1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 09/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Sa mưa
    Tạp văn
    Nguyễn Ngọc Tư

    Không khí ướt đầm vì mưa suốt đêm qua. Chợ xem xép nước. Người mua vắng ngắt. Kẻ bán trùm cao su im lìm như tượng trong làn mưa mờ đục. Gió như tiếng thở dài.
    Út Chín vẫn ngồi nép bên hông tường của quán cà phê, ngay đầu hẻm. Gối ép vào ngực, tay bâng quơ ngắt lá rau úa. Dáng ngồi không đổi, hệt như lần đầu tiên chị gặp nó, ở chỗ này. Chị nhớ, lúc đó, chị mừng quýnh, kêu giật giọng, ?oÊ, Út Chín!?. Con nhỏ thảng thốt quay nhìn. Và sự ngỡ ngàng, vui sướng trong mắt vụt tắt, nó cụp xuống, nói chị lầm rồi, tui không phải Út Chín.
    Không, dù con bạn bây giờ gầy gò quay quắt, dù khuôn mặt đã đen đúa sắt seo, dù nó không nhìn nhận, chị chắc chắn nó là Út Chín. Con nhỏ ở trong xóm ngoại chị ngày xưa, đã cùng chị rong ruỗi qua miền thơ dại. Đã cùng chị hái trái ô rô, đước, hái bông tra, bông ***g đèn? để chơi nhà chòi. Buổi trưa hai đứa trốn ngủ chém vè ra nhà xuồng búng thun. Có dạo hai đứa bỗng dưng mọc ghẻ, bị cạo đầu trọc lóc, cứ nhìn nhau hết khóc rồi cười. Có lần hai đứa đi kéo tép ở hào ranh sau vườn, xớn xác không thấy ổ ong đeo trên nhánh bình bát, Út Chín bị ong nghệ túa ra bu vàng đầu, chị nhào lại dìm nó xuống nước, kéo chạy lên bờ. Bứt cọng môn nước chấm vào những chỗ ong chích để lấy nọc, con bạn khóc vì đau, chị khóc, cũng vì đau.
    Làm bạn nửa chừng chị thôi ở với ngoại, về chợ. Lâu lâu cũng có người nhắc, ba Út Chín mất, sau nữa nghe Út Chín lấy chồng, rúc sâu trong đồng, trong những kinh rạch chằng chịt.
    Nhưng giờ Út Chín cúi đầu chối phắt, chị đành quay đi. Bỗng chị nhìn mình, thấy ngột ngạt vì đôi giày cao gót, quần màu kem sang trọng làm nổi bật chiếc áo hồng. Chân bước chần chừ, chị nghe loáng thoáng tiếng Út Chín, như đang phân bua với mấy chị bạn hàng, ?oem nghèo quá??. Chị nghe ruột xót cồn cào. Chị quay lại chỗ Út Chín, mua bó rau, ngỏn ngoẻn nói mình lầm. Chị săm soi chê rau xấu rau già, chị cò cưa mặc cả.
    Buộc lòng. Để Út Chín có thể còn ngồi bán ở chợ này. Để mỗi ngày, chị được nhìn thấy bạn. Để đau lòng nhận ra, nó nghèo thật, nghèo quá (Có lẽ con nhỏ vẫn nghèo y như hồi cùng chơi chung, nhưng chị thì đã khác xưa rồi). Cái áo khoác ngoài lấm lem mủ chuối, đôi bàn tay gân guốc, những đầu móng tay còi cọc đen thui vì nhựa rau muống, bàn chân nhợt nhạt, tái xanh trên đôi dép Lào mòn vẹt đằng gót. Tất cả những cái đó nói chung một thứ ngôn ngữ: ?otôi nghèo!?.
    Và trên chiếc thúng đựng rau bung vành, cái cân giá đã mòn khía? một cuộc mưu sinh tần tảo ngày ngày thầm lặng diễu qua. Nửa đầu mùa hạn thì mớ rau đắng đất, lọn rau muống chị mua còn xanh, sau đi qua Út Chín thấy mặt bạn trĩu lo âu bên mớ rau già, teo ngắt, đỏ au, nách lá ra bông. Chị biết, để tìm hái mớ rau đó, Út Chín đã rong ruỗi cả vạt đồng, tìm những đọt rau ấy mọc len trong cỏ ống, theo bờ mương, bờ ruộng đã sắp khô. Quá nửa mùa, Út Chín bán những con cá giăng lưới hay câu được, rồi sau chỉ thấy trong thau chất những con chuột đồng đã được lột da. Chị biết ao, vũng ở quê đã kiệt nước rồi.
    Điều đó có nghĩa việc kiếm sống của Út Chín nhọc nhằn hơn. Có những bữa đi làm về, chị thấy nhỏ bạn vẫn còn nấn ná bên mớ bắp chuối, năm ba trái bình bát chín dưới nắng trưa đổ lửa. Chợ tan rồi. Mà chị thì chẳng thể làm gì, chỉ có thể diễn mặt lạnh tanh, nhón ngón tay lăn tới lui mấy cái bắp chuối con con. Thoáng thấy cái nhìn tần ngần, day dứt, lầm lũi của bạn, chị bấm bụng hỏi, ?oBớt không? Năm bắp bốn ngàn nghen??
    Rồi mùa hạn nặng nề đi qua. Sớm nay sa mưa. Chị xách giỏ qua chợ, ngó Út Chín bỗng nhớ nao nao Út Chín. Nhớ cũng quãng này, hai mươi năm trước, chị với Út Chín rủ nhau đi mò rau muống chìm đìa, những cọng rau nằm dán dưới đáy ao, nước lên rau cũng cố vượt lên theo, cọng non nhuốt, trụi trơ. Nhớ hai đứa đi chận bắt những con cá rô ốm nhằng mình đầy nhớt đi loắn quắn trên liếp chuối. Nhớ cùng nhau đi bắt ốc lát trên đồng, ướt đầm đìa dưới mưa nhưng nụ cười vẫn nhoẻn ra trên đôi môi tái nhợt, cái cười ấm như than đang bắt lửa?
    Sớm nay, vẫn dầm chung cơn mưa, nhưng chỉ thấy trong nhau những bẽ bàng. Có một khoảng cách vô hình không với tới được?
  2. anjingruyu

    anjingruyu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/09/2005
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Lâu không vào đọc, thấy thích Ma và Người, và Dạy con. Cũng vì cùng mối lo với NNT.
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ngọc Tư
    Trò chơi quên nhớ
    ?oLam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp??.
    Trước bữa đi công viên để chụp hình đám cưới, Lam gặp tai nạn do lái xe chạy quá nhanh khi qua cua. Lồm cồm ngồi dậy, thấy có mấy vết trầy xước nhẹ ở khuỷu tay, phía đầu gối hơi rát, Lam dựng xe lên, chạy một quãng bỗng nghe máu rịn qua chân mày, chảy xuống mắt. Quệt vệt máu, Lam chợt nghĩ ra một trò thiệt vui. Lam giả đò mất trí nhớ.
