1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện Ngắn Oscar Wilde

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 19/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Truyện Ngắn Oscar Wilde

    Chú bé Sao Băng
    Ngày xửa ngày xưa, một hôm có hai bác tiều phu nghèo khổ đang đi xuyên qua một khu rừng thông rộng lớn để trở về nhà. Lúc đó vào mùa đông, đêm lạnh cắt da cắt thịt. Tuyết phủ dày trên đất và trên các cành cây, sương giá không ngừng quất vào các nhánh cây kêu tanh tách ở hai bên lối họ đi qua: Và khi đi tới thác Núi, họ thấy thác đang treo im lìm trong khoảng không trung vì vua Băng đã hôn lên nó. Trời lạnh buốt, đến nỗi cả chim muông cũng không còn biết xoay xở ra làm sao nữa.

    -Hu, hú!

    -Lão Sói vừa cằn nhằn, đuôi quấn giữa hai chân, vừa lê bước qua các bụi cây.

    -Thời tiết ghê gớm hết chỗ nói. Thế mà cớ sao chính phủ không lưu ý tới, hử?

    -Tuýt! Tuýt! Tuýt.

    -Chú Sẻ lanh lông xanh kêu líu ríu.

    -Mụ già Đất chết rồi, chết rồi. Người ta đã liệm mụ trong tấm vải tang trắng của mụ.

    -Bà Đất sắp sửa lấy chồng, đây là chiếc áo cưới của bà ta.

    -Các con chim nói thì thào với nhau như vậy. Đôi cẳng hồng của chúng đã bị giá làm tê cóng, nhưng chúng nghĩ, bổn phận của chúng là phải có một cái nhìn lãng mạn đối với hoàn cảnh. Lão Sói bèn gầm lên:

    -Láo toét! Ta nói cho bọn bay biết, tất cả do lỗi của chính phủ, biết chưa? Mà nếu tụi bay không tin tao, tao sẽ ăn thịt ráo, biết chưa?

    -lão Sói có đầu óc hoàn toàn thực tiễn, chẳng bao giờ lão bị lúng túng để tìm ra một lý lẽ thích đáng.

    -Thôi.

    -Chim Gõ Kiến bẩm sinh là một nhà triết học, nói.

    -Về phần ta, ta chả cần gì đến một học thuyết nguyên tử mới giải thích được thế này thế nọ. Sự việc là thế thì nó là thế, mà hiện giờ trời đang lạnh khủng khiếp đấy.

    Rõ ràng trời đang lạnh khủng khiếp. Những con sóc bé nhỏ sống trong cây giẻ to cao, cứ mãi cọ mũi vào nhau để giữ mình cho được ấm; các chú thỏ rừng nằm cuộn tròn trong hang, không dám đánh liều thò đầu ra ngoài dù chỉ để ngó một chút. Kẻ duy nhất có vẻ thích thú ấy là những bác cú to có cái đầu như mang sừng. Lông của họ cứng đơ vì sương muối, nhưng họ chả cần để ý, họ đảo tròn đôi mắt màu vàng, cất tiếng gọi nhau ngang qua khu rừng; Cú, cú, cú! Thời tiết mới đẹp không chứ! Cú, cú! Hai bác tiều phu vừa mải miết dấn bước, vừa thổi phù phù vào các ngón tay, đôi giày to sụ với đế cá sắt hằn vết đậm trên mặt tuyết đóng bánh. Khi thì họ thụt vào một con lạch sâu và lúc thoát ra được thì mình mẩy trắng lốp như bác thợ xay bột bên các thớt đá đang quay nghiền bột; khi thì họ trượt chân trên băng cứng trơn, ở đó nước đầm lầy đã đông lại, lúc đó các khúc củi buộc thành bó bị tuột ra, họ đành phải nhặt lên bó lại, có khi họ tưởng đã lạc đường, kinh hãi rụng rời, vì họ biết chúa Tuyết rất ác độc đối với những ai nằm yên trong đôi cánh tay của bà.

    Nhưng họ đặt lòng tin vào thánh Mác-tanh phúc đức săn sóc đến mọi kẻ đi đường, cho nên họ quay trở lại, dò dẫm bước đi. Cuối cùng họ ra tới bìa rừng và xa xa trong thung lũng nằm phía dưới chân, họ thấy ánh lửa le lói trong làng, nơi họ sinh sống. Thấy đã thoát nạn, họ vui mừng khôn xiết, cười nói oang oang, và lúc đó, họ thấy mặt đất nom như một đóa hoa bằng bạc và mặt trăng như một đóa hoa bằng vàng. Tuy nhiên, sau khi đã vui cười họ trở nên buồn bã vì nhớ đến tình cảnh nghèo khổ của mình. Một người nói với người kia:

    -Làm sao chúng mình lại vui đùa được nhỉ? Vì chúng mình biết, cuộc sống dành cho người giàu, chứ dành đâu cho những người như hạng chúng mình. Thà lúc nãy ở trong rừng chúng mình bị chết cóng, hoặc bị con thú dữ nào đó vồ chết, như thế còn hơn.

    -Đúng đấy.

    -Người bạn đáp.

    -Kẻ ăn chả hết, người lần không ra. Thế giới này đã bị sự bất công cắt ra từng mảnh, nhưng chả có gì được phân chia đều, cả sự đau khổ cũng vậy. Nhưng trong khi họ đang cùng nhau than thở về nỗi cơ cực của mình thì bỗng xảy ra một điều lạ lùng. Lúc đó từ trên trời rơi xuống một ngôi sao sáng chói. Nó gieo xuống phía chân trời, lướt cạnh các ngôi sao khác, và trong khi ngắm nhìn sửng sốt, họ thấy dường như nó lặn mất ở sau một lùm cây liễu sát cạnh một trại cừu nhỏ cách xa chỗ họ đứng không quá một tầm ném đá.

    -Đấy nhé! Ai tìm ra nó thì sẽ bắt được một hũ vàng!

    -Họ kêu lên như vậy rồi hăm hở chạy tới để kiếm của. Một trong hai người nhanh chân hơn, bỏ xa bạn, xông bừa qua lùm liễu rồi sang được tới phía bên kia... ô kìa! Quả thật, có một vật gì bằng vàng nằm trên tuyết trắng. Bác hối hả lao về phía nó, rồi vừa cúi xuống bác vừa đặt tay lên nó: đấy là một chiếc áo dệt bằng vải quý thêu những ngôi sao nom rất kỳ lạ và được quấn lại thành nhiều lớp. Thế là bác kêu to, nói cho bạn biết mình đã tìm thấy kho vàng từ trên trời rơi xuống. Khi người bạn tới, hai người ngồi xuống nơi tuyết, gỡ nếp quấn của chiếc áo để hòng chia nhau các đồng tiền vàng. Nhưng chao ôi! Nào có thấy vàng bạc hoặc bất cứ thứ của cải nào, ngoài một đứa bé đang ngủ thiếp đi. Một người nói với người kia:

    -Hy vọng của chúng mình là thế, kết thúc lại là thế! Cay đắng quá. Mà cái số chúng mình không may chút nào, vì một đứa bé thì đem lại lợi gì cho một thằng người, hở? Thôi, hãy bỏ nó lại đây, rồi cứ đường mà về. Chúng mình thuộc cánh nghèo, còn phải nuôi con cái đẻ ra, không thể xén phần bánh của chúng cho con kẻ khác được. Nhưng người bạn đáp:

    -Thế sao được. Bỏ đứa bé lại đây để nó chết trong tuyết, thế thì độc ác quá. Tôi cũng nghèo như bác, nhà lại nhiều miệng ăn, chẳng có gì mà cho vào nồi, nhưng mặc, tôi cứ đem nó về nuôi. Nhà tôi sẽ chăm sóc nó. Thế là bác âu yếm bế đứa bé lên, quấn lại chiếc áo quanh người nó để tránh cho nó khỏi bị thấm cái khí lạnh khắc nghiệt, rồi bác đi xuống đồi về làng, trong khi người bạn hết sức ngạc nhiên trước sự dại dột cũng như lòng từ tâm của bác. Tới làng, người bạn nói:

    -Bác đã có được đứa bé, vậy hãy dành cho tôi chiếc áo, vì lẽ chia phần với nhau là điều thích đáng thôi. Nhưng bác tiều phu đáp lại:

    -Đâu được. Chiếc áo chẳng phải của bác, cũng chẳng phải của tôi, nó là của đứa bé. Nói xong, bác chúc bạn may mắn, rồi đi về nhà mình. Bác gõ cửa, người vợ ra mở, thấy chồng trở về với mình được yên ổn, chị vòng tay ôm lấy cổ chồng mà hôn, rồi chị đỡ lấy bó củi trên lưng bác xuống, phủi tuyết trên đôi ủng của bác rồi giục bác đi vào nhà. Bác nói với vợ:

    -Đây này, tôi đã bắt được món này trong rừng, tôi đem nó về cho mình coi sóc.

