần đi dằng dặc từ đầu này là mầu đỏ hoa gạo đến thăm thẳm xa xăm là sóng biển trùng trùng. Một đất nước như thế là rộng là đẹp. Và San Cha Chải đúng là có cây gạo mọc, nên nó đúng là đất của vua. Vậy nên vua xa giá tới viếng thăm là phải rồi.
    Làng sửa soạn đón Vua thật náo nhiệt. Đường dài mấy chục cây số qua rừng gianh, rừng nứa phải phát quang. Hai cây cầu gỗ trôi từ mùa lũ năm ngoái phải bắc lại. Lại thêm lan can, để nhỡ Đức Kim Thượng nảy ý thích xuống kiệu đứng ngoạn cảnh còn có chỗ vịn. Thôn xóm sạch sẽ. Trâu bò đuổi hết lên rừng. Nhà nào cũng cố tìm mua đèn ***g đỏ, treo hai cái như má con gái, ngoài hiên. Người nào việc ấy, phấn chấn hẳn lên. Riêng ông Lý A Lừ thì phấn chấn hơn hẳn người khác. Bởi vì, ông và ba tráng đinh nữa được lý trưởng Đa ra cắt cử ra tận huyện để vừa là dẫn lộ vừa là theo hầu Vua, thậm chí khênh kiệu Vua vì có thể Ngài không quen cưỡi ngựa.
    Ông Lừ mừng lắm. Như vậy ông được biết mặt Vua trước mọi người. Được theo chân Vua mấy ngày trời nữa thì thật là vinh hạnh không thể mua bằng vàng. Ông Lừ sửa soạn áo quần, khấp khởi chờ đợi. Nhưng hình như càng chờ mong thì càng thấy điều ngóng đợi lùi ra xa thêm. Bộ quần áo mấy lần vứt vào thùng chàm nhuộm lại rồi hong khô, chưa dám mặc. Ra vào, đi đứng, lúc nào cũng bồn chồn, không yên. Làm việc gì cũng dang dở, nhầm lẫn. Hồn vía cứ bay lượn ở đẩu ở đâu.
    Rồi một buổi ông như chim én mùa xuân, chạy từ nhà lý trưởng Đa về tới nhà, rối rít gọi vợ, báo tin mừng.
    Thượng hoàng đã lên đường đi kinh lý tỉnh Thượng Du này thật rồi. Ngài là một ông vua trẻ tuổi, tính tình thoáng đạt, tâm hồn dạt dào. Mùa xuân gợi cảm hứng cho ngài. Giang sơn cẩm tú này ngài muốn thu vào tầm mắt. Từ kinh đô ngài đi xe tam mã. Tháp tùng ngài còn có các cận thần kính cẩn trong triều. Ngoài ra, còn một tốp thợ nề, thợ mộc kéo tận những làng có nghề truyền thống. Nhân dịp này, Đức Vua muốn sửa sang bờ cõi, tu bổ lại các cột mốc, đường ranh giới quốc gia.
    Tới Việt Trì, Đức Kim Thượng chuyển sang cưỡi ngựa, tốp thợ xuống thuyền thay nhau chèo chống, kéo dây ngược dòng. Hành trình chậm dần.
    Ngày qua, San Cha Chải và ông Lừ dõi theo bước chân của Đức Vua. Ngài đã tới địa hạt Phú Thọ. Ngài sắp tới tỉnh lỵ tỉnh Yên Bái... Ngài sắp... Ngài đã... Rồi đang xôn xao bỗng bặt đi như hòn đá rơi mất tăm dưới lòng vực. Một tuần qua. Một tháng qua. Ông Lừ ngơ ngơ ngác ngác...
    Thì bỗng có con ngựa hồng như có lửa cháy rần rật một chiều phi tới làng và hôm sau ông Lý A Lừ cùng ba suất đinh nữa, mỗi người một cái gậy dài vác vai, rời làng ra huyện. Mặt mũi ai nấy đều hớn hở khác thường. Lý trưởng Tráng Vần Đa tiễn họ ra tới bãi chơi đầu bản và nói cho mọi người biết. Bốn người này xuống huyện để cùng quân lính dưới đó rước kiệu Đức Vua về San Cha Chải. San Cha Chải, ngọn núi, mảnh đất, cái cột mốc xa xôi nhất sắp được một ân sủng không gì sánh nổi.
    Mải miết trong hào hứng bất chấp cả lúc sớm bừng khi tối trời dễ bị thú dữ làm hại, đi liên tục cuối cùng ông Lý A Lừ và ba người đàn ông nọ đã vượt trước thời gian. Chiều thứ hai của cuộc hành trình họ đã tới huyện lỵ.
    Mệt nhọc, nhưng cả bốn đều khấp khởi. Đi qua phố huyện, họ nhận ra vẻ khác thường của bầu không khí vô tịnh vốn có. Tuy không thắp lửa, nhưng trước cửa nhà nào cũng treo đèn ***g, kết hoa giấy. Nhưng, phảng phất trong khung cảnh một nỗi niềm gì đó rất khó xác định; ấy là sự bực bội pha lẫn cảm giác bẽ bàng. Có lẽ nỗi niềm đó toát ra chủ yếu là do thái độ của người lính đón họ và đưa họ vào nhà trọ ở cuối tràn ngựa. Ông ta động nói là cau cảu.
    Sáng sớm hôm sau, ông Lý A Lừ và ba người vừa trở dậy thì người lính nọ tới. Bây giờ mới trông rõ ông ta. Vóc thấp, vai vuông, chân nhỏ quấn xà cạp nên hai bắp phồng như hai cái bắp bi. Mặt ông quê mùa, cũ kỹ. Lại có mấy nốt rỗ hoa, nhiễm đầy vẻ bất đắc chí.
    - Nào, đi sớm không nắng.
    Người lính nói. Ông Lừ săn đón:
    - Đi khiêng Đức Ngài ạ.
    Người lính nhướng hai con mắt nhỏ một mí vẻ khó hiểu:
    - Các người ở San Cha Chải?
    - Vâng.
    - Người U Ni chớ gì?
    - Vâng.
    - Dân U Ni khiêng, địu thì nhất rồi. Địu bằng trán có phải không?
    Ông Lừ ngơ ngơ, bụng nghĩ mờ mờ tỏ tỏ, lại nhìn người lính, rụt rè:
    - Đi khiêng Đức Vua ạ?
    - Thì đi!
    Người lính sẵng, rồi phất tay ra hiệu bảo họ đi. Bốn người San Cha Chải cum cúp đi theo người lính. Quanh quanh, ngoặt ngoặt mấy lần, họ đến trước một túp lều gianh, cửa liếp còn khép. Chả lẽ Đức Vua ngài ở đây? Ông Lừ ngơ ngác, chực hỏi thì người lính đã chống nạnh, giục:
    - Đức Vua của các ông ngự trong ấy. Đẩy cửa vào khiêng đi! Nhanh lên!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  4. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1

    Ông Lừ đặt tay vào cánh liếp, vừa hồi hộp vừa sợ hãi. Sao lại có thể như thế này được nhỉ? Đến như ông Tráng Vần Đa, vua San Cha Chải, cũng không ở cái túp lều tồi tàn như thế này. Một là ông bị lẫn, hai là người lính độc bụng, định đưa ông vào bẫy mắc tội phạm thượng. Nghĩ vậy, nên ông rụt tay lại. Nhưng thật không may cho ông, cánh cửa liếp khép hờ hững lại có chiều hướng ngả vào bên trong nên chỉ cần chạm khẽ vào là nó đã ỏe ra, ẽo ẹt một tiếng dài.
    Hai cánh cửa mở một khoảng tối mờ. Bị chi phối bằng một đức tin và niềm sùng kính chất phác, ba người đàn ông và ông Lừ vội quỳ sụp xuống, chắp tay vái liền ba cái. Người lính bật lui trở lại, thoạt đầu bưng miệng cười, nhưng thấy thái độ thành kính chân thực của bốn người nọ, vội ngậm miệng đứng ngây ra.
    Trong bóng tối âm âm hiện dần lên hình một phiến đá trắng, có chiều rộng một sải, cao bằng đầu người, dày hơn gang tay, mặt khắc chìm những dòng chữ bay ****. Phiến đá đứng, hơi choãi chân ra phía trước; do chiều cao, chiều rộng, thế đứng và nhất là do những dòng chữ bí ẩn mà nó trở nên uy nghi khác thường.
    Ông Lừ hơi sững người. Nhưng, lập tức lòng kính tín sau mấy giây rung rinh, lại trở lại và cùng với ba người kia, ông bước lại cạnh phiến đá mà run rẩy như được hưởng một ân huệ khác thường.
    Người lính được lây truyền cảm xúc trân trọng bỗng dịu giọng:
    - Đức Vua ngài bận việc quân nên chỉ ngự thuyền rồng lên tới tỉnh lị thôi. Ngài gửi phiến đá này vào. Phiến đá này thay mặt Ngài, Ngài bảo phải đặt nó lên ngọn núi San Cha Chải. Bây giờ các ông sửa soạn khiêng đi! Nhanh, kẻo nắng!
    Không chút thất vọng, ông Lừ và ba người đồng hương vội hạ đòn, buộc thừng chão, và sau khi làm thành cái kiệu mộc mạc, họ ngả phiến đá thiêng của Đức Vua lên đó, rồi đều tay nhấc lên vai.
    *
    Bốn người đàn ông U Ni khiêng đá của Đức Vua vừa khỏi huyện lỵ, trời mới tan sương. Nghe nói phiến đá đã theo Đức Vua từ kinh đô lên. Vua ở đâu, nó ngự cùng ở đó. Tới tỉnh lỵ, nó cùng Vua được đón tiếp vô cùng trọng thể. Từ tỉnh lỵ vào huyện, nghi thức đã bớt đi phần diêm dúa, nhưng vẫn giữ được sự long trọng, nó được ngự riêng một cỗ xe tam mã vào tới tận huyện đường. Và mấy đêm vừa rồi, tuy là ở trong cái lều gianh xoàng xĩnh đó, phiến đá vẫn được canh giữ rất cẩn thận.