    Hồi nhỏ, Lam hay nghĩ ra nhiều trò chơi lạ. Có lần, Lam trốn dưới gầm giường cả ngày, ngoại hoảng lên nhờ hàng xóm nhảy xuống ao mò táo tác. Không thấy, ngoại mếu máo nhắn đò kêu mẹ Lam về. Khi tàu từ phía chợ gầm gừ ghé bến, Lam không chịu được, nó chạy tung ra mừng "Mẹ, mẹ ơi!". Đang nẫu nuộc, bồn chồn, mẹ Lam bỗng ráo hoảnh, mẹ giận dữ tát mấy cái vào mặt vào vai vào mông Lam. Nó nghe đau rát nhưng chỉ cười nhe ra mấy cái răng sún, Lam thèm được nhìn thấy mẹ biết bao. Sau này, mỗi lần nhớ mẹ, Lam đều chơi lại trò đó, ngoại luôn tìm ra nó dù ở xó xỉnh nào, kẹt lu hay trong nhà củi. Lớn lên, Lam thấy mình dại. Bởi ngoại có nhắn, thì mẹ cũng biết tỏng là mánh khóe của Lam, mẹ cũng không về. Mẹ Lam bận. Mẹ muốn giàu có, thành đạt. "Con nghèo như vậy quá đủ rồi", những lúc ngoại Lam càm ràm này nọ, mẹ hay nói vậy, và cắn môi ngó qua sông. Bên đó, có người lên thành phố, không về, yên phận đời phò mã cho một công chúa nào đó.
    Mười hai tuổi, ngoại mất, mẹ rước Lam về chợ. Tối nào mẹ có khách đàn ông là Lam lại lui cui kiếm chuột bắt chơi. Nó hì hụi quanh phòng khách, thọc đầu ngó nghiêng chỗ này, xó nọ, miệng mắng mỏ, con quỷ sứ, mầy trốn đâu rồi, tao đập đầu cho chết cha. Lâu lâu lại chép miệng:
    - Trời, mới đây mà khuya lơ khuya lắc rồi.
    (Vậy mà thằng ******* không chịu về phứt cho rồi). Mẹ nhìn Lam thom lom, mắt quắc lên. Sau, hễ chạng vạng, mẹ Lam lại ăn mặc thơm phức, xách xe đi. Chuột bò nhộn nhạo Lam cũng kệ. Một bữa, Lam xin mấy lọ thuốc không về quăng vung vãi quanh mình rồi nằm im lìm như người chết. Khuya xa xắc mẹ mới về, ngang qua Lam, mẹ càm ràm, "bữa nay bày đặt làm trò gì nữa đây ?!" rồi đi thẳng lên lầu. Lam thấy nếu mình chết thật thì uổng quá. Thôi.
    Cái trò mất trí nhớ nầy cũng không phải là sáng tạo gì mới, trên phim thiếu gì, ai coi cũng cảm động muốn chết. Lam nghĩ Son Ye Lin diễn đâu phải hay mà vẫn lấy nước mắt của người ta, mình cũng làm được tuốt. Lam bất thần chao đảo rồi dừng lại giữa đường, thụp xuống ôm đầu. Xe cộ ùn lại một cục, có người hỏi cô bị làm sao vậy, Lam ngẩng lên, ngơ ngác, lắc đầu. Hỏi nhà ở đâu, Lam lắc đầu, ngơ ngác. Vết máu trên trán vẫn chưa khô.
    Lam được người ta đưa về nhà. Lam bắt đầu sống với những người xa lạ (theo đúng kịch bản). Mẹ nghe báo tin hớt hải chạy về. Lam thấy mẹ nắn tay nắn chân mình bèn rụt rè hỏi, "Chị ơi! Chị là ai?!" bằng vẻ mặt ngây thơ hết biết. Mẹ thảng thốt kêu lên:
    - Trời ơi, sao vậy Lam, tuần tới là đám cưới rồi đó.
    Lam cười, đờ đẫn nhìn quanh, đám cưới, mà đám cưới ai? Lam thấy trong mắt mẹ sự sụp đổ, tuyệt vọng.
    Cuộc chạy chữa bắt đầu, mẹ đưa Lam tới những bệnh viện nổi tiếng nhất, những bác sĩ giỏi nhất. Cuối cùng, người ta đoán, có thể sự va chạm mạnh vào đầu làm xóa đi vùng ký ức, nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời thôi. Sẽ phục hồi nhanh nếu những người thân thuộc khơi gợi lại những kỷ niệm sâu sắc, càng nhiều càng tốt.
    Đưa Lam về nhà, mẹ nhìn đống thiệp thơm phức thở dài, ủ ê. Ngày cưới sắp tới mà cô dâu không nhận ra chú rể, đúng là thảm kịch. Suốt thời gian đó, Thái chỉ biết nắm tay Lam, đau đáu:
    - Anh nè, anh là Thái nè, em nhớ chưa?
    Lam khổ sở lặp lại như cái máy, "Dạ, Thái..." nhưng không có vẻ nhớ ra cái người chỉ vài hôm nữa sẽ làm chồng mình. Chiến dịch khơi nguồn ký ức đã bị Thái mở màn thảm bại, Lam mở con mắt ra bộ kinh ngạc khi nghe Thái nhắc hai đứa quen nhau trong bữa tiệc sinh nhật nhỏ bạn, hôm đó Thái hát xong, Lam vỗ tay khen hay, nhớ không? Nhớ không, quán cà-phê "Thiên Đường", chỗ hai đứa thường hò hẹn? Nhớ không, lần Thái dắt Lam về nhà ra mắt cha mẹ, Lam đã làm đổ chén chè lên áo? Noel mới đây, hai đứa bị kẹt xe gần hết đêm, nhớ không? Lòng Lam quặn lại, khi nhận ra những thứ mà Thái gọi là kỷ niệm, chúng ráo hoảnh, tươm tất kỳ cục. Những chi tiết đơn điệu đã làm nên một mối tình đơn điệu, giá mà có thể chỉnh sửa để kỷ niệm sâu sắc hơn, thí dụ như cùng nhau đi tung tăng dưới trời mưa, trên con đường chiều vắng ngắt, ướt ngoi ngóp, tối đó còn kèm thêm một trận sốt nhớ đời. Hay còng lưng chạy xe đạp chở nhau ra ngoại ô, chỉ để đứng trên cầu ngắm mặt trăng biếc ngần mắc vào lưới vó dưới dòng kinh...
    Lam cố tỉnh bơ không để ý nghĩ hiện ra mặt. Lạt lẽo tiễn Thái về, còn một mình, Lam vùi đầu trong mền cười ha ha ha, tự khen mình diễn hay tới không ngờ. Có thể cái trò chơi đóng vai không lạ lẫm nữa. Từ sau bữa tiệc sinh nhật hôm đó, Thái đưa Lam về, mẹ cũng vừa trờ tới, thấy Thái, mẹ kêu lên, giọng trách móc nhưng cực kỳ dịu dàng:
    - Trời đất, Lam, sao con không mời bạn vô nhà chơi?
