1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi shimizu_hn, 22/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

    ĐỒNG HÀO CÓ MA​

    Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. thuyết ấy sai. trăm lần sai! nghìn lần sai! vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những anh thích ăn bẩn cả. thì đấy, các ngài cứ hãy nhìn ông huyện hinh, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng tôi không nói đùa.

    chà! chà! béo ơi là béo! béo đến nỗi giá có thằng dân nào vô ý, buột mồm ra nói một câu sáo rằng: "nhờ bóng quan lớn", là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông. tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến kỳ cùng, không còn có thể làm ăn mở mày mở mặt ra được. bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". thế là việc công việc tư, ông đều được trọn vẹn. vì không những ông được hả giận, lại còn được tiếng mẫn cán là khác nữa.

    nhưng cớ sao từ ngày xuất chính tới nay, hai mươi năm trời rồi, ông vẫn còn lẹt đẹt tri huyện mãi. cái đó không quan hệ. các bạn học cùng ông, họ đều thăng đường quan cả, vẫn thường phàn nàn hoạn lộ quá chậm chạp của ông. trước mặt họ, nghe câu nói thành thực ấy, ông chắp tay, cúi đầu, làm ra vẻ buồn rầu. nhưng lúc quay lưng đi, ông bĩu môi, chửi thầm một câu, bụng bảo dạ:

    - làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!

    lý lịch của ông huyện hinh cũng xấu thật. bởi vì ngồi huyện nào, ông cũng bị dân kiện. mà quan trên xét ra ông lại trễ nải việc quan. Đời làm quan của ông chỉ có hai việc chính: đánh bạc và chơi gái.

    năm nay, ông đã ngoại tứ tuần. Ông vẫn lấy cái tuổi của ông để lên mặt tiền bối, khinh những ông huyện trẻ khác, nếu tụi này dám chỉ coi ông là bậc ngang hàng. Ông liền khoe thằng cả nhà ông đã hai mươi nhăm, rồi ông cặp ngón tay trỏ và ngón tay cái với nhau, vê vê trên mép. trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. Ông để râu, cho khác hẳn với tụi huyện trẻ nhãi. nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá, nên lỗ chân lông căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu không có chỗ nào lách ra ngoài được. Đến nỗi năm bốn mươi tuổi, mà mặt ông nó cứ nhẵn thín như thường. Ông bực mình, bèn ra lệnh cấm thợ cạo lia lưỡi dao lên môi ông một dao, để ông nuôi râu. thì sau hết, những lông tơ nó cũng dài ra, và trông rõ hơn. và đến bây giờ, đứng ở hai bên miệng ông, nó thành hai cái dấu chua nghĩa (...).

    buổi hầu sáng hôm ấy.

    con mẹ nuôi, tay cầm lá đơn, đứng ở sân công đường. nó hớt hơ hớt hải qua cổng chòi, rồi sợ sệt bỡ ngỡ, không biết quan ngồi buồng nào. bỗng một người mặc áo cánh nái nhuộm vỏ già chạy xồng xộc đến trước mặt nó, và hỏi:

    - Đi đâu?

    con mẹ biết ngay rằng đó là cậu lính lệ. và như hiểu rõ phép vào quan, nó giúi đưa cậu lệ hai hào đã cầm sẵn ở trong tay, rồi nói nhỏ:

    - nhờ cậu bẩm quan cho tôi vào hầu.

    cậu lệ tuy đã cầm tiền, nhưng làm như ta không để ý đến việc nhỏ nhen ấy, bèn vừa thò tay, vừa nói to:

    - Đưa xem đơn, việc gì?

    rồi trong khi nhà nuôi kể lể, thì cậu lệ đánh vần để đọc lá đơn. Đoạn cậu lắc đầu, nhăn mặt bảo:

    - vào kia, nhờ bác nho quý bác ấy làm hộ cho. Đơn này không được.

    con mẹ tái mặt, hỏi:

    - không được thế nào, thưa cậu?

    cậu lệ giơ hai tay ra giảng:

    - nghĩa là nếu nhà chị muốn việc chóng xong, nghe chưa?

    - thưa cậu, cậu cứ vào trình quan hộ. chả nói giấu gì cậu, nhà tôi bị mất trộm hết sạch cả đồ đạc lẫn tiền nong. sáng nay, vay mãi mới được đống hai bạc, để đi trình quan, cậu làm ơn thương hộ cho.

    cậu lệ nhìn nét mặt nằn nì của nhà nuôi, song vẫn thản nhiên:

    - tôi bảo nhà chị không nghe thì tôi mặc kệ. tôi thấy nhà chị ăn mặc thế này, lại bị lúc vận hạn đen đủi, tôi lại chẳng động lòng hay sao? nhưng ở đây, cái lệ nó thế. tôi tử tế, nên bảo trước. nếu nhà chị không theo, thì quan quở, chớ có trách tôi đấy.

    muốn chứng thực lời nói của mình, mẹ nuôi cởi nút dải yếm ra, rồi xỉa năm đồng hào đôi còn lại lên gan bàn tay, và nói:

    - Đây này, chẳng tin, cậu đếm mà xem, chỉ còn vừa vặn tiền trình thôi.

    cậu lệ lắc đầu. con mẹ vừa buộc lại tiền, vừa nhăn nhó, van lơn:

    - lạy cậu, thương cháu, cho cháu được nhờ. cậu cứ vào bẩm quan hộ. hễ quan bắt làm lại đơn, thì cháu xin ra nhờ bác nho quý ngay.

    bỗng một tiếng chuông gọi. cậu lệ dạ giật một tiếng, rồi ù té chạy. con mẹ nuôi nhìn theo, biết rằng buồng quan ngồi ở chỗ ấy. nó đánh liều tiến đến, vừa tiến, vừa lo. nó bước chân lên thềm, trống ngực bắt đầu nổi mạnh. nó đã trông thấy quan. nó lại sợ nữa. vì lo sợ quá, nên quên đứt rằng chính nó đi trình việc mất trộm. nó lại tưởng như nó là đứa trộm vậy. nó rón rén, đứng nép vào cạnh cửa, thập thò, ghé vào trong, và lắng tai nghe. nó thấy quan đang dặn cậu lệ xuống bảo nhà bếp ninh cho thật dừ cái chân giò.

    và đến khi cậu lệ dạ tiếng cuối cùng và đi vào sân sau, mé cửa trong, thì nó hiểu ngay rằng đã mất toi hai hào cho thằng xỏ lá nó chẳng bẩm cho mình một tiếng nào.

    bỗng hai con gà tây béo sù quàng quạc kêu ở sân trước. nó thốt giật nảy mình. quan đang ngồi, choàng một cái, ngài đứng dậy, chạy vội ra hiên, đứng ngay cạnh nhà nuôi, và gọi váng:

    - có đứa nào đấy, lừa hai con gà vào cho tao!

    tức thì, người ta chạy tán loạn để xua gà, và nhà nuôi thì chắp hai tay, quỳ ngay xuống gạch, và nâng ngang đầu cái lá đơn.

    khi đôi gà đã chạy về, quan bèn nhìn con mẹ và bảo:

    - vào đây.

    nó mừng quá, lóp ngóp đứng dậy, vội vã theo vào trong buồng giấy.

    nó đứng ở cạnh bàn, run lên bần bật. nó liếc nhìn quan. ngài oai vệ quá. nó lại sợ hơn nữa. nhưng dù run hay sợ, nó cũng không quên được việc vi thiềng quan.

    nhưng tiền trình diện quan, nó lại buộc vào trong dải yếm. nó cởi ra mới lấy được.

