1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 09/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Đi Qua Những Cơn Bão Khô
    NHỮNG NGƯỜI "ĐI BIỂN TRÊN CON THUYỀN RÁCH NÁT?"
    Nhà anh Nguyễn Văn Lập bên kinh Xóm Cống, Ấp 7, An Xuyên. Gió ***g lộng thốc vào, vách lá rách tả tơi, ngửa cổ thấy lốm đốm trời. Coi kỹ, chỉ có bộ ván đằng trước, chỗ dùng để tiếp khách là lành lặn. Chị vợ áy náy vì nỗi nghèo của mình nên bối rối phân trần, "Tính nuôi vịt để cất lại cái nhà ?". Hành trình từ cái nghèo vừa vừa đến nghèo xác xơ nhanh như một cơn mơ, một cơn gió, một cái phủi tay... Không đất để thế chấp vay vốn ngân hàng, phải vay nóng của hàng xóm, từ hơn trăm con, anh gầy dựng được 700 vịt thịt. Dịch cúm gia cầm ập đến, đàn vịt của anh bị tiêu huỷ sau Tết. Bây giờ anh xuống kinh giăng lưới bắt cá phi, cá chốt bán kiếm tiền mua gạo, nuôi hai đứa con thơ. Cái đói nghèo làm cho đôi tay anh quen để ngửa trên đầu gối, đôi tay trắng như xương ở tuổi gần bốn mươi. Anh cười buồn, "người ta hay nói, thiếu nợ thì bán nhà trả, mà nhà tôi bán cũng hỏng ai mua". "Bây giờ chợp mắt là thấy bầy vịt, lồm cồm bò dậy thì nhớ tới nợ nần tứ giăng, thiệt, chị vợ chắc lưỡi, khổ hỏng biết sao mà nói?"
    Xa về phía Nam thành phố Cà Mau, bên chân cây cầu Lung Dừa, xã Lý Văn Lâm, là nhà anh Ngô Văn Hoàng. Hồi mới ra riêng, anh sắm đôi trâu, mọi người gọi Hoàng "trâu", sau này bán trâu rồi, bà con kêu Hoàng "vịt". Dịch cúm tới khi đàn vịt gần 1500 con của anh vừa bắt đầu đẻ trứng so, khi chúng đã ăn phăng trăm ngoài giạ lúa mùa rồi, khi nợ ngân hàng, nợ vay nóng mới trả được năm ba kỳ lãi? Sáng hôm đoàn công tác chống dịch đem chúng đi chôn, chị Quyên, vợ anh Hoàng còn đem mấy bao lúa ra cho ăn, "Mình cùm nụm cùm nịu tụi nó bốn tháng trời, cực khổ biết bao nhiêu, mến tay mến chưn, hỏng nỡ để tụi nó chết đói ", chị bảo. Hố chôn đàn vịt nằm trên cánh đồng sau nhà, "nhưng tới bây giờ tui không dám ra đó, thấy rồi mắc buồn thêm". "Tui mới tính với anh Hoàng, chắc là mơi mốt tha mấy đứa nhỏ về dưới ngoại (Khánh Hải, Trần Văn Thời) phụ làm đìa, kiếm cá nhận mắm chỡ về bán. Rồi chờ mùa lúa tới".
    Mà, mùa tới còn xa, xa lắm.
    Bây giờ vẫn còn nắng chang chang như vầy, những cơn nắng làm mùa hạn bất thường thêm lên. Chẳng có một cơn gió nào, ngọn cây so đũa đứng trân nhưng người ta vẫn cảm giác đâu đây sót những cơn bão rớt. Đã hơn một tháng kể từ UBND tỉnh cà Mau ra công bố dịch cúm gia cầm (2/2/2004), nỗi buồn ủ ê của những người chịu ảnh hưởng của dịch đã bị nắng sắc lại, mặn chát. Những cánh đồng trơ rạ, những dòng kinh không đàn vịt nào cầm ở đấy, những tiếng gà eo óc lạc lõng xa xa. Tôi nhận ra rằng chẳng phải người có vịt, gà bị tiêu huỷ nhiều thì buồn hơn người ít, bởi mỗi người cảnh, những nỗi buồn cũng lớn lao như nhau. Với tổng số gà và vịt 267813 con bị tiêu huỷ, vùi theo đó bao nhiêu là kỳ vọng, là ước mơ, là khao khát đổi đời.
    Nhưng vợ chồng anh Hoàng còn hy vọng, còn có thể sống lay lắt chờ mùa lúa tới, còn ở những vùng chuyển dịch, bà con nông dân đang trong thế bị khó khăn vây kín.
    Chẳng ầm ỉ, bạo hát bạo tàn như dịch cúm gia cầm, cơn "bão tôm" từ tốn, lặng lẽ, mà mà bào mòn sức chịu đựng của con người. Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà Mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo. Thím Hai ở Ấp 7, An Xuyên ngao ngán, "Mấy ông nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng nên sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy". Nguyên một xóm kinh này ba năm rồi không trúng một vụ tôm nào.
    - Mà, nhà nào hồi đó dẫn nước mặn vô trước nhứt, bây giờ lại sống khổ nhứt, làm như trời trả báo mình vậy, cô ơi.
    Nhà thím cũng vừa bị tiêu huỷ 4375 con vịt trong dịch cúm gia cầm, vừa thất thần lo nợ ngân hàng vừa phải chạy gạo ăn. "Cái hồi làm lúa không khổ cùng khổ tận vầy đâu, cô. Bây giờ hỏi nhà nào ở xóm này mà không mua gạo chịu chỗ thím Sáu Đức, ai mà hỏng vay tiền của thím í". Lúc này, cái "ngân hàng? xóm" ấy đang ngóng lại đằng xã, coi trên có rót tiền hỗ trợ cho mấy hộ bị thiệt hại sau cúm gà chưa, hòng gỡ lại chút đỉnh, chứ nợ của các chủ vuông tôm, ắp lẫm rồi, mong gì ?
    "Mới đầu, thấy tôm chết, mấy ông nhà nước còn lo lăng xăng, mà lúc này làm như mấy ổng quên mất biệt luôn, hay là lo hỏng nổi nữa, hả cô ?", Thím Hai ngừng võng, hỏi tôi. Rồi thím chỉ nhà anh Chín Đo đằng xóm, đất ít, tôm lại chết, năm sáu nhân khẩu sống nhờ cái vó cất rong rêu dưới kinh. Có bữa nữa đêm, ngủ không được, anh Chín la lớn, "Nghèo sao mà nghèo dữ vậy trời!" làm chị vợ quýnh quáng, tưởng chồng đau ở đâu. Tiếng kêu thảng thốt nghe như tiếng thở dài vỡ ra của một đời người, nghe buồn lặng, buồn sâu.
    An Xuyên có hơn một nửa diện tích dẫn mặn nuôi tôm. Đây là những vùng chuyển đổi cơ cấu tự phát, nhà nước không quy hoạch. "Vụ tôm đầu trúng dữ lắm nghen cô, ai mà ngờ nó làm theo kiểu mấy thằng chim mồi cờ bạc, dụ người ta nhảy vô rồi, nó "chơi" mình sát rạt", anh Hai Sỹ ở Ấp 2, An Xuyên ấm ức. Nhà anh có gần 2 ha đất, "nhưng vuông làm không đủ ăn, phải kiếm tiền bằng nghề làm bún, ở xóm này, đất của bà con còn ít hơn của tui, nếu không có nghề khác đành chịu chết, muốn làm mướn cũng hỏng ai chịu mướn, tôm chết trắng dờ con mắt rồi, mướn làm gì bây giờ, tiền đâu ? ?". Chị Út Nhiễm ở gần đó đã hai mùa "buông xụi" sáu công đất nhà qua Tân Thuộc gặt mướn. "Hồi lúc làm ruộng tui cũng nghèo, nhưng có lúa ăn cũng vũng bụng, Chị kể, bây giờ phải đi gặt để chạy gạo. Nhiều lúc nghỉ tay ngồi ăn cơm giữa đồng, tự nhiên hai vợ chồng tui thấy buồn quá chừng, ổng buông đũa ngang xương, ổng nói, đáng lẽ giờ này mình đang gặt trên đất nhà mình, bà ha"
    Và ký ức vẫn còn tươi thơm những bụi rạ trên đồng, những đụn rơm cao ngệu cạnh hàng cây bình bát. Những đệm lúa được trải phơi vàng trên mảnh sân nhỏ trước nhà? Xóm của chị Nhiễm nằm bên quốc lộ 63, hồi còn đi học, tôi và bạn bè vẫn thường đạp xe ra đó chơi, ngắm mê mãi những ngôi nhà gỗ nằm lẩn khuất trong màu xanh sẫm của vườn chiều. Những bờ đất cây trái lúc lỉu. Những bông rau muống tím biếc trổ trên mặt kinh. Bây giờ đi ngang qua đó, người ta thấy nhiều ngôi nhà tường mới xây, mái lợp tone giả ngói, đỏ au au bật lên trên mảnh vườn xơ xác. Nhưng bên trong vẻ hào nhoáng đó là một nỗi đau, anh Hai Sỹ bảo "Cô kiếm được người nào nhờ trúng tôm mà xây nhà chém chết tui cũng chịu, họ bán đất đó cô ơi?". Cắt bán một mảng đất, với người nông dân, là chặt lìa một phần thân thể nào đó của mình.
    Ít nhiều, người dân An Xuyên bắt đầu thấm thía hai từ "trả giá" cho việc "dẫn mặn về giày? cây lúa". Bà con chịu là lỗi tại mình nhưng cũng có ý trách các cơ quan báo đài. "Mấy ổng lên đài toàn là cảnh trúng tôm, rồi nói nhờ tôm nên người ta đổi đời này nọ. Nghe nói giàu, hỏi cô, ai không ham, ai không chạy theo? ?", thím Hai hỏi. Tôi hơi giật mình. Có những tựa bài đọc nghe kêu, đại loại như "K.B được mùa tôm"nhưng đọc kỹ thì chỉ vài ba hộ trúng. Đại loại như "L.V.L thành công với mô hình trồng rau sạch" thực tế việc đó chỉ ở một đoạn xóm trong ấp Lung Dừa (mà cũng chẳng nhắc tới chuyện bà con trồng rau sạch nhưng phải bán giá "bèo" như rau chẳng sạch ). Đại loại như "L.T. T đi lên nhờ vụ lúa - vụ tôm" nhưng mô hình chỉ thành công ở một vài ấp như Tân Hòa? Ba tôi ấm ức, "Ở Bộ Tời, Bộ Phát dài vô Sở Tại cũng thuộc Lương Thế Trân mà thì lúa chết non, tôm chết láng?". Đây vùng nhà nước quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nhưng cũng "thất trận"? tôm tơi bời. Đã thử làm vụ lúa, vụ tôm, đã đổi hết thuốc này, vôi khác? Đã vái đủ bốn phương tám hướng, cầu xin trời đất, hồi đầu cúng vuông bằng đầu heo, tôm chết, cúng hột vịt lộn, tôm vẫn lụi đầu, có người bắt chó làm thịt cúng (cúng chó tức là "có trúng"). Chẳng biết ai đầu tiên phát minh ra cách cúng này, nhưng nghe buồn cười đến rơi nước mắt. Hay là đã tuyệt vọng lắm rồi, kiếm chuyện gì đó lạ đời để làm chơi, hay là nhà không còn gì ăn nên bày ra vụ cúng này, hay là tiện đấy để ? nhậu đỡ buồn. Vừa qua, bà con ăn một cái Tết "xo cò", có nhà, hết năm rồi mà không có được một trăm ngàn trong túi để lấy may cho năm tới. Làng xóm buồn thiu, cái buồn nghèo đóng rong đóng rêu sang cả đám gã, đám giỗ? Dịp để hàng xóm láng giềng họp lại, hát hò, nhậu nhẹt xôm tụ nay gặp nhau chỉ mông mênh những tiếng thở dài. Thở dài vì vuông chẳng thấy con tôm nào. Thở dài vì cá phi cũng hỏng có mà giăng lưới kho quẹt ăn. Thở dài vì con nước tháng hai cạn queo mà xăng lên giá sáu ngàn mốt rồi, sao có tiền mà xuống máy tát nước đây ?