    Sau, biết Thái đang làm việc ở Sở Tài chính, lại là con trai của phó chủ tịch tỉnh, Lam không ngơ ngác nữa. Lam thấy mình có bổn phận phải yêu người này, như một cách đỡ đần cho công việc kinh doanh của mẹ, dù Lam nói về sông, về đồng, về những sa mưa cá rô lóc trên sân, hay về một người bán vé số mù hôm qua chết dưới dạ cầu, Thái không biết gì hết. Chẳng sao cả, Lam sẽ yêu. Những ngày tháng đó đối với Lam như một giấc mơ. Mẹ nhắc chừng Lam từng chén cơm. Lam đi chơi, mẹ chọn áo, tiễn Lam ra cửa, âu yếm dặn dò:
    - Chơi vui nghen, hai đứa.
    Lam nũng nịu ôm eo Thái cho đến khi mẹ quay đi, nếu phải sống giả để nhận sự quan tâm, trìu mến của mẹ, cũng đành.
    Và Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp?
    Chơi trò quên nhớ này thì vui hơn giả bộ yêu nhiều. Không phải đắm đuối, ngọt ngào nữa, bây giờ chỉ việc đưa cái mặt ngơ ngáo, đờ đẫn ra với đời. Và cứ vậy, vui từ sáng sớm, khi chị bạn cùng cơ quan hối hả chạy lại thăm. Ngồi với nhau, chị cứ chắc lưỡi xuýt xoa (mà không giấu được vẻ hồ hởi):
    - Lam quên thiệt sao ? Chị Huê nè, hổng nhớ cái gì hết hả?
    Lam ngượng nghịu lắc đầu, mắt trong veo. Nhìn vào cái vẻ hớn hở không chịu được của chị bạn, Lam muốn sặc vì buồn cười, chắc chị nghĩ Lam quên tuốt món nợ bốn triệu mượn tay rồi, nên mới mừng húm như vậy, ra về mà cứ tủm tỉm cười hoài.
    Cả anh bảo vệ cũng tới nhà, cũng tỏ mặt đau thương (nhưng trong bụng thì mừng rơn). Cái nhìn xa lạ của Lam đã giúp anh yên tâm hơn, vụ anh dỡ nắp cống và cắt hàng rào gai đi bán chỉ mình Lam biết, chắc chắn được xóa sạch trong vùng ký ức.
    Lam thấy mình ứa nước mắt ra. Cười mà như khóc.
    Trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm cứu vãn ký ức của con gái, mẹ Lam đã cầu cứu gần hết đám bạn bè, đồng nghiệp của Lam. Cả bà cụ bán đậu đỏ bánh lọt ở bến đò mà Lam hay lui tới. Những kỷ niệm lạt nhách lạt nhiểu được xướng lên. Lam vẫn trơ trơ, vẫn xa vời và ngơ ngác.
    Thảm họa là mẹ Lam cũng chẳng có kỷ niệm nào hằn sâu thành vết để cùng Lam ôn lại, khơi gợi. Những chuyện Lam nhớ ghê gớm thì mẹ Lam không nhắc. Có thể nhắc làm mẹ đau. Có thể mẹ Lam không biết, hay đã quên mất rồi. Ví như bữa mẹ ném Lam lại cho ngoại, rồi đi, mẹ xuống đò không ngoái lại làm sao biết con - Lam - năm - tuổi đứng trên bến giãy khóc đến tím người. Hôm Lam nhận giấy báo vào Đại học, mẹ bận đi công vụ ở Nhật làm sao biết Lam cuồng lên vì vui.
    Lam nghe đau như tim có một vết dằm. Cái ngày (đáng lẽ có đám cưới) đã nặng nhọc trôi qua. Mẹ Lam thôi rầu rĩ, hay ủ ê cũng chán rồi. Mà, dù chưa chính thức làm thông gia với phó chủ tịch thì thâm tình cũng đã sánh như mật, công ty của mẹ Lam cũng kiếm được nhiều hợp đồng lớn nhờ mối quan hệ này.
    Lam bắt đầu nghĩ tới việc kết thúc trò chơi, bởi nó không còn gì để chờ đợi, để bất ngờ. Một bữa, vừa mở cửa, con nhỏ bán vé số thò đầu vào thầm thì, "Có ông nào đứng dòm nhà chị hoài, lạ lắm, chị ơi". Lam ngó ra, người nọ quay đi. Chỉ thấy áo jean đã bạc, chiếc nón sùm sụp trên đầu, cũng bạc.
    Hôm sau, nép sau rèm cửa, Lam lại thấy người đàn ông chần chừ trước cổng nhà mình. Chẳng làm gì hết, chỉ nhìn vậy thôi. Đôi mắt đau đáu, mênh mông. Rồi lại đi, chậm chạp như đang đeo mang một cái gì đó nặng trĩu.
    Ngày thứ ba, Lam ào ra níu tay ông ta lại khi ông định quay người bỏ chạy. Lam hỏi:
    - Chú quen ai trong nhà nầy?
    Ông không trả lời, nhìn Lam thảng thốt, nước sóng sánh trong mắt.
    - Lam hả con ? Trời ơi, con lớn bộn vầy sao?
    Rồi đọc trong mắt Lam một tia nhìn kinh ngạc, ông thất thần lùi lại, miệng lẩm bẩm, "Phải rồi, con không nhớ ... đâu". Lam nghe lẫn lộn trong câu nói đó có tiếng "ba". Và cảm giác trò chơi quên nhớ của mình sắp vào đỉnh điểm.
    Mãi sau nầy, Lam vẫn không quên được ngày mình gặp lại ba (thì ông ta xưng vậy). Vì Lam không nhớ gì (y theo kịch bản) nên không thể vồ vập mừng nhau, cả hai bối rối vì không khí ngượng ngập đặc quánh. Ba Lam ngồi nắn mãi vành nón, chỉ đôi mắt là nhìn Lam chan chứa thương yêu.
    - Hồi nhỏ, con bị cái thẹo trên trán. May thiệt, nó gần tan mất rồi...
    Lam bất giác đưa tay lên sờ chỗ bị trầy hôm trước. Bỗng thấy thắt ruột, một tuổi thơ Lam chưa hề biết mở ra từng trang, từng trang, từng trang. Hôm ấy nắng nhiều, ba bắt Lam tập lội. Lúc hai ba con nhảy từ cầu ao xuống, đụng phải cọc ngầm, trán Lam loang máu. Sợ với vết sẹo làm con lớn lên xấu xí, ba đi đào củ nghệ, giã ra, rồi đắp lên. Lần khác, ba dẫn Lam đi công viên xem voi.
    - Voi hả ba?
    - Ừ, ba Lam cười, con voi đó có ghẻ, tội nghiệp lắm.