    nó mới lúi húi rút cái nút buộc ra. nó sợ quan chờ lâu, nên phải vội vàng. mà vì vội vàng, lại lo quan gắt, nên nó lóng cóng. cái nút vừa xổ ra, thì loẻng xoẻng, cả món tiền rơi tiệt cả xuống gạch.

    năm đồng hào đôi nảy lên mấy cái, và từng ấy tiếng kêu làm nó giật mình. tự nhiên, nó choáng cả người và hoa cả mắt. nó cúi nhìn chỗ nhiều hào rơi nhất, ngay bên cạnh nó. Đồng thì chui nằm ẹp gần chân nó, đồng thì xoay tít mấy vòng, đồng thì bắn ra góc buồng. mấy đồng nữa thì thi nhau lăn ra tận chỗ xa.

    nó không thấy quan nói gì, nên cũng hơi tĩnh tâm. nó bèn cúi xuống để nhặt tiền. một đồng, hai đồng. Đồng thứ ba nghiêng ở mé tường. nó tìm đồng thứ tư. mãi nó mới thấy ở tận gần chân bàn giấy của quan. nó tìm đồng thứ năm. quái, nó tìm mãi, mà không thấy đâu cả.

    nó phải có năm hào đôi. năm hào đôi mới thành đồng bạc được. vừa ban nãy, nó giở ra cho cậu lệ xem, và lại buộc cẩn thận vào dải yếm. không lẽ đồng hào ấy có ma, đã biến đi đâu mất chóng thế được. vậy chỉ quanh quẩn ở trong buồng này mà thôi. nhưng nó đã tìm kỹ lắm rồi. mà trình đơn tám hào, tất nó bị quan chửi. không biết làm thế nào được, nó tần ngần chắp hai tay, vái:

    - lạy quan lớn ạ.

    rồi nó lùi lùi bước ra cửa. rồi nó đi về...

    Ông huyện hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. rồi khi thấy nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giầy ra một tý. và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi.