    -Miệng nói thế nhưng bác vẫn không nhúc nhích khỏi ngưỡng cửa.

    -Cái gì vậy?

    -Chị vợ kêu lên.

    -Cho tôi xem nào! Nhà mình nghèo xác nghèo xơ, thiếu bao nhiêu là thứ. Bác tiều phu bèn kéo chiếc áo ra và chỉ cho vợ xem đứa bé đang ngủ.

    -ối trời!

    -Người vợ kêu lên.

    -Nhà ta con cái nào có thiếu! Thế mà mình lại còn đi rước về một đứa trẻ. Biết đâu nó chẳng đem họa đến cho nhà mình. Mà phải săn sóc nó thế nào đây?

    -Chị giận dỗi với chồng.

    -Nhà nói thế sao được.

    -Người chồng đáp

    -Nó là chú bé Sao Băng.

    -Rồi bác thuật lại cho vợ nghe bác đã tìm thấy chú một cách lạ lùng như thế nào. Nhưng người vợ vẫn không nguôi giận, lại còn chế giễu, đay nghiến chồng và gào lên:

    -Con cái mình thì thiếu cái bỏ vào mồm lại còn phải nuôi báo cô con kẻ khác hay sao? Có ai thương đến chúng mình? Ai đem bánh biếu mình nào?

    -Nhà nói thế nghe sao được. Chúa săn sóc ngay cả đến bầy chim sẻ và cho chúng ăn kia mà.

    -Thế mùa đông chim sẻ không chết đói lăn ra đấy sao?

    -Chị vặn lại.

    -Bây giờ không phải là mùa đông đấy nhỉ! Bác tiều phu chẳng đáp lại nửa lời, cứ đứng lì ra ở ngưỡng cửa, không chịu nhúc nhích. Một luồng gió lạnh lướt từ khu rừng thổi thốc vào cánh cửa để mở khiến chị vợ run lên, chị rùng mình bảo chồng:

    -Sao mình không chịu đóng cửa lại? Đấy, gió lạnh buốt xương đang lùa vào nhà đấy. Rét ơi là rét!

    -Trong một căn nhà có trái tim lạnh giá thì bao giờ gió buốt chả lùa vào, không phải thế sao?

    -Người chồng nói. Chị vợ không đáp mà chỉ rón rén bước lại gần bếp lửa.

    Và một lát sau, chị xoay người lại, nhìn chồng rồi nước mắt chị trào ra. Thế là bác tiều phu nhanh chân bước vào nhà, trao đứa bé vào tay vợ; chị vợ hôn hít chú, đặt chú vào chiếc giường nhỏ bé ở đó đứa con út của họ đang nằm ngủ. Và ngày hôm sau, bác tiều phu lấy chiếc áo dệt bằng vải quý bỏ vào một chiếc rương to, còn cái vòng bằng mã não đeo ở cổ đứa bé, chị vợ cũng cởi nó ra rồi cũng bỏ nó vào rương. Thế là từ đấy chú bé Sao Băng được nuôi dưỡng với con cái bác tiều phu, ăn cùng bàn, cùng chơi với bọn chúng. Cứ mỗi năm qua, nhìn càng thấy chú xinh đẹp hơn, tất cả dân làng đều hết sức kinh ngạc, vì trong khi họ da ngăm đen và tóc đen thì chú trắng như ngà và thanh tú, tóc chú uốn búp, như những vòng hoa thủy tiên. Đôi môi chú cũng vậy, giống như những cánh hoa đỏ thắm, còn mắt thì nhỏ như những bông hoa tím bên cạnh dòng sông nước trong vắt, thân mình chú như hoa thủy tiên trên một cánh đồng chưa bị thợ gặt đụng tới. Tuy nhiên, vì xinh đẹp cho nên nó đâm ra xấu tính. Nó trở nên kiêu ngạo, độc ác, ích kỷ. Con cái bác và những đứa trẻ khác trong làng bị nó khinh bỉ, vì nó cho rằng chúng thuộc gia đình hèn hạ, còn nó thì thuộc dòng dõi cao quý, xuất thân từ một ngôi sao, và nó tự phong là chủ bọn chúng, xem chúng là tôi tớ của mình. Nó không thương xót chút nào những kẻ nghèo khổ, mù lòa, hoặc những người tàn tật và đau đớn vì một lẽ gì đó; trái lại nó thường ném đá vào họ, xua đuổi họ ra ngoài đường cái, bảo họ hãy đi ăn xin nơi khác; đến nỗi, trừ bọn trộm cướp ra, chẳng có ai đến làng đó ăn xin lần thứ hai. Thật tình, mê mẩn vì mình đẹp, nó sẵn sàng chế nhạo những kẻ ốm yếu và xấu xí, nó đem họ ra làm trò cười; nó chỉ ưa thích bản thân nó, và về mùa hạ, lúc trời lặng gió, nó hay nằm dài cạnh giếng trong vườn cây ăn quả của ông tu sĩ, nhìn xuống nước ngắm khuôn mặt đẹp diệu kỳ của chính nó, rồi cất tiếng cười, thích thú với vẻ đẹp của mình. Bác tiều phu và vợ thường phải quở mắng nó:

    ?oBố mẹ đây đâu có đối xử với con như con đã đối xử với những kẻ bị bỏ bơ vơ không ai cứu giúp. Cớ sao con lại độc ác đến thế đối với tất cả những ai cần được thương xót?? Cha xứ già cũng thường nhắn nó tới gặp ông và tìm cách dạy nó tình thương yêu các sinh vật. ông nói:

    ?oCon ruồi là anh em với con. Đừng làm hại nó! Giống chim muông bay đây bay đó qua khu rừng có tự do riêng của chúng. Đừng đánh bẫy chúng chỉ để mà đùa nghịch. Chúa đã tạo ra con rắn thủy tinh và con chuột chũi, con nào cũng có nơi có chỗ của chúng. Con là ai mà dám mang đau khổ vào thế giới của Chúa? Ngay các gia súc trên đồng nội cũng ca tụng công đức của Người?.

    Nhưng thằng bé Sao Băng đâu có đếm xỉa đến những lời khuyên đó; nó thường chau mày tỏ vẻ khinh thị rồi quay về với chúng bạn và cầm đầu bọn chúng. Còn tụi bạn thì nghe theo nó, vì nó xinh đẹp, nhanh nhẹn, lại biết nhảy múa, thổi sáo và chơi nhạc. Thằng bé Sao Băng dẫn chúng đi bất cứ đâu chúng cũng đi theo, nó bảo chúng làm bất cứ gì, chúng cũng làm. Khi nó lấy một nhánh lau nhọn sắc chọc thủng mắt của con chuột chũi thì chúng cười reo, và chúng cũng cười reo khi nó ném đá vào người bị bệnh phong. Việc gì nó cũng điều khiển chúng và chúng cũng trở nên lòng lim dạ đá như nó vậy. Thế rồi một ngày nọ, có một người đàn bà ăn xin khốn khổ đi qua làng. Quần áo bà rách tơi tả, chân bà rớm máu vì mải đi trên con đường cái gồ ghề lởm chởm, và cảnh ngộ của bà hết sức thảm thương. Mệt rã rời, bà ngồi bệt dưới một cây dẻ để nghỉ ngơi. Nhưng khi thằng bé Sao Băng nom thấy bà, nó liền nói với chúng bạn:

    -Chúng mày trông kìa. Có một con mụ ăn xin ngốc nghếch đang ngồi dưới cái cây xinh đẹp lá xanh kia kìa! Ta lại đó, chúng mình đuổi cổ mụ đi, mụ xấu xí, vô duyên lắm! Thế rồi nó đi tới gần, ném đá vào bà, nhạo báng bà, còn bà thì nhìn nó với đôi mắt kinh sợ nhưng vẫn nhìn nó chằm chằm. Bác tiều phu lúc đó đang lắp cái khúc gỗ mới xẻ trong nhà chứa xe gần đấy, thấy thằng bé Sao Băng đang làm như vậy, bác vội chạy tới quở mắng nó:

    -Rõ ràng lòng dạ mày ác nghiệt quá, con S; mày chẳng biết thương xót là gì. Người đàn bà khốn khổ này đã làm hại gì mày mà mày nỡ đối xử với bà ta như thế? Thế là thằng bé Sao Băng giận đỏ mặt, giẫm chân thình thịch và nói:

    -Tôi làm gì mặc tôi, ông là ai mà được hỏi? Tôi đâu có phải con ông mà ông bảo gì tôi phải làm nấy.

    -Mày nói đúng đấy.

    -Bác tiều phu đáp.