    Mà đâu chỉ xăng lên giá, bà con ở vùng ngọt cũng khốn khổ vì giá phân bón tăng mạnh từ cuối năm ngoái. "Lúa lên giá một, phân vọt lên mười", Nghĩa, thằng bạn hồi tiểu học của tôi nhăn nhó như đau ruột thừa, than. Nghĩa có một mảnh đất trồng rau ở xã Tân Thành, nuôi một vợ với đám con ba đứa cao thấp gần bằng chang nhau. Cái khuôn mặt thiên thần của nó hồi lớp hai lớp ba bây giờ nhăn nhúm như đít trái dừa khô. Hôm tôi ghé, nó còn mắc vục đầu xuống ao múc đôi thùng nước. Sau Tết, rau quả lên giá, nó tính đợt rau muống Tàu này dư ra ít đỉnh để sắm cái moteur điện, đứng ưỡn lưng ra mà xịt xịt cho sướng. Nhưng rồi phân bón, gạo, cá, tiêu tỏi cái gì giá cũng tăng, nó đành chịu trận? Dẫn xe ra sân về, nghe thằng con nó méc, "Cha ơi thằng Sang nó đái vô cây ớt, cây ớt chết queo rồi". Tôi nghe thằng Nghĩa rên lên, "trời ơi". Tôi biết nó buồn.
    Hôm trước, tôi đọc một phát biểu của một quan chức Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn rằng "nông dân Việt Nam như những người đi biển trên chiếc thuyền rách nát", tôi vỗ đùi khen, cha chả, ông này không biết có viết văn không, sao mà ví von hay quá chừng. Hay. Và chính xác. Nhất là khi dịch cúm gia cầm đi qua như một cơn bão khô, người nông dân đau xót mà không khỏi ngơ ngác. Ngơ ngác đến lặng đi. Nhiều người đặt ra câu hỏi, "chừng nào mới có bảo hiểm những rủi ro cho nông dân, tại sao người nông dân lại là người thiệt thòi, người chịu nhiều tác động của cuộc sống nhất ?". Đặt ra vậy thôi, thấy xót ruột quá thì hỏi vậy chứ câu trả lời này chưa có. Nên bà con nghèo hoài, nghèo không phải vì bê trễ làm ăn, không phải vì đánh bài đánh số, mê ăn nhậu, nghèo chỉ vì những rủi ro không lường trước. Nghèo vì mình là nông dân.
    MÓN "HY VỌNG" ĐÃ HÂM NHIỀU LỬA?
    Khi tôi thực hiện bài viết này, chắc sẽ không còn mấy ngày nữa, UBND tỉnh Cà Mau sẽ công bố dập tắt dịch cúm gia cầm. Được biết, số tiền hỗ trợ của toàn thành phố Cà Mau đã rót xuống các xã. Chú Trần Văn Hai vừa nhận tiền lúc sáng, đã quày quả ra Cà Mau trả nợ ngân hàng, rồi làm thủ tục vay vốn lại. Tôi đến lúc thím với mấy đứa con đang mong ngóng ở nhà, cậu con trai đang học Trung cấp tài chính kế toán cứ thắc thỏm nhắc hoài "Hỏng biết ba có vay tiền lại được không ?" Thím Hai rầy, "Tụi bây nói hoài ổng nhảy mũi cho coi". Rồi day qua tôi thím bảo "Hồi sáng lãnh tiền về nhà tui đã xúm lại khóc một rồi, bốn mười mấy triệu đó vừa đủ trả ngân hàng, còn nợ vay ở ngoài nguyên bân. Ổng tính ngân hàng cho vay lại sẽ xở mấy chỗ vay nóng, dư ít đỉnh để gầy dựng lại đàn vịt. Nói gì tui cũng không bỏ nghề, Cô coi, nhờ nuôi vịt mà tui cất nhà, lo mấy đứa con ăn học đàng hoàng?". Tôi thấy mình ngạc nhiên khi ngồi giữa ngôi nhà rộn rã tiếng cười. Phải chăng nỗi buồn, nỗi mất mát đã qua rồi ? "Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô ?", thím Hai như đọc được thắc mắc của tôi, hỏi.
    Thím, và bao nhiêu người nông dân khác nữa, giống như những ngọn cỏ bên đường, vẫn ngoi lên bền bĩ sống sau bao lần bị giẫm. Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản "độc" lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là "hy vọng". Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo cứ đinh ninh năm sau được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng.
    Cho tới bây giờ, khi vừa ngoi lên đã bi kẹt lại trong tấm lưới đói nghèo, người nông dân lại cần hy vọng hơn bao giờ hết, cho dù nó đã bị hâm nhiều lửa lắm rồi. Nhưng phải hy vọng để sống, làm lụng, để chịu đựng và vượt qua.
    Và để gắng sức chống chọi lại những cơn bão khô sẽ đến bất cứ lúc nào.
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Lời Nhắn
    Hỏi thế này có khi không phải, nhưng anh có nghe lòng xao động khi nghe tôi nhắc tới X không, anh có thân thuộc như đấy là quê hương, là nhà của mình không, có cảm giác người dân ở đó hiền hậu bao dung giống hệt như người cha người mẹ, cô em gái nhỏ? của mình không ? Tôi hỏi vậy, là vì, nếu như anh đã từng ở trong vùng căn cứ đó suốt một thời chiến tranh, đã từng được người dân hy sinh mạng sống để che chỡ cho mình, nếu anh nghe thân thuộc từng cái tên nghe giản dị như Thị Tường, Giáp Nước, Rau Dừa, Phú Mỹ, Đất Cháy, Vịnh Dừa? rất có thể anh là người chị tôi quen.
    Tôi không nhớ chị tên gì, ờ là Duyên, Diệu, Xuyến, Nương, hay Bé Ba, Bé Bảy? Tôi không hỏi chị đã bao nhiêu tuổi, chị nói chị có cháu ngoại rồi mà cái cười tươi rói, nét mặt hiền hậu, trong trẻo, ngời ngời. Tóc chị dài, bới gọn trong bao lưới, ở đó, nó thầm lặng bạc theo ngày tháng. Chị ưa mặc áo bà ba màu nâu, có cái đã bạc màu, có cái được vá khéo dăm ba chỗ. Quê chị nghèo, gần ba mươi năm sau giải phóng, quê vẫn còn những cây cầu khỉ, những con đường đất, lầy lội, đứt đoạn mỗi lúc mưa về. Ngoài vườn, cây trái xác xơ, những đầm nước phơi mình chang chang trong nắng đỏ. Nhà còn chừng ba ký gạo, chị hối con dâu nấu cơm, rồi lấy tay lưới ra kinh giăng bắt cá phi kho mắm đãi khách Cà Mau.
    Chị nói nghe hai tiếng Cà Mau sao nghe thương quá chừng, nghe gần xịt một bên lòng như xuống xuồng chống vài ba sào sẽ tới. Là vì ở Cà Mau chị có rất nhiều người quen, cái tánh chị rất kỳ, đất nào có người quen ở, dầu chưa tới cũng nghe thương. Anh Hai ở Tỉnh uỷ nè, anh Bảy ở Uỷ ban, thêm một anh Hai nữa ở tỉnh đội, anh Mười ở công an? Còn nhiều người nữa, người mất, người còn? Trước giải phóng anh nào cũng có ở nhà chị đôi ba tháng, ăn cơm nguội với ghẹm muối, ngủ hầm, thấy thương thì thôi đi. Chị nói với giọng trìu mến, như người mẹ nói về đứa con gái út đi học xa nhà, như cô em nhắc tới người chị lấy chồng xứ khác. Rồi chợt chị day qua tôi hỏi, em ở Cà Mau mà, chắc là biết mấy ảnh hả. Tôi cười, thiệt khó trả lời, người chị quen là ai trong số những hình ảnh quen thuộc trên tivi, trên mặt báo, quen thuộc đến từng nốt ruồi, từng chấm tàng nhang, từng vết sẹo trên khuôn mặt mà mỗi cái tên tôi vẫn nghe xa lạ quá chừng.
    Câu chuyện xoay quay những người vắng mặt rộn ràng bên mâm cơm lỡ bữa. Chị biểu sắp nhỏ đem chai rượu ra, chị cười, em uống thêm ly nầy, chị gởi cho anh Hai, ly này chị gởi anh Bảy, anh Chín, anh Mười. Ờ, ly nầy chế gởi cho anh Hai Tỉnh uỷ nghen, hồi đó ảnh có về thăm một lần, hồi ba má chế còn sống lận, mười một năm rồi. Quỷ thần ơi, bữa đó vui thấu trời luôn. Má chế nhậu cà xình cà xang nhắc chuyện xưa mắc cười lắm, má nói thằng Hai hồi đó sợ phải lòng con gái Giáp Nước nên ăn rau răm thấy mồ tổ luôn. Chế khờ lắm, chế hỏi, ảnh ăn rau răm làm chi, má chế cười ngất, để bớt muốn vợ. Chế nghĩ, hèn chi, hồi đó mình thương thầm ảnh muốn chết mà ảnh không thương lại.
    Nhắc lại, chị cười, rạng rỡ như thể ngày vui cũ với người xưa vẫn còn trước mắt.
    - Mà, lâu lắm rồi, ảnh không về Giáp Nước, làm lãnh đạo, chắc là mắc công chuyện dữ lắm. mấy chế bên Vịnh Dừa, Xóm Huế gặp nhau nhắc hoài, nhớ mấy ảnh quá hà, nói chừng nào rảnh lên Cà Mau thăm mấy ảnh một bữa. Em về nhớ nhắn cho tụi chế gởi lời thăm mấy ảnh khoẻ nghen, nói với mấy ảnh, tụi này không lên thì thôi, lên rồi ở chơi hai ba bữa mới dìa.
    Tôi thương chị muốn rơi nước mắt, chị bao nhiêu tuổi, bốn mươi, năm mươi hay sáu, bảy mươi, sao tấm lòng chị chấc phác, hồn hậu đến trong ngần ? Chị Tâm, Hường, Pha, Chi, Hiền hay Bé Năm, Bé Chín ơi?, biết người còn nhớ chị như chị nhớ người, biết người xưa còn thích nhắc chuyện xưa? Nếu nhớ, hẳn chị và anh đã từng gặp lại nhau, ít nhất một đôi lần, dù hoàn cảnh có trẹo ngoe, ví dụ như lúc anh ghé ngang nhà đúng lúc chị mắc đi đám giỗ bà nội chồng, ví dụ như mình chờ ở cửa này, người ra bằng cửa khác, như mình đứng ở dưới đường, trông hoài mà không biết người đã đi qua, trên chiếc ô tô sang trọng, được bọc bằng tấm kính sẫm màu.
    Nên tôi nhận lời nhắn mà bần thần. Tôi không thường đi hội họp, không chơi tennis vào mỗi sáng chiều, không thường họp mặt để uống rượu Tây, sao gặp được các anh mà chuyển lời. Không được mấy dịp đó, hỏng lẽ xông vô cơ quan người ta chỉ đế nói, chị ấy nhắn như vầy nè. Mà, nói thiệt chưa chắc mấy anh bảo vệ cho vô, lý do gì mà lãng òm.