    ấy là câu chuyện mở đầu của người lính đi theo áp tải phiến đá. Câu chuyện có tác dụng kích thích bốn người đàn ông, mặc dầu ra khỏi huyện lỵ, họ trơ trọi, thui thủi giữa bóng rừng mênh mang.
    - Liệu chiều mai có tới nơi không?
    Người lính lạch cạnh lưỡi lê ở hông đi cạnh ông Lừ, chưa được mấy bước chân đã có vẻ sốt ruột hỏi. Ông Lừ đáp:
    - Đi ra thì hai ngày. Đi vào, dốc, phải hơn.
    - Thế đêm nay độ đường ở đâu?
    - Cứ đi thôi. Tối đâu ngủ đấy.
    - Không được. Phải vào làng Pa Mao Chải ngủ. Trên đã sức cho lý trưởng làng đó đón rước rồi.
    Hai người khiêng đòn đi ở phía sau cùng nghển lên:
    - Không đi đường Pa Mao Chải được đâu. Cầu gỗ to qua suối lớn ở đầu làng trôi rồi.
    Người kia tiếp:
    - Mua thêm đường hay sao mà đi đường ấy!
    Ông Lừ thêm:
    - Đi đường ấy phải bốn năm ngày. Lâu quá. Đi đường tắt này nhanh về cho dân San Cha Chải khỏi ngóng.
    Người lính than:
    - Dốc ngửa ngực, vất vả quá!
    - Chịu khó một tí thôi!
    Mấy người khiêng phiến đá cũng nói một ý. Và phiến đá trên vai họ lừ lừ chuyển êm như trôi trên sóng lặng, chẳng cần một cố gắng nào. Qua một khu đồng hẹp, họ lôi qua con suối rộng nhưng nông. Đó là con suối ở chân cao nguyên vùng San Cha Chải. Đường ít người qua, rêu xanh phong đá suối, trơn nhuội. Bốn người dờ dẫm từng bước ngắn, thận trọng còn hơn khiêng người ốm nặng. Sang tới bờ bên này, họ trút hơi thở đánh phào và thấy người như khỏe thêm ra. Họ đã thấy hương sắc vùng quê.
    Hương sắc quê hương San Cha Chải, ấy là những triền núi vàng suộm cỏ gianh như một biển nắng chiều. Là cái khoảng xanh mờ ảo tít xa của những vùng rừng vầu cổ xưa. Là cái mùi hoa thảo quả thơm lựng hòa trộn với làn khí trời tê mát dưới tán rừng nguyên thủy thuần một loại pơ-mu lão đại. Bóng những khoảng rừng già đã mỗi lúc một sẫm mầu trong mắt người. Qua ba bốn khúc đường lên dốc xuống dốc như yên ngựa, phiến đá đã lọt hẳn vào một vùng rừng già, tán cây tỏa xuống mặt đất vẻ trầm mặc, ư tịch. Người lính bỏ nón quạt:
    - Nghỉ chứ, chư ông!
    - Cố tý nữa, lên hết đoạn dốc này.
    - Chịu chư ông thật. Đi một thôi mấy tiếng rồi, ông Lừ?
    - Đằng nào cũng phải đi, ông ạ.
    - Sợ mệt là mệt các ông thôi!
    - Việc làng việc nước mình không làm, người khác cũng phải làm, ông lính ạ.
    Việc làng việc nước! Cái ý nghĩ tự nhiên mà sâu xa! Vì việc làng việc nước mà vụ xuân này bỏ cả việc bán công sinh nhai. Vì việc làng việc nước mà mang cái khó nhọc vào thân. Việc làng việc nước. Nào phải là đã hiểu thật hết ý nghĩa của công việc mình đảm đương? Nhưng đã là việc làng, việc nước thiêng liêng, cao quý thì phải tận lực mà làm cho trọn vẹn.
    Đến trưa thì chính người lính đi tay không đòi nghỉ vì mệt quá, không thể đi được nữa. Đám khiêng phiến đá của Đức Vua phải dừng lại. Đó là một khoảng trống giữa rừng già. Vừa hạ kiệu, bốn người cảm nhận ngay được cái hoang lạnh đến rởn da thịt của khung cảnh. Bụi rậm và vòm cây chen kín, xung quanh họ tối mờ. Sương phủ mù mù vây bọc. Từ trong xa xăm, vẳng lên tiếng róc rách của một con suối hoang, như một ám ảnh triền miên, dai dẳng.
    - Này, từ lúc vào khu rừng già này, các ông có thấy cái gì là lạ không?
    Ông Lừ quệt mồ hôi trán, hỏi ba người đồng hương. Một người ngây ngây nét mặt:
    - Tôi thấy có mùi gây gây.
    Người lính đang nằm ngả trên đất, cố nghển cổ dậy, thều thào:
    - Mệt lắm rồi. Nghỉ lại ở đây thôi. Mai đi tiếp.
    - Không được đâu, ông ạ.
    Ông Lừ nói với người lính và nhìn ba người bạn của mình. Lập tức cả bốn người cùng đồng lòng là phải nhấc đòn lên vai, đi ngay. Có một nỗi hung hiểm chập chờn đâu đó, ai cũng nghĩ tới mà không ai dám nói.
    Thấy mấy người đã khiêng phiến đá đi, người lính vội nhổm dậy, hơi thở phì phò:
    - Tôi đến chết với các ông thôi.
    - Cố lên, ông lính ạ. Tôi sợ chỗ này...
    - Sợ cái gì?
    - Đừng nói! Cố một tí nữa!
    Người lính hiểu lờ mờ. Ông lẽo đẽo theo sau bốn người nọ.
    *
    Đêm ấy đám người khiêng phiến đá của Đức Vua ngủ giữa rừng già. Chỉ có người lính được ngủ liền một mạch. Còn bốn người chia thành hai tốp thay nhau canh gác. Họ đốt lửa thâu đêm.
    Sáng bửng, mặt trời rọi qua kẽ lá, phân tỏa thành ngàn tia sáng hân hoan, người lính mở mắt. Sức đã phục hồi. Những cảm giác tươi sáng trở lại. Ông nhìn bốn người bạn đường bỗng thấy yêu quý họ khác thường. Họ giản đơn, thô sơ vậy thôi, mà thật là những tấm lòng vàng.
    Thấy người lính mở mắt. Ông Lừ bước tới:
    - Ông còn mệt nhiều nữa không? Hôm nay ta đi cố thì tối có thể tới được.
    Người lính nhổm dậy:
    - ừ, cố đi.
    - Đêm nay tới San Cha Chải, được ngủ trong nhà rồi. Một người nói. Người khác thêm:
    - Mời ông lính về nhà em nghỉ nhé.
    - Tất nhiên rồi. Người lính vui vẻ - Đưa được phiến đá Đức Vua lên tới cột mốc xong là hoàn tất công việc.
    - Tôi biết chỗ cột mốc biên giới.
    - ở đâu, ông Lừ?
    - Trên núi, chỗ có nhiều cây gạo hoa đỏ. Lạ thật ông lính ạ. Ông trời cũng có ý phân chia địa giới nên mới gieo giống cây gạo bên mình. Còn bên kia, tịnh không một cây, thế mới lạ chứ!
    Người lính cười, nhổm dậy:
    - Đưa phiến đá của Đức Vua lên đó là xong việc của ta. Còn xác định điểm chôn là công việc của người khác. Thôi, rửa mặt rồi ta lên đường đi. Nhưng mà hôm nay dẫu có sốt ruột vì nước mã hồi cũng đừng đi hộc tốc như hôm qua nhé, chư ông.
    - Không phải vì muốn xong việc để về nhà đâu.
    - Thế thì vì cái gì?
    Ông Lừ chép miệng, thoái thác câu trả lời tỉ mỉ:
    - Cũng là việc làng việc nước thôi!
    Người lính cười bao dung, đứng lên rút cái khăn đeo bên sườn, xách cái bình toong, đi qua một bụi rậm, tìm đường xuống khe suối nọ.
    Cuộc sống chẳng bao giờ hết sự ngẫu nhiên. Và chẳng ngẫu nhiên nào giống hệt ngẫu nhiên nào. Điều hung hiểm ông Lừ cảm nhận bằng trực giác từ lúc bước vào khu rừng già hôm qua, đã hiện hình thành một sự thật. Một con hổ đói đã theo đoàn người suốt chặng đường hôm qua, giờ đang chờ ông lính ở khe suối nọ.
    Nghe tiếng người lính thét rụng rời, ông Lừ kinh hoảng đâm bổ xuống phía khe suối. Ba người kia chậm hơn, nhưng cũng nhao ngay tới cạnh ông. Và họ cũng rét run lên trong cảm giác sinh tử trước cơn nguy biến, bờ suối chỉ còn cái khăn mặt và chiếc bình toong sắt của người lính.
    *
    Họ đốt đuốc sục vào các bụi rậm hú gọi, hò la. Tiếng họ hú gọi, hò la vang rừng, nhưng tập nhiễm nỗi vô vọng cô đơn. Dẫu sao thì cũng không thể tỏ ra là bạc nhược, yếu hèn. Dẫu sao thì cũng không thể bỏ mặc người bạn đường xấu số. Một ngày đường nên nghĩa, huống hồ lại đã cùng một việc lớn đồng tâm. Mất một ngày không tìm thấy dấu vết thi thể người lính. Hôm sau ông Lừ nêu ý kiến: để hai người lại tiếp tục tìm kiếm nạn nhân, còn hai người khiêng phiến đá về San Cha Chải cho kịp ngày, xong việc.