    -Có điều tao thấy thương hại mày khi tao tìm thấy mày trong rừng. Nghe đến những lời đó, người đàn bà thét lên một tiếng rồi ngất lịm. Bác tiều phu mang bà vào nhà mình và vợ bác trông nom săn sóc bà. Khi bà tỉnh lại, họ bèn đặt thức ăn thức uống trước mặt bà và tìm lời an ủi bà. Nhưng bà ta không thiết gì đến ăn uống mà chỉ hỏi bác tiều phu:

    -Vừa rồi, có phải bác nói đã tìm thấy thằng bé ở trong rừng, phải không? Từ ngày đó đến nay, nó đã lên mười phải không?

    -Phải đấy, bà ạ.

    -Bác tiều phu đáp.

    -Chính tôi đã tìm thấy nó trong rừng, và từ bấy đến nay, nó đã lên mười.

    -Bác thấy có dấu hiệu gì ở người nó?

    -Bà hỏi to.

    -ở cổ có đeo một dây chuyền hổ phách chứ gì? Còn người nó quấn trong một chiếc áo vải quý, có trổ sao, phải không?

    -Đúng thế.

    -Bác tiều phu đáp.

    -In hệt như bà nói. Rồi bác mở rương, lấy chiếc áo và chiếc dây chuyền hổ phách bác cất trong đó, và bác đưa cho bà xem. Thấy những đồ vật đó, bà vui sướng đến khóc oà lên, bà nói:

    -Nó là con trai tôi, tôi đã mất nó ở trong rừng. Bác làm phúc gọi nó nhanh nhanh cho tôi một tí. Tôi đã đi lang thang khắp thiên hạ để tìm nó đấy, bác ơi! Bác tiều phu cùng vợ bèn đi gọi thằng bé Sao Băng, họ nói với nó:

    -Con đi vào nhà đi. Mẹ con đang đợi con trong ấy. Nghe nói thế, nó chạy vào, lòng tràn ngập nỗi kinh ngạc lẫn niềm vui sướng khôn xiết. Nhưng khi nom thấy người đàn bà ăn xin đang đợi nó, nó bèn cười chế giễu:

    -! Mẹ tôi đâu nào? Ngoài cái con mụ ăn xin hèn hạ này ra, tôi chả còn thấy ai cả.

    -Ta là mẹ con đây, con ơi!

    -Người đàn bà đáp lại.

    -Mụ điên hay sao mà nói thế, hở?

    -Sao Băng giận dữ hét.

    -Ta không phải con cái gì của mụ hết. Mụ là con mụ ăn xin, lại xấu xí, rách rưới, thế thôi! Vậy mụ hãy cút khỏi đây, đừng có để ta nom phải cái mặt xấu xí của mụ nữa.

    -Không được, quả con là thằng út của mẹ mà, mẹ để mất con trong rừng mà!

    -Bà vừa khóc vừa quỳ xuống, giơ đôi cánh tay về phía con.

    -Bọn kẻ trộm đã bắt trộm con, con có bị chết chúng cũng bỏ mặc,

    -bà lầm rầm,

    -nom thấy con mẹ đã nhận ra con ngay, mẹ cũng nhận ra các vật làm dấu nữa, chiếc áo ngoài dệt sợi bằng vàng, với chiếc dây chuyền hổ phách. Vậy mẹ van con đấy, hãy đến với mẹ, con ơi! Mẹ đã đi lang thang khắp thế gian này để tìm con. Con trai của mẹ, lại đây với mẹ. Mẹ cần đến tình thương yêu của con. Nhưng Sao Băng vẫn cứ đứng trơ trơ không nhúc nhích, lòng nó đã khép chặt; không còn nghe tiếng gì ngoài tiếng bà mẹ đang khóc vì đau buồn. Cuối cùng, nó nói với bà ta, giọng cục cằn:

    -Nếu quả thật mụ là mẹ ta, thì tốt nhất là mụ phải đi khỏi nơi này, đừng có đến đây để khiến ta phải xấu hổ, bởi lẽ ta nghĩ ta là con của một vì sao nào đó, chứ đâu phải con một kẻ ăn xin như mụ đã nói. Đã thế, mụ hãy cút khỏi nơi đây, đừng để ta nom thấy mụ nữa.

    -ôi, con ơi! Thế con không muốn hôn mẹ trước khi mẹ ra đi sao? Mẹ đã chịu khổ trăm đường mới tìm ra con.

    -Không!

    -Sao Băng nói

    -Ta khó mà nhìn mụ được, mụ xấu xí quá! Chẳng thà hôn con rắn lục hay con cóc còn hơn hôn mụ. Thế là người đàn bà đứng lên, chân bước đi, miệng khóc than thảm thiết: còn thằng bé Sao Băng lúc thấy bà đã đi khuất thì bụng mừng rơn, nó trở lại với lũ bạn chơi để có thể nô đùa với chúng. Nhưng khi thấy Sao Băng tới, bọn trẻ chế nhạo nó:

    -ô kìa mày cũng xấu như con cóc, cũng ghê tởm như con rắn lục. Hãy cút đi, chúng tao không chịu để mày chơi với chúng tao đâu. Và chúng đuổi nó ra khỏi vườn. Thằng bé Sao Băng chau mày nghĩ thầm:

    ?oChúng nói thế là thế nào nhỉ? Được rồi, mình sẽ đi ngay tới giếng, nhìn xuống nước xem sao, nó sẽ cho mình hay mình đẹp biết ngần nào!? Thế là nó đi lại phía giếng nước, nhìn xuống đáy. Trời ơi! Mặt nó nom cũng như mặt con cóc và thân mình nó cũng phủ lớp vảy như rắn lục. Nó bèn gieo mình xuống cỏ, vừa khóc lóc vừa tự nhủ:

    ?oThôi, phải rồi, cơ sự thế này là do tội lỗi của mình. Mình đã ruồng bỏ mẹ, đã đuổi mẹ đi, lại còn kiêu ngạo và tàn nhẫn với mẹ. Đã thế thì mình phải đi khắp thiên hạ để tìm kiếm mẹ. Mà chưa tìm được thì mình chưa chịu nghỉ ngơi?. Vào lúc đó, đứa con gái út của bác tiều phu đến với nó; em đặt tay lên vai nó và nói:

    -Anh ạ, anh không còn đẹp nữa, nhưng có hề gì. Anh cứ ở lại với bọn em, em không cười anh đâu mà! Sao Băng bèn nói với em bé:

    -Không được, em ạ. Anh đã độc ác với mẹ anh cho nên anh phải bị trừng phạt thế này. Vậy thì anh phải rời khỏi nơi đây, đi khắp thiên hạ để tìm cho ra mẹ anh; lúc đó, mẹ sẽ tha tội cho anh.

    Nói xong, chú bỏ đi. Chú chạy vào rừng, cất tiếng gọi mẹ hãy đến với chú, nhưng không mảy may có tiếng đáp lại. Suốt ngày, chú gọi mẹ chú, gọi mãi và lúc mặt trời lặn, chú nằm xuống ngủ trên chiếc giường bằng lá. Chim muông xa lánh chú, bởi chúng nhớ đến sự tàn bạo của chú. Chú thui thủi một thân một mình chỉ có con cóc ngắm nhìn chú và con rắn lục chậm chạp bò qua. Sáng ngày hôm sau, chú thức dậy, hái một vài quả rừng mọng chát ăn, rồi lại lên đường, xuyên qua khu rừng lớn, miệng khóc lóc một cách buồn thảm. Gặp bất cứ con vật nào, chú cũng hỏi thăm, tình cờ chúng có thấy mẹ chú không. Chú hỏi Chuột Chũi:

    -Chũi ơi, em có thể đi được dưới mặt đất. Em nói cho anh hay, em có thấy mẹ anh dưới đó không? Chuột Chũi đáp:

    -Anh đã chọc mù mắt em. Em có thể biết làm sao được? Nó nói với chim Sẻ Lanh:

    -Sẻ Lanh ơi, em có thể bay trên ngọn cây cao và có thể nom thấy cả thiên hạ. Nói cho anh biết, em có thể nom thấy mẹ anh không? Sẻ Lanh đáp:

    -Để đùa nghịch, anh đã xén đôi cánh của em. Em bay làm sao được? Có một con Sóc bé nhỏ sống trong một cây linh sam, nó chỉ một mình côi cút. Sao Băng hỏi Sóc:

    -Mẹ anh đâu? Sóc đáp:

    -Anh đã giết mẹ em. Anh tìm mẹ anh để giết bà ta, có phải không? Thế là chú bé Sao Băng bật khóc, cúi đầu, cầu xin các giống vật của Chúa hãy tha thứ cho chú, rồi chú lại dấn bước xuyên qua khu rừng để tìm kiếm người đàn bà ăn xin. Sang ngày thứ ba, chú tới được phía bên kia khu rừng và đi xuống đồng bằng. Khi đi qua các làng xóm, chú bị trẻ con chế giễu và ném đá; các chủ trại không cho phép chú nằm ngủ ngay cả ở chuồng bò, sợ chú có thể truyền bệnh nấm cho thóc lúa trong kho vì nom chú ghê tởm quá. Còn những người làm công thì đuổi chú như đuổi tà. Và chẳng có một ai đoái hoài xót thương chú.