    Không ai tẻ nhạt ở trên đời. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử.
  2. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    VỢ​
    Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo. Lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cưới. Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt!
    Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ "thanh khí", nghĩa đen là bén "tiếng" quen "hơi"nhau trước mãi. Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấy. Số trời có khác!
    Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóa. Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậy. Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế?
    Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về.
    Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc.
    Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ.
    Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt.
    Ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xoá món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồi. Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấy. Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ sao? Lấy vợ mà được "biên bông" như anh, là may đấy.
    Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêu. Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được.
    Anh đã tính chán rồi. Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lại. Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy goá chồng, còn thiệt bằng mười!
    Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻo. Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghe. Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữa.
    Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấy.
    Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xoá. Vợ anh bảo:
    - Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về.
    Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nào. Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dại. Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổi? Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãi? Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngay. Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc.
    Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủa. Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm.
    Song, già néo đứt dây. Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại:
    - Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem!
    Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tội.
    Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá:
    - Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. Ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nào?
    Anh Ba cau mặt, thở dài:
    - Ông dọa thế, chứ ông chả nỡ.
    - Không phải chuyện dọa. Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâu.
    - Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp sau.
    - Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồi.
    - Ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ?
    Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vại.
    Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưa. Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữa.
    Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữa. Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửa. Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà.
    Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhau.
    Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!
    Hết.
    Không ai tẻ nhạt ở trên đời. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử.
  3. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    NGƯỜI THỨ BA​
    Nhưng còn người thứ ba nữa, cũng quan tâm đến cái chết của mẹ chồng chị cu Sứt, chẳng kém gì cụ thư ký.
    Vậy mà chúng ta cứ quên.
    Suýt nữa thì hoài của!
    Nguyên là chị cu Sứt cũng khá thông minh - mà làm gì chẳng thông minh, khi thấy người trên bẻ họe một việc rất vô lý - chị hiểu ngay công dụng của cái miệng. Cái miệng, trước khi để khóc mẹ, hãy phải dùng để trình nhà chức trách biên vào sổ tử cho, thì mới đúng là trong nhà có người chết. Nếu không, thành ra mình khóc lậu à? Mà trình nhà chức trách, đố ai làm nổi việc ấy bằng lời nói suông. Cho nên, vừa bị kéo tới thềm nhà, chị cu đã lạy van cụ thư ký bằng một món tiền. Thiên chúa ơi, bằng một món tiền... hai hào!
    Tức thì, cụ thư ký nguôi giận, và không lôi xềnh xệch chị ra đình nữa. Chị được "tự do ngôn luận" trước cái thây ma.
    Tin ấy cũng truyền ngay đi khắp làng. Cụ lý gật gù, khen:
    - Lão ta thế mà đa mưu, giỏi!
    Nhưng cụ chánh hội chê:
    - Lão ta thế mà khờ. Phải tay tôi, không năm hào, tôi còn dọa.
    Còn báo "phụ nữ" - thế nào các bà chả bênh vực quyền lợi cho đoàn thể - buông lời phê bình bằng những giọng văn ít chải chuốt:
    - Cha con đẻ ra mẹ nó, bà thì bà kiện đến tam toà, chứ bà chịu à!
    Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi người giúp một tay. Bởi thế, chẳng mấy chốc, mẹ chồng chị được hoàn toàn là người chết hợp pháp. Bà được người ta khênh nằm trong áo quan bày ở giữa nhà, trên thắp hương nghi ngút. Bà được một ông hơi biết địa lý, nhanh nhẩu đi mượn la kinh, ra bãi tha ma đầu làng, ngắm hướng, rồi đào sẵn huyệt. Và ông bảo giờ dần sáng mai, rước bà cụ ra đồng.
    Người thứ ba, tức là ông quản lộ. Chức này, chỉ có tỉnh này mới đặt ra. Nhiệm vụ của ông quản lộ là phải coi đường làng, từ ngày xây gạch. Công việc ấy chẳng nhẹ nhàng và dễ dàng gì đâu. Hai bên bờ đất lở ư? Ông phải cho người đắp lại. Mặt đường vì mưa, bùn đất phủ lên ư? Ông phải bảo những nhà ở cạnh đường lấy xẻng giẫy đi. Vô phúc con trâu nào không đi sang hai bên cạnh, mà bén cẳng lên chỗ gạch lát ư? Ông làm biên bản. Tức thì, chủ bị phạt.
    Kể trong làng có đặt chức ấy cũng tốt lắm đấy chứ? Đường làng lúc nào cũng sạch, bền, ai chẳng muốn ngắm? Song, đó là về lý thuyết, chứ không phải về thực hành. Sự thật, người ta ít được gặp ông quản lộ ở ngoài đường. Bởi vậy, đường được rất ít hân hạnh để sạch và bền. Và những con trâu, cả trâu của ông quản lộ nữa, được nhiều hân hạnh đi lên nền gạch, thỉnh thoảng lẹt bẹt vào đó những đống gì kha khá to để làm duyên.
    Sáng sớm hôm sau.
    Bốn người hảo tâm đã sửa soạn đòn, khênh đến đầu ngõ nhà chị cu, bày sẵn trên đường, và vào trong nhà giục tới tấp. Chỉ từng ấy người cũng đủ nhấc nổi chiếc quan tài, vì nó mỏng, và vật chứa ở trong cũng chẳng nặng nề gì. Chỉ là một bộ xương nhỏ nhắn, bọc bằng lần da mỏng manh.
    Trong phút chuyển cữu, chị cu Sứt đứt ruột đứt gan. Chị gò lưng, cố níu cỗ ván lại. Nhưng mặc kệ, nó cứ theo tám cẳng chân, tiến nhanh thoăn thoắt.