    Tính toán như thế là vẹn tình nghĩa, được cả việc chung lẫn việc riêng, nên mọi người đều đồng ý. Ông Lừ và một người nữa tên là Lý A Tỉn đảm nhận việc đưa phiến đá của Đức Vua về đích.
    Cái nặng của phiến đá đang san sẻ cho bốn người nay đè lên có hai vai. Tuy vậy, vốn là những người nghèo khổ, quen cực nhọc, họ vẫn tỏ ra dư thừa sức lực. Nửa ngày đầu, hai người đi bình thường. Nhưng từ nửa ngày tiếp, đường qua dốc, họ xuống sức rất nhanh. Đường xa một cây kim cũng trở thành nặng, huống hồ đây là đá, là dốc. Dốc quá! Đi người không mà có chỗ đầu gối chạm ngực. Ngựa đi có lúc còn toạc móng, phải đủn đít mới lên được. Đã thế lại phơi ra giữa nắng, bọn ruồi vàng khát máu, ngửi thấy hơi người, lại nhao tới nhằng nhẵng bám đốt hút máu.
    - Chết mất thôi, ông Lừ ơi!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  5. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1

    Đến giữa dốc, ông Tỉn rên một câu rồi khuỵu xuống, phiến đá đổ nghiêng dưới đất đánh phịch.
    Ông Lừ quay lại, mắt như tóa những hạt vàng, hạt đỏ. Hơi thở thào thào qua cả hai lỗ tai. Ông cũng nhoài xuống, ngực đập đất, tim đập rung cả người. Rồi lim lịm, ông thiếp đi lúc nào không biết. Lát sau, có lẽ là vì mấy con ruồi vàng nên ông Lừ tỉnh. Mở mắt, ông thấy xung quanh mình vắng lặng. Sợ quá, ông vội nhổm dậy và nhìn thấy ông Tỉn nằm bất động cạnh phiến đá của Đức Vua. Chẳng lẽ ông Tỉn chết? Trời ơi! Không thể thế được! Trăm lạy vong hồn ông lính, ông sống khôn chết thiêng, ông phù hộ cho việc làng việc nước thông suốt mọi đường. Ông Lừ lẩm bẩm, lê đến cạnh người bạn đường. May quá, ông Tỉn đã mở mắt.
    - Ông Tỉn à, nghỉ được một tý cũng đỡ mệt đấy.
    - Tôi mệt quá, ông à.
    - Tôi cũng vậy. Lẽ ra, ông nên ở lại tìm ông lính.
    - Không, tôi cầm tinh con lợn, tôi hãi lắm.
    - Khổ thật. Còn một chặng nữa là tới làng. Hay là ta cố một tý nữa.
    - ừ, cũng phải cố thôi.
    - Tôi khấn vong hồn ông lính rồi, ông Tỉn ạ.
    Hai người lại chùn mình ghé vai, nhấc đòn. Miệng ông Lừ lẩm nhẩm cầu khấn linh hồn người lính, ông tỏ ra vui vẻ để động viên bạn mình. Nhưng ông biết là ông Tỉn đã phải dùng đến những sức lực dự trữ cuối cùng tồi. Phiến đã ậm ạch đi. Ông Tỉn thở ậm è. Rồi hơi thở biến mất. Lát sau hai người lại nằm cong queo như hai cái rễ cây bên phiến đá. Họ lại ngất đi như lần trước và cơn ngất này dài hơn. Nhưng lần này tỉnh dậy, ông Lừ thấy sức lực như trở lại. Cùng với cảm giác vui sướng râm ran trong lòng, ông nhận thấy ông Tỉn đã mở mắt, nhưng không tài nào cất nổi mình dậy:
    - Ông Tỉn ơi, tôi kể ông nghe chuyện này nhé. Là cái lúc ông lính hỏi, tôi không muốn nói nhiều, chứ tôi biết phiến đá này là cái gì. ở San Cha Chải mình, cột mốc bằng gỗ thôi, lại không phải của Đức Vua đích thân gửi lên. Nên người bên kia tính tham vặt, mấy lần họ nhổ lên, cắm lẹm sang phần đất ta. May mà có hàng cây gạo, chứ không thì họ ăn gian được. Ông Tỉn có nghe tôi nói không?
    - Có. Tôi quá mệt...
    - Không sao đâu. Nghỉ một lúc nữa sẽ lại sức. Ông tổ mình xưa kia khỏe lắm, ông Tỉn à. Tôi nhớ bố tôi kể. Một lần đi chợ huyện gặp gọn gian mai phục định cướp đồ, hàng, ông tổ mình cầm cái đòn xóc giơ cao, nói: "Các chú nếu nhổ được cái đòn này thì cho tha hồ lấy hết những gì ta có!". Đoạn ông tổ dùng tay cắm phập ngọn đòn xóc xuống đất. Bọn cướp xô tới, cả buổi hò nhau không sao rút nổi cây đòn lên được. Kìa, ông Tỉn... ông đỡ mệt chưa?
    - Tôi... chết mất... ông Lừ à.
    - Nói dại nào!
    Ông Lừ đứng dậy. Ông định cổ vũ bạn, nhưng hóa ra chỉ ông tăng thêm được tí chút sức lực, ông cũng sắp cạn hết sức lực rồi.
    - Hay là thế này...
    Ông Lừ đến gần bạn, ngập ngừng. Chao ôi! Trong cái ta đã quen thuộc đến nhàm chán, bao giờ cũng ẩn náu điều ta chưa khám phá ra. Sau cái tưởng là kiệt cùng còn khoảng không dự trữ niềm hy vọng. Sự sáng láng của tâm tưởng là nguồn sản sinh năng lượng. ý thức bổn phận dẫu mang tính giáo điều và mầu sắc tôn giáo, bao giờ cũng là một tiềm năng. Nữa là ở đây, ông Lừ tích tụ trong mình cái sức lực quật cường dồi dào của cả bộ tộc đói khổ, ông đã dạn dày trong lao động khổ sai nặng nhọc. Ông mang trong ông tình thương với những người bạn đường khốn khổ.
    Tới lúc, ông Tỉn mở choàng mắt, kêu một tiếng kinh hoàng, thì một sự kiện ghê gớm đã xảy ra, chưa hề có trong trí tưởng tượng của mọi người. Ông Lừ đã dựng phiến đá dậy, đặt nó vào hai sợi dây da. Ngồi xuống, áp lưng vào phiến đá, ngoằng hai đầu dây vào vai tay nắm hai đầu dây còn lại, nhịn hơi, mặt căng nhức, ông từ từ đứng lên hai cái đầu gối run lẩy bẩy chỉ chực theo đi, gẫy khục.
    Nhưng mà không, ông Lừ đã đứng dậy được. Ông đã bước đi. Loạng choạng mấy bước đầu, nhưng ngay ngắn dần. Ông quàng sợi dây da lên trán. Đầu ông giờ là cái cọc níu giữ phiến đá nặng kia.
    Như có một sức mạnh vừa tràn vào, ông Tỉn chồm dậy, vừa ôm ngực ho sù sụ vừa đuổi theo ông Lừ.
    Ông Lừ xua tay bảo bạn im lặng. Ông đang khấn vong hồn ông lính để ông lính phù hộ ông hoàn thành công việc hệ trọng, quá sức này. Mặt ông nhăn nhúm, đau khổ như vẻ mặt Đức Chúa Giêsu vác cây thánh giá trên núi Gôgôtha vẫn thấy treo ở trong các nhà thờ Kitô giáo. Bức tranh ông Lừ địu phiến đá, biểu trưng quyền lực thiêng liêng của Đức Vua An Nam, có công sức, xương máu mồ hôi của bao người viền quanh là những bông hoa gạo đỏ.
    Chiều hôm sau, lý trưởng Tráng Vần Đa lên thăm phiến đá. Ông là người biết đọc chữ Hán duy nhất ở San Cha Chải. Ông bảo: Phiến đá của Đức Vua khắc sáu chữ lớn: "An Nam dân quốc địa giới". Đó là cột mốc biên giới của đất nước. Ông nói thêm phiến đá này nặng hai con ngựa thồ không nổi, làm sao mà người thường địu nổi!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  6. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Con sóc
    Ma Văn Kháng
    Cửa sổ trước bàn máy vi tính của tôi nhìn ra một vùng cây xanh. Ngày nay, giữa tốc độ đô thị hoá cấp phi mã, nhìn quanh đâu đâu cũng chỉ thấy rặt một màu xi măng, bê tông xám trắng, có được một khoảng xanh mát mắt thật là một ân điển trời cho.
    Tốt nghiệp đại học, may mắn cho tôi, sau một kỳ thi tuyển, tôi được vào làm ở phòng vi tính thuộc Liên hiệp đường sắt I và được phân về làm ở căn buồng có cái cửa sổ này với một bạn gái tên Hà, xinh xắn nhưng có vẻ như khó tính và cách bức. Cửa sổ của căn buồng chúng tôi mở ra một vùng cảnh quan thiên tạo lẫn nhân tạo. Hình tích thiên tạo là một con hồ rộng, di thể của một khúc sông đổi dòng bị mắc cạn với hàng cổ thụ toả bóng âm u trên một khúc sông đổi dòng bị mắc cạn với hàng cổ thụ toả bóng âm u trên một hòn đảo giữa hồ. Thiên nhiên thật tươi đẹp, và con người đã làm cho nó tươi đẹp thêm lên. Giờ thì chen lẫn với lớp cây nguyên thuỷ tự mọc tự lớn lên là lớp thực vật được tay người gieo hạt ươm mầm, vun xới, bứng trồng.