    Không ở nơi nào chú nghe nói đến người đàn bà ăn xin là mẹ chú, tuy rằng ba năm ròng rã, chú đã đi khắp đó đây. Thường khi chú tưởng mơ thấy bà trên đường cái phía trước mặt, chú bèn cất tiếng gọi và chạy đuổi theo bà cho đến lúc chân tứa máu vì vấp phải các vật nhọn cứng. Nhưng chú không tài nào đuổi kịp bà. Dân cư sống cạnh đường đi bao giờ cũng nói là họ không hề thấy bà hoặc ai đó giống bà; họ lấy nỗi đau buồn của chú làm trò giải trí. Trong khoảng thời gian ba năm, chú lang thang khắp nơi nhưng không đâu có tình yêu, lòng trìu mến, hoặc lòng thương hại đối với chú. Không hơn không kém, đó là một thế giới đúng như chú đã tự tạo ra cho chú vào những ngày chú kiêu căng tàn nhẫn. Rồi vào một buổi chiều, chú đi tới cổng một đô thị nằm trong vòng thành lđá vững chắc cạnh một con sông. Tuy mệt mỏi và chân sưng vù, chú vẫn cứ bước vào. Nhưng những người lính đứng gác liền hạ kích xuống chắn ngay lối vào; họ cục cằn hỏi chú:

    -Mày tới đô thị này có việc gì?

    -Thưa các ông, cháu đang đi tìm mẹ cháu.

    -Chú đáp.

    -Xin các ông cho phép cháu đi qua, có thể mẹ cháu ở trong đô thị này. Nhưng đáp lại, họ chỉ chế giễu chú; rồi một người trong bọn vuốt bộ râu đen, hạ chiếc kích xuống và kêu lên:

    -Tao nói thật, chứ ****** mà thấy mày thì mụ ta chả mừng đâu; chả là mày xấu hơn con cóc trong đầm, con rắn trong bãi lầy. Thôi cút đi, cút đi, cút đi! ****** không có trong đô thị này! Một người lính khác, tay cầm cờ vàng, hỏi nó:

    -****** là ai? Cớ gì mày phải đi tìm mụ ấy?

    -Mẹ cháu

    -chú đáp

    -là một người ăn xin như cháu đây. Cháu đã đối xử tệ bạc với mẹ cháu. Xin phép ông cho cháu đi qua. Nếu quả mẹ cháu đã lưu lại trong đô thị này, mẹ cháu có thể tha tội cho cháu. Nhưng họ không chịu và lấy mũi giáo dứ dứ vào chú. Chú vừa khóc vừa quay đi thì có một người cùng bọn với họ đi tới. Y mang áo giáp trổ hoa bằng vàng, đầu đội chiếc mũ sắt trên có một con sư tử có cánh đang nằm. Hắn hỏi bọn lính rằng kẻ đang xin được vào đô thị là ai. Bọn lính thưa với hắn:

    -Đó là một thằng ăn xin, con một mụ ăn xin. Bởi vậy chúng tôi đã đuổi nó đi.

    -Đừng làm thế! Hắn cười to.

    -Chúng mình hãy đem bán cái của nợ xấu xí đó làm nô lệ. Giá cả phải ngang giá một bát rượu vang ngon. Lúc đó, có một lão già với bộ mặt độc ác đang đi qua gần đấy. Lão bèn gọi to và nói:

    -Tôi muốn mua nó theo giá đó.

    Trả tiền xong xuôi, lão nắm tay Sao Băng dẫn chú đi vào đô thị. Sau khi đã đi hết rất nhiều đường phố, hai người tới một cánh cửa nhỏ lắp vào bức tường có một cây lựu bao phủ. Lão già dùng một chiếc nhẫn bằng ngọc thạch đụng khẽ vào cửa. Cửa mở ra. Họ bước xuống năm bậc thang bằng đồng để đi tới một khu vườn đầy những cây thuốc phiện đen và những chiếc chum bằng đất nung. Lão già rút từ chiếc khăn quấn đầu ra một chiếc khăn quàng bằng lụa, dùng nó bịt mắt chú bé Sao Băng lại, và đẩy chú đi lên trước lão. Khi chiếc khăn quàng được gỡ khỏi mắt, chú bé Sao Băng thấy mình đang ở trong một cái hầm được soi sáng bởi một cây đèn bằng sừng. Lão già đặt trước mặt nó một chiếc bánh mốc dọn trên một cái thớt rồi bảo:

    ?o n đi?, lấy một ít nước uống mằn mặn đựng trong một chiếc cốc rồi bảo:

    ?oUống đi?. Chú ăn uống xong thì lão già bước ra, khóa cửa lại và còn buộc thêm bằng một dây xích thép. Lão già là một tay phù thủy cao cường nhất ở xứ Li-bi và đã học phép thuật với một người sống trong các ngôi mộ ở sông Nin. Ngày hôm sau lão đến nơi nhốt chú bé, lão cau mày nhìn chú nói:

    -Trong một khu rừng gần cổng thành Gianơ đây, có ba đồng tiền vàng, một đồng sắc trắng, một đồng sắc vàng và đồng tiền thứ ba sắc đỏ. Hôm nay, mi phải đem về cho ta đồng tiền màu trắng; nếu không thế, ta sẽ quất cho mi một trăm roi. Thôi, hãy đi nhanh lên; lúc mặt trời lặn, ta đợi mi ở cửa vườn. Nhớ đấy, hãy đem về đồng tiền vàng sắc trắng; không thì sẽ khốn với ta. Vì mi là nô lệ của ta, ta đã mua mi với giá bằng một bát rượu ngon. Nói xong, lão bịt mắt chú bé Sao Băng lại với chiếc khăn quàng bằng lụa có in hình vẽ, dắt nó đi qua nhà, qua khu vườn cây thuốc phiện để rồi bước lên năm bậc thang bằng đồng. Đến đây lão dùng chiếc nhẫn mở cánh cửa con rồi đẩy chú bé ra đường cái.

    Thế là chú bé Sao Băng ra khỏi cổng thành rồi đi tới khu rừng mà lão phù thủy đã nói với chú. Lúc này, nhìn từ phía ngoài thì thấy khu rừng rất xinh đẹp và nom như đầy chim chóc đang hót, các bông hoa thơm ngào ngạt, nên chú bé Sao Băng hớn hở bước vào. Tuy rừng đẹp thật đấy, nhưng chẳng giúp gì cho chú được, vì bất cứ chỗ nào chú đặt chân tới thì các cây tầm xuân và các cây gai từ mặt đất đâm lên tua tủa và cản bước chú, các cây tầm ma quái ác châm chích chú, các cây kê lá sắc như dao đâm vào da thịt chú. Chú đau đớn, khốn khổ vô cùng. Chú không thể tìm đâu ra đồng tiền vàng màu trắng mà lão phù thủy đã nói đến, tuy rằng chú đã tìm từ sáng đến trưa, rồi từ trưa đến lúc mặt trời lặn. Trời tối, chú quay mặt nhìn về hướng nhà, khóc lóc thảm thiết, chú biết những gì mà số phận đang dành sẵn cho chú. Nhưng khi chú ra tới bìa rừng, chú bỗng nghe từ một lùm cây vọng ra tiếng kêu của một kẻ nào đó hình như bị mắc nạn. Quên nỗi buồn khổ của riêng mình, chú quay lại, chạy tới nơi và trông thấy một chú Thỏ con bị sa vào bẫy mà một người thợ săn nào đó đã đặt. Chú bé Sao Băng thấy thương hại chú Thỏ bé nhỏ, chú giải thoát cho Thỏ và nói:

    -Bản thân anh cũng là một tên nô lệ, nhưng anh có thể trả tự do cho em.

    -Anh đã đem lại tự do cho em.

    -Thỏ nói.

    -Em phải đền đáp anh thế nào đây?

    -Anh đang đi tìm một đồng tiền vàng sắc trắng, anh đã tìm khắp mà chẳng thấy. Nếu anh không mang được nó về cho ông chủ anh, anh sẽ bị ông ta đánh.

    -Anh hãy đi với em.

    -Thỏ đáp.

    -Em dẫn anh đến chỗ có đồng tiền ấy, vì em biết người ta cất giấu nó ở đâu và vì mục đích gì. Thế là chú bé Sao Băng cùng đi với Thỏ và... ô kìa! trong kẽ nứt của một cây sồi to, nó nom thấy đồng tiền vàng sắc trắng mà nó đang mải tìm. Lòng tràn ngập vui sướng, chú bé Sao Băng nắm lấy đồng tiền vàng và nói với Thỏ:

    -Ta giúp em được một việc; em đền đáp lại nhiều lần hơn; ta yêu thương em một, em đền bù lại gấp trăm lần.

    -Không phải thế đâu.

    -Thỏ đáp.