    Người ta nâng đều tay để xuống thềm và ra ngõ. Người ta đặt trên đòn, úp mái vào, thắp nến, thắp hương, rồi buộc lại bốn chiếc mành bốn bên cho chắc chắn.
    - ối mẹ ơi là mẹ ơi, rồi đây một ngày một xa, biết bao giờ cho mẹ con ta lại gặp nhau! ới giời cao đất dày ơi! Giường cao chiếu sạch mẹ chẳng nằm, mẹ ra nằm ngoài giữa đồng, mẹ ơi là mẹ ơi!
    Nhưng có ai để ý đến sự kể lể thảm thiết ấy?
    - Nào? Bắt tay vào! Xong ba hồi chín tiếng thì anh em lên cho đều nhé.
    Tiếng phèng rè nổi lên như run, như khóc. Chiếc nhà táng vừa nâng cao, chị cu thương tâm quá, đứng không vững, ngã khuỵu xuống đất.
    Nhưng mà:
    - Này! Hãy dậy đã.
    Chị mở mắt ra, nhìn.
    Ông quản cố cầm roi mây, phì hơi rượu vào mặt chị, nói:
    - Mày dậy đã, không có phép thế.
    Chị cu vừa khóc, vừa rên rỉ:
    - Phép thế nào, ông ơi.
    Ông quản lộ cau mặt, gõ đầu roi vào nhà táng:
    - Nghĩa là nó là phép thế. Đường là đường làng. Làng cắt tôi ra trông nom. Chị có tư cách gì mà dám đưa ma bà cụ lại không nói với tôi một tiếng? Bốn người này khiêng áo quan vào trong nhà giả chị ấy!
    Chị cu choáng váng, vội đứng dậy. Chị thấy ông quản lộ giẫm một chân lên đầu đòn để ghì xuống. Chị khóc:
    - Thôi, tôi lạy ông, tủi vong linh mẹ tôi lắm, ông ơi!
    Ông quản cố xua tay cho mạnh, cố lắc đầu cho nhanh, cố nhăn mặt cho ra vẻ tức giận, nói:
    - Chẳng có thì tôi đưa chị lên quan, chứ đường là đường làng hay đường riêng nhà chị mà chị dám mục đích rắc vàng bừa bãi ra đây? Ai quét hầu chị? Mà tử khí xông lên, ngộ người làng chết lây thì tôi biết nói sao?
    Người xúm quanh, mỗi người một điều:
    - Thôi, bác quản, giời sinh ra thế, bác ngơ cho chị ấy, chị ấy không biết phép.
    - Không được, nghĩa là không biết phép thì tôi làm cho biết phép. Tôi có tư cách coi đường làng. Nếu tôi dễ dãi, ngộ rồi trên các cụ "trách nhiệm" tôi, thì ai ra chịu tội cho tôi.
    Chị cu Sứt thấy ông quản lộ dùng những chữ việc quan để tỏ ra mình khó tính và hăng hái như vậy, thì sự thông minh bỗng vụt ngay vào trong óc chị. Chị không khóc nữa, lấy vạt áo chùi đôi mắt đỏ hoe, rồi từ từ cởi nút giải yếm.
    Liếc mắt thấy phát tài đến nơi, ông quản dịu mặt:
    - Tôi vẫn biết chỗ người làng người nước, làm ra sinh mất lòng mất bề nhau, nhưng nghĩa là việc quan anh cứ phép công anh làm, ai oán thì oán.
    Nói đoạn, ông lại liếc mắt lượt nữa, thấy chị cu đã nắm cái gì ở trong tay. Ông biết rằng không phải nói thêm gì. Ông đứng yên, để nhường lời cho chị. Mặt ông, lúc đó, tuy trơ trẽn, nhưng tươi lắm.
    Chị nhờ người vào nhà lấy cái đĩa, rồi để đánh cạch hai mươi trinh vào, dịu dàng thưa:
    - Gọi là thế, có cơi giầu biếu ông, thôi thì ông cho các bác ấy khênh bà cháu ra đồng.
    Ông quản để năm đầu ngón tay vào lòng đĩa, vét một cái rất anh hùng, rồi gật đầu, hất roi:
    - Thôi được!
    Hết.
    Không ai tẻ nhạt ở trên đời. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử.
  4. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    CHIẾC QUAN TÀI​
    Chiếc quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu. Một người đàn bà, quần áo nâu bạc, ngồi phệt ở bên, úp mặt vào cánh tay khoanh cạnh ván thiên, thỉnh thoảng hé vuông vải nhỏ mới, ghé ra ngoài xỉ mũi xuống nước. Gần đó, một thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch với những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn.Bỗng bốn người đóng khố, lực lưỡng, đẩy chiếc mảng chuối áp đến hè, rồi cùng nhau vào, khỏa chân để rửa, nói mấy câu, và đứng lên phản, bắt tay vào cỗ ván.Họ còng lưng, ưỡn ngực, để khênh cho thăng bằng. Song, họ không thấy nhọc nhằn, vì chiếc áo quan ấy nhẹ quá. Nó bằng gỗ tạp, lỗ chỗ những vết mọt đen, mỏng vừa một đốt ngón tay. Họ chép miệng, phàn nàn với nhau, thương hại anh Cu xấu số, khổ cho đến lúc chết, chết ngay vào độ trời làm vỡ đường.Mảng chuối chở chiếc quan tài lềnh bềnh theo tay bốn người đẩy ra cổng. Chị Cu trùm khăn lên mặt, khóc thảm thiết. Cứ cả quần áo thế, chị lội bì bõm, đi sau chồng.Giá không có mảnh vải trắng che mặt, đố người lạ nào bảo chị là người nhà người chết. Và giá không có tiếng khóc, đố ai đoán là ngoài đường có đám ma. Thằng Cu thì chẳng biết gì. Nó thấy người ta ghé lưng, bảo nó ôm cổ để cõng. Nó ngơ ngác làm theo, hình như thích chí vì được đi lội.Bốn người đẩy mảng, dò từng bước. Đi dưới nước đã chậm, thế mà đường lại trơn. Những bọt nước tóe bắn lên, làm tắt cả hương. Mấy cây nến cắm trên khúc chuối, bị gió, không sao cháy được. Người ta đã nhiều lần thắp lại cả hương lẫn nến, nhưng vẫn tắt như thường.Xung quanh, làn nước đỏ mênh mông, từ sáng đến bây giờ, mỗi lúc lên một cao. Chị Cu gào mãi nên rát cổ. Chị phải thôi khóc. Và cố bấm đầu ngón chân xuống đất, cho khỏi ngã.Mực nước chỗ thấp thì đến bẹn, chỗ cao thì đến thắt lưng hoặc đến ngực. Cả làng chỉ còn có mỗi một nơi cao nhất, là khu giữa vườn nhà ông Lý, may quá, chưa bị ngập. Cho nên ngay từ khi anh Cu ngáp cái sau cùng, chị Cu phải kiếm cơi trầu lên xin với chủ đất, để nhờ chỗ chôn chồng. Ông Lý thương hại, vui lòng nhận lời, lại khuyên chị nên đưa ngay anh Cu "ra đồng" kẻo chỉ một giờ nữa, vườn ông cũng tràn nốt. Thật thế, cả làng, hiện nay chỉ có khu vườn ấy là hở. Còn thì từ ngoài đồng cho đến khắp các xóm, chỗ nào cũng những nước là nước. Nói đúng ra, giữa đồng cũng còn vài ba cái gò là còn nổi lên. Nhưng những đường ra đấy, từ khi mới có tin vỡ đê, tuần đã chặt tre rấp ngang lối, vít kín cả lại rồi. Chỉ còn một lỗ con con chui khe luỹ, người ta vẫn đánh trâu qua để thả cho nó bơi đến các gò, đứng nắng và ăn bèo Nhật Bản, thì lối ấy nhỏ quá. Vả trừ trâu ra, ai dám bơi qua những nơi ruộng sâu đến một con sào.Chiếc mảng lênh bênh độ một lát, thì quàng vào ngõ xóm Trung. Tuy đường hẹp, nhưng lối đi cao dần. Nước đến thắt lưng, sau đến bẹn, rồi sau đến đầu gối. Rồi sau cùng, mảng chuối chịt lại, mắc cạn, không đi được nữa.Người ta ghé tay bê áo quan. Chị Cu vác vồ cuốc lên vai, đi theo. Nước rẽ qua những cẳng chân đen thủi, kêu rào rào, tóe bọt trắng sang hai bên.Chị Cu giục mọi người mau tay lên, vì chị lo ngại quá.Quả nhiên, mới từ nãy đến giờ, nước đã láng gần khắp vườn nhà ông Lý. Chỗ đất vừa đào cách đây độ một giờ đã có những dòng nước ngòng ngoèo bò theo nơi thấp, và rỉ vào, ngập đến lưng huyệt.Bốn người rảo cẳng, rồi đặt quan tài xuống. Họ nhảy vào hố, hai tay bốc nước, thoăn thoắt tát ra. Nhưng vô ích. Nước ra bao nhiêu, lại vào bấy nhiêu. Mà nước vào lại mạnh hơn nước ra. Tát cũng không kịp.Bốn người thất vọng, bảo nhau khênh bốn góc cỗ ván. Hai người tiến, hai người lui, rồi cùng đứng ngay ngắn ở hai đầu huyệt. Họ cúi lưng, đưa thấp dần dần tay xuống. Chiếc quan tài hạ từ từ. Cảnh đau đớn làm chị Cu đứt từng khúc ruột. Chị muốn khóc cho hết nước mắt, gào cho hết hơi, để được chôn theo chồng. Nhưng bỗng chiếc quan tài đứng sững lại, không xuống được nữa. Nước ở dưới đội