    Tôi uống với chị thêm chút rượu nữa rồi về. Chị bơi xuồng đưa tôi qua kinh, sợ tôi say rồi không đi cầu khỉ được. Nước đang ròng, chị vo quần nhảy xuống, lội ọp ẹp, đẩy mũi xuồng rướn lên bãi. Tôi bảo, thưa chị em về. Chị cười, Ờ, em về Cà Mau khoẻ nghen. Mà, cho chị gởi lời nhắn mấy ảnh, có rảnh về cứ chơi, để mai đây tụi chị già rồi, theo ông theo bà mất đất. Nói vậy chứ? nghèo quá hà? tụi chị tới mấy ảnh? cũng khó. Có lần mấy chị em đi chợ, ghé chỗ anh Hai, mà không gặp được. Tôi hỏi tại sao, chị thoáng nghẹn ngào nhưng rất nhanh, nhanh như một cái chớp mắt, chị lại cười, tại bữa đó nắng dữ quá.
    Tôi đi được một đỗi đường thì nghe bụng cồn lên chạo chực. Tôi quỳ bên đường nôn mà nước mắt ràn rụa, những ly rượu chị gởi? thôi rồi? Chỉ lời nhắn tôi vẫn giữ trong lòng, lời nhắn bình dị, nhỏ nhoi như hạt cát mà đau rát dạ con trai.
    Tôi xin mạn phép gởi câu chuyện của chị lên trang giấy. Nếu anh đọc được mấy dòng này, rồi tự dưng nghe kỷ niệm của miền đất cũ dâng lên đầy mắt, rất có thể anh là người quen của chị. Anh ạ, chị nhắn như vầy?
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Lời Nhắn
    Hỏi thế này có khi không phải, nhưng anh có nghe lòng xao động khi nghe tôi nhắc tới X không, anh có thân thuộc như đấy là quê hương, là nhà của mình không, có cảm giác người dân ở đó hiền hậu bao dung giống hệt như người cha người mẹ, cô em gái nhỏ? của mình không ? Tôi hỏi vậy, là vì, nếu như anh đã từng ở trong vùng căn cứ đó suốt một thời chiến tranh, đã từng được người dân hy sinh mạng sống để che chỡ cho mình, nếu anh nghe thân thuộc từng cái tên nghe giản dị như Thị Tường, Giáp Nước, Rau Dừa, Phú Mỹ, Đất Cháy, Vịnh Dừa? rất có thể anh là người chị tôi quen.
    Tôi không nhớ chị tên gì, ờ là Duyên, Diệu, Xuyến, Nương, hay Bé Ba, Bé Bảy? Tôi không hỏi chị đã bao nhiêu tuổi, chị nói chị có cháu ngoại rồi mà cái cười tươi rói, nét mặt hiền hậu, trong trẻo, ngời ngời. Tóc chị dài, bới gọn trong bao lưới, ở đó, nó thầm lặng bạc theo ngày tháng. Chị ưa mặc áo bà ba màu nâu, có cái đã bạc màu, có cái được vá khéo dăm ba chỗ. Quê chị nghèo, gần ba mươi năm sau giải phóng, quê vẫn còn những cây cầu khỉ, những con đường đất, lầy lội, đứt đoạn mỗi lúc mưa về. Ngoài vườn, cây trái xác xơ, những đầm nước phơi mình chang chang trong nắng đỏ. Nhà còn chừng ba ký gạo, chị hối con dâu nấu cơm, rồi lấy tay lưới ra kinh giăng bắt cá phi kho mắm đãi khách Cà Mau.
    Chị nói nghe hai tiếng Cà Mau sao nghe thương quá chừng, nghe gần xịt một bên lòng như xuống xuồng chống vài ba sào sẽ tới. Là vì ở Cà Mau chị có rất nhiều người quen, cái tánh chị rất kỳ, đất nào có người quen ở, dầu chưa tới cũng nghe thương. Anh Hai ở Tỉnh uỷ nè, anh Bảy ở Uỷ ban, thêm một anh Hai nữa ở tỉnh đội, anh Mười ở công an? Còn nhiều người nữa, người mất, người còn? Trước giải phóng anh nào cũng có ở nhà chị đôi ba tháng, ăn cơm nguội với ghẹm muối, ngủ hầm, thấy thương thì thôi đi. Chị nói với giọng trìu mến, như người mẹ nói về đứa con gái út đi học xa nhà, như cô em nhắc tới người chị lấy chồng xứ khác. Rồi chợt chị day qua tôi hỏi, em ở Cà Mau mà, chắc là biết mấy ảnh hả. Tôi cười, thiệt khó trả lời, người chị quen là ai trong số những hình ảnh quen thuộc trên tivi, trên mặt báo, quen thuộc đến từng nốt ruồi, từng chấm tàng nhang, từng vết sẹo trên khuôn mặt mà mỗi cái tên tôi vẫn nghe xa lạ quá chừng.
    Câu chuyện xoay quay những người vắng mặt rộn ràng bên mâm cơm lỡ bữa. Chị biểu sắp nhỏ đem chai rượu ra, chị cười, em uống thêm ly nầy, chị gởi cho anh Hai, ly này chị gởi anh Bảy, anh Chín, anh Mười. Ờ, ly nầy chế gởi cho anh Hai Tỉnh uỷ nghen, hồi đó ảnh có về thăm một lần, hồi ba má chế còn sống lận, mười một năm rồi. Quỷ thần ơi, bữa đó vui thấu trời luôn. Má chế nhậu cà xình cà xang nhắc chuyện xưa mắc cười lắm, má nói thằng Hai hồi đó sợ phải lòng con gái Giáp Nước nên ăn rau răm thấy mồ tổ luôn. Chế khờ lắm, chế hỏi, ảnh ăn rau răm làm chi, má chế cười ngất, để bớt muốn vợ. Chế nghĩ, hèn chi, hồi đó mình thương thầm ảnh muốn chết mà ảnh không thương lại.
    Nhắc lại, chị cười, rạng rỡ như thể ngày vui cũ với người xưa vẫn còn trước mắt.
    - Mà, lâu lắm rồi, ảnh không về Giáp Nước, làm lãnh đạo, chắc là mắc công chuyện dữ lắm. mấy chế bên Vịnh Dừa, Xóm Huế gặp nhau nhắc hoài, nhớ mấy ảnh quá hà, nói chừng nào rảnh lên Cà Mau thăm mấy ảnh một bữa. Em về nhớ nhắn cho tụi chế gởi lời thăm mấy ảnh khoẻ nghen, nói với mấy ảnh, tụi này không lên thì thôi, lên rồi ở chơi hai ba bữa mới dìa.
    Tôi thương chị muốn rơi nước mắt, chị bao nhiêu tuổi, bốn mươi, năm mươi hay sáu, bảy mươi, sao tấm lòng chị chấc phác, hồn hậu đến trong ngần ? Chị Tâm, Hường, Pha, Chi, Hiền hay Bé Năm, Bé Chín ơi?, biết người còn nhớ chị như chị nhớ người, biết người xưa còn thích nhắc chuyện xưa? Nếu nhớ, hẳn chị và anh đã từng gặp lại nhau, ít nhất một đôi lần, dù hoàn cảnh có trẹo ngoe, ví dụ như lúc anh ghé ngang nhà đúng lúc chị mắc đi đám giỗ bà nội chồng, ví dụ như mình chờ ở cửa này, người ra bằng cửa khác, như mình đứng ở dưới đường, trông hoài mà không biết người đã đi qua, trên chiếc ô tô sang trọng, được bọc bằng tấm kính sẫm màu.
    Nên tôi nhận lời nhắn mà bần thần. Tôi không thường đi hội họp, không chơi tennis vào mỗi sáng chiều, không thường họp mặt để uống rượu Tây, sao gặp được các anh mà chuyển lời. Không được mấy dịp đó, hỏng lẽ xông vô cơ quan người ta chỉ đế nói, chị ấy nhắn như vầy nè. Mà, nói thiệt chưa chắc mấy anh bảo vệ cho vô, lý do gì mà lãng òm.
    Tôi uống với chị thêm chút rượu nữa rồi về. Chị bơi xuồng đưa tôi qua kinh, sợ tôi say rồi không đi cầu khỉ được. Nước đang ròng, chị vo quần nhảy xuống, lội ọp ẹp, đẩy mũi xuồng rướn lên bãi. Tôi bảo, thưa chị em về. Chị cười, Ờ, em về Cà Mau khoẻ nghen. Mà, cho chị gởi lời nhắn mấy ảnh, có rảnh về cứ chơi, để mai đây tụi chị già rồi, theo ông theo bà mất đất. Nói vậy chứ? nghèo quá hà? tụi chị tới mấy ảnh? cũng khó. Có lần mấy chị em đi chợ, ghé chỗ anh Hai, mà không gặp được. Tôi hỏi tại sao, chị thoáng nghẹn ngào nhưng rất nhanh, nhanh như một cái chớp mắt, chị lại cười, tại bữa đó nắng dữ quá.
    Tôi đi được một đỗi đường thì nghe bụng cồn lên chạo chực. Tôi quỳ bên đường nôn mà nước mắt ràn rụa, những ly rượu chị gởi? thôi rồi? Chỉ lời nhắn tôi vẫn giữ trong lòng, lời nhắn bình dị, nhỏ nhoi như hạt cát mà đau rát dạ con trai.
    Tôi xin mạn phép gởi câu chuyện của chị lên trang giấy. Nếu anh đọc được mấy dòng này, rồi tự dưng nghe kỷ niệm của miền đất cũ dâng lên đầy mắt, rất có thể anh là người quen của chị. Anh ạ, chị nhắn như vầy?
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Mơ Hết
    Ta ngoái lại, cái cột ăngten bưu điện trong thành phố xa dần, ta hơi ngẩn ngơ một chút, vậy là mình đã bứt ra khỏi những cuộc hội họp triền miên, những trận tennis hay vào mỗi sáng chiều, những đồng sự bạn bè quen thuộc đến từng nốt ruồi, chấm tàn nhang, vết sẹo trên khuôn mặt.
    Ta chui đầu vô chiếc xe đò ọp ẹp, chật cứng, nóng bức, nồng nặc hơi người. Ta nhớ chiếc xe hơi sang trọng và anh tài xế lanh lợi ở nhà, ta nhớ quá, nhưng nghĩ, mình phải bắc chước vua Càn Long, đi vi hành chịu khổ một chút mà hay ho lắm. Chiếc xe bò lắc lư trên con đường đầy ổ voi ổ ngỗng, anh thanh niên ngồi cạnh cửa ôm xâu lưỡi dá trong lòng, chắc lưỡi than, đi điệu này dìa chắc nín "ị" năm bảy bữa. Cả xe cười ha ha ha. Mỗi lần xe xụt xịt chúc đầu xuống dốc cống, bà má ngồi kế bên anh lại nói lịu, "Ý chụt má mầy ra? ý chết cha bà già?". Ta nghe cái mùi trầu hăng hăng thoảng ra từ cái miệng duyên dáng của bà. Trời ơi, tim ta nhói một cái, mùi trầu quen thuộc của mẹ, của ngoại ngày xưa. Rồi bà má day qua ta, hỏi :
    - Bây đi công tác hay là về thăm nhà ? Bây xuống chỗ nào ?
    Ta lặng đi một chốc, mình xuống chỗ nào cà, bác tài, bác tài ơi, cho tôi xuống chỗ có bầy trâu kia đi.