    -Anh đối xử với em thế nào, em đối xử với anh thế ấy thôi mà. Nói xong, Thỏ lon ton chạy đi và chú bé Sao Băng đi về phía đô thị. Ngay lúc đó, có một người đang ngồi ở cổng thành và đó là một người bị bệnh hủi. Trên mặt y, đeo lủng lẳng một chiếc mũ chùm bằng len xám, và qua lỗ nhìn, đôi mắt y rực sáng như than hồng. Lúc y thấy chú bé Sao Băng đi tới, y gõ gõ vào chiếc bát gỗ và rung rung cái chuông kêu lanh canh, rồi y gọi chú bé:

    -Cho ta một đồng tiền kẻo ta chết đói mất. Vì họ đã đuổi ta ra khỏi thành mà chẳng có ai thương xót ta cả.

    -Chao ôi!

    -Chú bé Sao Băng kêu lên.

    -Trong bị cháu chỉ có một đồng tiền. Cháu mà không đem về cho ông chủ cháu sẽ bị đòn, cháu là nô lệ của ông ta mà. Nhưng người hủi cứ nài nỉ, cầu khẩn cho tới khi chú động lòng thương và cho y đồng tiền vàng. Khi chú về tới nhà lão phù thuỷ, lão ra mở cửa cho chú, đưa chú vào trong nhà rồi hỏi:

    -Mi có lấy được đồng tiền sắc trắng không?

    -Cháu không lấy được.

    -Chú bé Sao Băng đáp. Thế là lão phù thủy nhảy bổ vào chú, đánh túi bụi. Lão đặt trước mặt chú một cái thớt không và nói:

    ?o n đi?, lão lại đặt trước chú một chiếc cốc không và nói:

    ?oUống đi?, rồi lão lại đẩy chú vào hầm tối. Sáng ngày hôm sau, lão phù thủy đến chỗ chú bé Sao Băng và bảo:

    -Nếu hôm nay mi không đem về cho ta đồng tiền vàng, ta nhất quyết giữ mi làm nô lệ và sẽ đánh cho ba trăm roi. Chú bé Sao Băng lại đi vào rừng, chú tìm kiếm đồng tiền vàng suốt ngày, nhưng không tìm được. Đến lúc mặt trời lặn, chú đành ngồi xuống và khóc. Trong khi chú khóc lóc, chú Thỏ con mà chú đã cứu thoát khỏi cạm bẫy đến với chú. Thỏ hỏi:

    -Cớ sao anh khóc? Anh tìm gì ở trong rừng?

    -Anh đang tìm một đồng tiền vàng giấu ở đâu đây. Anh mà không tìm được, anh sẽ bị đánh và bị giữ lại làm nô lệ.

    -Hãy theo em.

    -Thỏ ta kêu, rồi chạy qua khu rừng, tới một cái ao nước. Và đồng tiền vàng đang nằm ở dưới đáy ao.

    -Thỏ ơi, biết cám ơn em thế nào được đây?

    -Chú bé Sao Băng nói.

    -Vì em xem, đây là lần thứ hai em cứu anh.

    -Không phải thế đâu.

    -Thỏ đáp.

    -Anh đã thương em trước kia mà! Nói xong, Thỏ lại lon ton chạy đi. Chú bé Sao Băng nhặt lấy đồng tiền vàng, bỏ vào bị và hối hả trở về đô thị.

    Nhưng người hủi thấy chú tới, bèn chạy lại gặp chú; y quỳ xuống và kêu rên:

    -Cho lão một đồng tiền, không thì lão chết mất.

    -Trong bị cháu đây chỉ có một đồng tiền vàng.

    -Chú bé Sao Băng đáp.

    -Nếu cháu không đem nó về cho ông chủ, cháu sẽ bị đánh đòn và bị giữ lại làm nô lệ. Nhưng người hủi khẩn nài nó một cách đau khổ đến nỗi nó động lòng thương xót y và cho y đồng tiền vàng. Khi nó về tới nhà lão phù thủy, lão ra mở cửa cho chú, đưa chú vào và hỏi:

    -Mi có lấy được đồng tiền vàng không?

    -Không! Chú bé Sao Băng đáp. Thế là lão phù thủy nhảy bổ vào chú, đánh túi bụi, lấy xích nặng xích chú lại, rồi một lần nữa tống chú vào ngục tối. Sáng ngày hôm sau, lão lại vào và nói:

    -Nếu hôm nay mi đưa về được cho ta đồng tiền vàng sắc hồng, ta sẽ trả tự do cho mi, nếu không thì nhất quyết ta sẽ giết mi. Chú bé Sao Băng lại lên đường đi vào rừng, suốt ngày chú tìm kiếm đồng tiền vàng sắc hồng, nhưng chẳng tìm đâu ra. Chiều đến, chú ngồi xuống và khóc. Lúc ấy con Thỏ bé nhỏ chạy tới. Thỏ nói:

    -Đồng tiền vàng màu hồng mà anh đang tìm nó ở trong cái hang phía sau anh kìa. Anh đừng khóc nữa và hãy vui lên.

    -Anh biết lấy gì đền ơn cho em được?

    -Sao Băng nói.

    -Em cứu anh, đây là lần thứ ba.

    -Không phải thế. Chính anh thương em trước kia mà. Thỏ nói rồi lon ton chạy đi. Chú bé Sao Băng bèn đi vào trong hang; ở góc sâu nhất, chú tìm thấy đồng tiền vàng sắc hồng. Chú vội bỏ vào bị và hối hả đi về đô thị. Nhưng người hủi thấy chú tới bèn ra đứng ở giữa đường và kêu to:

    -Hãy cho tôi đồng tiền vàng sắc hồng, nếu không tôi chết mất! Chú bé Sao Băng lại thấy thương xót y, chú vừa cho y đồng tiền vừa nói:

    -ông cần đến nó hơn tôi nhiều. Miệng nói thế, nhưng lòng chú nặng trĩu, vì chú biết số phận cay nghiệt như thế nào đang đợi chú. Nhưng lạ chưa! Khi chú đi qua cổng thành, lính canh đều cúi khom người tỏ ý tôn kính chú; và họ nói:

    -Thái tử của chúng ta mới đẹp làm sao! Một đám đông dân chúng kéo theo chú, miệng hò reo:

    -Trong khắp thiên hạ, quả là chả có ai đẹp thế này! Nghe nói vậy, chú bé Sao Băng bèn khóc và tự nghĩ:

    ?oHọ đang chế giễu mình đây; họ đâu có đếm xỉa đến sự đau khổ của mình!?. Vì dân chúng tụ tập quá đông nên chú lạc mất đường, rồi cuối cùng chú thấy mình đang đứng trên một quảng trường, ở đó có cung điện nhà vua. Cổng cung điện bỗng mở ra, các tu sĩ cùng các quan đại thần chạy lại để gặp chú, họ cúi lạy trước mặt chú và tâu:

    -Người là thái tử của chúng tôi, là con trai đức vua của chúng tôi. Chúng tôi đang đợi Người.

    -Tôi đâu phải là con vua.

    -Chú bé Sao Băng đáp.

    -Tôi chỉ là con một người ăn xin nghèo khổ. Mà tại sao các ông lại nói tôi đẹp? Vì tôi biết tôi nom gớm ghiếc kia mà. Thế là cái người mặc áo giáp khảm những hoa vàng, trên mũ trụ có con sư tử có cánh giơ cao chiếc khiên và nói to:

    -Thưa điện hạ, cớ sao Người lại nói Người không đẹp? Chú bé Sao Băng nhìn vào chiếc khiên và... lạ chưa! Khuôn mặt chú lại như xưa, vẻ duyên dáng trước đây đã trở về với chú; và trong đôi mắt chú, chú thấy được điều mà trước đây chú chưa từng thấy. Các tu sĩ và các quan đại thần quỳ xuống và tâu trình:

    -Từ lâu, đã có sấm truyền rằng Người trị vì đất nước chúng tôi sẽ tới vào ngày hôm nay. Bởi vậy cúi xin thái tử nhận chiếc vương miện và cây thiền trượng này. Xin vì lẽ công bằng và lòng từ bi mà Người hãy là vua của chúng tôi. Nhưng chú bé Sao Băng nói với họ:

    -Tôi không xứng đáng bởi vì tôi đã từ bỏ mẹ tôi. Tôi cũng không thể nghỉ ngơi cho tới lúc tôi tìm ra bà và nhận được lời tha tội của bà. Vậy các ông hãy để tôi đi, vì tôi còn phải đi khắp thế gian, không thể nán lại đây, mặc dầu các ông đem cho tôi chiếc vương miện và cây thiền trượng. Vừa nói như vậy, chú vừa quay mặt đi, nhìn về phía con đường dẫn tới cổng thành và lạ chưa, trong đám đông chen chúc quanh lính tráng, chú thấy bà ăn xin, mẹ chú, và người bị hủi đã từng ngồi bên đường cái, đang đứng cạnh bà.