    Một buổi chiều vừa để máy vào chế độ nghỉ ngơi, tôi chợt nghe thấy tiếng Hà ở sau lưng: "Anh Khải, nhìn kìa". Không để tôi kịp hiểu, Hà đã bước lên, áp người vào khuôn cửa đã mở tung hai cánh và theo tay Hà chỉ, mắt tôi đã nhận ra bóng hình một con sóc nhỏ đang bò trên một cành bạch đàn ở ngay trước cửa sổ buồng tôi. Con sóc có màu lông xám, dựng đuôi bông, ngó vào buồng chúng tôi và hình như nghe tiếng Hà gọi, nó liền sợ hãi tót lên ngọn cây.
    - Con sóc đẹp quá! Anh Khải, chúng mình đuổi theo nó đi.
    Không đợi tôi, vừa nói Hà đã quay lưng băng ra cửa, tạo ra một sức hút ở phía sau. Làm sao tôi có thể cưỡng lại được sức hút nọ và thói tò mò của tuổi trẻ trước sự xuất hiện của con sóc. Với hơn chục bước chân chạy, chúng tôi đã đến gốc cây bạch đàn nọ. Đó là một cây bạch đàn đã trưởng thành, thân trắng điểm những sọc đen. Ngước lên, chúng tôi thấy chú sóc đã ở chót vót trên ngọn cây.
    Rồi từ cành này nhảy sang cành khác, từ cây này chuyền sang cây khác, chẳng mấy lúc chú đã bỏ lại vùng cây vành đai công viên, dẫn lối cho chúng tôi đi sâu vào bên trong vùng sinh thái con người hợp lực với thiên nhiên tạo ra này. ở đây, trong không khí như ngái ngủ, cây ở trạng thái say nghiêng ngả, tự phô diễn một cuộc sống phức hợp và đa tầng. ở đây, con sóc đã leo lên ngọn một cây mỡ. Nó kéo theo đôi mắt tôi lên theo, khiến tôi có cảm giác đã xa cách tất cả mọi sự trần trụi và phù du, thấy mình bị chi phối bởi một cái nhìn đảo ngược.
    Tiếp tục những bước nhảy ngắn chuyền cành, trên đường đi, nhìn sang ngang, con sóc thấy thành phố lô xô trập trùng chen chúc các khối nhà cao tầng không khác gì cấu trúc một cánh rừng hoang. Bỏ qua thành phố, nó nhìn ngắm toàn bộ cảnh quan công viên, vùng rừng còn đang lạ lẫm nhưng sẽ là nơi ăn đời ở kiếp của nó. Nó nhìn thấy một đường tầu hoả nhỏ, cái đầu tầu nhỏ tí xíu, kéo ba toa tầu xinh xắn bê trong toàn khách trẻ nhỏ, chạy vòng quanh hồ. Nó nhìn thấy những mái nhà tròn hình cái nấm, dưới đó là các bàn đu quay. Mùa này đang cữ rét, trẻ con ít đến đây vui chơi. Cô bán vé và điều khiển đu quay cầm trên tay một cuốn tiểu thuyết của nữ sĩ Quỳnh Dao người Trung Hoa. Không khí tĩnh lặng quá khiến cô vừa đọc vừa gà gật, và thỉnh thoảng cô lại đánh rơi sách. Cúi xuống nhặt sách, cô giật mình và sau đó buồn thỉu buồn thiu. Vì thiếu kinh phí sửa chữa nên ở trên bàn quay, đã hai năm nay vẫn là con dê cụt một bên sừng, con ngựa mất một bên tai, con hổ cụt một chân sau, và con nai gẫy một bên gạc.
    Giật mình vì đột ngột nghe thấy tiếng xe máy nổ, con sóc nhận ra hình như chính nó cũng bị săn đuổi. Nó nhẩy lên một cành phượng cao, ở nơi an toàn này, nhìn xuống, nó nghiệm ra rằng rất khó tách bạch cuộc sống ra thành những phần khác nhau, ở ngay nơi này con người vẫn còn thích náo động hơn là yên tĩnh: có một bọn choai choai chia hai bên đá bóng ăn tiền ở trên một lối đi rộng ngay trong công viên. Nên người bảo vệ trang phục màu xám đeo băng đỏ phải phóng xe máy tới can thiệp.
    Sự yên bình của khung cảnh đã được lập lại. Nhưng có lẽ trước hết là nhờ ở những bông hoa. Không gì yên tĩnh bằng hoa. Ôi, hoa, sự tráng lệ bình yên, nét yêu kiều vô tư. Sắc hồng tươi thắm, mầu trắng trinh bạch, sắc vàng vương giả, mầu tím não nùng. Quây tròn thành những bồn lớn trước một tượng đài anh hùng. The le hình những dải khăn dài hình chữ nhật bên các lối đi. Mùa này nhài tây, cúc xám, cánh ****, loa kèn ra sức đua chen.
    Cạnh hoa là cỏ xanh sau mưa bời bời tươi tốt. Có một ông già và một chú bé đang lò dò rình chộp những con châu chấu non. Không có những vuông cỏ này, họ kiếm đâu được mồi cho chim? Dạo này, thành phố rộ lên phong trào chơi chim cảnh. Trước chỉ có khiếu, hoạ mi, nay họ nuôi cả cu gáy, bách thanh, khuyên và chim sẻ Nhật Bản.
    Tuy vậy, sự quân bình được thể hiện ở nơi đây chủ yếu lại là do con người tạo lập, những người coi đi bộ như một môn thể dục dưỡng sinh đang chuyển động theo một vòng tròn êm ả quanh hồ nước. Thả lỏng hoàn toàn các cơ bắp, họ đi thong thả bước một. Tôi nhận ra, không gì mạnh mẽ hơn sự đều hoà và bình dị. Như vậy, những người đi bộ quanh hồ đã cuốn hút chúng tôi vào nhịp điệu của họ. Đi với họ, chúng tôi nhận ra không ai trong bọn họ là kẻ đơn độc. Họ đều có đôi. Những cặp vợ chồng già. Những đôi ********. Những nhóm nhỏ trai gái cùng lớp cùng ngõ phố. Tập luyện và du ngoạn song hành bồi bổ sức mạnh và chữa trị tật nguyền sóng đôi. Thong dong một đôi nam nữ nách cặp ô vừa đi vừa trò chuyện. Một đôi vợ chồng tri thức đeo kính cận với một con chó bông dẫn đường. Một ông chồng vừa được vực dậy sau vụ xuất huyết não tay khoèo chân teo, mỗi bước đi là một nỗ lực phi thường và người vợ mỗi lần thấy chân người chồng đặt được một bước lại giật nẩy lên, rồi liêu xiêu chực đổ, liền đưa tay đỡ lưng chồng, mắt ứa lệ sung sướng: Có em đỡ đây, anh hãy cố lên!
    - Mệt quá, ngồi nghỉ đi anh!
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  7. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Cuối cùng thì Hà hổn hển kéo tôi cùng ngồi phịch xuống chiếc ghế đá bên đường. Nàng nói đồng thời với việc đổi dây cái ví, vật bất ly thân sang vai trái để nó khỏi chen vào giữa tôi và nàng. Thảnh thơi quá.
    Nơi đây cuộc sống giống như một nhánh sông, êm đềm chảy qua dưới tầng cây. Tất cả trở nên vô cùng dễ chịu vì không còn định kiến, không còn cách bức. Tôi nhận ra điều đó ở sự căng nở phập phồng của khuôn ngực mới nhú cao, gọn ghẽ và gương mặt trái xoan cởi mở, hồn nhiên của Hà. Nàng gần gụi, hiền hậu chứ không kiểu cách cứng nhắc, động tí là bĩu môi mỏ nhăn nhíu mặt mày khó tính như mọi ngày.
    - Anh này, trong công viên có kẻ cắp đấy. Nhưng mà... kìa kìa xem.
    Tôi chỉ chú ý tới vế sau câu nói của nàng. Vì chính nàng cũng quên ngay vế trước của câu nói. Trên mảnh đất nhỏ ngay trước mặt chúng tôi, như từ trên cao xanh vừa hạ xuống một cặp nam nữ người nước ngoài đang say sưa trong cuộc đấu cầu lông tay đôi.
    Dài như sợi dây, tóc vàng óng, da trắng bạch, hiển nhiên họ là người Thuỵ Điển rồi. Tung dướn, giật lùi, bổ nhào nghiêng ngả, vừa mềm dẻo như được cấu tạo bằng cao su, họ vừa tung ra những chặp cười vui vẻ giữa tiếng vi vút của quả cầu bay đi bay lại. Đặc biệt thú vị là khi một chiếc vợt của một trong hai người do lỡ trớn hoặc quá đà để quả cầu rơi xuống đất. Lúc ấy cùng tiến lại gần chỗ vạch vôi phân tuyến tưởng tượng, chàng và nàng áp ngực hẳn vào nhau, hai chiếc vợt buông xuôi theo nạp quần, tự nhiên như trai gái nguyên thuỷ ở thời con chưa vong thân, hai gương mặt nghiêng vừa độ để hai cặp môi áp khít vào nhau.
    - Chà, hay quá nhỉ! Chơi thế thì mới thích chứ!
    - Vớ vẩn.
    Hà rên khe khẽ. Không hề biết đến sự có mặt của chúng tôi, hai người nọ làm như nơi đây chỉ có họ, nơi đây là chốn tự do. Quả cầu bay qua bay lại và tất nhiên những chiếc hôn vẫn được dịp lặp đi lặp lại với nguyên vẹn niềm say mê ban đầu, vì có bao giờ quả cầu ở mãi trên không được.
    Hà nghển cái cổ cao trắng nõn, giả tảng như quay mặt đi nơi khác. Làm như là quan sát một anh phó nháy đang đi lang thang hay một tốp nhỏ thanh niên đang tập võ thuật ở xa, nhưng tình thực nàng vẫn đánh tia mắt dõi theo cặp trai gái nọ, nhất là khi quả cầu bị rơi và họ tiến đến trao tặng cho nhau những chiếc hôn, với vẻ hiếu kỳ và hồi hộp.