nổi lên. Tiếng khóc im bặt.Bọn người nhìn nhau lo sợ. Lúng túng. Làm thế nào? Bàn tán hồi lâu, hai người nhảy xuống, đứng ở hai đầu áo quan để lấy sức nặng, thì nó mới chìm được. Nhưng nước vào huyệt đã nhiều, nên khi người ta vừa nhảy xuống, nước ở dưới dềnh lên, tràn qua ván thiên. Quan tài như chiếc thuyền đáy phẳng, nó bập bềnh. Hai người mất thăng bằng, ngã khuỵu, thụt cẳng xuống huyệt.Cách ấy không được. ỳ ộp, mỗi người nói ra một kế. Chỉ làm sao thắng nổi có mỗi một tí nước, mới chôn được dễ dàng. Chị Cu tưởng tượng đến chồng bị ngâm sũng, chị thút thít, kể lể, thương con người đến chết còn vất vả.Chẳng mấy chốc, chiếc quan tài vì nhẹ, lại tự nhô lên đến gần mặt đất. Cả huyệt đầy những nước mất rồi. Bây giờ mới là lúc khó khăn. Họ vẫn luẩn quẩn bàn bạc.Sau hết, ba người phải lấy lưỡi cuốc, hếch kẽ ván cho nước ồ vào thực nhiều và cùng nhau đứng về một đầu cho sức nặng đủ dận được xuống đất. Một người lấy vồ chêm vào thành huyệt, ghì chặt lấy. Một người cuốc đất, và chị Cu khuân vội vàng, vứt xuống hố. Thấy thây chồng đầu cao đầu thấp, chị đau đớn lắm. Nhưng biết làm thế nào?Họ lèn đất vào thành huyết và áo quan, rồi quẳng những tảng to lên trên. Cho đất đủ sức dìm một đầu quan tài, họ lại đứng sang đầu bên kia. Và cũng làm như trước. Họ thở ì ạch, khó nhọc như một cuộc vật lộn. Khi cỗ ván đã bị chèn chặt hai đầu, họ bèn rủ nhau lên, để hết sức đào đất cho nhanh chóng mà quẳng xuống. Nhưng họ vừa bước chân khỏi, cỗ áo quan đã bềnh lên theo. Song, được cái nó không nổi cao quá. Biết rằng sức phấn đấu có công hiệu, họ huỳnh huỵch làm một lúc nữa thật mau. Chiếc quan tài lần này chịu nằm gí xuống tận đáy huyệt.Bây giờ họ đã đỡ vất vả. Chỉ còn việc đắp đất lên cho thành nấm mà thôi. ấy thế mà khi ngôi mả đắp vừa xong, nước đã láng vào khắp vườn, không còn hở một chỗ nào nữa.Những con giun đất màu đen to bằng ngón tay út nổi lềnh bềnh, dập dềnh theo đà sóng, trôi với đám bọt rác.
    Một giờ, lại một giờ. Mực nước lên cao dần, cao trông thấy.Xung quanh mả anh Cu, có những lá tre khô bám vào. Rồi có bèo Nhật Bản. Rồi có cả bọt rác nữa. Thứ này bám vào chốc lát, rồi bị sóng lôi đi. Thứ kia ôm lấy nhau, nhảy nhót, chạm óc ách vào nấm đất mới đắp. Nước dập dờn liếm mãi vào khe những mảng đất, làm cho nó mủn ra. Rồi nó lở thành những cục con con, lả tả rơi từng tý một.Độ nửa ngày, nước tràn qua mặt mả.Gió hiu hiu. Bụi tre cót két như nghiến răng. Những lá vàng rào rào bay xuống, chạy trên mặt nước như thuyền buồm thuận chiều. Lúc nào sóng cũng dập dờn làm ải đất mả đắp dối. Hòn to không mấy chốc thành hòn nhỏ. Hòn nhỏ không mấy chốc bị cuốn đi. Nấm mồ bị vẹt dần. Rồi nó không cao hơn mặt vườn nữa. Rồi chẳng bao lâu, tự nhiên, ở dưới, nhô lên một tầng đất mới.Tầng đất này cũng mỗi lúc một tý, bị sóng đánh, bị ải, và bị cuốn đi. Rồi hết lượt này đến lượt khác, đất ở dưới cứ nhô lên và cứ bị cuốn đi từng hòn nhỏ cho đến hết. Rồi sau hết, ục một tiếng, cả chiếc quan tài tự nhiên nổi bềnh lên. Nó nghiêng đi, hất tảng đất cuối cùng trên mặt ván trơn bùn như mỡ. Tảng đất rơi tõm xuống nước. Cỗ áo quan tròng trành, rồi đứng yên trên huyệt như chiếc thuyền bị cạn.Chiếc quan tài nổi theo mực nước lên cao dần. Sóng bập bềnh cứ vỗ mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị vướng gì nữa. Nó quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc trôi ngang, lúc trôi dọc.Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn, cạnh bờ lạch. Đến đây, nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó. Rồi một bè ngổ bám cạnh nó. Rồi một cụm bèo bám cạnh nó. Rồi cả một mảng vừa ngổ, vừa dừa, vừa bèo. Cả tảng bị nước đẩy ra lạch, nhưng không nổi.Chiều gió đổi làm nhích dần mọi vật, mỗi lúc một tý. Nhưng cỗ ván gặp cành giong tự nhiên, rúc đầu vào bụi. Rồi lái ngang, hẩy mảng bèo ra cho nó chui qua khe rặng tre và theo dòng lạch trôi nhanh như mũi tên. Rồi một mình chiếc quan tài cựa quậy, như cũng muốn tìm lối ra chỗ rộng. Nhưng nó nặng nề, nên hết xoay dọc lại xoay ngang. Nó tiến rất chậm chạp, vì thỉnh thoảng có gióng tre cản lại.Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt cỗ ván và cong vênh một phần nắp lên. Cả người nằm trong, trương phềnh ra, cũng hình như không chịu được chỗ quá chật hẹp.Chiếc quan tài như con thuyền không chủ, bập bềnh, lách theo lũy tre. Lúc nó dừng lại. Lúc nó nhích đi. Lúc nó giúi nghiêng, lại bạt vào bụi. Rồi sau hết, nó tới một chỗ có khe rộng. Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh vào tre hai bên, rồi đâm thẳng ra giữa lạch chảy xiết. Đến đây, nó quay mấy vòng, rồi lừ lừ, nó trôi dọc theo dòng nước...
    Hết.
    Không ai tẻ nhạt ở trên đời. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử.
    Được shimizu_hn sửa chữa / chuyển vào 06:04 ngày 08/11/2002
  5. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    XUẤT GIÁ TÒNG PHU​
    Trả tiền xe xong, ngài ôm cái gói bọc giấy xanh, chằng dây hồng, thoăn thoắt đến buồng khách, qua buồng ăn, ngó vào nhà tắm, rồi xuống bếp: su hào, bắp cải, bong bóng, nấm mực, còn bừa bãi, ngổn ngang cả trên phản làm cơm. ngài ngơ ngác hỏi:
    - bếp! bà đâu?
    anh bếp ngơ ngác, thưa:
    - bẩm, bà ở nhà ngoài.
    ngài càng ngơ ngác:
    - không mà!
    rồi ngài tìm lượt nữa: nhà tắm, buồng ăn, buồng khách. ngài gọi to:
    - mợ đâu nhỉ?
    chẳng thấy vợ đâu, ngài sực nghĩ ra. ngài chạy lên gác, bật đèn lên. thì quả nhiên bà nằm trên giường, đắp chăn kín mít.
    mừng rỡ, ngài đặt cái gói lên bàn, lại gần, ngồi cạnh vợ, lật chăn ra, tỏ ý ngạc nhiên:
    - kìa, tôi tưởng mợ sắm sửa xong rồi. dậy đi, mau!
    bà mở mắt lim dim, kéo chăn đắp lại, uể oải nói:
    - tôi nhức đầu quá, mà cơm cúng ở nhà cũng chưa sắp sửa được gì cả.
    - không cần. dậy mặc quần áo, kẻo không kịp.
    nói đoạn, ngài lật cả tấm chăn ra. bà vợ thì cố co lại:
    - thôi, tôi nhức đầu như bị búa bổ, và chóng mặt lắm.
    ngài cười khanh khách, kéo vợ ngồi dậy:
    - ồ, vờ mãi! mặt mũi thế này mà bảo rằng nhức đầu. mau đi, kẻo lỡ.
    rồi chẳng hay cảm vì sắc đẹp hay muốn giở khoa nịnh đầm, ngài ôm lưng vợ, hít vào cổ. nhưng bà hất ra, và lại cố nằm xuống, dằn dỗi:
    - tôi chịu thôi.
    ngài trợn mắt, kinh ngạc:
    - chết, việc cần, không nói thế được. thu xếp xong đâu vào đấy rồi. mợ đừng phụ công tôi.
    rồi ngọt ngào, ngài đập vào vai vợ, trỏ cái gói:
    - này, tân thời, đẹp đáo để. dậy mà xem.
    bà vừa kéo chăn toan trùm đầu, vừa nói:
    - Điều khác thì tôi xin chiều ý cậu ngay.
    ngài co phắt chăn, cuộn lại, ôm quẳng sang giường bên kia, hềnh hệch cái mồm, cười:
    - mợ chỉ ngại rét chứ gì? có rét quái đâu! ở ngoài đường cũng ấm áp lắm.
    bà ôm đầu:
    - ở nhà công việc còn bề bề ra, cậu không biết à? cơm cúng đã làm được tí nào đâu.
    ngài dỗ dành:
    - không cần! chả cúng bây giờ thì tám giờ, chín giờ, mười giờ đêm, lúc nào mợ về hãy hay. mà chẳng có thì tôi cứ trầu nước mời các cụ về cũng được, chứ đã làm sao? mai năm mới, hãy cỗ bàn bày vẽ.
    nói đoạn, ngài dựng vợ dậy, cầm hai cánh tay, kéo ra cạnh giường, rồi ngoèo chân, xếp lại hai chiếc guốc cho ngay ngắn. bà oằn oại, ngả người để co lại, nhăn nhó, giằng tay ra. nhưng thấy sức yếu quá, nên tự nhiên, bà bật ra tiếng khóc.
    Đó là lúc chẳng nên đùa.
    cho nên ngài trợn mắt, nghiêm chỉnh hỏi:
    - Ô hay, mợ không đi thực à?
    bà vẫn ôm mặt, nức nở:
    - cậu còn phải hỏi hay sao?
    - nhưng tôi đã hứa với người ta rồi kia mà!
    - mặc kệ cậu. ai bảo?
    - à, mợ khó bảo nhỉ! nào có nhọc nhằn gì việc ấy. tôi quanh năm làm lụng vất vả, mỗi ngày vùi đầu vào công việc hàng bảy tám giờ đồng hồ. nếu tôi quản công, thì liệu cả gia đình này có được ấm no không? mợ không biết nghĩ.
    - tôi hiểu cả. cậu không cần nói nhiều. nhưng cậu đừng bắt tôi thế.
    buông phứt vợ ra, ngài ngầu ngầu nhìn thật nghiêm chỉnh:
    - thế mợ muốn để cho người ta cho tôi là đồ gì?
    bà chắp hai tay, vái lấy vái để:
    - tôi lạy cậu, tôi van cậu, cậu đừng ép tôi. tôi là vợ cậu...
    - à, tôi là vợ cậu! là vợ mà chồng bảo không nghe. luân lý để đâu? giáo dục để đâu?
    bà lại ôm mặt, thổn thức. ngài móc túi, coi đồng hồ.
    - thôi, dậy sắm sửa mà đi, còn có ngót một giờ nữa thôi.
    - ngót một phút tôi cũng chịu.
    nghiêm nét mặt, ngài dẽ dàng, giảng:
    - mợ phải hiểu, tôi không muốn tôi phải ép mợ. tôi muốn mợ vui vẻ mà đi. tôi giảng nghĩa trong từng ấy ngày, tôi tưởng mợ đã nghe hiểu. thế này thì cáu thật!
    bà nằm lả xuống giường, ôm đầu. ngài nhìn một lát, bỗng hất hàm, hỏi:
    - mợ có đi hay không thì mợ bảo?
    - tôi cắn rơm cắn cỏ tôi lạy cậu, cậu tha cho tôi. cậu đừng làm tôi nhục.
    ngài nhăn mặt, rồi to tiếng:
    - có đi hay không?
    bà cũng nhăn mặt:
    - khổ quá, tôi lạy cậu.
    ngài gắt:
    - có đi hay không. mợ trả lời một tiếng. không lạy van gì cả! có hay không?
    bà không đáp, nức nở khóc. ngài nắm chặt bàn tay, đấm mạnh xuống phản:
    - nói!
    nhưng chẳng được nghe ý kiến vợ, ngài xung tiết, chạy đến mắc áo, vớ cái ba toong, khuỳnh tay đứng trước giường, rồi giơ ngọn gậy vào mặt vợ, hỏi:
    - có hay không? một tiếng!
    vừa sụt sùi, bà vừa đáp:
    - không!
    cần quyết liệt hơn, ngài giơ gậy:
    - thật mợ không đi à?
    - không!
    - à, bướng! tao không dọa đâu nhé. Để rồi mồng bốn tết, nó nhổ vào mặt tao ấy à! cứng cổ này! khó bảo này!
    thế là chiếc gậy hăng hái, cứ từ trên cao giáng xuống. bà rú lên, rồi giơ tay ra đỡ, sấn lại chồng, cố níu lấy cánh tay rắn như sắt. nhưng loáng một cái, ngọn gậy giơ lên thật cao, quật mạnh xuống, chạm phải thành giường, gẫy cắc ra làm đôi. một mẩu quay lông lốc như chong chóng, bắn lên gần trần, rồi rơi xuống ván gác.
    Đó là một cảnh dữ dội.
    - tôi van cậu, để nội trong ba ngày tết hôm nào tôi đi cũng được.
    biết là sự làm già bao giờ cũng hay hơn, ngài lắc đầu, co giật phắt vợ xuống. bà ngã ngồi trên hai chiếc guốc lúc ấy ngổn ngang.
    - phải đi ngay! tao không hoãn một phút! Đồ thân lừa chỉ ưa nặng.
    bà nhăn nhó, khóc:
    - Để đến mai, mồng một tết, tôi đi vậy, bây giờ tôi còn phải làm cơm cúng.
    - Đã bảo không cần mà. người ta đi trước tết, chứ ai để đến tết rồi mới đi! Đứng ngay dậy!
    ngài giật phắt cái cột màn. thì thình lình:
    - ối hàng phố ơi!
    bà vừa kêu, vừa túm lấy chồng, thở ỳ ạch.
    nhưng khỏe như con vâm, đưa khuỷu ra, ngài gạt vợ ngã lăn, và nắm chặt lấy hai cổ tay. bà oằn oại, song yếu quá. bà dùng hai cẳng để cưỡng. nhưng cả cái sức nặng của tấm thân vạm vỡ đè trên ngực bà, bà phải cố cựa cạy để thở. vậy mà ngài tát. ngài tát dồn năm sáu cái, và hỏi tội:
    - mày có đi hay không?
    bà tối tăm mặt mũi, hổn hển thách:
    - Đây, cậu cứ đánh chết tôi đi.
    tức thì, những quả thụi kinh hồn vào mặt, vào ngực và vào sườn, làm bà kêu thất thanh. nhưng mặc kệ, ngài vẫn hỏi có một tội:
    - mày có đi hay không?
    bà kêu cha, kêu mẹ, kêu cả trời nữa. nhưng ai thưa? ví thử cha mẹ hay cả trời nữa có đứng đấy thực, cũng đố dám vào mà gỡ.
    *
    **​
    việc gì cũng vậy, đánh đau thì phải chừa. cho nên chẳng mấy chốc, bà kêu cuống quýt:
    - vâng! vâng! tôi lạy cậu! tôi xin đi.
    ngài hung hăng, lôi phắt vợ dậy, hầm hầm nhìn.
    bà ngồi lả, chống tay đằng sau, đầu tóc rũ rượi, thở.
    - nếu mày định đi thật, thì đi mà lau mặt.
    sợ quá, bà chắp hai tay vái cuống queo:
    - vâng, vâng, tôi xin đi.
    - Đi ngay!
    - vâng, vâng! tôi lạy cậu.
    nói xong, bà lê đến ngồi ở ghế.
    ngài nhìn ra hiên, chạy lấy chiếc khăn mặt, đưa vợ:
    - Đây, lau mặt đi! áo quần, phấn sáp có sẵn cả rồi, còn khó khăn gì nữa.
    Đoạn ngài vớ cái bọc, cởi dây, mở giấy ra trước mặt bà và nói:
    - không biết tao hết hơi nói người ta mới cho mượn những thứ này à? mau, chậm rồi.
    bà khóc sướt mướt, cầm cái lược, giũ mái tóc ra và vừa suýt xoa, vừa chải. ngài vẫn còn hung hăng:
    - rẽ như lối chị tham ấy.
    giật nảy mình, bà vội chải, vội rẽ, vội uốn éo cho làn tóc lật lên, cong xuống cho thật nền, rồi vừa lau nước mắt, bà vừa lấy các thứ ở bọc để xoa phấn trắng, đánh phấn hồng, và kẻ môi son cho thắm.
    trong khi ấy, ngài đứng coi, mỗi chốc lại giở đồng hồ ra xem và giục.
    trang điểm xong, bà thở dài, cố gượng đau để đứng dậy, lấy cái quần xa tanh trắng và cái áo nhung màu may kiểu mới vẫn còn gấp gọn ghẽ trên bàn. bà vận những thứ ấy vào, rồi bôi đẫm nước hoa.
    Đến bây giờ, dưới ánh đèn điện sáng trắng, bà thành ra một bông hồng nõn nà, thơm tho, khêu gợi.
    nhưng vẫn trừng trừng nhìn vợ, ngài gắt:
    - tươi tỉnh lên thì người ta mới cảm, chứ khó đăm đăm thế kia, thì nó tống cổ về!
    rồi ngài xuống gác. bà đi theo. ngài gói ít nhật trình cũ, buộc dây cẩn thận, rồi đưa bà.
    - cầm cái này mà đi cho người ta khỏi ngờ.
    và vẫn nghiêm chỉnh, ngài đe:
    - hễ nói dối tao mà trốn vào đâu thì đừng ăn cái tết này thôi!
    bà nghiến răng, thở dài, không đáp.
    ngài nhiếc:
    - cái giống đàn bà xưa nay vẫn thế kia! lúc đến thì đừng có lù lù đằng cổng trước, nghe chưa? mà khi nào ông ấy cho về mới được về. tao mà thấy ông ấy tỏ ý không bằng lòng thì chớ chết!
    nước mắt chạy quanh, bà bước chân ra gần đến cửa, quay lại, rít lên, nói:
    - thiếu gì cách lễ tết mà cậu phải làm tôi nhục nhã như thế này!
    ngài trợn mắt:
    - câm ngay! làm gì mà bô bô cái mồm lên thế. Đồ ngu như lợn. cái gì thì mua được, chứ cái này mua được à?
    rồi ngài đứng nhìn chiếc xe kéo vợ đi khuất, mới quay lại, ra dáng yên lòng. ngài yên lòng vì không phải thẹn với lương tâm mà chắc chắn rằng sẽ được ông ấy khen là biết ơn và tử tế.
    Hết.
    Không ai tẻ nhạt ở trên đời. Mỗi số phận chứa một phần lịch sử.
  6. mai_ka