    Ta bị bỏ lại giữa con đường còn mướt sương mai, bên một bờ cỏ rộng có bầy trâu đang thủng thẳng nhơi nhơi. Hai thằng nhỏ chăn trâu ốm nhom, đầu chờ vờ như cá lóc gặp nước mặn, khuôn mặt teo héo như đít trái dừa khô ngó ta lom lom, như sợ ta ôm con trâu chạy mất. Không đâu con, bác chỉ đứng đây thôi, để ngửi lại cái mùi khai ngai ngái của trâu, để ngó mặt trời lựng bựng lên từ phía chân trời. Ta khẽ lặng người đi, có cái gì đó bén lắm khẽ cứa vào khúc ruột, ta đã tìm cảnh có trâu có cỏ như vầy lâu lắm, vì đôi khi nhớ tiếc một thời thơ ấu trong trẻo, ngọt lịm như mía lùi. Bây giờ tìm được cỏ với trâu, lòng có bình yên nữa đâu mà thưởng sáo với diều, chán thiệt. Ngồi không cũng buồn, ta kiếm chuyện nói chơi, Trời ơi, có phải lúa kia không, mấy đứa coi, lúa xanh cả vạt đồng kìa. Hai thằng mọi cười chảy nước miếng, năn đó cha nội, lúa đâu mà lúa, đất này phèn trắng xác, nước sâu hòm, tui sống còn không nổi, nói chi lúa. Ủa, vậy sao, vậy sao, hồi đi công cán bằng xe hơi qua đây, cái vạt xanh nầy, ta đã tưởng là lúa. Ta nghe lòng thẹn thò một chốc, rồi, hỏi, mấy người đang lom khom đằng đó chắc là đang dận cù bắt chuột nhậu hả. Hai thằng nhỏ lại cười, họ đi đặt trúm bắt lươn bán đó, cha nội, đói muốn lòi con mắt còn lo nhậu nhẹt gì. Ta nín thinh luôn.
    Ta vẫy một chiếc xe khác, đi thêm một đỗi đường. Ông già ngồi bên sắp ngủ gật, nghe ta hỏi làm ăn lúc nầy khá không, ổng tỉnh dậy, khá gì, đắp đỗi qua ngày thôi. Cái gì cũng lên giá, nè, khoanh thuốc gò nầy bữa nay lên thêm ngàn hai, vậy là mất toi một ký cải xanh. Tưới trần ai mới được ký cải, đi chợ dìa bữa nào cũng buồn đã đời, ngó thấy người ta uống chai bia chín mười ngàn, uống cái ọt, rôi đi đái hết trơn. Xong uống chai khác. Mình kiếm được chín mười ngàn trần ai khoai củ, "đỏ con mắt bên phải, ngứa con mắt bên trái". Cái nầy tui coi truyền hình rồi nói theo chơi, đâu có hiểu gì đâu. Mà, tui thấy chú em hơi quen quen, chú ở Giáp Nước hay Thị Tường ?
    Tim ta nhói lên một cái, mấy tiếng đó nghe thương, như đất là quê hương, là nhà của mình, người dân ở đó hiền hậu bao dung y hệt người cha, người mẹ, cô em gái nhỏ của mình. Nơi đó, có khi tám, hay mười tám năm rồi ta chưa về lại. Vậy thì bác tài ơi, cho tôi xuống chỗ đầu kinh kia đi.
    Ta run rẩy bò lên những cây cầu khỉ, ta lồm cồm men theo con đường đất lở lói, đứt khúc bởi những cống mương,. Ta ra đi từ giải phóng, gần ba mươi năm rồi nhưng xứ sở vẫn còn nghèo. Ngoài vườn, cây trái xác xơ, phơi mình chang chang trong nắng là những đầm tôm, mà không, nước thì nhiều chứ có tôm gì đâu. Gạo còn ít, lon sữa bò cạo lên đít khạp nghe cồn cào dạ khách.
    Nhưng tấm lòng cởi mở, nhiệt thành, hào sảng của dân xứ Đầm thì còn. Mèn ơi, thằng Hai, thằng Hai nè bà nó ơi, cái thằng, lâu lắm? Coi anh Hai mập mạp tốt tướng lắm, má à. Bà má mắt mờ rờ rờ bụng ta, cười khùng khục, í, bụng bây inh có chửa năm bảy tháng, nhớ hồi đó, mỗi khi đi công tác về, bây chỉ cái bụng xẹp lép, kêu nghe ọt ọt, than, má ơi, đói quá, thấy mà thương. Ta cười sượng trân, con nhớ mà má Ba. Má cười, ****** bây, nhớ lộn má Ba bên xóm Huế hả, tao là má Bảy, hỏng nhớ he ?
    Và còn nhiều bà má, ông ba khác, người đã mất, người còn thì lẫn lộn nhớ quên. Nhưng những người phụ nữ xứ sở này bảo rằng chưa bao giờ quên ta. Những Duyên, Diệu, Xuyến, Nương, hay Bé Ba, Bé Bảy? tóc bới gọn trong bao lưới, thầm lặng bạc theo tháng ngày, những người phụ nữ ưa mặc áo bà ba, có cái đã bạc màu, có cái được vá khéo năm ba chỗ. Họ biểu thằng cháu nội lục trong tủ thờ, lôi ra cuốn sổ đầy *** gián, anh Hai coi, tập chép bài ca anh chép cho tụi em còn nguyên đây nè. Họ lật ngay trân cái trang chi chít nét chữ của ta. Họ giữ cái khăn tắm trước hôm đi chiến dịch ta nhờ giặt, cái hầm cạnh bụi tre gai? Mà ta thì không nhớ gì hết, trong những Tâm, Hường, Pha, Chi, Hiền hay Bé Năm, Bé Chín? ai đã run rẩy đưa bàn tay cho ta nắm hôm đoàn văn công giải phóng về diễn ở Vịnh Dừa, ai đã bơi xuồng đưa ta vượt Đầm trong một đêm giông gió lớn. Ai đã thầm lặng đắp mền cho ta vượt qua cơn sốt rét ?
    Ai người thương nhớ trong số những người chiều nay rót rượu cho ta ?
    - Nhớ không anh Hai, hồi anh ở nhà em, anh em tụi mình thương nhau còn hơn ruột thịt. Gặp đây, rồi nhớ anh Hai ở Tỉnh Uỷ, anh Bảy ở Uỷ ban, anh Tư ở Tỉnh đội, anh Mười ở công an? Mấy anh ở Cà Mau hết chớ anh, anh cũng gặp mấy ảnh thường chớ ? Nghe hai tiếng Cà Mau sao thấy thương quá chừng, nghe gần xịt một bên lòng như xuống xuồng chống vài ba sào sẽ tới. Là vì ở đó tụi em có rất nhiều người quen, cái tánh người ta kỳ cục, đất nào có người quen ở, dầu chưa tới cũng nghe mến mến làm sao đâu á. Tụi em nhắc với nhau hoài, nhớ mấy anh, nói bữa nào tụi em kéo lên Cà Mau chơi hai ba bữa mới dìa.
    Chợt những người phụ nữ trầm ngâm (Ui chao, đó là lúc ta thấy lưng họ đã còng, đôi vai oằn vì gánh đời đã mỏi)
    - Nói vậy chớ? nghèo quá hà? tụi em nhớ nhưng ngặt tới mấy anh cũng khó.
    Ta thương muốn ôm cô vào lòng, muốn nói lên vạn lời xin lỗi, nhưng làm vậy coi ? cũng kỳ, người lớn rồi, làm lãnh đạo rồi? đành uống với nhau ly này, ly này nữa, uống thay lời tạ lỗi, uống say cho đỡ mắc cỡ.
    Uống cho tới khi xuống xuồng về, bà má Bảy sợ ta say quá rớt xuống mấy bờ mương, biểu cô con gái đưa ta đi một đỗi đường. Dường như cả xóm ra tiễn ta hay sao ấy, đông quá chừng đông. Người phụ nữ bơi đằng lái, cứ nhìn ta bằng ánh nhìn rất lạ, như day diết, hờn giận, như tủi buồn. Nước bắt đầu ròng, cô vo quần nhảy xuống, lội ọp ẹp, đẩy xuồng rướn lên bãi. Ta nghe đau một cái như ai ngắt chỗ bắp đùi non. Chèn ơi, cảnh này, người nầy, sao mà thấy quen quá chừng, để coi, để coi, nhưng cô đã xô xuồng ra, cô hỏi vói lại:
    - Làm lãnh đạo, chắc là mắc công chuyện dữ lắm, hả anh ?
    Ta chợt nghe một hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Trời ơi, Tư Én, có phải là em không, là em bơi xuồng đưa tôi qua Đầm đêm đó, tôi hỏi chừng nào em có chồng, em nói hòa bình. Lúc qua bờ em còn nhắn theo, "Em chờ anh Hai dìa !".
    Ta chạy theo chiếc con mỏng manh trên dòng kinh nhỏ, ta la lên ơi ới, trời ơi nhớ rồi, tôi nhớ rồi, cô Én ơi.
    La tới đó thì nghe tiếng cậu thư ký phân trần, "Chú Hai đã bay từ Hà Nội về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn về đây gần hết đêm, chắc là mệt lắm". Ủa, sao kỳ vậy, Tư Én đâu mà thằng nầy nó chọt vô vậy cà, ta loay quay tìm đường ra khỏi cơn mơ.
    Cậu thơ ký gọi khẽ, "Tới lượt chú phát biểu rồi, chú ơi !". Chú Hai choàng tỉnh ngay, sửa lại kính, e hèm. "Xin lổi các đồng chí, tôi hơi mệt, nhưng không sao, ta vào vấn đề?"
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Mơ Hết
    Ta ngoái lại, cái cột ăngten bưu điện trong thành phố xa dần, ta hơi ngẩn ngơ một chút, vậy là mình đã bứt ra khỏi những cuộc hội họp triền miên, những trận tennis hay vào mỗi sáng chiều, những đồng sự bạn bè quen thuộc đến từng nốt ruồi, chấm tàn nhang, vết sẹo trên khuôn mặt.
    Ta chui đầu vô chiếc xe đò ọp ẹp, chật cứng, nóng bức, nồng nặc hơi người. Ta nhớ chiếc xe hơi sang trọng và anh tài xế lanh lợi ở nhà, ta nhớ quá, nhưng nghĩ, mình phải bắc chước vua Càn Long, đi vi hành chịu khổ một chút mà hay ho lắm. Chiếc xe bò lắc lư trên con đường đầy ổ voi ổ ngỗng, anh thanh niên ngồi cạnh cửa ôm xâu lưỡi dá trong lòng, chắc lưỡi than, đi điệu này dìa chắc nín "ị" năm bảy bữa. Cả xe cười ha ha ha. Mỗi lần xe xụt xịt chúc đầu xuống dốc cống, bà má ngồi kế bên anh lại nói lịu, "Ý chụt má mầy ra? ý chết cha bà già?". Ta nghe cái mùi trầu hăng hăng thoảng ra từ cái miệng duyên dáng của bà. Trời ơi, tim ta nhói một cái, mùi trầu quen thuộc của mẹ, của ngoại ngày xưa. Rồi bà má day qua ta, hỏi :
    - Bây đi công tác hay là về thăm nhà ? Bây xuống chỗ nào ?
    Ta lặng đi một chốc, mình xuống chỗ nào cà, bác tài, bác tài ơi, cho tôi xuống chỗ có bầy trâu kia đi.
    Ta bị bỏ lại giữa con đường còn mướt sương mai, bên một bờ cỏ rộng có bầy trâu đang thủng thẳng nhơi nhơi. Hai thằng nhỏ chăn trâu ốm nhom, đầu chờ vờ như cá lóc gặp nước mặn, khuôn mặt teo héo như đít trái dừa khô ngó ta lom lom, như sợ ta ôm con trâu chạy mất. Không đâu con, bác chỉ đứng đây thôi, để ngửi lại cái mùi khai ngai ngái của trâu, để ngó mặt trời lựng bựng lên từ phía chân trời. Ta khẽ lặng người đi, có cái gì đó bén lắm khẽ cứa vào khúc ruột, ta đã tìm cảnh có trâu có cỏ như vầy lâu lắm, vì đôi khi nhớ tiếc một thời thơ ấu trong trẻo, ngọt lịm như mía lùi. Bây giờ tìm được cỏ với trâu, lòng có bình yên nữa đâu mà thưởng sáo với diều, chán thiệt. Ngồi không cũng buồn, ta kiếm chuyện nói chơi, Trời ơi, có phải lúa kia không, mấy đứa coi, lúa xanh cả vạt đồng kìa. Hai thằng mọi cười chảy nước miếng, năn đó cha nội, lúa đâu mà lúa, đất này phèn trắng xác, nước sâu hòm, tui sống còn không nổi, nói chi lúa. Ủa, vậy sao, vậy sao, hồi đi công cán bằng xe hơi qua đây, cái vạt xanh nầy, ta đã tưởng là lúa. Ta nghe lòng thẹn thò một chốc, rồi, hỏi, mấy người đang lom khom đằng đó chắc là đang dận cù bắt chuột nhậu hả. Hai thằng nhỏ lại cười, họ đi đặt trúm bắt lươn bán đó, cha nội, đói muốn lòi con mắt còn lo nhậu nhẹt gì. Ta nín thinh luôn.