    Lam bỗng có cảm giác mình từng đi công viên thật, và xót xa đứng nhìn con voi bị xiềng xích đang nhai mía, cái đuôi nó liên tục đuổi bầy ruồi lì lợm đang bu xèo xèo. Lam muốn tin (trọn vẹn) rằng, có lần, ba xin vải vụn may áo cho búp bê cưng bằng nhựa của Lam. Có lần, ba với Lam cùng thả diều trên cánh đồng chiều, ba nắn cho Lam con trâu đất đang ngẳn cổ ngắm mây bay ngời ngợi trên trời. Và ngày đầu tiên đến trường, ba trùm áo mưa, cõng Lam trên con đường trơn tuột...
    Như thể mình đã trải qua rồi, cảm giác ấy làm mũi Lam nóng ấm hệt máu cam đang rịn xuống. Như thể Lam chưa từng cun cút đi qua thời thơ ấu, chơi trong nhà củi, nhà xuồng của ngoại, bạn bè chỉ những con ong bầu bay tới bay lui.
    Ba đi rồi, Lam lại chui đầu vào mền, cười ha ha ha. Cười cho cái trò chơi oái oăm của mình.
    Nhưng sáng sau, khi mẹ Lam ra khỏi nhà, ngó mấy con thằn lằn chạy lăn quoăn trên trần nhà, Lam bỗng thèm người. Lam ngờ ngợ thấy dường như mình thích vai diễn mới, vai đứa con được thương yêu. Lam chạy ra cửa thì thấy người đàn ông hôm qua đứng ở đó, mỉm cười. Lam bảo:
    - Mẹ mới vừa đi.
    Ông chua xót:
    - Ừ, ba thấy... nhưng không thể gặp... Ba có lỗi nhiều lắm...
    Dường như không có thứ gì xứng đáng để trả công cho sự nghẹn ngào kia, Lam tự nhủ. Cũng chẳng thứ chi có thể đổi được những ký ức mới mà người đàn ông nầy mang lại cho mình.
    Nên một chiếc xe máy và vài triệu đồng trong tủ thì chẳng là bao, ngay khi tỉnh sau cơn mê dài, Lam đã nghĩ vậy. Mà, thằng cha đó giỏi thiệt, biết cả chuyện mình thích ăn kem, loại kem múc nước cốt dừa được kẹp giữa hai cái bánh tráng nhỏ.
    Chỉ mẹ Lam thì không được thanh thản như vậy. Mẹ ôm Lam, sững sờ nhận ra Lam tin một kẻ lừa đảo xa lạ hơn mình. Chỉ vì hắn ta mua cho Lam kem...
    - Ừ.
    Đại ca Gấu hay ngồi nhìn sông, uể oải, rã rời. Mấy đứa nhỏ trong băng lừa đảo sống dưới dạ cầu Bơ thấy cảnh đó, hỏi nhau, không biết đại ca Gấu gặp chuyện gì? Chuyện gì là chuyện gì? Chắc tại lừa con nhỏ đó dễ quá nên đại ca mất hứng. Gấu nghe, cười khào, không nói. Rồi những khi Gấu nằm một mình trên băng đá, Gấu rất nhớ một nạn nhân, một đứa con gái hồn hậu, chẳng hề e dè nhận cái kem từ tay Gấu. Và trước khi nó thiu thiu ngủ, nó mỉm cười, nhìn Gấu giễu cợt:
    - Tôi biết trong kem có - gì - đó... Nhưng sao lần nào tôi cũng phải trả giá, để được yêu thương?
    Mỗi khi nhớ lại, đại ca Gấu lại nghe sống lưng mình lạnh buốt, như thể ánh mắt ấy đau nhói, đắng đót quanh đây. Đại ca buột miệng chửi thề khi phát hiện ra, trình độ lừa đảo của mình còn tệ quá. Đến nỗi không gạt gẫm được người mà còn rước phiền phức vô mình...
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Cười 1 chút nhé
    Phải có bằng tiến sĩ đã...!
    TTC - Sau khi có dư luận ầm ĩ về truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, Hai Cù Nèo đã triệu tập Hội Bàn Lui tổ chức một cuộc hội thảo khá hoành tráng tại cánh đồng nho nhỏ.
    Nhiều tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư... có bằng hoặc sắp lấy bằng trong hội, dù đọc hay chưa đọc Cánh đồng bất tận đều hồ hởi tham dự với những tham luận dày đặc chữ nghĩa (nghe nói mỗi tham luận về Cánh đồng bất tận nếu dài bất tận sẽ có bì thư).
    Sau một buổi làm việc, tranh cãi không hề bất tận vì ai cũng có ý kiến không giống nhau, nên Hai Cù Nèo đã có kết luận sau đây:
    * Bé Tư không được viết văn nữa vì chỉ mới học lớp 11, vì chỉ có tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư mới có nhận thức nghiệp vụ chuyên môn, vì có nhận thức nghiệp vụ chuyên môn sâu, người viết mới viết được những tác phẩm tròn vo, có một chút xíu xấu, có một chút xíu tốt, ta thắng địch thua, độc giả đọc xong không cần suy nghĩ.
    * Mới học lớp 11 mà biết viết văn khiến độc giả tò mò, không thèm đọc tác phẩm của các nhà văn tiến sĩ, giáo sư nữa, sẽ tạo dư luận không tốt.
    * Nguyễn Ngọc Tư không nên đặt tựa là Cánh đồng bất tận, vì độc giả tưởng Nguyễn Ngọc Tư viết về người miền Nam và cụ thể là ở Cà Mau. Hội Bàn Lui đề nghị nên sửa tác phẩm lại là Xa lộ vô tận và lấy bối cảnh ở nước ngoài. Ông chăn vịt trở thành cao bồi chăn bò. Chiếc ghe bầu sửa lại thành chiếc xe hơi... Chỉ ở các nước đế quốc thực dân tư bản mới có cái xấu chứ Việt Nam, nhất là ở Cà Mau thì ?oEverything OK!? (Tất cả mọi thứ đều tốt đẹp!).
    * Sau cùng, Nguyễn Ngọc Tư với trình độ lớp 11 nên đi viết báo Tuổi Trẻ Cười hơn là đi viết văn, vì báo TTC chỉ là những cây bút có trình độ từ cấp 3 trở xuống. Duy chỉ có Hai Cù Nèo đang học lớp tại chức nên được làm lãnh đạo. Phiên họp của Hội Bàn Lui thành công tốt đẹp! Ai cũng thấy mình là những nhà phê bình văn học sắp nổi tiếng đến nơi.
    HAI CÙ NÈO
    (Theo TTC)
  5. trietanhhuy

    trietanhhuy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/12/2004
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Sa mưa
    Tạp văn

    Không khí ướt đầm vì mưa suốt đêm qua. Chợ xem xép nước. Người mua vắng ngắt. Kẻ bán trùm cao su im lìm như tượng trong làn mưa mờ đục. Gió như tiếng thở dài.
    Út Chín vẫn ngồi nép bên hông tường của quán cà phê, ngay đầu hẻm. Gối ép vào ngực, tay bâng quơ ngắt lá rau úa. Dáng ngồi không đổi, hệt như lần đầu tiên chị gặp nó, ở chỗ này. Chị nhớ, lúc đó, chị mừng quýnh, kêu giật giọng, ?oÊ, Út Chín!?. Con nhỏ thảng thốt quay nhìn. Và sự ngỡ ngàng, vui sướng trong mắt vụt tắt, nó cụp xuống, nói chị lầm rồi, tui không phải Út Chín.