    Cuối cùng thì hình như không chịu nổi sự im lặng kéo dài, bỗng nhiên Hà quay sang tôi, như sực nhớ:
    - Ơ này, anh Khải, con sóc xám chạy biến đâu rồi ấy nhỉ?
    Tôi nhìn lên vòm cao cây me. ờ, đâu rồi nhỉ, con sóc, kẻ dẫn lối chúng tôi vào cái cung điện xanh tươi thanh tĩnh này? Nó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng hay nó là hiện hữu và đã hoàn thành nhiệm vụ của kẻ đưa đường?
    - Không hiểu con sóc nó từ đâu đến, anh nhỉ?
    - Thế này nhé, nó làm tổ trên một cái cây, cái cây bị chặt hạ, ghép vào một cái bè gỗ. Con sóc theo cái bè gỗ từ miền thượng du xuôi dòng về đây, rồi nhẩy lên bờ.
    - Sao anh biết?
    - Rồi nó đến gọi chúng mình. Đang ở trong căn phòng vi tính, nghe thấy tiếng con sóc, thế là chúng mình đi theo nó.
    - Chỉ được cái vận vào mình là giỏi thôi.
    Hà huẩy vai tôi. Nhưng, lúc này điều khiển tôi là một năng lượng thuộc cõi giới vô hình. Trong một cảm ứng dẫn truyền và sự hoà phối nhịp nhàng, khi cặp nam nữ Thụy Điển, tiến đến sát nhau, không còn phân biệt đâu là kẻ thua người thắng, cả hai cùng ngây ngất trong một chiếc hôn dài, tôi đã quàng tay qua vai Hà, kéo Hà sát vào mình. Hà cũng lập tức bá cổ tôi, đôi môi như một nụ hoa hé mở đón chờ.
    Cái hôn bị đứt quãng vì Hà phải dứt ra để trút cái dây ví qua đầu, vứt nó sang bên cạnh cho khỏi vướng víu, nhưng ngay tiếp đó nàng lại dính chặt vào cơn đắm chìm mê man. Chúng tôi như trai gái ở giữa chốn không người, hoàn toàn bị lôi cuốn vào cảm giác dâng tặng. Cái hôn ngọt ngào gây bàng hoàng ngay sau đó, Hà buột khỏi tôi, đứng dậy quay ngoắt đầu hướng ra phía cửa công viên, kêu nho nhỏ: Về thôi anh! Hà lại cuốn tôi theo như khi chúng tôi bắt đầu đuổi theo con sóc vậy.
    Phòng vi tính mở toang cửa. Hai cái hình tam giác vẫn quay đảo theo chế độ nghỉ ngơi trên nền màn hình đen sẫm. Chúng tôi ngồi vào bàn máy. Vẫn như hôm nào, tôi, trưởng phòng vi tính của Liên hiệp đường sắt khu vực I hai mươi nhăm tuổi và Hà hai mươi hai tuổi, nhân viên vi tính của tôi, xinh đẹp, tiềm ẩn năng lực yêu đương mà bề ngoài lạnh như băng giá.
    Tuy nhiên, lần này, máy vừa hoạt động, Hà đã quay lại, gọi tôi thất thanh và sau đó cười khúc khích:
    - Thôi chết, cái ví tay của em bị rạch mất hết cả tiền và giấy tờ rồi, anh Khải!
    - Sao lại thế được?
    - Lúc ấy hình như em có thấy... em có trông thấy một thằng ăn cắp nó định lấy cái máy ảnh của hai người Thụy Điển.
    Chúng tôi cưới nhau sau chuyện này một năm. Con sóc, đâu có phải là một sinh vật tầm thường, một ngẫu nhiên số học. Nó là cái hữu hình của một sức mạnh thiên thiên. Mọi sự tồn tại đều có cái lý của nó, thượng đế lòng lành đã xếp sắp ban rải tình yêu cho muôn vật, Hà bảo tôi vậy. Hà rất thích con sóc. áo con trai của nàng thêu hình con sóc. Chùm chìa khoá xe máy của nàng đeo một con sóc bông.
    Tôi kể chuyện này với ông anh cả. Ông cười:
    - Có sắp xếp hết. Tao như mày biết đấy, nổi tiếng là sát cá. Thế mà hôm ấy câu ở chân cầu Cốc Lếu, nơi tụ hội của bọn cá anh vũ, chẳng nhấc cần được lần nào. Đã thế lại mưa to. Tao chán, bỏ cần câu, chạy vào một cái lều trồng rau ở bờ sông. Thế là gặp chị dâu tương lai của mày đi tưới rau về đang trú mưa ở đó. Con sóc, giọt nước mưa, con cá anh vũ... là bàn tay của ông giời điểu khiển cả đấy, em ạ.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  8. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Suối mơ
    Ma Văn Kháng
    Trở về sau một tuần lễ đi công tác, tôi lại đã nhận ra những nét khác lạ ở cái hẻm núi sơ tán của gia đình tôi.
    Chiến tranh phá hoại hiện đại Mỹ dùng tới cả máy bay siêu thanh để oanh tạc thì còn vùng quê nào trên đất nước nhỏ bé của chúng ta được coi là thánh địa an toàn? Khôn ngoan hơn cả vẫn chỉ là dàn mỏng mật độ cư trú ra và nhất là lợi dụng địa thế núi non, chia nhau luồn lẫn luôn vào các hẻm núi gần quanh mình.
    Gia đình tôi cùng mấy gia đình cán bộ khác chọn nơi sơ tán là khe núi cây số 7 trên tuyến đường đi về huyện lỵ Mường Khương. Đây là một hẻm sâu kẹp giữa hai quả núi đất, um tùm nứa dại, bên dưới róc rách một dòng suối nhỏ, men bờ là một vết đường mòn, lối đi của thợ sơn tràng và đầu mút của nó ở phía trong làng là một làng Mán đỏ đã định cư.
    Giờ đây khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đã bước sang năm thứ hai, hiểu rằng thắng lợi cuối cùng không thể là việc của ngày một ngày hai, thì cảnh ăn xổi ở thì, tạm bợ không thể có lý do tiếp tục tồn tại. Vẫn là tranh tre nứa lá thôi, nhưng nhà cửa bây giờ phải cao ráo, sạch sẽ, vững chắc và cảnh trí xung quanh không thể không phong quang, tươi đẹp.
    Tuy vậy, lần đi vắng một tuần mới trở về này, tôi vẫn có cảm giác chân mình lạc bước. Ùa ngay vào mắt tôi là cảnh quan lạ lẫm khác thường của nơi hẻm núi quen thân. Ngày tôi đi, đoạn suối chảy qua trước nhà tôi chia đôi, nửa bên này tắc nghẹt bùn hoang lưu cữu, nửa bên kia lờ đờ một dòng chảy lều phều váng bọt, thi thoảng mới ló dạng dưới rậm rì lau cỏ. Giờ đây, lau cỏ đã được phát quang. Bên bờ trái, nơi bùn hoang kết đọng đã được vét sạch và rải đều một lớp sỏi cuội trắng phau. Qua vòm lim xanh che phủ ở tít trên cao, nắng lọt xuống lỗ rỗ những cái chấm vàng nhảy nhót vô tư trên dòng suối thông dòng long lanh. Cảnh đẹp một cách lặng lẽ và thoáng chút mơ mộng có lẽ còn là do lui vào phía trong hẻm, qua mặt suối rộng có một cây cầu nhỏ kẻ một nét ngang êm đềm. Ngày đi, chân tôi bước lập chập trên mấy hòn đá tảng đặt cách quãng qua chỗ lầy. Giờ đây một mặt cầu ghép mấy thân vẩu già ba nhịp nối liền ghếch đầu lên hai cái trụ kết cấu bằng đá cuội quây trong vòng phên nửa đan lóng đôi như mời mọc, đón chào. Sức lực lao động to lớn và cần cù nào, bàn tay ai khéo đã tạo nên quang cảnh đẹp đẽ, thú vị nó ở nơi hẻm núi hoang vu này? Thầm đoán được sự kinh ngạc của tôi, mẹ tôi đứng ở bên kia bờ con suối, trên tay bồng đứa cháu gái hai tuổi con tôi, đã thay tôi cất tiếng xuýt xoa thán phục.
    - Một mình bác Rư bác ấy làm đấy! Chết, chết, sao lại có con người chịu khó thế. Đi thì chớ, về tới nhà lại sùng sục như ma úp nồi. Làm sao không biết mệt là gì. Làm đến vỡ đầu ra khói. Bước chân xuống giường là làm. Làm cả đêm, làm quên ăn quên ngủ. Bác ấy mới đưa bác gái ở dưới xuôi lên đấy.
    Rồi nhìn ngược vào chiều sâu hẻm núi, mẹ tôi chỏ tay, nói tiếp:
    - Kia kìa, bác ấy còn đang trồng mon ở vùng đất lầy trong hủm. Thật ông giáo mà làm việc thổ mộc còn hơn cả người nông phu!
    Tôi nhìn theo tay mẹ tôi chỉ. Và nhận ra ông giáo Rư bạn tôi trần trùng trục một khối hình chắc nịnh, trên mình đánh mỗi chiếc quần đùi, lấm bết như trầu đầm, tay ôm một bó mon lớn, đang kho lưng bì bọp tiến lui. Thấy tôi, anh ngừng chân bước, nheo mắt, miệng ho hó bốn cái răng bàn cuốc, rồi đánh tiếng oang oang.
    - Khang mới đi Mường Khương về dấy à? Mình tranh thủ dúi ít món nuôi lợn xuống cái hủm lầy này kẻo phí đất quá. Bà xã mình mới lên. Tí nữa sang chơi nhé!