    Ta vẫy một chiếc xe khác, đi thêm một đỗi đường. Ông già ngồi bên sắp ngủ gật, nghe ta hỏi làm ăn lúc nầy khá không, ổng tỉnh dậy, khá gì, đắp đỗi qua ngày thôi. Cái gì cũng lên giá, nè, khoanh thuốc gò nầy bữa nay lên thêm ngàn hai, vậy là mất toi một ký cải xanh. Tưới trần ai mới được ký cải, đi chợ dìa bữa nào cũng buồn đã đời, ngó thấy người ta uống chai bia chín mười ngàn, uống cái ọt, rôi đi đái hết trơn. Xong uống chai khác. Mình kiếm được chín mười ngàn trần ai khoai củ, "đỏ con mắt bên phải, ngứa con mắt bên trái". Cái nầy tui coi truyền hình rồi nói theo chơi, đâu có hiểu gì đâu. Mà, tui thấy chú em hơi quen quen, chú ở Giáp Nước hay Thị Tường ?
    Tim ta nhói lên một cái, mấy tiếng đó nghe thương, như đất là quê hương, là nhà của mình, người dân ở đó hiền hậu bao dung y hệt người cha, người mẹ, cô em gái nhỏ của mình. Nơi đó, có khi tám, hay mười tám năm rồi ta chưa về lại. Vậy thì bác tài ơi, cho tôi xuống chỗ đầu kinh kia đi.
    Ta run rẩy bò lên những cây cầu khỉ, ta lồm cồm men theo con đường đất lở lói, đứt khúc bởi những cống mương,. Ta ra đi từ giải phóng, gần ba mươi năm rồi nhưng xứ sở vẫn còn nghèo. Ngoài vườn, cây trái xác xơ, phơi mình chang chang trong nắng là những đầm tôm, mà không, nước thì nhiều chứ có tôm gì đâu. Gạo còn ít, lon sữa bò cạo lên đít khạp nghe cồn cào dạ khách.
    Nhưng tấm lòng cởi mở, nhiệt thành, hào sảng của dân xứ Đầm thì còn. Mèn ơi, thằng Hai, thằng Hai nè bà nó ơi, cái thằng, lâu lắm? Coi anh Hai mập mạp tốt tướng lắm, má à. Bà má mắt mờ rờ rờ bụng ta, cười khùng khục, í, bụng bây inh có chửa năm bảy tháng, nhớ hồi đó, mỗi khi đi công tác về, bây chỉ cái bụng xẹp lép, kêu nghe ọt ọt, than, má ơi, đói quá, thấy mà thương. Ta cười sượng trân, con nhớ mà má Ba. Má cười, ****** bây, nhớ lộn má Ba bên xóm Huế hả, tao là má Bảy, hỏng nhớ he ?
    Và còn nhiều bà má, ông ba khác, người đã mất, người còn thì lẫn lộn nhớ quên. Nhưng những người phụ nữ xứ sở này bảo rằng chưa bao giờ quên ta. Những Duyên, Diệu, Xuyến, Nương, hay Bé Ba, Bé Bảy? tóc bới gọn trong bao lưới, thầm lặng bạc theo tháng ngày, những người phụ nữ ưa mặc áo bà ba, có cái đã bạc màu, có cái được vá khéo năm ba chỗ. Họ biểu thằng cháu nội lục trong tủ thờ, lôi ra cuốn sổ đầy *** gián, anh Hai coi, tập chép bài ca anh chép cho tụi em còn nguyên đây nè. Họ lật ngay trân cái trang chi chít nét chữ của ta. Họ giữ cái khăn tắm trước hôm đi chiến dịch ta nhờ giặt, cái hầm cạnh bụi tre gai? Mà ta thì không nhớ gì hết, trong những Tâm, Hường, Pha, Chi, Hiền hay Bé Năm, Bé Chín? ai đã run rẩy đưa bàn tay cho ta nắm hôm đoàn văn công giải phóng về diễn ở Vịnh Dừa, ai đã bơi xuồng đưa ta vượt Đầm trong một đêm giông gió lớn. Ai đã thầm lặng đắp mền cho ta vượt qua cơn sốt rét ?
    Ai người thương nhớ trong số những người chiều nay rót rượu cho ta ?
    - Nhớ không anh Hai, hồi anh ở nhà em, anh em tụi mình thương nhau còn hơn ruột thịt. Gặp đây, rồi nhớ anh Hai ở Tỉnh Uỷ, anh Bảy ở Uỷ ban, anh Tư ở Tỉnh đội, anh Mười ở công an? Mấy anh ở Cà Mau hết chớ anh, anh cũng gặp mấy ảnh thường chớ ? Nghe hai tiếng Cà Mau sao thấy thương quá chừng, nghe gần xịt một bên lòng như xuống xuồng chống vài ba sào sẽ tới. Là vì ở đó tụi em có rất nhiều người quen, cái tánh người ta kỳ cục, đất nào có người quen ở, dầu chưa tới cũng nghe mến mến làm sao đâu á. Tụi em nhắc với nhau hoài, nhớ mấy anh, nói bữa nào tụi em kéo lên Cà Mau chơi hai ba bữa mới dìa.
    Chợt những người phụ nữ trầm ngâm (Ui chao, đó là lúc ta thấy lưng họ đã còng, đôi vai oằn vì gánh đời đã mỏi)
    - Nói vậy chớ? nghèo quá hà? tụi em nhớ nhưng ngặt tới mấy anh cũng khó.
    Ta thương muốn ôm cô vào lòng, muốn nói lên vạn lời xin lỗi, nhưng làm vậy coi ? cũng kỳ, người lớn rồi, làm lãnh đạo rồi? đành uống với nhau ly này, ly này nữa, uống thay lời tạ lỗi, uống say cho đỡ mắc cỡ.
    Uống cho tới khi xuống xuồng về, bà má Bảy sợ ta say quá rớt xuống mấy bờ mương, biểu cô con gái đưa ta đi một đỗi đường. Dường như cả xóm ra tiễn ta hay sao ấy, đông quá chừng đông. Người phụ nữ bơi đằng lái, cứ nhìn ta bằng ánh nhìn rất lạ, như day diết, hờn giận, như tủi buồn. Nước bắt đầu ròng, cô vo quần nhảy xuống, lội ọp ẹp, đẩy xuồng rướn lên bãi. Ta nghe đau một cái như ai ngắt chỗ bắp đùi non. Chèn ơi, cảnh này, người nầy, sao mà thấy quen quá chừng, để coi, để coi, nhưng cô đã xô xuồng ra, cô hỏi vói lại:
    - Làm lãnh đạo, chắc là mắc công chuyện dữ lắm, hả anh ?
    Ta chợt nghe một hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Trời ơi, Tư Én, có phải là em không, là em bơi xuồng đưa tôi qua Đầm đêm đó, tôi hỏi chừng nào em có chồng, em nói hòa bình. Lúc qua bờ em còn nhắn theo, "Em chờ anh Hai dìa !".
    Ta chạy theo chiếc con mỏng manh trên dòng kinh nhỏ, ta la lên ơi ới, trời ơi nhớ rồi, tôi nhớ rồi, cô Én ơi.
    La tới đó thì nghe tiếng cậu thư ký phân trần, "Chú Hai đã bay từ Hà Nội về Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn về đây gần hết đêm, chắc là mệt lắm". Ủa, sao kỳ vậy, Tư Én đâu mà thằng nầy nó chọt vô vậy cà, ta loay quay tìm đường ra khỏi cơn mơ.
    Cậu thơ ký gọi khẽ, "Tới lượt chú phát biểu rồi, chú ơi !". Chú Hai choàng tỉnh ngay, sửa lại kính, e hèm. "Xin lổi các đồng chí, tôi hơi mệt, nhưng không sao, ta vào vấn đề?"
  6. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ngọc Tư - Đặc sản miền nam-Tiểu Hằng Ngôn
    Nếu bạn theo dõi văn chương Việt Nam mấy năm gần đây, và nhất là nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam, hẳn bạn đã biết Nguyễn Ngọc Tư. Cô là một nhà văn, còn trẻ (sinh năm 1977), quê quán ở Cà Mau và hiện vẫn sống ở vùng đất Mũi. Năm 2000, tập truyện đầu tay Ngọn Đèn Không Tắt của cô được giải Sáng tác văn học tuổi 20 lần II của Hội Nhà văn TP HCM, và năm 2003 tập truyện Giao Thừa của cô cũng được một giải thưởng của Hội Văn học ?" Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra cô còn là một khuôn mặt quen thuộc trên các tạp chí qua nhiều tạp văn, tạp bút.
    T
    Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng, và dưới đây sẽ nói thêm. Song, trước hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu bạn là người Nam, và nhất là nếu bạn đã xa quê hương lâu năm, thì chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những ngày thơ ấu xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn nghe và nhớ.
    Nhiều người nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.
    Đàng khác, hiển nhiên, cái bất lợi của một tác phẩm nhiều phương ngữ là nó khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn (và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Đối với những độc giả này, tác phẩm ấy chỉ là một công trình gợi tò mò, hoặc hấp dẫn vì lý do khác, mà phương ngữ là một chướng ngại cảm nhận.
    Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật ?o miền Nam ?. Đó là miền Nam của tỉnh lẻ, của ruộng vườn, và nhất là của sông, của mưa (Dòng Nhớ, Chợ nổi Cà mau- chút tình sông nuớc, Qua cầu nhớ người, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi). Đó là miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh - không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ).
    Trong cách chọn lựa tình tiết, cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã trung thành (một cách khó giải thích) với cái ?o tình tự ? Nam bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở một địa phương, thật sự mến yêu họ hàng làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và, bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là cái phổ quát nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng.
    Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam ?o Sự giản dị, thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa ? (khi ông phê bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyễn Ngọc Tư rất Nam như thế đó.
    T
    Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết : ?o tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất ? (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu ?o Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.? (Nhà cổ)
    Hồ Anh Thái, và vài người nữa, đã có khen ?o cách dẫn truyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác ? của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chưa thấy ai nói đến cấu trúc câu của cô. Mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn : ?o Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì ? (Nhà cổ). Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: ?o Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt vậy không biết ? ? (Lý con sáo sang sông)
    Nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay khóc, và nhiều lúc cô khuyến khích nhân vật của mình khóc.
    ?o Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, ?o mấy chú làm ơn dừng lại một chút ? rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm ? (Mối tình năm cũ)
    Hay là:
    ?o Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.
    Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi. ? (Nhà cổ)
    Nhưng, để ý : cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì thương yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khác thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.