    Từ đôi môi của chú, bật lên một tiếng mừng vui; chú chạy tới, và vừa quỳ xuống, chú vừa hôn những vết thương trên đôi bàn chân của họ, nước mắt đầm đìa thấm ướt các vết thương. Chú giập đầu xuống đất vừa khóc nức nở như một người mà trái tim có thể tan vỡ, chú vừa nói với mẹ:

    -Mẹ ơi, con đã ruồng rẫy mẹ trong những ngày con kiêu căng tự mãn. Mẹ hãy nhận con trong giờ phút con tối tăm hèn hạ. Mẹ ơi, con dành cho mẹ lòng căm ghét; mẹ hãy ban cho con tình yêu thương. Mẹ ơi, con đã từ chối không nhận mẹ. Bây giờ mẹ hãy nhận con là con mẹ. Nhưng bà ăn xin chẳng đáp lại nửa lời. Thế là chú vươn tay, ôm lấy chân người hủi và nói với y:

    -Đã ba lần, cháu đã cho bác lòng thương xót của cháu. Xin bác bảo mẹ cháu nói với cháu một lần nữa. Nhưng người bị hủi không đáp lại nửa lời. Chú bé Sao Băng bèn khóc nức nở rồi nói:

    -Mẹ ơi, nỗi thống khổ của con nặng nề quá sức con phải chịu đựng. Xin mẹ hãy ban cho con tấm lòng vị tha của mẹ, để rồi con sẽ đi vào rừng. Đến đây, người đàn bà ăn xin đặt tay lên đầu chú và nói:

    ?oĐứng lên?, người bị hủi đặt tay lên đầu chú và cũng nói:

    ?oĐứng lên?. Đang quỳ sụp xuống, chú bèn đứng lên nhìn hai người thì... lạ chưa! Đó là vua và hoàng hậu. Hoàng hậu nói với chú:

    -Đây là cha con, người mà con đã cứu giúp. Và vua nói:

    -Đây là mẹ con, người mà con đã lấy nước mắt rửa sạch đôi bàn chân Người. Rồi họ ôm lấy chú, hôn chú và đưa chú vào hoàng cung, mặc cho chú quần áo sang trọng, đặt vương miện lên đầu chú, trao chiếc thiền trượng vào tay chú. Từ đó, chú bé Sao Băng trị vì thành bang nằm bên con sông, và làm chủ thành bang. Với tất cả thần dân, nhà vua mới tỏ ra công minh và nhân từ; tên phù thủy bị Sao Băng đuổi ra khỏi thành bang. Đối với bác tiều phu và vợ bác, vua gửi nhiều quà tặng quý giá; với con cái của họ, vua ban cho quyền cao chức trọng.