    Không, dù con bạn bây giờ gầy gò quay quắt, dù khuôn mặt đã đen đúa sắt seo, dù nó không nhìn nhận, chị chắc chắn nó là Út Chín. Con nhỏ ở trong xóm ngoại chị ngày xưa, đã cùng chị rong ruỗi qua miền thơ dại. Đã cùng chị hái trái ô rô, đước, hái bông tra, bông ***g đèn? để chơi nhà chòi. Buổi trưa hai đứa trốn ngủ chém vè ra nhà xuồng búng thun. Có dạo hai đứa bỗng dưng mọc ghẻ, bị cạo đầu trọc lóc, cứ nhìn nhau hết khóc rồi cười. Có lần hai đứa đi kéo tép ở hào ranh sau vườn, xớn xác không thấy ổ ong đeo trên nhánh bình bát, Út Chín bị ong nghệ túa ra bu vàng đầu, chị nhào lại dìm nó xuống nước, kéo chạy lên bờ. Bứt cọng môn nước chấm vào những chỗ ong chích để lấy nọc, con bạn khóc vì đau, chị khóc, cũng vì đau.
    Làm bạn nửa chừng chị thôi ở với ngoại, về chợ. Lâu lâu cũng có người nhắc, ba Út Chín mất, sau nữa nghe Út Chín lấy chồng, rúc sâu trong đồng, trong những kinh rạch chằng chịt.
    Nhưng giờ Út Chín cúi đầu chối phắt, chị đành quay đi. Bỗng chị nhìn mình, thấy ngột ngạt vì đôi giày cao gót, quần màu kem sang trọng làm nổi bật chiếc áo hồng. Chân bước chần chừ, chị nghe loáng thoáng tiếng Út Chín, như đang phân bua với mấy chị bạn hàng, ?oem nghèo quá??. Chị nghe ruột xót cồn cào. Chị quay lại chỗ Út Chín, mua bó rau, ngỏn ngoẻn nói mình lầm. Chị săm soi chê rau xấu rau già, chị cò cưa mặc cả.
    Buộc lòng. Để Út Chín có thể còn ngồi bán ở chợ này. Để mỗi ngày, chị được nhìn thấy bạn. Để đau lòng nhận ra, nó nghèo thật, nghèo quá (Có lẽ con nhỏ vẫn nghèo y như hồi cùng chơi chung, nhưng chị thì đã khác xưa rồi). Cái áo khoác ngoài lấm lem mủ chuối, đôi bàn tay gân guốc, những đầu móng tay còi cọc đen thui vì nhựa rau muống, bàn chân nhợt nhạt, tái xanh trên đôi dép Lào mòn vẹt đằng gót. Tất cả những cái đó nói chung một thứ ngôn ngữ: ?otôi nghèo!?.
    Và trên chiếc thúng đựng rau bung vành, cái cân giá đã mòn khía? một cuộc mưu sinh tần tảo ngày ngày thầm lặng diễu qua. Nửa đầu mùa hạn thì mớ rau đắng đất, lọn rau muống chị mua còn xanh, sau đi qua Út Chín thấy mặt bạn trĩu lo âu bên mớ rau già, teo ngắt, đỏ au, nách lá ra bông. Chị biết, để tìm hái mớ rau đó, Út Chín đã rong ruỗi cả vạt đồng, tìm những đọt rau ấy mọc len trong cỏ ống, theo bờ mương, bờ ruộng đã sắp khô. Quá nửa mùa, Út Chín bán những con cá giăng lưới hay câu được, rồi sau chỉ thấy trong thau chất những con chuột đồng đã được lột da. Chị biết ao, vũng ở quê đã kiệt nước rồi.
    Điều đó có nghĩa việc kiếm sống của Út Chín nhọc nhằn hơn. Có những bữa đi làm về, chị thấy nhỏ bạn vẫn còn nấn ná bên mớ bắp chuối, năm ba trái bình bát chín dưới nắng trưa đổ lửa. Chợ tan rồi. Mà chị thì chẳng thể làm gì, chỉ có thể diễn mặt lạnh tanh, nhón ngón tay lăn tới lui mấy cái bắp chuối con con. Thoáng thấy cái nhìn tần ngần, day dứt, lầm lũi của bạn, chị bấm bụng hỏi, ?oBớt không? Năm bắp bốn ngàn nghen??
    Rồi mùa hạn nặng nề đi qua. Sớm nay sa mưa. Chị xách giỏ qua chợ, ngó Út Chín bỗng nhớ nao nao Út Chín. Nhớ cũng quãng này, hai mươi năm trước, chị với Út Chín rủ nhau đi mò rau muống chìm đìa, những cọng rau nằm dán dưới đáy ao, nước lên rau cũng cố vượt lên theo, cọng non nhuốt, trụi trơ. Nhớ hai đứa đi chận bắt những con cá rô ốm nhằng mình đầy nhớt đi loắn quắn trên liếp chuối. Nhớ cùng nhau đi bắt ốc lát trên đồng, ướt đầm đìa dưới mưa nhưng nụ cười vẫn nhoẻn ra trên đôi môi tái nhợt, cái cười ấm như than đang bắt lửa?
    Sớm nay, vẫn dầm chung cơn mưa, nhưng chỉ thấy trong nhau những bẽ bàng. Có một khoảng cách vô hình không với tới được?
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Sống đầy
    Tạp văn
    Nguyễn Ngọc Tư

    Đề tài trong buổi cà phê sớm nay là một người bạn ở Thới Bình vừa mới bị tai nạn giao thông. Chị ấy giờ nằm im re một chỗ do chấn thương cột sống. Sẽ bình phục, có điều hơi lâu, bác sỹ nói chừng ba tháng mới mong ngồi dậy. Mọi người tần ngần nói, kiểu này chắc phải tổ chức đoàn đi thăm.
    Trong đám người, chỉ tôi là chưa biết chị nhiều. May mắn, nghe tên chị, tôi cũng nhớ được người phụ nữ nhỏ nhắn, gò má hơi cao, da ngăm ngăm, tóc ngắn, hay cười. Thấy loáng thoáng đôi ba lần, tôi và chị chỉ kịp gật đầu chào rồi thì chìm lịm trong không khí đám tiệc, hội họp. Kiểu đó thì có gặp nhau hàng trăm lần cũng không gọi là gặp.
    Anh họa sỹ thì khác, dù bốn năm rồi chưa chào chị nhưng anh đã ?ogặp? trong ký ức của mình. Lần đó anh về Thới Bình tổ chức triển lãm, chị đi te te qua, phụ giúp anh treo tranh xong, quây quần ngay tại phòng tranh nhậu tưng bừng. Tối mịt chị mới ngẩn ngơ, ?oHồi sáng nhỏ em dâu nhắn về bên má chế ăn bánh xèo, nhưng nghe em tới Thới Bình không lẽ chế để em một mình??. Nhắc kỷ niệm đã xa thẳm hơn một ngàn ngày mà giọng anh họa sỹ vẫn còn xao xuyến, ?obà chế đó chơi dễ thương quá chừng?.