    Chính vì Nguyễn Ngọc Tư còn trẻ, cô nhìn cuộc sống bằng cặp mắt trong sáng (khác với lạc quan) và trung thực. Cô không giả vờ dằn vặt nội tâm như nhiều nhà văn (không chỉ ở Việt Nam) ham đòi thời thượng. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không ngây thơ ?o chuyện đời ?. Cô nhìn, cô nghe, cô biết hết. Nguyễn Ngọc Tư là một chứng nhân trung thực và tinh nhạy. Không phải chứng nhân cho những vụ việc hung hăng, thô bạo, nhưng cho những mảnh đời đơn dị, bình thường. (Truyện Nguyễn Ngọc Tư không có người lừa đảo, không có kẻ sát nhân. Có lẽ trong truyện của cô cái tội lớn nhất là tội ... ngoại tình.) Nếu lúc gần đây truyện của Nguyễn Ngọc Tư có ?o buồn ? hơn, ấy không phải vì mắt cô đã nhạt đi màu hồng (hãy mong thế), nhưng vì tầm nhìn của nó xa hơn và, trong quãng không gian mở rộng đó, cô thấy thêm những chuyện đời dang dở. Cô không buồn hơn, nhưng lọt vào mắt cô là những mảng đời buồn hơn.
    Nhưng đừng tưởng Ngưyễn Ngọc Tư là người hời hợt. Quả vậy, những truyện ?" nhất là những truyện sau này ?" đều là về những mối tình không trọn. Chẳng phải đổ vỡ, nhưng không trọn. Những mối tình đó không phải chỉ của người già, mà còn là những mối tình của thế hệ cô (Ngổn ngang) ?" hay thứ tự phải ngược lại ? Nhìn cho kỹ, sự dang dở đó không phải lỗi của ai. Nguyễn Ngọc Tư chấp nhận nhưng không than oán, mà cũng không ra vẻ cứng rắn kiểu anh hùng rơm.
    Những cặp ?o tình nhân ? (tạm gọi) trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không bao giờ hôn nhau (như cô sẽ hỏi : ai làm chuyện kỳ vậy ?). Nhiều lắm, thì chỉ như :
    ?o Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.? (Giao thừa)
    hay là:
    ?o Nó ngồi sau lưng thầy ... mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.? (Nước chảy mây trôi)
    Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này có thể làm người đọc lo ngại. Chằng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những ký sự đồng quê ? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó. Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy, chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ hôi, xót con mắt, lả ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.
    T
    Nhiều người so sánh cô với Sơn Nam. Nhưng Sơn Nam là người viết ký sự giỏi, hầu như là nhà nghiên cứu, nhà dân dã học chuyên nghiệp. Nguyễn Ngọc Tư không như vậy, cô là nhà văn chuyên môn. Những cây bút khác ở miền Nam liền trước Nguyễn Ngọc Tư (như Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng) là thế hệ của chiến tranh giành độc lập. Tuy Nguyễn Ngọc Tư không phải mang nhiệm vụ (gánh nặng ?) đó nữa, quá khứ ấy được cô đưa vào truyện một cách rất tự nhiên (Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt). Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không biết là chính cái trẻ của cô, cái tính ?o tỉnh nhỏ ? của cô đã cho cô một lợi thế rất lớn. Đó là cô không bị hành trang của thế hệ trước làm nặng vai, hay bị ảnh hưởng của những người đi trước (trong thư riêng gởi một độc giả, Nguyễn Ngọc Tư cho biết chưa từng đọc Võ Phiến, chẳng hạn).
    Một đặc điểm của Nguyễn Ngọc Tư là hình như cô đã chớm thấy sự khác biệt giữa cô ?" như một nhà văn ?" và những người khác (chẳng hạn như trong Một mái nhà, Nguyệt - người bạn không biết viết văn). Đây là một điềm tốt nhưng cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Tốt vì cô ý thức trách nhiệm (trong chừng mực nào đó) của mình, nhưng nguy hiểm vì nó có thể gây một tự giác quá độ về chỗ đứng của cô ?" như một nhà văn - đối với xã hội. Nhà văn, theo tôi nghĩ, vừa phải đứng trong vừa phải đứng ngoài dòng cuộc sống. Song Nguyễn Ngọc Tư lại có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống bình dị của những người không viết văn. Đặt vấn đề cách khác, những nhà văn trẻ Việt Nam như Nguyễn Ngọc Tư, từ trước đến giờ vẫn sống với cái bẩm sinh của mình, sẽ ra sao khi biết được nhiều hơn về văn đàn (thế giới), khi ý thức hơn ?o nghề văn ? của nhà văn ? Đó là những câu hỏi lớn, định đoạt chỗ đứng tương lai của nhà văn đó trong khu vườn văn học.
    Một cái ?o bệnh ? của những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới, mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần ?o làm dáng ? kiểu ấy. Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không ?o vén màn ? cho người đọc thấy cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta.
    Tuổi trẻ của Nguyễn Ngọc Tư làm người đọc vừa mong đợi, vừa âu lo. Mong rằng tài năng của cô sẽ chín ra, sẽ lớn thêm. Nhưng lo rằng, với tuổi đời, giọng văn tươi mát đó sẽ không còn thích hơp với những đề tài có gam màu sậm hơn. (Nhưng khoảng cách hai năm, từ Ngọn Đèn Chưa Tắt sang Giao Thừa, sự tiến bộ của cô ?" đúng ra là sự thích ứng với kinh nghiệm sống của cô, buồn hơn, thâm thúy hơn ?" làm người đọc hi vọng.)
    Chúng ta mong sự trưởng thành của Nguyễn Ngọc Tư sẽ là sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam. Ta mong cô sẽ tiếp tục là một người ghi chép chân thật những chuyển biến của đời sống dân tộc. Nếu cô làm được điều đó thì chúng ta thật cám ơn cô. Tài năng của cô đúng là thiên phú. Nguyễn Ngọc Tư là một đặc sản của miền nam.
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ngọc Tư - Đặc sản miền nam-Tiểu Hằng Ngôn
    Nếu bạn theo dõi văn chương Việt Nam mấy năm gần đây, và nhất là nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam, hẳn bạn đã biết Nguyễn Ngọc Tư. Cô là một nhà văn, còn trẻ (sinh năm 1977), quê quán ở Cà Mau và hiện vẫn sống ở vùng đất Mũi. Năm 2000, tập truyện đầu tay Ngọn Đèn Không Tắt của cô được giải Sáng tác văn học tuổi 20 lần II của Hội Nhà văn TP HCM, và năm 2003 tập truyện Giao Thừa của cô cũng được một giải thưởng của Hội Văn học ?" Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra cô còn là một khuôn mặt quen thuộc trên các tạp chí qua nhiều tạp văn, tạp bút.
    T
    Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng, và dưới đây sẽ nói thêm. Song, trước hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (cách thích thú), là nồng độ phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Nếu bạn là người Nam, và nhất là nếu bạn đã xa quê hương lâu năm, thì chỉ những chữ mà Nguyễn Ngọc Tư dùng cũng đủ làm bạn sống lại những ngày thơ ấu xa xôi ấy. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn nghe và nhớ.
    Nhiều người nghĩ rằng, nói chung, văn chương miền Nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã miền Nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống.
    Đàng khác, hiển nhiên, cái bất lợi của một tác phẩm nhiều phương ngữ là nó khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn (và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Đối với những độc giả này, tác phẩm ấy chỉ là một công trình gợi tò mò, hoặc hấp dẫn vì lý do khác, mà phương ngữ là một chướng ngại cảm nhận.
    Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật ?o miền Nam ?. Đó là miền Nam của tỉnh lẻ, của ruộng vườn, và nhất là của sông, của mưa (Dòng Nhớ, Chợ nổi Cà mau- chút tình sông nuớc, Qua cầu nhớ người, Nhớ sông, Nước chảy mây trôi). Đó là miền Nam đã thái bình nhưng vẫn còn dấu chiến tranh - không ở sự điêu tàn vì bom đạn mà ở những vết thương trong đời người (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ).
    Trong cách chọn lựa tình tiết, cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã trung thành (một cách khó giải thích) với cái ?o tình tự ? Nam bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở một địa phương, thật sự mến yêu họ hàng làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và, bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là cái phổ quát nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng.
    Câu nói của Vũ Hạnh về kịch miền Nam ?o Sự giản dị, thoải mái và hồn nhiên của kịch miền Nam đều hướng về đạo nghĩa ? (khi ông phê bình Kim Cương), cũng có thể áp dụng cho văn xuôi miền Nam. Nguyễn Ngọc Tư rất Nam như thế đó.
    T
    Văn của Nguyễn Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết : ?o tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất ? (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang, nhưng rất đủ, của một người trẻ bổng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt của âm điệu. Cái tài của Nguyễn Ngọc Tư là đem những cảnh tượng rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu ?o Cãi qua cãi lại, hai má con ngã ngửa ra, ủa, hơi đâu mà nói chuyện của người ta.? (Nhà cổ)
    Hồ Anh Thái, và vài người nữa, đã có khen ?o cách dẫn truyện gọn gàng, sự cắt cảnh chuyển lớp chính xác ? của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng chưa thấy ai nói đến cấu trúc câu của cô. Mới và độc đáo. Lối bắt đầu với chữ Mà, rồi một dấu phẩy. Hoặc lối chen vào giữa câu một chi tiết trong ngoặc đơn : ?o Hai đứa tôi ngồi đâu đó (chỗ mà ai cũng nhìn thấy) nói chuyện chơi, có lúc, chẳng cần nói gì ? (Nhà cổ). Hoặc lối dứt câu bằng một thán từ có âm bổng: ?o Sao tự nhiên em qua đây lãng xẹt vậy không biết ? ? (Lý con sáo sang sông)
    Nhân vật trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư hay khóc, và nhiều lúc cô khuyến khích nhân vật của mình khóc.
    ?o Mãi dì Thấm không mở lời nói được, chỉ khóc là khóc, nức nở ồ ồ, nhìn cảnh mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín. Cho đến khi ông Mười xuất hiện, ông bảo, ?o mấy chú làm ơn dừng lại một chút ? rồi cầm cái khăn rằn lau nước mắt cho dì Thấm, dì như trẻ con, lau khô rồi nước mắt lại trào ra. Ông Mười vẫn nhẫn nại chậm chiếc khăn lên khuôn mặt chớm già của dì, không nói gì hết, khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm ? (Mối tình năm cũ)
    Hay là:
    ?o Nhưng không phải buồn Phương lấy vợ, tôi buồn là vì chiều nay, Nhân Phủ đã sụp đổ trong lòng.
    Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi. ? (Nhà cổ)
    Nhưng, để ý : cái khóc của Nguyễn Ngọc Tư là vì thương yêu, không vì oán giận. Không phải là cái khóc nghẹn ngào, day dứt, ủ rũ. Đây là cái khóc ào ào như cơn mưa miền Nam, và người đọc biết (hay mong mỏi) chỉ khoảnh khác thì mưa sẽ tạnh, nắng sẽ lên và nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư sẽ quẹt nước mắt xông vai trở lại cuộc sống bận rộn của mình.
    Chính vì Nguyễn Ngọc Tư còn trẻ, cô nhìn cuộc sống bằng cặp mắt trong sáng (khác với lạc quan) và trung thực. Cô không giả vờ dằn vặt nội tâm như nhiều nhà văn (không chỉ ở Việt Nam) ham đòi thời thượng. Nhưng Nguyễn Ngọc Tư không ngây thơ ?o chuyện đời ?. Cô nhìn, cô nghe, cô biết hết. Nguyễn Ngọc Tư là một chứng nhân trung thực và tinh nhạy. Không phải chứng nhân cho những vụ việc hung hăng, thô bạo, nhưng cho những mảnh đời đơn dị, bình thường. (Truyện Nguyễn Ngọc Tư không có người lừa đảo, không có kẻ sát nhân. Có lẽ trong truyện của cô cái tội lớn nhất là tội ... ngoại tình.) Nếu lúc gần đây truyện của Nguyễn Ngọc Tư có ?o buồn ? hơn, ấy không phải vì mắt cô đã nhạt đi màu hồng (hãy mong thế), nhưng vì tầm nhìn của nó xa hơn và, trong quãng không gian mở rộng đó, cô thấy thêm những chuyện đời dang dở. Cô không buồn hơn, nhưng lọt vào mắt cô là những mảng đời buồn hơn.