    Nhà vua cũng không cho phép bất cứ ai được độc ác với chim muông, trái lại còn dạy cho họ lòng yêu thương trìu mến và lòng từ thiện; đối với người nghèo khổ vua cho cơm ăn, với những kẻ không có áo quần mặc, vua cho quần cho áo. Cảnh thái bình thịnh trị diễn ra trên đất nước của chú bé Sao Băng. Nhưng chú bé Sao Băng trị vì không được lâu dài vì nỗi đau đớn xưa kia của chú lớn quá và ngọn lửa thử thách gắt gao quá cho nên làm vua được ba năm thì chú mất. Và kẻ đến sau chú thì cai trị thần dân một cách độc ác xấu xa.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Lễ sinh nhật của nàng công chúa cả
    Hôm đó là lễ sinh nhật của nàng công chúa cả. Nàng vừa tròn mười hai tuổi và mặt trời đang tỏa chiếu rực rỡ trong các khu vườn ở hoàng cung. Mặc dầu nàng là một công chúa chính tông và là quận chúa Tây-ban-nha nhưng mỗi năm nàng cũng chỉ có một ngày sinh, in hệt như bọn trẻ con nhà nghèo hèn. Và đối với cả nước, dĩ nhiên đó phải là một sự kiện hết sức trọng đại. Nhân dịp này, nàng phải được hưởng một ngày thực sự tươi đẹp. Chắc chắn đây sẽ là một ngày tươi đẹp thực sự. Những cây uất kim hương cao dướn thẳng lên nom như những hàng rào lính dài, đều tăm tắp, nhìn ra chiều thách thức những đóa hoa hồng ở bên kia bãi cỏ, rồi nói:
    ?oGiờ thì chúng tôi cũng xinh đẹp như các chị vậy?. Những con **** đỏ rực vừa bay liệng đó đây với những đôi cánh mang bụi vàng, vừa lần lượt thăm viếng từng bông hoa; những con thằn lằn bé nhỏ từ trong các kẽ tường bò ra nằm phơi nắng trong ánh sáng trắng, lóa; và những quả lựu hấp thu cái nóng, nứt và nổ lách tách giòn giã, phơi ra cái ruột đỏ như máu. Ngay cả các quả chanh vàng nhạt chi chít treo lủng lẳng ở các lưới mắt cáo đang mục nát và dọc theo các vòm mờ tối hình như cũng bắt được cái ánh nắng kỳ diệu mà có được màu sắc đậm đà hơn; rồi những cây mộc lan xòe rộng các bông hoa hình quả cầu màu ngà, tỏa mùi hương dìu dịu ngọt ngào trong không khí. Nàng công chúa bé nhỏ cùng với bạn bè dạo trên sân thượng, chơi ú tim quanh các vại đá và các pho tượng cổ xưa phủ rêu phong. Vào những ngày thường, nàng chỉ được phép chơi đùa với bọn trẻ con trong hoàng tộc, cho nên bao giờ nàng cũng phải chơi một mình thui thủi; nhưng lễ mừng ngày sinh của nàng là một ngoại lệ; vì vua cha đã truyền rằng nàng có thể mời bất cứ người bạn trẻ nào mà nàng ưa thích tới vui chơi cùng nàng. ở bọn trẻ con Tây-ban-nha mảnh dẻ kia, toát ra một vẻ duyên dáng trang trọng khi chúng nhẹ chân đi qua chỗ này chỗ khác, bọn con trai với những chiếc mũ giắt những chiếc lông chim to và những áo khoác ngắn dập dờn lất phất, bọn con gái tay nâng đuôi áo dài thêu kim tuyến và đưa những chiếc quạt rộng màu đen và bạc che mắt cho khỏi chói nắng mặt trời. Nhưng kiều diễm nhất vẫn là nàng công chúa, và cũng là người thu hút nhất vì phục sức trang nhã, đúng theo cái mốt có phần nào nặng nề của thời đó. Chiếc áo dài của nàng bằng xa-tanh màu xám, tà và ống tay áo phồng căng thêu bạc chi chít, chiếc áo lót cứng đờ với những viên ngọc sặc sỡ đính thành từng dãy. Mỗi khi nàng bước đi, đôi dép lê nhỏ bé gắn nơ hình lụa hồng đỏ chói, ló ra phía dưới chiếc áo dài của nàng. Chiếc quạt rộng bằng sa đỏ chót, điểm những viên ngọc trai long lanh. Cả trên mái tóc nàng -mái tóc nom như một vầng hào quang vàng nhạt, nổi bật lên xung quanh khuôn mặt bé nhỏ tái nhợt -nàng cài một bông hồng trắng xinh đẹp. Từ một cửa sổ trong hoàng cung, nhà vua buồn bã, u sầu nhìn ngắm bọn trẻ con.
    Đứng phía sau ông là người em trai, Đông Pê-đrô A-ra-gông -con người mà ông căm ghét, và ông giáo sĩ nghe xưng tội, chánh án tòa án dị giáo Grê-nê-đa, ngồi bên cạnh ông. Nhà vua sầu não hơn thường ngày bởi vì, khi nhìn nàng công chúa nghiêng mình với vẻ trang nghiêm thơ dại để đáp lễ các quần thần đang tụ tập lại, hoặc đang đưa quạt lên che miệng cười chế giễu bà quận công An-bu-kéc khắc nghiệt luôn luôn đi bên cạnh nàng -mỗi lần như vậy nhà vua lại nghĩ tới hoàng hậu trẻ tuổi là mẹ nàng. Chỉ cách đây không lâu -nhà vua tưởng tượng thế, -hoàng hậu tới đây từ nước Pháp vui tươi, rồi héo hắt đi trong cảnh huy hoàng u uất của triều đình Tây-ban-nha, và đã mất đúng sáu tháng sau khi sinh đẻ, trước khi bà được trông thấy cây hạnh nở hoa lần thứ hai trong vườn cây ăn quả, chưa kịp hái mùa quả thứ hai ở cây vả gồ ghề hiện nay đang sừng sững chính giữa sân sau phủ cỏ. Nhà vua yêu bà khôn xiết nên không chịu để cho bất cứ thứ gì che khuất tấm thân của bà, ngay cả nấm mồ cũng vậy. Bà đã được một tay thầy thuốc người Mô-rơ ướp xác; đáp lại việc đó, y được bảo đảm tính mệnh (vì tòa án dị giáo kết tội y đã theo tà đạo và bị ngờ có những thực hành ma thuật. Xác ướp của bà vẫn còn nằm trong chiếc quan tài phủ thảm, tại giáo đường bằng cẩm thạch đen của hoàng cung, nguyên vẹn như thuở các tu sĩ mang bà tới đó mười hai năm trước đây, vào một ngày tháng ba lộng gió. Cứ mỗi tháng một lần, nhà vua bận áo màu tối sẫm, xách chiếc đèn ***g, đi vào giáo đường, quỳ xuống cạnh bà và gọi to:
    ?oHậu ơi! Hậu của ta ơi!? Đôi khi, vất bỏ những nghi thức lúc bấy giờ ở Tây-ban-nha đang chi phối mọi hành động riêng rẽ của đời sống và quá định giới hạn cho nỗi đau buồn của một đấng quân vương, trong nỗi thống khổ xé ruột, nhà vua bám chặt lấy đôi bàn tay tái nhợt mang đầy châu báu của bà, và bằng những cái hôn điên cuồng, ông cố thử thức tỉnh khuôn mặt lạnh lẽo phấn sáp kia. Hôm nay, ông hình như được thấy lại bà, như ông đã thấy lần đầu tiên tại cung điện Phông-ten-nơ-blô thuở ông mới mười lăm tuổi và bà lại còn trẻ hơn. Vào dịp đó, giáo hoàng Nun-xi-ô chủ tọa lễ đính hôn cho hai người với sự hiện diện của vua nước Pháp cùng văn võ bá quan triều đình. Sau đó, ông trở về Ex-cu-ri-ân, mang theo một chiếc nhẫn bé nhỏ tết bằng những sợi tóc vàng, mang luôn cả hồi ức về đôi môi thơ dại cúi thấp xuống để hôn lên bàn tay ông khi ông bước vào xe ngựa. Tiếp theo đó, lễ cưới được tổ chức tại Buốc-gôx, một thành phố nằm giữa biên giới hai nước; rồi đến cuộc rước dâu về Ma-đrít với lễ cầu nguyện lớn theo tục lệ tại giáo đường La A-tô-sa cùng một lễ kết tội lửa thiêu trang trọng khác nhiều so với thường lệ, trong đó gần ba trăm người theo tà đạo -mà phần lớn là người Anh -được trao cho quyền lực thế tục để bị thiêu sống. Chắc chắn rằng ông đã yêu hoàng hậu một cách điên cuồng và do đó, theo nhiều người nghĩ, đã làm cho đất nước suy bại trong cuộc chiến tranh với nước Anh để giành quyền chiếm hữu đế quốc Tân-thế-giới.
    Hầu như không bao giờ ông cho phép hoàng hậu được xa khuất ông; vì bà, ông đã quên đi hoặc có vẻ đã quên đi, mọi việc trọng đại của quốc gia; và với cái mù quáng khủng khiếp mà lòng mê đắm dành cho kẻ tuỳ thuộc nó, ông đã mắc cái thiếu sót là không nhận thấy rằng các nghi thức phức tạp mà ông tưởng sẽ làm vui lòng, lại chỉ làm nghiêm trọng thêm cái căn bệnh mà bà mắc phải. Một thời gian sau khi bà mất, ông giống như một kẻ mất trí. Quả thật, không còn nghi ngờ gì rằng ông muốn thoái vị một cách chính thức và lui về ở tu viện lớn Tráp-pix tại Grê-nê-đa mà ông là viện trưởng về danh nghĩa -nếu như ông không sợ phải bỏ rơi quận chúa bé nhỏ, phó thác nàng cho người em ông tuỳ tiện định đoạt số phận nàng. Người em này, ngay ở Tây-ban-nha cũng đã khét tiếng tàn bạo và bị nhiều người nghi ngờ là đã gây nên cái chết của hoàng hậu bằng đôi găng tay tẩm thuốc độc mà y đã dâng tặng bà nhân dịp bà viếng thăm lâu đài của y ở A-ra-gông. Ngay cả sau khi đã chấm dứt kỳ hạn ba năm quốc tang mà ông đã ra sắc lệnh cho toàn vương quốc phải chấp hành, ông cũng không cho phép các quần thần của mình đả động đến một cuộc hôn nhân mới; và khi tự bản thân ông vị hoàng đế gửi lời đề nghị ông kết hôn cùng người cháu gái của ngài -quận chúa Bô-hê-mia kiều diễm, ông cũng yêu cầu các vị sứ giả hãy về tâu trình với hoàng đế của họ, rằng vua nước Tây-ban-nha đã kết hôn với nỗi đau buồn, và tuy rằng nàng chỉ là một cô dâu cằn cỗi nhưng ông vẫn yêu nàng hơn thần sắc đẹp; lời phúc đáp đó đã khiến ông mất đi các tỉnh giàu có vùng Ne-tơ-óc-len vì chẳng mấy lâu sau đó, do sự xúi giục của hoàng đế, các tỉnh ấy đã nổi dậy chống lại ông dưới sự cầm đầu của một số kẻ cuồng tín trong Giáo hội cải cách. Toàn bộ đời sống vợ chồng của ông, với những niềm vui dữ dội, rực lửa cùng với cơn hấp hối khủng khiếp chấm dứt đột ngột, như đang hiện lại với ông lúc ông ngắm nhìn công chúa chơi đùa trên sân thượng. Nàng có tất cả cái hờn dỗi duyên dáng của hoàng hậu trong điệu bộ, cũng cái lối hất đầu một cách bướng bỉnh, cũng cái miệng xinh đẹp cong cong, kiêu hãnh, cũng nụ cười mê lá