    Vợ tôi đi học dài hạn ở Hà Nội, rồi theo trường sơ tán lên Lạng Sơn. Ở lại đây, sơ tán vào hẻm núi cây số 7 này, chỉ có tôi, mẹ tôi và đứa con gái nhỏ. Đêm tối ở miền rừng đèn đóm nhập nhèm, lại rỗi rãi nên cơm nước xong, tôi chỉ còn có việc là chờ Rư ngừng việc để sang chơi. Nhà Rư ở bên kia suối, cách túp lều sơ tán của tôi chừng ba chục thước. Anh đã có ý mời.
    Lại cũng là thói quen xóm giềng mỗi khi đi đâu xa về. Hơn nữa, tôi cũng muốn cám ơn anh. Nơi sơ tán vắng vẻ, đêm hôm mưa gió, lúc tắt lửa tối đèn, tôi lại hay đi công tác xa nhà, có anh bên cạnh, mẹ tôi nhiều phen đã ơn nhờ dựa cậy. Vừa rồi gặp cơn lốc nhỏ, mái rạ tốc bay mất một mảng, anh đã kịp thời sang lợp lại hộ. Phần khác cũng là để chào vợ anh. Anh cưới vợ năm ngoái, năm nay chị mới lên. Nghe nói, chị người Hà Nội.
    Tôi chờ đợi. Nhưng năm lần bẩy lượt ngó ra vẫn thấy Rư lặm cặm hết cấy môn lại ra đắp bờ ở đám ruộng lầy. Tối sẫm, thấy anh lội xuống suối kỳ cọ, liền sửa soạn, nhưng vừa quay vào nhà mặc áo dài bước ra, đã thấy anh ***g từ dưới suối lên, quần đùi ướt rượt, vung tay bổ cuốc san cái tổ mối to tường ở sau nhà, trong ánh trăng muộn vừa lên le lói ở trên mom đồi.
    Tôi đành nằm trong nhà mình, qua cánh cửa mở, nhìn sang phía nhà RƯ, xua đuổi mệt mỏi, cố tỉnh táo để đợ chờ anh ngưng tay vậy. Tiếng máy bay Mỹ ì ầm cộn cạo phía sau núi tắt dần. Rồi im ắng tràn ra trong ánh trăng đêm hòa với cơn thức ngủ chập chờn khiến bóng Rư lúc gần lúc xa, khi trần trụi hình nét, khi nhoà mờ, chơi vơi. Lúc sau, chừng đã khuya, giữa không gian bốn bế im vắng, chỉ có tiếng suối róc rách, bỗng giật mình vì nghe thấy tiếng đàn ai gáy vọng đến bên tai. Dụi mắt, ngẩn ngơ một lát, tôi nhận ra đó là tiếng đàn măng đô lin cất lên từ phía trong hẻm núi.
    Suối mơ bên rừng thu vắng
    Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
    Tiếng đàn thoạt đầu văng vẳng, sau rõ dần. Nghe thấy cả hơi nước lướt trên ngón tay chuyển, tiếng gẩy đơn cùng tiếng vê giòn liền mạch và cả hiệp âm trên ba bốn dây đổ dồn. Lúc tức hứng sầm sập như trời đổ mưa, khi ỡm ờ như con **** lượn vành, tiếng đàn gờn gợn một tâm tình cô độc thèm muốn thở than và quấy quả.
    Tiếng đàn lọt vào óc tôi, quẫy nhiễu tôi, khiến tôi mệt lả. Tôi đã ngủ lại từ lúc nào và khi mở mắt vẫn như kẻ ngơ ngẩn, chưa ra khỏi chiêm mộng.
    Khung cửa ra vào lúc này mờ mờ sương sớm, khi dương một ngày đang tỏa lan hơi ấm trên mặt đất. Mặt suối bốc hơi như khói vẩn. Nghe như có tiếng chân người bước ọt ẹt trên mặt chiếc cầu bắc qua con suối, rồi ở khung cửa mờ sương nọ lọt vào một tiếng đàn bà rất lạ tai: ?oCụ Khanh ơi. Cụ cho tôi mượn cái lỗi, tôi lẩu bơ gạo lếp cho nhà tôi ăn đi làm!?.
    - Ai đấy, hả mẹ?
    - Anh hỏi ai nào?
    - À, bác Rư gái, bác ấy sang mượn cái nồi gang để nấu cơm nếp. Người đâu mà ăn nói vừa sỗ vừa ngọng!
    Tôi dụi mắt, ngồi dậy và vội vã ra khỏi nhà. Bếp nhà anh Rư lạnh tanh. Anh Rư đã đi làm rồi.
    Tôi chẳng được sang thăm hỏi, trò chuyện với Rư hôm ấy. Nói cho đúng, cả mấy hôm sau cũng vậy. Chẳng có lúc nào tôi có được cơ hội để sang trước là thăm hỏi vợ anh, sau nữa là nói dăm ba câu chuyện thế sự hoặc phiếm đàm, theo thói quen hàng xóm thân tình với anh. Vẫn là có mặt ở nhà đấy, nhưng anh luôn tay luôn chân hét việc nọ đến việc kia, chẳng khi nào rỗi rãi.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  9. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Anh Rư xuất thân là giáo viên dân lập ở xã. Để trở thành giáo viên quốc lập, anh đành phải xa rời đất quê Nghệ An, lên dạy học ở một xã miền núi xa xôi nhất của huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai.
    Ở xã nọ, năm năm qua không có nổi năm đứa trẻ đi học. Người lớn đã mù chữ vẫn hoàn mù chữ. Nhưng năm năm ở đó anh trồng được năm vụ xuyên khung, thu hoạch đủ tiền tậu được mọt chiếc xe đạp nhãn hiệu Phượng Hoàng mới toanh. Đất ở đây tốt nhất hạng, công phu hơn có thể trồng được cả cây thuốc quý, hái ra tiền như bạch truật, tam thất.
    Tiếc vùng đất sinh lợi nọ lắm, nhưng anh Rư vẫn vui vẻ chấp hành điều động của Ty giáo dục đưa anh về giữ chân văn thư ở trường sư phạm tỉnh. Giáo viên cấp i dân lập, trình độ văn hóa xấp xỉ lớp năm bổ túc. Dạy cấp một khác gì cơm chấm cơm, biết một dạy một, đã thế lại năm năm liền không một lần soạn bài, lên lớp, chữ nghĩa rơi rụng hết. Anh Rư tự hiểu mình, chấp nhận sự phân công, chẳng một lời than vãn.
    Trường sư phạm tỉnh sơ tán ở chân núi Hoàng Liên.
    Từ nhà anh Rư đến đó, đường xa hơn mười cây số, lại phải đi qua thị trấn, trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Vì vậy, phải đi sớm bủng. Đi từ sớm bủng, lại xa, nhưng anh Rư không dùng xe đạp. Anh nói: mình đi bộ quen, lên dốc xuống dốc, mần chi đều thấy bình thường, còn đi xe lên dốc thì nhọc, xuống dốc thì mỏi chân phanh. Vả lại, đường dạo này nhiều đoạn lầy thụt, trông cái xe lấp lám, kết bùn, xót ruột quá! Anh Rư treo chiếc xe Phượng Hoàng lên xà ngang của căn nhà lá anh dựng lấy ở cạnh nhà tôi.
    Tan tầm chiều, anh Rư đi bộ từ trường sư phạm về tới nhà thì đã hơn sáu giờ. Miền rừng, trời mau tối, nên chỉ uống hớp nước, cởi cái áo và chiếc quần dài ra, là anh cầm ngay cái cuốc, con dao, chiếc thuổng, tranh thủ làm việc liền.
    Anh Rư khỏe lắm. Trông vóc dáng cũng thấy. Anh thấp tè, từ gót tới đỉnh đầu chưa đến mét rưỡi. Vai rộng, hông hẹp, chân anh ngắn có một mẩu. Mặt tròn to phệnh, mắt một mí, mũi triều thiên, hếch ngược, trông anh vừa ngây thơ vừa ngốc nghếch. Bắp chân, bắp tay anh nổi con chuột, rắn như đanh. Tính anh hiền lành, đơn giản. Ăn thế nào cũng được. Bát cơm nguội với quả cà, dúm muối trắng là đủ. Mặc đi làm thì cũng chỉ bộ quần áo bà ba may bằng mấu vuông vải nâu dấn bùn. Còn ở nhà, trừ những ngày quá rét, lúc nào cũng chỉ một manh quần cộc nâu bạc suốt từ sớm đến tối. Anh chỉ có một nhu cầu là làm việc.
    Cuốc đất, san nền, chặt cây, đánh gianh, dựng nhà, đắp bếp. Rồi phá rậm, lên luống gieo hạt cải, bắc dèo đậu đũa, dựng dàn mướp hương. Rồi khai quang các vùng đất lầy thụt và mở việc trồng trọt lên sườn núi cao. Rồi khơi suối, nắn dòng, bắc câu. Anh cán bộ nghèo mang trong mình dòng máu người lao động, với cốt cách con nhà nông bần hàn, chịu thương chịu khó, nhìn chỗ nào cũng thấy việc, cũng có thể sinh lợi. Đất trồng trọt ở rừng cơ man tha hồ thỏa sức. Cao thì lúa khoai, ngô sắn. Thấp thì chuối chanh rau đậu. Chăn nuôi lại càng dễ. Gà thì thả lên rừng cho nó nhặt sâu bọ. Vịt thì sẵn nước suối đấy có khác gì thò tay vào túi lấy tiền. Chưa kể còn đi rừng lấy mật ong, hái măng nứa, chặt song mây, nhặt hạt mít rừng, hạ cây, xẻ gỗ.