    Nhưng đừng tưởng Ngưyễn Ngọc Tư là người hời hợt. Quả vậy, những truyện ?" nhất là những truyện sau này ?" đều là về những mối tình không trọn. Chẳng phải đổ vỡ, nhưng không trọn. Những mối tình đó không phải chỉ của người già, mà còn là những mối tình của thế hệ cô (Ngổn ngang) ?" hay thứ tự phải ngược lại ? Nhìn cho kỹ, sự dang dở đó không phải lỗi của ai. Nguyễn Ngọc Tư chấp nhận nhưng không than oán, mà cũng không ra vẻ cứng rắn kiểu anh hùng rơm.
    Những cặp ?o tình nhân ? (tạm gọi) trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không bao giờ hôn nhau (như cô sẽ hỏi : ai làm chuyện kỳ vậy ?). Nhiều lắm, thì chỉ như :
    ?o Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.? (Giao thừa)
    hay là:
    ?o Nó ngồi sau lưng thầy ... mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy.? (Nước chảy mây trôi)
    Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này có thể làm người đọc lo ngại. Chằng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những ký sự đồng quê ? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó. Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy, chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ hôi, xót con mắt, lả ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.
    T
    Nhiều người so sánh cô với Sơn Nam. Nhưng Sơn Nam là người viết ký sự giỏi, hầu như là nhà nghiên cứu, nhà dân dã học chuyên nghiệp. Nguyễn Ngọc Tư không như vậy, cô là nhà văn chuyên môn. Những cây bút khác ở miền Nam liền trước Nguyễn Ngọc Tư (như Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng) là thế hệ của chiến tranh giành độc lập. Tuy Nguyễn Ngọc Tư không phải mang nhiệm vụ (gánh nặng ?) đó nữa, quá khứ ấy được cô đưa vào truyện một cách rất tự nhiên (Mối tình năm cũ, Ngọn đèn không tắt). Có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không biết là chính cái trẻ của cô, cái tính ?o tỉnh nhỏ ? của cô đã cho cô một lợi thế rất lớn. Đó là cô không bị hành trang của thế hệ trước làm nặng vai, hay bị ảnh hưởng của những người đi trước (trong thư riêng gởi một độc giả, Nguyễn Ngọc Tư cho biết chưa từng đọc Võ Phiến, chẳng hạn).
    Một đặc điểm của Nguyễn Ngọc Tư là hình như cô đã chớm thấy sự khác biệt giữa cô ?" như một nhà văn ?" và những người khác (chẳng hạn như trong Một mái nhà, Nguyệt - người bạn không biết viết văn). Đây là một điềm tốt nhưng cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Tốt vì cô ý thức trách nhiệm (trong chừng mực nào đó) của mình, nhưng nguy hiểm vì nó có thể gây một tự giác quá độ về chỗ đứng của cô ?" như một nhà văn - đối với xã hội. Nhà văn, theo tôi nghĩ, vừa phải đứng trong vừa phải đứng ngoài dòng cuộc sống. Song Nguyễn Ngọc Tư lại có vẻ thành thật tiếc nuối cuộc sống bình dị của những người không viết văn. Đặt vấn đề cách khác, những nhà văn trẻ Việt Nam như Nguyễn Ngọc Tư, từ trước đến giờ vẫn sống với cái bẩm sinh của mình, sẽ ra sao khi biết được nhiều hơn về văn đàn (thế giới), khi ý thức hơn ?o nghề văn ? của nhà văn ? Đó là những câu hỏi lớn, định đoạt chỗ đứng tương lai của nhà văn đó trong khu vườn văn học.
    Một cái ?o bệnh ? của những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới, mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần ?o làm dáng ? kiểu ấy. Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không ?o vén màn ? cho người đọc thấy cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta.
    Tuổi trẻ của Nguyễn Ngọc Tư làm người đọc vừa mong đợi, vừa âu lo. Mong rằng tài năng của cô sẽ chín ra, sẽ lớn thêm. Nhưng lo rằng, với tuổi đời, giọng văn tươi mát đó sẽ không còn thích hơp với những đề tài có gam màu sậm hơn. (Nhưng khoảng cách hai năm, từ Ngọn Đèn Chưa Tắt sang Giao Thừa, sự tiến bộ của cô ?" đúng ra là sự thích ứng với kinh nghiệm sống của cô, buồn hơn, thâm thúy hơn ?" làm người đọc hi vọng.)
    Chúng ta mong sự trưởng thành của Nguyễn Ngọc Tư sẽ là sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam. Ta mong cô sẽ tiếp tục là một người ghi chép chân thật những chuyển biến của đời sống dân tộc. Nếu cô làm được điều đó thì chúng ta thật cám ơn cô. Tài năng của cô đúng là thiên phú. Nguyễn Ngọc Tư là một đặc sản của miền nam.
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Đọc "Nước chảy mây trôi" của Nguyễn Ngọc Tư: Thắm đượm tình đất, tình người
    Gồm 6 truyện ngắn và 17 bút ký, ?oNước chảy mây trôi? là ấn phẩm mới nhất của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư , do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
    ?oRằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ rằng sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu? (tr.16) - lời của người mẹ dạy con trong truyện ngắn mở đầu ?oQua cầu nhớ người?, (tr.7) như khái quát phần nào tính cách và lối sống của những nhân vật trong các truyện ngắn in trong tập truyện này của Nguyễn Ngọc Tư: dám nghĩ dám làm và sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi... Đó là dì Út Thu Lý (?oChiều vắng?, tr.27), người đã dùng cả tuổi thanh xuân của mình để thay người chị ruột trả ?omón nợ tình? cho người anh rể; là ông Mười (?oMối tình năm cũ?, tr.17), người đàn ông cục mịch nhưng tốt bụng và rất mực thương vợ, sẵn sàng chịu mọi điều tiếng thị phi để vợ ông quên đi những tháng ngày đau buồn, được sống hạnh phúc; là anh Hai Nhớ, anh Hiệp ?oQua cầu nhớ người?, là Út Nhỏ (?oNhà cổ?, tr.57)...
    Giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư dung dị hồn hậu, những con người Nam bộ hiện lên trong tác phẩm của chị dịu dàng nhưng quyết liệt, chơn chất nhưng ý nhị, và tình yêu của họ mới đẹp làm sao! Vì yêu, họ sẵn sàng quên đi bản thân mình, quên đi những đắng cay chua xót mà mình đang gánh chịu. Trong ?oChiều vắng?, người đọc không khỏi xúc động trước tình yêu trái ngang nhưng nồng nàn và bền bỉ của của dì Út Thu Lý dành cho cậu Tư Nhớ. Yêu đơn độc gần hai mươi năm, đến lúc ?otóc đã trắng những sợi già?, dì Út Thu Lý vẫn còn nguyên vẹn cảm giác thẹn thùng ?ohổng biết làm sao giáp mặt anh Tư Nhớ, răng cỏ trống hơ trống hốc như vầy...?. Vì yêu, người phụ nữ ấy đã làm mọi cách để dì Ba Thu Lê về gặp mặt cậu Tư Nhớ, cho thỏa ước nguyện của cậu, bởi ?ogặp chơi vậy thôi chứ không thay đổi được gì hết?. Cách dẫn dắt khéo léo của tác giả cũng khiến những vấn đề táo bạo, nhưng không phải là không xảy ra ở cuộc đời này, mà tác giả đặt ra trở nên gần gũi, dễ chấp nhận như tình yêu của Diệp dành cho thầy Nhiên, người cha kế (Nước chảy mây trôi)...
    Trong phần ký, Nguyễn Ngọc Tư nói nhiều về quan niệm sống, những hoài niệm của tác giả và những tác động của quá trình chuyển đổi kinh tế đối với con người. Những tác phẩm đó còn tái hiện một cách sinh động hình ảnh quen thuộc của một vùng nông thôn Nam bộ: buổi chợ họp ven đường, một cái tiệm tạp hóa, những tập quán canh tác, sinh hoạt, tín ngưỡng của người nông dân ?oChợ nhóm bên đường?, tr.77; ?oChợ của má? tr.80. ?oQuán nhớ?, ?oMơ thấy mùa đang tới?... Đọc những tác phẩm này, người ta dễ dàng nhận ra một tình cảm sâu nặng với mảnh đất mà Nguyễn Ngọc Tư đã sinh ra và lớn lên: Mũi Cà Mau. Qua ?oTháng Chạp ở rạch Bộ Tời?, tr.140, ?oXa đầm Thị Tường? tr.151", ?oĐất Mũi mù xa? tr.132... Đất Mũi Cà Mau hiện ra với tất cả những tình cảm trìu mến, trân trọng, thương yêu, và giúp người đọc khám phá ra những nét độc đáo của mảnh đất, con người nơi vùng đất cuối trời Tổ quốc này. Trong ?oĐất Mũi mù xa?, chị viết: ?oNắng thì lầm lì thôi là lầm lì, gió cởi mở thôi là cởi mở. Biển đã đục là ngầu ngầu phù sa. Nước đã mặn là mặn quéo đầu lưỡi. Người đất Mũi rặt đã thương thì thương trọn, đã nhớ thì nhớ sâu, đã sầu thì sầu dai dẳng - (tr.136). Nhưng càng yêu quý mảnh đất này, tác giả cùng trăn trở với những gì đang diễn ra ở Đất Mũi, những niềm vui, hy vọng cũng như sự cơ cực của người dân nơi đây cùng những nuối tiếc khi con tôm đang thay thế dần những cánh đồng lúa, những vuông tôm đang thay thế những cánh rừng...
    Vẫn cách viết mộc mạc đã làm nên một phong cách của Nguyễn Ngọc Tư, đọc ?oNước chảy mây trôi?, người ta không chỉ trăn trở cùng các nhân vật của chị, mà còn có thể phác họa nên một bức tranh toàn cảnh về mảnh đất, con người nơi đây, cùng tác giả chia sẻ những cảm xúc vui mừng, háo hức, hy vọng và cả những giằng xé đớn đau. Nói như Nguyễn Ngọc Tư đã viết: ?oCoi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi. Phải chọn lựa và trả giá chớ? (tr56)...
    HOÀNG THANH
  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Đọc "Nước chảy mây trôi" của Nguyễn Ngọc Tư: Thắm đượm tình đất, tình người
    Gồm 6 truyện ngắn và 17 bút ký, ?oNước chảy mây trôi? là ấn phẩm mới nhất của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư , do Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
    ?oRằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ rằng sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu? (tr.16) - lời của người mẹ dạy con trong truyện ngắn mở đầu ?oQua cầu nhớ người?, (tr.7) như khái quát phần nào tính cách và lối sống của những nhân vật trong các truyện ngắn in trong tập truyện này của Nguyễn Ngọc Tư: dám nghĩ dám làm và sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi... Đó là dì Út Thu Lý (?oChiều vắng?, tr.27), người đã dùng cả tuổi thanh xuân của mình để thay người chị ruột trả ?omón nợ tình? cho người anh rể; là ông Mười (?oMối tình năm cũ?, tr.17), người đàn ông cục mịch nhưng tốt bụng và rất mực thương vợ, sẵn sàng chịu mọi điều tiếng thị phi để vợ ông quên đi những tháng ngày đau buồn, được sống hạnh phúc; là anh Hai Nhớ, anh Hiệp ?oQua cầu nhớ người?, là Út Nhỏ (?oNhà cổ?, tr.57)...
    Giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư dung dị hồn hậu, những con người Nam bộ hiện lên trong tác phẩm của chị dịu dàng nhưng quyết liệt, chơn chất nhưng ý nhị, và tình yêu của họ mới đẹp làm sao! Vì yêu, họ sẵn sàng quên đi bản thân mình, quên đi những đắng cay chua xót mà mình đang gánh chịu. Trong ?oChiều vắng?, người đọc không khỏi xúc động trước tình yêu trái ngang nhưng nồng nàn và bền bỉ của của dì Út Thu Lý dành cho cậu Tư Nhớ. Yêu đơn độc gần hai mươi năm, đến lúc ?otóc đã trắng những sợi già?, dì Út Thu Lý vẫn còn nguyên vẹn cảm giác thẹn thùng ?ohổng biết làm sao giáp mặt anh Tư Nhớ, răng cỏ trống hơ trống hốc như vầy...?. Vì yêu, người phụ nữ ấy đã làm mọi cách để dì Ba Thu Lê về gặp mặt cậu Tư Nhớ, cho thỏa ước nguyện của cậu, bởi ?ogặp chơi vậy thôi chứ không thay đổi được gì hết?. Cách dẫn dắt khéo léo của tác giả cũng khiến những vấn đề táo bạo, nhưng không phải là không xảy ra ở cuộc đời này, mà tác giả đặt ra trở nên gần gũi, dễ chấp nhận như tình yêu của Diệp dành cho thầy Nhiên, người cha kế (Nước chảy mây trôi)...
    Trong phần ký, Nguyễn Ngọc Tư nói nhiều về quan niệm sống, những hoài niệm của tác giả và những tác động của quá trình chuyển đổi kinh tế đối với con người. Những tác phẩm đó còn tái hiện một cách sinh động hình ảnh quen thuộc của một vùng nông thôn Nam bộ: buổi chợ họp ven đường, một cái tiệm tạp hóa, những tập quán canh tác, sinh hoạt, tín ngưỡng của người nông dân ?oChợ nhóm bên đường?, tr.77; ?oChợ của má? tr.80. ?oQuán nhớ?, ?oMơ thấy mùa đang tới?... Đọc những tác phẩm này, người ta dễ dàng nhận ra một tình cảm sâu nặng với mảnh đất mà Nguyễn Ngọc Tư đã sinh ra và lớn lên: Mũi Cà Mau. Qua ?oTháng Chạp ở rạch Bộ Tời?, tr.140, ?oXa đầm Thị Tường? tr.151", ?oĐất Mũi mù xa? tr.132... Đất Mũi Cà Mau hiện ra với tất cả những tình cảm trìu mến, trân trọng, thương yêu, và giúp người đọc khám phá ra những nét độc đáo của mảnh đất, con người nơi vùng đất cuối trời Tổ quốc này. Trong ?oĐất Mũi mù xa?, chị viết: ?oNắng thì lầm lì thôi là lầm lì, gió cởi mở thôi là cởi mở. Biển đã đục là ngầu ngầu phù sa. Nước đã mặn là mặn quéo đầu lưỡi. Người đất Mũi rặt đã thương thì thương trọn, đã nhớ thì nhớ sâu, đã sầu thì sầu dai dẳng - (tr.136). Nhưng càng yêu quý mảnh đất này, tác giả cùng trăn trở với những gì đang diễn ra ở Đất Mũi, những niềm vui, hy vọng cũng như sự cơ cực của người dân nơi đây cùng những nuối tiếc khi con tôm đang thay thế dần những cánh đồng lúa, những vuông tôm đang thay thế những cánh rừng...
    Vẫn cách viết mộc mạc đã làm nên một phong cách của Nguyễn Ngọc Tư, đọc ?oNước chảy mây trôi?, người ta không chỉ trăn trở cùng các nhân vật của chị, mà còn có thể phác họa nên một bức tranh toàn cảnh về mảnh đất, con người nơi đây, cùng tác giả chia sẻ những cảm xúc vui mừng, háo hức, hy vọng và cả những giằng xé đớn đau. Nói như Nguyễn Ngọc Tư đã viết: ?oCoi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi. Phải chọn lựa và trả giá chớ? (tr56)...
    HOÀNG THANH
  10. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Đau Gì Như Thể... (1)
    Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời.
    Ông khẽ khàng vòng theo mé hè ra chái sau, bắc ấm nước lên bếp. Một làn khói mỏng bay lên. Lửa bắt đầu le lói ngoi lên giữa đám củi dừa rồi lại ngụp xuống, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe thằng Sáng vùng vằng đập chân xuống giường, ông buột miệng, ?oTội nghiệp, chắc muỗi cắn thằng nhỏ?. Con Nga ngồi dậy, hỏi vọng ra, ?oMới nửa đêm mà, ba thức chi ??. Ông già trần tình như con Nga đang ngồi trước mặt mình : ?oTao ngủ hỏng được. Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à?. Nga dạ, tiếng dạ của nó nghe chớm nghẹn ngào. Giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau chạy xổm trên mái nhà, như một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn. Con Nga ngậm ngùi, bữa nay trời trở gió, chắc ngoài kia lạnh lắm, rồi nó ngập ngừng lên tiếng, ?oMai vô nhà ngủ? nghen ba?. Ngực ông Tư hực một tiếng, trái cổ nhảy ầng ậc để ngăn cho dòng nước mắt chực trào. Ông lật bật hốt một nắm trà, bỏ vào cái bình sứt vòi, nói ?oBây để từ từ, tao tính??.
    Ngay lập tức ông thôi thèm trà, ông muốn ngủ, ngủ đêm ngủ ngày, để khi thức dậy, như một phép màu, ông ngồi ngay bên mâm cơm chiều con Nga vừa mới dọn ra. Nó biểu ba uống rượu đi, bữa nay có con cá lóc nướng thiệt ngon. Mà, ba tắm làm sao con nghe hôi sình quá trời đất vậy. Ông cười, ngồi tém tẻ, mắt khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ruộm, ?olàm nghề lặn đất như tao hỏng hôi bùn sình thì hôi gì, con ??. Con Nga cũng cười, nó lật lưng con cá lên, lấy đũa xẻ dọc, gắp vô chén ông cái đầu dính theo bộ lòng, bảo ?oCon giăng mùng sẵn rồi, chút nữa con đi tập văn nghệ, ba nhậu thấy vừa xỉn là chui vô mùng liền nghen?. Nói xong, nó lấy lược chải đầu, vói lấy cái kẹp tóc chạy đi, miệng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua khỏi bụi trâm bầu mà tiếng hát vẫn chưa tan.
    Cảnh đó đã lâu rồi không trở lại. Cũng như lâu rồi hai ba con ông Tư không còn quảy lon trùng ra ngồi thong thả câu cá bên gốc trâm bầu, rồi người trước mũi, người sau lái bơi xuồng đi nhổ bông súng dưới kinh. Những trưa nắng, con Nga không còn ngồi nhổ tóc bạc cho ông. Chẳng bao giờ người Xẻo Mê còn chứng kiến hai ba con họ xuất hiện cùng nhau.
    Bây giờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủ ở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt.
    Tình cha con đã như nước chảy xuống kẻ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rầu xin ra Chợ Cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại Xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tong tả xông vào nhà, níu ao ông mà rằng:
    - Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu ?
    Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi từng ấy năm trời, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa? Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đến mời ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. Mọi người bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh Tư Nhỏ hồi nào giờ ở đời tử tế, chị đã dò hỏi kỹ chưa, con Nga nó nói vậy à. Không, con Nga nó không chịu nói tên người đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên ? Ai trồng khoai đất này?
    Lúc con Nga hay được thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, ?oBa ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba?. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, ?oThôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi ??.
    Hồi đó, ông cũng tưởng, chuyện qua rồi. Hai ba con ông ra khỏi cổng uỷ ban, nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong những giấc mơ ông, khi giật mình thức dậy, mắt ông luôn luôn đầy nước). Dài theo dãy hàng quán che tum che bạt, người ta đứng coi đông thiệt đông. Đám con nít chạy theo vỗ tay kêu cô dâu chú rể kìa tụi bây ơi, trâu già khoái cỏ non kìa. Người lớn hả hê nhưng giả đò đằng hắng biểu đám trẻ im đi. Coi tướng tá ông Tư hiền lành, đàng hoàng vậy mà làm chuyện động trời, đúng là ?olù đù vác cái lu chạy??, hết chuyện rồi sao mà tằng tịu với con mình. Đâu nè, có phải con ruột ổng đâu. Chị Hai nhớ không thím Bảy nhớ không, hồi má con Nga xáp lại với Tư Nhỏ, bụng đã mang bầu, rồi con nhỏ Nga mới lẩm đẩm biết đi, chị ta bỏ ra Chợ Cũ, Tư Nhỏ phải làm mẹ gà chắt chiu con vịt. Tưởng đâu ông ấy thương con Nga như cha thương con thiệt lòng, thì ra ổng ghé chỗ tui mua cái bánh dừa, củ khoai lang, cây kẹp tóc? về cho con nhỏ là có ý đồ. Tưởng đâu thằng chả nghĩ tới con Nga nên không lấy vợ, ai mà dè?
    Nắng tắt lịm, trời ơi, đâu rồi xóm giềng thân thuộc, đâu rồi khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười quen, ông Tư đứng khựng lại, uất ức, trơ cứng cả quai hàm. Con Nga òa khóc, bỏ chạy tắt theo đường đồng, trên bờ ruộng lông chông những chân cỏ ống cháy trơ xương xẩu. Rồi nó chợt dừng lại, ngó cái bờ chuối mờ chìm trong đêm. Chỗ đó nhắn mắt lại nó vẫn nhìn ra một bãi cỏ mềm, mấy cành cây khô có con rắn mối bò ra bò vô. Chỗ đó, nó với anh đã mấy lần?
    Nhưng bây giờ chỉ còn một mình nó ngồi đây, giữa đồng khơi, đến lúc sương xuống ướt đầm một vai tóc nó mới đứng dậy ra về. Nó gặp ông Tư giữa đường, ngọn đuốc trên tay ông đã gần tàn, cháy lom đom, phập phều trong gió. Ông bảo, ?oBa sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng ráng mà sống nghen con?. Con Nga dạ rồi bỗng giật thót lên, nhìn quanh, trong mắt thoáng hãi hùng, nó biểu ông đi trước đi, nhanh lên, đứng xa nó ra, kẻo người ta thấy?
    Rồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo ?oHết rồi?, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy? Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha. Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, ?oBậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy?. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình ? Mà, con nhỏ đã gần sinh?
    Ông Tư mua than đước dự trữ trong nhà, đưa con Nga ít tiền ra chợ sắm sửa cho đứa bé sắp chào đời. Ông còn chuẩn bị cả vỏ tỏi, hạt mè để làm thuốc cho con Nga những ngày ở cử. Ông ngượng ngịu bảo, ?oCái này? tao biết là vì? hồi má bây sinh??.
    Chỉ chờ có vậy, kỷ niệm ùa về kinh hãi, tươi xanh. Như thể mới chiều hôm qua, Cúc đội thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau khổ hỏi, tui biết anh để ý thương tui, anh có muốn cưới tui làm vợ không ? Rồi Cúc nói luôn, không cần cưới hỏi gì, mai tui cuốn đồ lại theo anh. Tưởng đâu nói chơi, ông cười, ai dè Cúc làm thiệt, cô gái đẹp nhất Xẻo Mê về với ông gọn gàng như người ta nhảy ùm xuống ao. Rồi Cúc có thai, ai cũng cười, úi chà chà, bộ trồng lúa ngắn ngày hay sao vậy cà, có chắc là cái thai đó của mầy không, Tư Nhỏ. Ông cười, không nói, nghĩ nó là của mình thì là của mình. Và khi bà mụ Năm trao cho ông đứa trẻ tóc dày mịt, mắt đen, môi đỏ, lòng ông vui mừng rưng rưng, nó là con của mình, con của mình.

Chia sẻ trang này