    Giới văn nghệ sỹ hay chia ra hai dạng người, hoặc chơi được, hoặc không. Và chị thuộc hàng ?ochơi được?. Khách tới, ngay lập tức sẽ được thưởng thức những gì quý nhất, ngon nhất của nhà chị. Trong lòng Một - phóng viên, là hình ảnh chị giăng mùng sẵn rồi ngồi đợi cửa mỗi khi nó về Thới Bình săn tin. Sáng sau mới mở con mắt ra, Một đã thấy chị dọn nồi cháo trắng với ơ cá bống kho còn nghi ngút khói. Với Hai, đạo diễn phim tài liệu, cái tên chị đi kèm với mùi? mắm lóc dậy động cả góc lòng. Chị làm mắm khéo, con cá chắc nụi, từng thớ thịt đỏ au được bọc bởi một lớp thính gạo thơm lựng. Thứ mắm này đem chiên không bị vỡ ra, chỉ khi ta đụng đũa vào mới biết nó đã mềm rục từ hồi nào. Biết Hai ưa mắm chết bỏ không thôi, chị hay gởi cho. Những bữa đi làm về, thấy gói mắm lóc treo ngoài cửa, Hai biết chị từ Thới Bình lên, có ghé qua nhà.
    Cứ vậy, mỗi người góp một vài câu, họ lục lọi trong miền nhớ những câu chuyện hết sức ngộ nghĩnh. Nhân vật chính vẫn là chị. Nhan sắc chẳng phải là mặn mà lắm, chức vụ cũng lèng èng ở một phòng ban cấp huyện, nhưng chị lại làm người ta nhớ lâu. Ba, phóng viên của Đài truyền hình tỉnh kể, ?oHồi còn làm lính của chị ở Thới Bình, có một lần tui nhậu say quá trời đất, không thèm đi trên đường, tui nhảy xuống lội sông về nhà, tội bà chế, cũng nhào xuống nước bơi theo, sợ tui chết chìm. Vừa lội bì bỏm, vừa chửi, vậy mà gần một cây số tui mới chịu leo lên bờ?.
    Theo Mười, nhà văn, thì chị đã nghĩa khí từ hồi nhỏ. Từ nhà tới trường ngót năm cây số, Mười với chị học cùng nhau. Những bữa ba chị tan sở, gặp hai đứa dọc đường, ba chị rề lại biểu chị lên xe đạp ba chở về. Chị lắc đầu, ?oBa để con đi bộ với nhỏ Mười cho vui?. Nhà chị khá giả, Mười thì nghèo, nhưng đi chơi chung, không bao giờ chị mặc áo đẹp hơn, chạy xe sang trọng hơn. Lớn hơn một chút, chị cũng để Mười có người yêu trước, chị mới chịu? yêu. Vụ va quẹt vừa rồi Mười đi chung chị, hai đứa té văng hai nơi, chị quýnh quáng biểu người đi đường, ?oLại đỡ cho nhỏ đó dùm, khỏi lo cho tui??. Rốt cuộc, Mười chỉ trầy xước sơ sơ, còn chị đau nặng. Chuyển qua ba bảy bệnh viện. Cuối cùng chị được về nhà. Mười có tới thăm rồi, kể, trên giường bệnh có tới hai điện thoại, một chồng hồ sơ giấy tờ cao ngệu, chị nằm ở đó mà điều hành công việc ở cơ quan gọn hơ. Còn viết được hai kịch bản ngắn để chuẩn bị cho hội diễn sân khấu quần chúng. Mười nói, chỉ thiếu cái máy vi tính (treo đòng đưa) trước mặt nữa thôi, chị đã biến cái giường gầm chân cầu thang ấy thành? phòng làm việc. ?oNgười gì, hễ làm là quăng nguyên con vô, làm bất kể chết?, Mười chặc lưỡi, giọng như khen ngợi, như than thở cho con bạn. Lại như so bì, bởi ít ai được như chị, chơi hết mình, làm hết mình.
    Và sống hết mình. Thời gian của chị vì thế rất đầy. Lòng chị cũng đầy vì chật chội những yêu thương, cả đời làm người gieo hạt mà không quan tâm mình có gặt hái được không. Tôi chợt nghĩ, chắc chị chẳng bao giờ chào đón ngày mới bằng tâm trạng sợ hãi, chán chường. Chắc chị chẳng bao giờ tiếc nuối, than vãn khi ngày đi qua, tuổi đi qua.
    Dứt khoát đi Thới Bình thăm chị, đám người kết luận ngay khi tan buổi cà phê sáng. Tôi cũng đi. Và tôi nghĩ tới chuyến đi ấy bằng một nỗi xốn xang, như thể chị với tôi đã thân thiết tự hồi nào.
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Về dư luận truyện ngắn Dòng sông tật nguyền giống với Cánh đồng bất tận, Tác giả phạm thanh khương:
    Ở đời, trùng hợp ngẫu nhiên cũng bình thường
    Truyện ngắn Dòng sông tật nguyền của tác giả Phạm Thanh Khương đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số gộp (643-644) tháng 4-2006, có cốt truyện và nhiều chi tiết, tình tiết thậm chí cả lối viết, văn phong rất giống truyện ngắn Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
    Phóng viên Báo Người Lao Động đã trực tiếp phỏng vấn tác giả Phạm Thanh Khương tại nhà riêng của anh trong con hẻm nhỏ trên đường Ngô Gia Tự (Q. Long Biên-TP Hà Nội), về cái sự giống nhau lạ thường này.
    . Phóng viên: Thưa anh, anh có nghe dư luận gần đây nói nhiều về truyện ngắn Dòng sông tật nguyền của anh giống với Cánh đồng bất tận?
    - Tác giả Phạm Thanh Khương: Tôi có nghe, đặc biệt là sau khi truyện của tôi in xong. Tôi có bảo một cậu phóng viên của tôi đi mua cho tôi tập ?oCánh đồng bất tận? của Nguyễn Ngọc Tư.
    . Ồ, thế có nghĩa anh chưa từng đọc Cánh đồng bất tận cho đến khi có dư luận?
    - Đúng vậy.
    . Nhưng Cánh đồng bất tận nổi tiếng trên văn đàn và đã có nhiều sóng gió xung quanh truyện ngắn này. Là một người viết, không lẽ anh không quan tâm?
    - Tôi đã 50 tuổi, ?ongũ thập nhi tri thiên mệnh?, tôi không quan tâm lắm những điều ồn ã xung quanh. Dư luận xung quanh Cánh đồng bất tận tôi có nghe, nhưng tôi chưa có thời gian đọc nó cho đến khi...
    . Và bây giờ thì chắc anh đã đọc. Anh thấy dư luận có nói về sự ?otrùng hợp ngẫu nhiên?, có bạn đọc đã không ngần ngại nói ?orất giống? trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tôi nghĩ, anh là người biết rất rõ nó giống hay không giống, và giống thì giống như thế nào. Anh nói gì về điều này?