    Đều đều trôi đi trong nhẫn nại âm thầm ngày lại ngày. Không là hội hè, cũng chẳng hề u oái, ngày nối ngày chỉ một khí sắc cần lao. Không lo âu, phiền muộn, chẳng hề thấy thế là vất vả, khổ cực, anh Rư chỉ nhăm nhăm cái đích trước mắt là động chân động tay làm ra được cái gì đó có ích, có lợi. Lao động là sinh thú tiên thiên duy nhất của anh. Anh chỉ ngừng nghỉ chân tay khi ngủ. Bất đắc dĩ phải tiếp khách thì anh vừa trò chuyện vừa tranh thủ chẻ nắm lạt, vót mớ nan, cạp lại cái rổ cái rá.
    - Tôi vừa vào cái làng Mán đỏ ở sâu tít trong khe, anh Khang ạ. Chuối rừng, môn dại trong đó rất nhiều. Tuần tới tôi sẽ đắp thêm cái lò nấu cháo cám lợn. Rồi đi Mường Khương lấy mấy con giống về. Đất rừng này mà không nuôi lợn thì phí lắm!
    - Chỗ đất trồng mon lầy thụt kia tôi tính rồi, chỉ cần xuống vài ba thép mai, mấy cái chủ nhật là thành cái ao. Nhất canh trì, nhì canh điền, làm chơi ăn thật đấy anh ơi!
    -Có nhẽ tôi sẽ đắp cái đập ngăn khúc suối này lại, anh ạ. Ừ, vừa có chỗ tắm táp, lại đặt được mấy cái hom, nhất cử lưỡng tiện thật.
    Kế hoạch này chưa xong, dự định khác lại đã nẩy ra trong óc anh. Có lần anh bảo, đánh thắng thằng Mỹ xong, ai hồi cư về nơi ở cũ thì cứ việc. Còn anh, anh ở lại đây thôi. Đây sẽ là cái dương cơ giầu có, là cái trang ấp trù phú ăn đời ở kiếp của anh, của vợ con, cháu chắt nội ngoại của anh.
    Lao động với anh Rư là thú vui trần gian cao cả, là cơn say đắm hồn nhiên, là cách thức để thỏa mãn cái sức mạnh tiềm tàng không bao giờ dùng hết trong anh. Không ngơi nghỉ, không biết đến một miếng ngon, không ưa bàn luận thế sự, học thuyết, văn chương như những kẻ có được ít chữ nghĩa. Sách báo không có, loa đài không nghe, người cán bộ này chỉ một niềm mê mải là chuyển hóa cái sinh lực vô song của mình thành các tạo vật sinh sôi xung quanh mình. Làm! Làm không biết đến mệt nhọc! Làm không tiếc sức! Làm như ganh sức đua tài! Làm như thèm khát, như để thỏa nỗi căm hờn bấy lâu bị trói chân trói tay! Vô chứng vô bệnh, không biết ốm đau mỏi mệt là gì, như được sự trợ giúp của thần linh, con người này biến công việc khó nhọc thành các thao tác nhẹ nhàng của thói quen. Các thao tác nhẹ nhàng qua tháng ngày tạo nên các công trình. Và đến đây thì một bước nhẩy vọt kỳ diệu thế là đã xuất hiện từ công việc lao động bình thường lặng lẽ của anh. Mọi cái đẹp tự nhiên muôn thuở, căn nhà của anh Rư dựng, khúc suối anh Rư uốn dòng, vườn rau, mặt ao, hàng cây anh Rư tạo lập toàn bộ sức lao động nhẫn nại của anh đã được kết tinh thành một khung cảnh thật tươi đẹp và hài hòa. Và tôi nhiều lúc đã phải kêu lên thầm lời thán phục và cảm ơn anh. Vượt ra khỏi mục đích thực dụng, đi tới nấc siêu hình, con người lao động đích thực này đã tạo nên cả một không gian trữ tình đằm thắm. Trong tĩnh mịch, trầm lặng hiền triết và vô tư. Con người anh vẻ như khờ khạo, thô mộc, nhưng sản phẩm anh tạo ra lại trau chuốt, mượt mà; anh giúp cho cuộc sống giảm đi cái phần buồn tẻ, nhàm chán vốn dĩ của nó. Hiển nhiên rồi, làm ra được những điều khác thường, anh Rư ắt hẳn phải là con người có tài đức khác thường đáng được chúng tôi vô cùng yêu quý!
    Hôm ấy, bức toàn cảnh gần như sắp hoàn thành, anh chuyển sang một công việc được coi như là điểm một nét chấm phá cuối cùng. Anh đào giếng. Anh báo với mẹ tôi rằng: vợ anh người Hà Nội, quen dùng nước sạch, dùng nước suối cô ấy dễ bị dị ứng da. Tôi hiểu: Yêu là một duyên cớ cao thượng để con người được trở thành chính mình.
    Anh Rư yêu quý vợ mình lắm. Tình yêu của anh không bộc lộ ở lời tung nịnh, ở cử chỉ âu yếm. Tình yêu của anh bộc lộ một cách cao thượng, lớn lao hơn. Anh đặt toàn bộ công việc nặng nhọc của gia đình trong thời kỳ xây dựng ở trên vai mình. Anh quyết biến cái hoàn cảnh để vợ anh được hưởng sự sung sướng, thuận lợi ngay trong lúc chiến tranh ác liệt phải sơ tán vào nơi rừng núi.
    Chị Nhần, vợ anh Rư, tuổi ngoài ba mươi. Quê chị ở Thanh Hoá. Ra giúp việc ông chú ở Hà Nội từ lúc mười sáu tuổi, ít lâu sau ông chú mất, bà thím trở mặt, chị phải tự lập sống bằng nghề đi ở gánh nước thuê. Anh Rư về Hà Nội họp, ở nhờ nhà ông bác cạnh nhà chị. Anh đã hơn bốn chục, gặp chị duyên trời, hai người lập tức gắn bó.
    Chị Nhần thấp lùn, chân tay ngắn chùn chũn. Chưa có con nhưng ngực xệ, bụng phưỡn. Mặt chị lại quá nhỏ, khéo chỉ bằng cái niêu kho cá bống. Thêm hai con mắt lá dăm ở xa nhau, mặt chị thêm cái vẻ đong đưa, hay lên mặt đài đệ.
    Gương mặt chị lồ lộ nét trần tục và khi cục toát ra kém hèn thế nào ấy. Chị là người gốc nông thôn, nhưng đua đòi tơ tuốt, tính tình thì cỡn cờ, ăn nói thì chấm chớ, không có gia bản, căn cốt. Chỉ ít ngày sau khi chị lên ở với anh Rư, mẹ tôi đã nhận xét vậy. Và tôi cũng thấy không sai. Nhất là tiếp xúc với chị, thấy chị ăn uống điệu đàng, gảnh gót, ứng xử vỗng hãnh không phải lối, đặc biệt là hay bĩu môi bỉu mỏ chê người, chê anh Rư. Chị chê anh Rư già, chê anh quê kệch. Miệng chị phũ lắm. Dài giọng, chị mắng anh là đồ vai u thịt bắp mồ hôi dầu, là đồ ăn gio bõ trấu ỉa ra than. Mẹ tôi chậc lưỡi: ?oChết, sao anh để chị ăn nói thế!?. Thì anh cười hi hi: ?oCháu chả chấp cô ấy non người trẻ dạ, với lại, người thành thị được nuông chiều từ bé nên hay đòi hỏi. Lấy cháu, lên đây ở là cô ấy phải hy sinh nhiều lắm!?.
    Nhất nhất mọi việc anh Rư đều nhận phần dở, phần sai về mình. Anh nhường nhịn vợ hết mức, lại tưởng tượng ra mọi điều tốt đẹp để bệnh vực vợ: có bận bị trị mắng té tát là đồ cổ cầy vai bừa, chém to kho mặn, đổ cả nồi cá suối anh kho mặn cho lợn, anh sang tôi chơi, cười hì hì, nói rằng: người đẹp họ thường khó tính. Và thú thật với tôi rằng đây là đời vợ thứ ba của anh. Hai người lấy ở làng quê, một tảo hôn, một nạ dòng, chữ nghĩa không biết, răng đen, xấu người xấu tính lắm, lại chẳng chửa đẻ gì. So với họ, chị Nhần thật là nàng tiên, là hoàng hậu trong giấc mơ ao ước của anh!
    ?oRõ là xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân chưa kìa!?. Mẹ tôi, ngồi trong nhà, nhìn ra bờ suối nơi anh Rư đang bổ những nhát cuốc đầu tiên trong công trình đào giếng cho vợ anh, chép miệng, rồi thêm: ?oKhổ thân bác ấy, sao lại có người vừa chịu khó vừa tốt nhịn đến thế!?.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  10. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Việc đào giếng thu hút toàn bộ tâm sức Rư. Anh xin nghỉ cái phép năm mươi hôm. Đất rừng ven suối lắm đá. Mới được ba lượt cuốc, đã thấy nước ri rỉ, phải lập tức chít mạch để đào tiếp.