    mai_ka Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2002
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Con ngựa già​
    Trong ba con ấy, hai con kể trên không có gì đáng chú ý. Nhưng còn con ngựa ô, bao giờ tôi cũng phải nhìn nó bằng đôi mắt kính phục. Nó cao lớn, trông bề ngoài cũng biết là sắc mắc, bất kham. Nhất là tôi được nghe rất nhiều chuyện về nó.
    Con ngựa ô ấy, ông huyện, hồi ở Yên Dũng, đã mua lại của ông phó công sứ Bắc Giang, sắp về Tây. Vì lẽ đó, nó cũng có tên là ngựa tây. Và cũng vì là ngựa tây nên nó không hiền lành như ngựa ta. Nó dữ, khỏe mạnh và hung hăng lắm.
    Đã có lần nó cắn anh bồi ngựa một miếng vào tay, máu chảy lênh láng, khi anh ta đang tắm cho nó. Anh bồi đã là tay giỏi ngựa, vậy mà một đôi khi phải chịu nó. Nó có một tính lạ, hễ thấy người đem đồ lại gần để đóng xe, là nó hí lên rầm rĩ, và đá vung vít. Có bận, ba bốn người lính lực lưỡng mới đóng nổi nó vào xe; một người giữ chặt dây hàm thiếc, cho nó khỏi quay lại cắn, hai người bẻ khuỵu hai chân trước, để hễ nó đá bằng hai chân sau, thì nó ngã. Lúc ấy, nó mới chịu. Nhưng động thấy đôi càng xe làm trĩu dây da quàng lưng, là nó phi liền. Vì vậy, người ta phải đóng đồ rõ nhanh, và ai ngồi xe, phải lên ngồi sẵn sàng cả trên đệm. Vì nó mà đã chạy, thì có trời ghìm nổi!
    Lần đầu tiên, anh bồi chưa biết tính nó như thế, nên để nó đánh đổ xe, gẫy tan mất một bánh. Lại lần nữa, nó đã cứ xe không, thẳng đường, tế một mạch cho đến tận bến đò, xéo vung vít cả vào người ở chợ, rồi kéo thẳng xe xuống sông. Lại một lần nữa, anh bồi lúng túng, chưa kịp nắm chặt cương, nó đã cuốc. Bà huyện ngồi trên, kêu la rầm rĩ. Nhưng may, khi đến cổng, vì nó quành non quá, đầu càng xe vập vào bờ tường, bà huyện ngã lộn nhào ra đằng trước, sây sát cả mặt mũi. Song, nếu không thế, nó chạy chưa biết đến đâu, và chắc gây nên tai nạn còn lớn hơn nhiều.
    Khi con ngựa ô chạy đã xâm xấp mồ hôi, thì nó càng hăng. Nó tế nhanh và dai sức lắm. Có lần nó đã phi ngang xe lửa từ ga Đình Dù đến Phú Thuỵ. Rồi vì tàu phải đỗ ở Phú Thuỵ, nên nó chạy vượt lên. Người bồi nói rằng hôm ấy, hành khách xe lửa, ai cũng phải thò đầu ra cửa để xem cuộc chạy thi của sức máy móc và sức giống vật.
    Không những con ngựa ấy khỏe mà thôi, nó lại khôn nữa. Ai lại gần nó thì nó hục hặc, cắn đá, nhưng đến ông huyện đứng cạnh, thì nó hiền lành như con bò. Tha hồ ông vuốt ve, thò tay vành răng nó ra, hai tai nó vẫn cứ cúp ra đằng trước một cách ngoan ngoãn.
    Lính huyện còn ca tụng mãi cái việc nó cứu chủ. Một đêm, ông huyện cưỡi nó đi tuần. Xảy gặp một toán đông người, có khí giới. Không biết chúng là bọn cướp, hay chúng thù ông huyện, biết ông đến chỗ ấy, nên đón đường định hại. Chúng ồ ra, chặn lối đi. Bị tai nạn bất thần, ông huyện cuống quít. Nhưng con ngựa ô đá vung vít, giải vây được, và cắm đầu tế một mạch về nhà.
    Lại một lần nữa, trong mùa nước to, lý trưởng làng Lực Điền phi báo ông huyện khúc đê sạt bốn mươi trượng, ông huyện cưỡi con ngựa ô đến chỗ xung yếu thì được độ năm phút, ôtô ông sứ đến. Ông sứ cho là ông huyện chăm chỉ, lấy làm bằng lòng lắm. Giá dùng con ngựa hồng hay bạch, tất ông đến sau ông sứ, và sẽ bị quở trách là lười biếng việc quan.
    Bởi thế, duy chỉ có ông huyện là quý con ngựa ô, còn cả nhà coi nó như kẻ thù, vì ghét nó quá. Bà huyện bảo đem bán quách nó đi, để tránh những sự nguy hiểm. Người bồi động đến gần nó, là quất trước ít ra là năm chiếc roi gân bò vào mặt nó, để thị uy. Ai có việc phải đến gần nó, cũng trống ngực thình thình, cố mau chóng để tránh cho xa cái hàm răng và cẳng chân ghê gớm của nó.
    Những điều tôi kể trên kia, là tôi nghe người bồi ngựa nói lại. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy con ngựa ô ấy chạy nhiều lần. Mỗi khi ở ngoài đường, có hồi nhạc rung đều, là tôi phải bỏ cả sách vở hoặc bát đũa, tức tốc ra đứng ở hè nhà, để dúm miệng lại mà vừa nhìn, vừa sợ. Con ngựa chạy như băm, như bổ. Cát đường bụi mù. Tôi hồi hộp, nhảy lên chồm chồm mà reo:
    - Ngựa ô của quan!
    Mà chẳng những một mình tôi mới lố bịch như thế. Hàng trăm trẻ con khác còn lố bịch hơn tôi. Chúng chạy theo. Và khi con ngựa đã vào đến sân, chúng thập thò ở ngoài cổng huyện, ngó vào, nhìn con vật thở ì ạch mà bàn tán về nó đến trăm chuyện!
    +
    + +
    Nhưng mấy năm nay, con ngựa ấy già, sức lực nó yếu đi. Nó kém hung hăng và bớt cắn, đá. Song, mỗi khi đi tắm, tôi không thể nào không đứng trước chuồng nó mà ngắm nghía nó bằng đôi mắt kính phục.
    Thế rồi một hôm, tôi thấy đồn con ngựa ô ốm.
    Tôi đi qua chuồng thấy nó lử thử, nằm duỗi bốn cẳng một cách uể oải. Thúng thóc và bó lá tre để ở phía trong, vẫn còn nguyên. Vài hôm sau, một ông thú y người An Nam ở tỉnh về huyện. Người bồi ngựa nói rằng:
    - Quan cho mời quan Đốc về chữa, nhưng quan Đốc bảo nó già và phải bệnh đau ruột, không thể chữa được.
    - Thế nó chết à?
    Người bồi gật đầu:
    - Tại mấy năm trước nó khỏe và làm nhiều quá, nên về già, động ốm là nặng. Quan Đốc bảo đến đốc tờ tây cũng không thể cứu được. Mà có khỏi, nó không thể kéo xe và cưỡi được nữa!
    - Con ngựa ấy chết thì hoài nhỉ!
    - Chết thì chôn!
    Người bồi thản nhiên nói thế. Còn tôi, khi nghe thấy tiếng "chôn", tôi lại chỉ mong cho con ngựa ô ấy chết thực, để được xem đám ma ngựa nó ra làm sao. Thực vậy, tôi tưởng tượng đến một cái hòm kếch xù là quan tài, trong có xác con ngựa. Rồi vì nặng, nên tất phải đến ba bốn mươi người khênh trên vai mới nổi. Theo sau áo quan, chắc người bồi dắt con ngựa hồng và con ngựa bạch đi theo để đưa ma.
    Nhưng sự thực không phải thế.
    Sáng hôm sau, khi ông thú y về, bỗng tôi thấy ở cổng huyện một lũ người lôi một cái gì nặng nề, có lũ trẻ phố đứng xem xúm xít. Tôi liền chạy ra, thì ra lính trong huyện với con ngựa ô.
    Người ta lôi nó đi chôn.
    Thế là đám ma ngựa.
    Con ngựa ô bị trói bốn cẳng làm một, đầu thừng có mười người kéo. Cổ nó cũng buộc vào một dây, năm người lôi. Nó nặng lắm. Mười lăm người co hết sức, dô ta rõ đều, mà nhúc nhích được rất chậm. Tôi len vào chỗ trẻ con, đứng lại gần để nhìn, thì bỗng tôi nhủn cả người. Con ngựa ô vẫn chưa chết. Hai mắt nó còn mở, và có lẽ bị đau đớn, nên nó mở to ra, lộn cả lòng trắng ở xung quanh. Nó thở phì phò, và thỉnh thoảng còn cố cựa quậy để chống lại việc bị chôn sống.
    Nhưng hễ nó ngóc cổ, hay co chân, là lập tức bị những ngọn gậy thẳng cánh giáng xuống.
    Người ta hết sức lôi xềnh xệch con ngựa dần dần đến được bãi cỏ cách huyện độ năm mươi thước tây. ở đấy, đã có một cái hố mới đào. Người ta kéo nó xuống hố.
    Nhưng cái mả ấy đào ngắn và hẹp. Khi con ngựa nằm, thì cẳng nó duỗi thẳng, và cổ nó vươn dài. Người ta thử cố ấn cả xuống huyệt; nhưng không được. Đầu nó vẫn ghếch trên mặt bãi, bốn chân nó vẫn lêu đêu chỏng lên trời.
    - Đào rộng thêm ra.
    Một người lính bảo thế. Nhưng người khác tặc lưỡi, đáp:
    - Làm gì có mai có cuốc ở đây. ấn mẹ đầu nó xuống.
    - Phải đấy.
    Tức thì, người ta lấy chão buộc chặt đầu con vật và lôi gò trở lại. Cổ nó như bị gập đôi, và người ta cố nhét cả cho vừa vào huyệt. Con ngựa đau, thở hừ hừ, lưỡi thè ra ngoài miệng.
    Nhưng bỗng người ta lại nói:
    - Đấy, đã bảo mà, đi mượn mai đào rộng ra. Lười thế nào được. Còn chân nó vẫn ở trên kia kìa.
    Anh bồi nhìn xung quanh, thấy một người có con dao rựa, vội reo lên:
    - Được rồi!