    - Tôi thừa nhận, có một số điểm trùng hợp. Tôi nghĩ ở đời, những sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhiều ý tưởng giống nhau cũng bình thường. Và tôi nghĩ rằng, trong cuộc đời không chỉ có một con người, một số phận như trong truyện ?oCánh đồng bất tận? của Nguyễn Ngọc Tư.
    . Thế truyện Dòng sông tật nguyền của anh có lấy từ một nguyên mẫu nào đó ngoài đời không?
    - Nguyên mẫu đó chính là tôi, tôi chính là con trai ông thuyền chài ấy. Cuộc đời của tôi kể ra cũng "ba chìm bảy nổi" mới có ngày hôm nay. Trong truyện, gần như 1/3 là cuộc đời thực của tôi, thời niên thiếu lênh đênh sông nước của tôi.
    . Anh giống với cô gái trong truyện Cánh đồng bất tận ư? Tôi nói thật, cuộc đời của người cha nhặt được vợ trên sông rồi vợ ngoại tình và bỏ đi. Người cha từ đó hận đời, nếu nhặt những người đàn bà, một thời gian lại vứt lên bờ. Và người con gái lênh đênh cùng cha, quăng quật với sóng nước nhìn thấy cảnh mẹ... rồi cuối truyện cũng bị bọn đánh dậm cưỡng hiếp, nó giống Cánh đồng bất tận lắm...
    - Thế thì chắc bạn chưa đọc nhiều truyện ngắn của tôi, tôi có hẳn cả một vệt truyện ngắn về làng chài và đây là một trong những truyện tôi tâm đắc nhất. Những tình tiết trong truyện của tôi thực ra không giống lắm với Cánh đồng bất tận. Chi tiết cuối truyện, thực ra tôi đã manh nha từ đầu truyện sau đó tôi lấy lại, bắt đầu bằng việc có thằng bé leo cây và bị ngã xuống sông, sau đó, cô bé nhận ra cái gương mặt ấy...
    . Kể cả nhân vật cô Hến, xuất hiện và lênh đênh cũng với người đàn ông ấy, cũng giống với người đàn bà lạ trong Cánh đồng bất tận. Một nhà phê bình văn học từng nhận xét, nhân vật cô Hến anh xử lý hơi non và gượng gạo so với Cánh đồng bất tận và đoạn kết anh thêm vào mấy câu hơi... sến?
    - Cho tôi gởi lời cám ơn người nhận xét. Bạn đọc có quyền hiểu, có quyền không hiểu. Còn phần cuối, tôi định kết thúc truyện khi cô bé dạt vào mo cá. Tôi đưa cho một người bạn đọc thì anh bảo nếu kết như thế thì tàn nhẫn quá, và để như thế thì cuộc đời quả là buồn. Tôi muốn nhìn đời sáng hơn, khổ thế chứ khổ nữa con người vẫn phải sống, vẫn phải tồn tại. Còn có một chi tiết mà người ta bảo giống Cánh đồng bất tận là chi tiết cô con gái lần đầu tiên ?ođến tháng? lúng túng không biết làm sao. Thực ra, tôi không biết truyện của Ngọc Tư viết bao giờ chứ một truyện tôi viết đã lâu là Khơ chìa và một bài bút ký Người thầy giáo nơi thượng nguồn sông Mã tôi đã từng sử dụng chi tiết này.
    . Có mỗi một chi tiết mà anh sử dụng nó đến những ba tác phẩm!
    - Tôi nghĩ, một sự việc diễn ra trong những khoảnh khắc khác nhau chắc nó sẽ khác nhau. Một chi tiết cũng vậy.
    . Anh nói thế thì bạn đọc cũng có thể hiểu, nhân vật trong Dòng sông tật nguyền của anh dù có số phận giống nhưng vì nó ở mùa đông miền Bắc và làm nghề chài lưới nên không phải là cha con ông chăn vịt ở mùa khô hạn Nam Bộ sao?
    - Tôi trân trọng bạn đọc. Bạn đọc muốn hiểu thế nào thì hiểu, đó là quyền của họ. Nhưng tôi muốn nói, khi đọc một truyện hãy nên hiểu hoàn cảnh, xuất xứ của truyện đó.
    . Truyện này anh viết lâu chưa, và khi viết anh có đưa cho nhiều người đọc không? Anh có sửa lại nhiều không, trước khi gởi đăng báo?
    - Tôi viết ở Đại Lải từ tháng 4-2005. Trong quá trình viết tôi rất khó tính, tôi có sửa đi sửa lại nhiều lần rồi đưa cho bạn bè đọc, rồi gởi báo. Hình như mỗi truyện của tôi phải hơn 20 người đọc không có ý kiến gì ghê gớm tôi mới đưa đi gởi báo. Tôi gởi truyện này cho tạp chí Văn nghệ Quân đội ngoài Tết vừa rồi và tháng 4-2006 mới in.
    . Đồng nghiệp, bạn bè của anh, lúc đó họ có nói là truyện hao hao một truyện nào đó không?
    - Không, không thấy ai nói gì cả. Chỉ sau này in ra báo mới có dư luận.
    . Anh có chơi thân và hay đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không?
    - Tôi biết, nhưng chưa gặp. Tôi quý tất cả những gì các tác giả viết ra chứ không riêng gì truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
    . Là một người cầm bút vừa viết văn lại vừa viết báo, khi có dư luận (công khai trên báo chí) về việc ?otrùng hợp ngẫu nhiên? ấy, anh có thấy buồn không?
    - Không, tôi chẳng có gì phải buồn, tôi rất bình tĩnh. Thói thường ở đời, "văn mình, vợ người" mà. Tôi nghĩ không nên hoắng lên như thế, tôi không thích. Tôi không cần sự ầm ĩ để đánh bóng mình.
    Được hoangvan09 sửa chữa / chuyển vào 21:15 ngày 27/06/2006
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Ai có truyện ngắn Dòng sông tật nguyền của PTK thì quẳng lên đay cho anh em đọc và phán xét chút nhé.
  9. giakhoi

    giakhoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2005
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    Link ne: http://www.nld.com.vn/tintuc/van-hoa/truyen-ngan/155668.asp
    Dòng sông tật nguyền (Truyện ngắn dự thi Phạm Thanh Khương)
    27-06-2006 00:57:55 GMT +7
    l - Bây giờ đang là cuối đông, những trận gió mùa tràn về dứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân trân chịu trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng quanh năm suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy cái rễ trót mọc lồi lên trên mặt đất.
    Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham nhở, nhầy nhụa, lở loét, khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày mưa không một ai dám đặt chân vào, đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng mương nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió loang xa cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống sông, hòa vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày như thế, cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi lửa nấu cơm.
    Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ trẻ trâu tóc cháy đỏ hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá bẻ hoa, lần theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Đôi khi lũ trẻ nhoai người hái bàng chín, gặp phải cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi, máu miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện phía bên kia bờ là bến nhà tôi, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi sau mỗi lần đi xa về.
    Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra chả của ai cả, chẳng qua là thuyền nhà tôi thường về đậu ở khúc sông này, lâu ngày thành quen rồi tiện mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi không thể nào nhớ nổi tôi đã đi bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà người ta cứ cho đó là vựa thóc của đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhà tôi.
    Bản thân tôi cũng không có nơi sinh chứ nói gì chỗ cắm sào là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi tôi nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu không nó thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy, nếu ông đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi bụi, còn đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc nhổ quá bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ.
    Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu đi ăn đêm, và khi người khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì cũng khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ đoạn hay phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy không ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày mau không dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi kích điện, đánh mìn, hóa chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu quả về sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công nghiệp chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ mộng cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một màu đùng đục xam xám đen tang tóc. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng nhung nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn ướt đầm phải lên mui mới ngủ được, còn bay giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con.
    Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho nấu cá bao giờ cha tôi cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi rằng, ở đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử, không đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua là do ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như những người khác nên thế thôi. Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá ông thích nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu kỳ phức tạp, người làm cá chỉ mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp cho lên bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá kho còn nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước mắm đầu nong đầu nia, nước mắm cất. Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông chỉ ăn một bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai. Có một lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn thấy, ông chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo tôi là đồ khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những gì ông không thích, những khi ông bực, ông lại chửi tôi như thế. Lúc ấy tôi rất sợ, nghe giọng ông chửi, tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run bần bật, không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay tôi lại.
    Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói như giao hẹn:
    - Sáng mai nhổ neo, liều liệu tính toán cơm nước mà đi sớm - Ông lầm bầm - Cứ thế này rồi không có cả *** mà đổ vào miệng.
    Chả cần biết mọi người có nghe thủng việc không, ông lấy vò rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi chui vào khoang thuyền trải chiếu nằm ngủ.
    Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm theo, không đám ho he gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ bằng sắt tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay mọi người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên.
    Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại có ba người. Tôi, cha tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi đã bỏ dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Việc bà bỏ tôi và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ đi, cứ uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng tôi biết, người ông nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được ông nhặt lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ ở khúc nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có thể nhặt được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo đi, người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày cũng bị ông vứt trả lại bờ không thương tiếc.
    Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc lên cái cọc cắm ở đầu thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn bây giờ, tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không được làm. Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi cơn. Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong nồi, rổ rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo tiếng đồ vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm nào cô Hến chứ không vô chủ như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa.
    - Đồ ngu, nhóm bếp thế thằng ****** ngủ được à. Không biết làm sao gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao?
    Khốn nạn. Sự khốn nạn đến tận cùng, nhưng người đàn bà cha tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn nhịn chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng lẽ lấy vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái không bao giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ cái đạp lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dỡ công việc len lén tụt xuống kéo cô lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn ngủ tiếp. Cô Hến không biết rằng, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một phía mũi, một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc làm mất giác. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để cho thuyền ngược hướng gió thì khói mới không vào khoang.
    Vì không biết nên cô Hến đã để khói bay vào khoang, mà khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột. Bài học vỡ lòng đời thuyền không xong chắc không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người đàn bà khác.
  10. giakhoi

    giakhoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2005
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    tiep ne:
    2 - Những người đàn bà đi qua cuộc đời cha tôi đều là những người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ nhữmg chuyến đi kiếm ăn lênh đênh sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người ông nhặt được từ một mó bỏ mồi cá.
    Người làm nghề chài lưới trên sông không phải ai cũng có nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng. Có người cả đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có người quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi, cả đời chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là nghề vất vả nhất.
    Người làm nghề chài mò phải có sức khỏe, khả năng lặn sâu, lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khỏe làm nghề này rất nguy hiểm đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao vào, hôm trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường phải từ hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng chân dận cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm nhanh nếu không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không sao, người nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi, nếu ai chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết.
    Trước đó, người đánh phải lặn xuống sông lấy tay hoặc chân gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu (gọi là mó) khoảng hai mươi đến ba mươi phân, rộng bằng cái thúng lồi bỏ mồi vào. Mồi để đánh thường làm bằng cám rang, trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào cào châu chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người la lại đem trộn với bùn rắn hoặc đất thật cho thịt nhuyễn rồi chia ra thành nhiều phần, mồi phần to bằng cái ấm chuyên pha trà bỏ xuống một mó. Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm mồi thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào không muốn đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc. Những lần như thế ông thường chửi tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào đấy làm công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá chép sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Mồi gì thì mồi, có làm thơm đến đâu mà không trộn phân tươi là không hấp dẫn được nó.
    Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét nhiều hơn, cá mú dường như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Âëy là theo cha tôi nói thế chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống cạn bát nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng lý phải quăng chài bẩy, nghĩa là chài dài sải ba (bẩy thước bắc bộ, mỗi thước bốn mươi phân, chài bẩy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì chài chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng chài xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay. Sau khi lặn dận chân giềng ông có cảm giác không có cá, vì như mỗi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào cũng chạm cá sao ra. Giống ca chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép mình vào đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá khỏi ra ngoài và cũng là để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã có các túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là thói quen chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự chui đầu vào chỗ cho người làm thịt.
    Linh tính mách bảo thế nào, nếu như mọi lần, sau khi lặn dận chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi cho cá rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả một vòng chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm tra mó mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn trong mó. Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân vào vai, đầu chúc xuống đó chạy huỳnh huỵch mấy vòng.
    Tuổi thơ của tôi là những ngày lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó cá không bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng thuyền là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của bầy cá trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó như thế nào không rõ nhưng mỗi khi như thế tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu. Năm tôi lên bảy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha.
    - Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi đấy, ông xem gửi con vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ, nó lại oán trách sau này.
    Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu, cha bảo, giọng rít qua kẽ răng.
    - Thằng bố nó không học có chết đâu, vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có chữ chưa thấy ai chết bao giờ.
    Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như hoa bỗng xịu xuống chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải đi học tôi càng thích. Tôi nhảy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm xuống nước, lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước cuốn chặt lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo.
    Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn ra. Sáng mẹ lấy vợt xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu đèn và các thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ mó, đợi khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ nhàng lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền cách mó bỏ mồi chừng sải tay, mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn người về sau rồi cũng rất điệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt sóng, đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã bỏ mồi. Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng ấy lũ cá trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha. Trong khi chân giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa đông, cha bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá ông lao xuống sông. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong bùn khi đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước.
    Mỗi lần quăng như thế cha thường phải lặn lên lặn xuống từ năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có nhiều tăm ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần nước lấp sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Và tôi phải lên trên mui ngủ, còn cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh bếp để sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì làm nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ thịt căng đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm tháng làm nghề chài mò lép dần, lép dần không gì níu giữ được.
    con nua...

Chia sẻ trang này