    Xuống hơn một mét thì gặp tầng đá khô. Mừng húm, vội thúc xà beng xuống sâu nữa. Ác cái, sau tầng đá tảng lại gặp đất sét và dưới nữa, lưỡi cuốc chim bén vậy mà chùn ngay lại vì chạm phải tầng đá gốc. Cuốc, đâm, nậy, bẩy, moi? càng xuống sâu càng khó nhọc. Khó nhọc vì diện tích hẹp, khó đào thế chứ khó nhọc nữa cũng không thể làm thối chí đuổi bắt mạch nước ngầm của anh. Anh Rư quyết định đuổi bắt bằng được nguồn nước thần tiên cho vợ anh tắm táp cho da thịt thêm tươi nhuần, thơm tho, mát mẻ, để chị vui vẻ, sung sướng. Vui vẻ sung sướng thì chị sẽ rộng lòng với anh, sẽ thông cảm với anh, sẽ không chê anh, sẽ thương anh. Anh sinh ra trong gia đình nông dân nghèo kiết, thất học. Anh chẳng được cái mẽ bề ngoài, học hành lại tối dạ, văn chương võ nghệ, khẩu khiếu đều kém cỏi, làm ông giáo cấp một cũng không xong. Nhưng anh có đôi bàn tay năng nổ và một tấm lòng chân thực. Tấm lòng ấy chỉ nuôi một mộng ước là có được tổ ấm nho nhỏ, một khung cảnh sinh hoạt thuận hòa, một đời sống no ấm dễ chịu. Anh lại biết hạnh phúc bắt đầu từ người đàn ông. Chị Nhần vợ anh, vì vậy chẳng phải chỉ là nàng tiên, bà hoàng mà còn là khởi điểm của giấc mộng hạnh phúc cả đời người của anh.
    Cái giếng càng xuống sâu càng hút hồn hút sức anh Rư. Tụt xuống đáy giếng, một mình lụi hụi mò mẫm đào bới dưới đó, rồi lại bíu bờ, bám thành giếng lên, một mình kéo lên từng xảo đất đá. Không một lời nhờ vợ? anh như con dúi dũi đất, một thân một mình trần lực ra làm, lặng lẽ cô đơn như bản chất của mọi sự sáng tạo. Chỉ có tôi chiều chiều bế con ra thăm anh. Ngó xuống lòng giếng, mắt tôi rơi theo một chiều sâu hút hút. Tôi gọi anh, tiếng âm vang. Anh trần trụi, lấm láp ngửa mặt lên, ho hó mấy cái răng bàn cuốc sau cặp môi hờ, tiếng đáp nghe văng vẳng: ở dưới này rét lắm! Tôi rùng mình sởn cả da ốc như nhìn thấy âm ti địa ngục.
    Đêm đó, chợt nghe tiếng động ở nhà anh, tôi thức giấc.
    - Gì thế mẹ?
    - Cô Nhần cô ấy chê bác Rư hôi hám, bẩn thỉu, cô ấy đuổi bác ấy ra, không cho ngủ chung. Rồi cô ấy than thân trách phận, rằng nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, ai ngờ lên đất đồng rừng khổ sở thế này. Biết thế này thì ở Hà Nội lấy thằng xích lô ba gác có phải sướng hơn không!
    Mẹ tôi thao thức. Lát sau cụ chép miệng:
    - Khổ! Đào giếng là độc lắm! Làm quần quật như thế thì sức voi cũng quỵ. Hay là hiền giả quá ngu! Hay là bác ấy ngậm bồ hòn làm ngọt!
    Mắt chong chong, tôi thức giấc hoàn toàn. Số phận của anh từ trong anh bước ra, giờ nó đang hiện ra trong tiếng khóc ti tỉ ai oán của chị Nhần. Chị Nhần khóc dai lắm. Khóc để bộc lộ nỗi niềm. Khóc như để gợi lòng thương xót của kẻ khác. Cho đến lúc, trong không gian đêm tối mênh mông bật lên một tiếng đàn:
    Suối mơ bên rừng thu vắng
    Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
    Tiếng đàn măng đô lin! Tiếng đàn dây bốn sợi mong manh gai gai gơn gởn một tâm tình cô độc thèm muốn than thở và quấy quả bấy lâu thi thoảng vẫn hiện lên trong khuya khoắt, giằng dai như một ám ảnh tiền định. Tiếng đàn ấy đêm nay giống như một ám hiệu báo trước sự bất toàn của cuộc sống những ngày này. Nỗi lo ngại của tôi thật sự đã mang máng hình thành kể từ khi xuất hiện một nhân vật mới ở hẻm núi cây số 7 này cùng tiếng đàn măng đô lin của y. Đó là một gã nhân viên của chi cục thuế đi chiếc xe đạp nhãn hiệu Phượng Hoàng, sơ tán cũng ở hẻm này, nhưng sâu vào phía trong thêm vài chục mét nữa. Gã chạc bốn mươi, da ngăm, tóc xoăn, vóc dáng cao lớn, mặt mũi vừa trai lơ đàng điếm, vừa hầm hập nỗi thèm khát nhục thể. Một lần trời mưa, xuống xe đạp ở đầu hẻm, ngại con đường vào nhà lầy lội, anh chàng liền đẩy xe đến trước cửa nhà anh Rư, cất tiếng: ?oNgười đẹp ơi! Nhà rộng, cho gửi chiếc xe qua đêm được không?? Chỉ có Nhần ở nhà. Gã đưa xe vào nhà, ngước lên thấy cũng chiếc xe phượng hoàng như của mình treo trên xà nhà, liền kêu to là nhà người đẹp giầu quá. Thế là người đẹp được thể rên rỉ, nhiếc móc chồng. Chàng nhân viên thuế vụ hứa sẽ giúp người đẹp tập xe đạp bằng chiếc xe của mình và đêm đêm anh chàng bóng gió nhẩn nha giao tình với chị chàng qua tiếng măng đô lin gẩy bài Suối mơ.
    Tiếng đàn của anh chàng nhân viên thuế vụ chắc hẳn chẳng lọt tai anh Rư. Nhưng anh chàng đã thực sự trở thành nhân vật tích cực tham gia vào hồi kết của vở kịch đời Rư, khi anh rơi vào trận ốm thập tử nhất sinh.
    Đúng như mẹ tôi nói, đào giếng độc lắm. Việc thổ mộc không hộc máu cũng hộc cơm. Và cảm giác nổi gai khắp người tôi hôm rồi khi nhìn xuống lòng giếng sâu tăm tối, thấy Rư ngửa mặt ho hó những chiếc răng cửa to bản, kêu rằng dưới này rét lắm, đã là điều tiên báo cho cái sự kiện thảm thương chiều ấy, khi anh vừa chui lên khỏi cái miệng giếng vừa hoàn thành, vừa đứng dậy đã xây xẩm mặt mày, ngã ngửa người, mắt trợn ngược, thân hình tím ngắt như đọng máu.
    Anh Rư ốm nặng quá! Ba ngày đầu anh sình sịch bốn mươi bốn mốt độ. Đến ngày thứ tư thì chuyển sang vừa nóng vừa rét? Nóng thì như cái lò than. Rét thì rét từ ruột rét ra, người co quắp, răng lập cập, đắp bao nhiêu chăn chiếu cũng không lại. Liền mười ngày, cơm cháo nuốt được miếng nào lại nôn ra miếng ấy. Người đang đẫy đà vậy, qua mấy hôm chỉ còn da bọc xương. Mặt nổi gồ lên đôi lưỡng quyền và đôi môi khô nẻ co lại để hở mấy chiếc răng to bản vàng khè, từ đó phát ra tiếng rên rỉ thê thảm. Anh Rư rên rỉ trong mê man, trong mê man, có lúc còn thấy anh khóc ngằn ngặt, rồi chép miệng như muốn kêu đời tôi sao khổ nhục thế này. Lại có lúc bỗng dưng anh kêu la sợ hãi như trông thấy ma vương quỷ sứ dưới âm ty địa ngục.
    Xem ra trong người anh có cái vỏ bề ngoài khù khờ, thô mộc này, còn có điều ấm ức chưa nói được. Và trong cơn ốm đau vì thể chất hư hoại này anh còn một khối uất kết không giải tỏa được. Anh Rư hàng xóm của tôi, bấy lâu nay tôi đã hiểu hết anh đâu! Anh Rư bị sốt thương hàn, rồi biến chứng phát ban nhập lý. Nửa tháng, qua thấy anh ngày càng yếu, mẹ tôi giục chị Nhần đưa anh đi bệnh viện ở cây số mười. Thấy chị khất lần, tôi phải sang, cùng mấy người ở nơi anh công tác lừa lúc anh li bì trong cơn sốt, vực anh dậy đưa ra võng. Nhưng, nhậy cảm, anh biết, anh quẫy đạp, nhất quyết phản đối. Thều thào nói như mê lú rằng anh đi thì để người ta chiếm mất nhà à. Rồi lại buột miệng kêu: ?oTôi chết ở đây thôi?. Mẹ tôi la hoảng: ?oPhỉ thui cái miệng nhà bác đi?. Chị Nhần sõng tay, mặt lầm lầm: ?oĐã muốn chết thì cho chết luôn đi. Ai mà chiều mãi được?. Anh Rư nằm đấy một tuần, bao nhiêu lợn gà, chị Nhần đem đi bán hết. Chị không biết chăm sóc chồng ốm. Nói cho đúng, chị bỏ mặc anh. Nấu cho anh nồi cháo, còn chưa kịp dừ đã bỏ đấy, tót đi tập xe với gã nhân viên chi cục thuế. Mẹ tôi phàn nàn: ?oRõ là tuồng mèo mả gà đồng chưa! Hỏi rằng không có người ta thì nó làm sao thoát kiếp đứng đường đứng chợ!?. Rồi bà tiếp: ?oKhổ! Bác Rư bác ấy không biết! Con nặc nô này nó đú đởn với thằng ông mãnh từ lúc bác ấy đào giếng kia! Nhưng lúc này bới chuyện ra, bác ấy uất lên thì khổ!?. Thật sự lo lắng cho tính mệnh anh Rư, mẹ tôi sau mấy đêm trằn trọc, nghĩ rằng anh Rư đào giếng, chắc động phải cái mạch thổ thần gì đó, nên bảo chị Nhần sửa soạn cái lễ tạ, nhưng chị gạt đi, nói rằng như thế là mê tín. Mẹ tôi bảo: Thế thì vái tứ phương tìm thuốc cho anh ấy đi, chị cũng chỉ ậm ừ, kêu rằng cũng đang ốm đây.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​

Chia sẻ trang này