    Dứt lời, anh giật lấy dao và giơ thẳng cánh, chặt đôm đốp vào đầu gối con vật. Nó đau quá, giãy lên. Nhưng độ mười phút, bốn cẳng nó lủng lẳng, rồi cụt dần. Xương trắng và thịt đỏ chồi ra.
    Song, bọn lính được một trò cười nôn ruột. Chắc lúc ấy, con ngựa tưởng có thể chạy trốn sự đau đớn, nên nó dùng hết sức tàn để băm bằng bốn cẳng cụt. Nó băm nhanh biến, như lúc nó phi nước đại. Tiếng cười và vỗ tay giòn tan. Bọn lính pha trò:
    - ái chà, đến tỉnh rồi đấy!
    Họ lại cười ầm ĩ. Con ngựa chạy không như thế, trước rất khỏe và nhanh, sau yếu và chậm dần, và sau hết, muốn chừng kiệt lực, nó không cử động nữa. Tôi chăm chắm nhìn trò ngộ nghĩnh. Khi không được cười nữa, người ta lại bổ lưỡi dao vào mặt nó để nhắc nó chạy đi. Quả nhiên, nó lại lắp bắp bốn cẳng trên không, và tiếng cười lại nổi lên rầm rĩ.
    Tôi cười, nhảy lên mà cười, vỗ tay mà cười. Vui quá! Rồi mỗi khi con ngựa mệt, nằm im, lại có người cho một nhát dao mạnh vào thân nó, để cho nó lại khua bằng bốn chân cụt.
    Mãi đến một giờ sau, khi trò ấy nhắc đi nhắc lại đến năm sáu lượt, không được người ta hoan nghênh nhiệt liệt nữa, bọn lính mới quẳng bốn đẫn chân xuống hố, và bắt đầu lấp đất lên. Lúc ấy, mắt con ngựa vẫn còn mở trừng trừng, và bụng nó vẫn còn phập phồng thở...
    Hết.
    MAIKA
  7. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Tinh thần thể dục​
    Có lính huyện mang trát quan về làng:
    Quan huyện X.X
    Sức hương lý xã Ngũ Vọng luân cử.
    Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Mars này, tức 29 tháng giêng An Nam tại sân vận động huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ.
    Vậy sức các thầy phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện.
    Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được miễn.
    Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.
    Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.
    Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữu.
    Nay sức
    Lê Thăng
    Anh Mạch nhăn nhó, nói:
    - Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.
    Ông Lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:
    - Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.
    - Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.
    - Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?
    - Ðối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.
    - Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Ðứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.
    - Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
    - Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
    *
    * *​
    Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông Lý:
    - Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêu. Lạy thầy quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.
    - ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!
    - Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau.
    - ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à?
    - Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng, thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng thì cảm rồi phải lại thì oan gia.
    - Ðây không biết, mà đây cũng không nghe đâu. Vợ chồng thu xếp với nhau thế nào, đây mặc kệ!
    - Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không à?
    - Không! Phải là đàn ông kia? Chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.
    Người đàn bà thở dài:
    - Thế thì con biết làm thế nào được !
    *
    * *​
    Bà cụ phó Bình, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên:
    - Thì lòng thành, ông Lý cứ nhận đi cho cháu. Cháu hôm ấy không bận đi ăn cưới thì cháu cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. Ông ngơ đi là được.
    - Thế ngộ quan biết, có chết tôi không!
    - Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.
    - Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơi.
    - Thì cũng như ông làm phúc ấy mà lị.
    - Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấy.
    - Ông không phải lo việc ấy. Nó đã dạm mượn được đủ cả rồi. Cháu mặc cả và đã khoán đủ với nó như thế.
    Ông Lý nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi:
    - Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.
    - Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế chứ gì.
    - Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đi.
    ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Ðá bóng ít ra ba bốn giờ chiều mới bắt đầu kia mà. Tôi tưởng mười hai giờ ở nhà đi cũng vừa, Buổi sáng, tôi còn mượn nó cuốc mảnh vườn.
    - Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưa. Ðể ngài điểm. Mà quan sức mười hai giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủa. Vả lại, tôi còn phải mang cờ lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nào? Cho nên, mọi người phải chờ tôi ở đình từ gà gáy.
    - Thế thì sớm quá.
    - Ông Lý gắt:
    - Tôi không lôi thôi. Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà. Mặc kệ!
    Bà Phó sợ hãi:
    - Không lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghe. Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.
    - Mấy lị bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm cơm từ chiều hôm trước, chứ vâng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâu.
    - Vâng.
    *
    * *​
    Ngay từ tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông Lý quát tháo om sòm:
    - Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!
    Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. Ông Lý dặn theo, tiếng oang oang:
    - Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố chúng nó! Việc quan thế này có chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!
    Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậy. Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong biển sương mù.
    Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này:
    Hai người tuần, một người cầm thuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà thằng Cò. Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống bếp, chọc tay thước vào cót gió và bồ trấu. Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệu.
    Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người trốn: Thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.
    Nó bị lôi ra ngoài. Nó van lạy:
    - Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.
    - Sao anh đã hẹn với ông Lý, lại không đi, để ông ấy chửi địa lên kia kìa.
    - Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đói.
    - Tôi không biết!
    - Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áo.
    - Không biết! Anh ra đình mà kêu với ông Lý.
    Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữa. Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi xềnh xệch đi.
    ***​
    Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh nạn.
    Khi thấy đã chậm giờ, ông Lý trưởng nghiến răng nói:
    - Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.
    Rồi ông ra lệnh:
    - Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm chung quanh giúp tao. Ðứa nào mà trốn về thì ông bảo.
    Ðoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.
    - Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!.
    1938

Chia sẻ trang này