    -quả là một nụ cười Pháp thực sự lúc nàng thỉnh thoảng liếc nhìn lên cửa sổ, hoặc chìa bàn tay cho các quan chức Tây-ban-nha hôn. Nhưng tiếng cười lảnh lói của bọn trẻ con làm chối tai ông, ánh mặt trời chói chang bất nhẫn như nhạo nỗi đau buồn của ông, và mùi trầm hương xa lạ, dùng cho những xác ướp, hình như làm vẩn đục
    -hay là ông tưởng tượng ra
    -bầu không khí trong trẻo ban mai. ông úp mặt vào đôi bàn tay, và khi nàng công chúa ngước nhìn lên một lần nữa, thì các bức rèm đã được hạ xuống, nhà vua đã lui vào. Nàng khẽ bĩu môi tỏ vẻ thất vọng, và nàng nhún vai. Hẳn là vua cha có thể nán lại với nàng trong lễ mừng ngày sinh của nàng chứ! Cái công việc quốc gia xuẩn ngốc ấy, có can hệ gì nhỉ? Hay là ông ta đã đi tới cái giáo đường âm u, ở đó luôn luôn có những cây bạch lạp thắp sáng, là nơi không bao giờ nàng được phép bước vào? Mặt trời đang tỏa sáng thế này, mọi người đang sung sướng thế này mà ông cứ rầu rĩ thế kia thời mới ngờ nghệch làm sao! Hơn nữa, ông sẽ không xem cuộc đấu bò giả mà tiếng kèn đồng báo hiệu đang nổi lên, và trò múa rối cùng những trò lạ lùng khác. ông chú nàng và ngài chánh án tòa án dị giáo thì phải chăng hơn. Hai ông đã đi ra sân thượng và tặng nàng những lời chúc tụng êm Yi.
    Thế là nàng hất cái đầu xinh đẹp, cầm tay Đông Pê-đrô bước xuống cầu thang đi về phía một cái lầu dài bằng lụa đỏ được cất lên ở cuối vườn, còn bọn trẻ con thì đi theo nàng theo thứ tự ưu tiên, em nào mang cái tên dài nhất thì đi trước nhất. Một đám rước của bọn con trai con nhà quyền quý ăn mặc dị kỳ như những người đấu bò tót tiến ra đón nàng, và bá tước trẻ tuổi Ti-e-ra Nu-e-va, một cậu bé xinh đẹp lạ lùng trạc mười bốn tuổi, cất mũ với tất cả cái duyên dáng của một người dòng dõi kị sĩ và quý tộc Tây-ban-nha; cậu ta trang trọng dẫn nàng vào ngồi trên một chiếc ghế nhỏ dát vàng nạm ngà đặt trên một cái bệ được cất cao lên, nhìn xuống trường đấu. Bọn trẻ con xúm quanh nàng vừa phe phẩy những chiếc quạt to, vừa thì thầm với nhau, còn Đông Pê-đrô và ông chánh án tòa án dị giáo ngồi ở chỗ ra vào và cười vui vẻ. Ngay cả bà quận công -thường được gọi là thị tì -thị trưởng -một người đàn bà gầy đét, nét mặt thô cứng với chiếc cổ áo xếp nếp màu vàng, nom cũng không đến nỗi khó tính như thường lệ; và có một cái gì đó như một nụ cười lạnh lẽo thoáng qua khuôn mặt nhăn nhúm làm co rúm đôi môi tái nhợt của bà. Chắc hẳn đây là một trận đấu bò lạ lùng và theo như nàng công chúa nghĩ, nó hấp dẫn hơn cuộc đấu bò thật mà nàng đã được xem tại Xê-vin, vào dịp quận công Pác-nô tới thăm cha nàng.
    Một bọn con trai nhảy phóc lên những con ngựa gỗ có yên cương sang trọng, tay huơ những chiếc lao dài buộc vào người bằng những dây băng lấp lúa hình đuôi nheo; những đứa khác đi bộ, phất phất những chiếc áo ngoài đỏ tía trước mặt con bò, và lẹ làng vọt qua hàng rào chắn mỗi khi con bò xông tới húc chúng; còn bản thân ?ocon bò? nom hệt như bò thật, tuy rằng chỉ làm bằng liễu gai và da sống căng; đôi khi nó cố ý chạy quanh trường đấu trên hai chân sau, một điều mà không con bò sống nào dám mơ tưởng làm được. Nó cũng đánh rất đẹp mắt, và bọn trẻ con đâm ra bị kích động đến nỗi chúng đứng lên ghế, vừa vung vẩy chiếc khăn tay buộc giải vừa hò hét:
    ?oHoan hô bò mộng! Hoan hô bò mộng? cùng với ý thức đầy đủ như chúng đã là những người trưởng thành vậy. Tuy nhiên cuối cùng, sau một cuộc đấu kéo dài, trong đó nhiều con ngựa gỗ lần lượt bị húc và các tay kỵ mã bị hất ngã ngựa, bá tước trẻ Ti-e-ra Nu-e-va lôi con bò đến sát đầu gối mình rồi được phép nàng công chúa, bá tước đâm nhát quyết định. Cậu thọc chiếc kiếm gỗ vào cổ con vật, mạnh đến nỗi cái đầu văng đi, phơi bày khuôn mặt tươi cười của đức ông Đơ Lô-ren, cháu của ông đại sứ Pháp tại Ma-đrít. Thế rồi trường đấu sáng lên giữa tiếng vỗ tay rào rào, những con ngựa gỗ chết được đưa ra khỏi bãi một cách long trọng bởi hai tay kiếm đồng người Mô-rơ bận áo đấu vàng và đen. Trong quãng thời gian ngắt quãng ngắn ngủi giữa hai tiết mục, một tài tử nhào lộn người Pháp biểu diễn trò đi trên dây.
    Rồi một số con rối ý xuất hiện trình diễn vở bi kịch cổ điển Xô-phô-rư-sa, trên bục một sân khấu bé nhỏ được xây dựng để góp phần vui chung. Chúng cử động rất đẹp mắt, cử chỉ điệu bộ thật tự nhiên, đến nỗi lúc màn kịch kết thúc, đôi mắt của nàng công chúa đầm đìa nước mắt. Một vài đứa bé đã khóc thét lên thật sự nên phải lấy bánh kẹo dỗ dành chúng, còn ngay chánh án tòa án dị giáo thì lấy làm buồn phiền đến nỗi ngài phải nói với Đông Pê-đrô, rằng theo ý ngài, thật không thể chịu đựng nổi khi mà những đồ vật, đơn giản chỉ làm bằng gỗ và sáp tô màu và được điều khiển bằng các dây thép, lại phải đau khổ đến thế và gặp những điều bất hạnh khủng khiếp đến thế. Tiếp theo là tiết mục biểu diễn của một nghệ nhân xiếc người Phi. Y đưa tới một cái lẵng nông đáy trên phủ một chiếc áo đỏ, sau khi đặt nó ở giữa trường đấu, y rút từ trong chiếc khăn xếp của y ra một chiếc sáo kỳ lạ bằng sậy và bắt đầu thổi. Một lát sau, chiếc khăn bắt đầu động đậy. Khi tiếng sáo lảnh lót thêm thì có hai con rắn xanh và vàng thò ra hai cái đầu kỳ dị có hình chữ V rồi từ từ ngóc đầu lên; và, giống như một thân cây đu đưa trong nước, thân mình rắn cũng theo tiếng nhạc mà đu đưa sang bên này bên nọ. Tuy nhiên, trước những cái đầu rắn hình chóp mũi lốm đốm và những cái lưỡi thụt vào phóng ra nhanh như mũi tên, bọn trẻ con cũng đã khá hoảng sợ; cho nên chúng lấy làm thích thú hơn nhiều khi nghệ nhân xiếc làm cho một cây cam bé xíu mọc ra trên cát, mang những hoa trắng xinh đẹp và những chùm quả thực sự; và khi y lấy chiếc quạt trong tay cô con gái bé nhỏ của nữ công tước La-Toor rồi biến nó thành một con chim xanh vừa bay liệng quanh lều vừa ca hót, thì sự kinh ngạc và thích thú của chúng không còn biết đâu là giới hạn. Nhạc mi-ni-uê cũng vậy, được các cậu bé vũ công ở giáo đường Nu-ex-tra Xê-nho-ra Đen Pi-la biểu diễn rất hấp dẫn. Trước đây, nàng công chúa chưa hề chứng kiến buổi lễ kỳ diệu hằng năm tổ chức vào tiết tháng Năm, diễn ra phía trước bàn thờ cao của đức mẹ Đồng trinh. Và vì tôn kính bà, không một ai thuộc hoàng gia Tây-ban-nha đặt chân vào giáo đường lớn Xa-ra-gôx từ khi có một vị tu sĩ điên -mà nhiều người cho là do nữ hoàng Anh E-li-da-bét thuê -mưu toan giết hoàng thân A-xtu-ri-ax bằng một chiếc bánh thánh tẩm thuốc độc. Do đó, nàng chỉ biết đến, qua lời đồn đại, cái gọi là ?oVũ khúc đức bà của chúng ta?, và chắc hẳn đó là một cảnh tượng đẹp mắt. Bọn con trai mặc áo quần triều đình cổ xưa bằng nhung trắng, đội những chiếc mũ kỳ dị có ba sừng viền bạc, phất phơ trên chỏm mũ là những chùm lông đà điểu; màu trắng lóa mắt của áo quần chúng mỗi khi chúng di động trong ánh mặt trời, còn được tô đậm thêm bởi khuôn mặt có nước da ngăm đen và bộ tóc đen dài của chúng. Ai nấy đều bị mê mẩn trước cái phong thái trang nghiêm khi chúng di động qua các nhân vật rối beng của vũ khúc, trước cái duyên dáng được dày công uốn nắn trong các động tác chậm rãi và những cái cúi chào trịnh trọng của chúng. Khi chúng kết thúc cuộc biểu diễn và tung những chiếc mũ cắm lông chim lên nàng công chúa, nàng đón nhận lòng tôn kính của chúng một cách rất lịch thiệp và nàng đưa ra lời nguyền rằng sẽ gửi một cây bạch lạp lớn dâng tặng điện thờ đức bà ở Pi-la để cảm tạ niềm vui mà Người đã ban cho nàng. Một tốp người Ai-cập khôi ngô tuấn tú -vào thời đó được gọi là người ấn Độ -tiến vào trường đấu.
    Sau khi đã ngồi quây tròn lại, chân bắt chéo nhau, họ bắt đầu nhẹ nhàng chơi đàn tam thập lục, người lắc lư theo tiếng nhạc, miệng ngậm lại ngân nga một khúc nhạc trầm mơ mộng. Khi họ liếc nhìn Đông Pê-đrô, vẻ mặt của họ đầy vẻ giận dữ, một vài người tỏ ra kinh sợ bởi vì chỉ mới mấy tuần trước đây hai người trong bọn họ đã bị treo cổ ở khu chợ Xê-vin do bị kết tội là phù thủy; nhưng nàng công chúa xinh đẹp quyến rũ họ khi nàng ngả người ra sau, đôi mắt to xanh biếc hé nhìn qua đầu chiếc quạt của nàng, và họ cảm thấy yên tâm rằng một người xinh đẹp như nàng không bao giờ tàn bạo đối với bất cứ ai. Do vậy, họ tiếp tục chơi một cách rất duyên dáng và đưa những móng tay dài nhọn đụng khẽ vào các dây đàn tam thập lục, đầu họ bắt đầu gật gật như thể họ đang ngủ gà ngủ gật. Rồi đột nhiên, với một tiếng hét đinh tai, đến nỗi bọn trẻ con phải giật thót và Đông Pê-đrô vội nắm chặt lấy chuôi kiếm bằng đá mã não, họ bắt đầu nhảy và điên cuồng xoay tít xung quanh hàng rào; rồi vừa gõ trống vừa hát một bài tình ca gì đó bằng thứ ngôn ngữ yết hậu lạ lùng của họ. Rồi theo một tín hiệu khác, họ lại ngã vật xuống đất nằm im lìm bất động và lúc này chỉ còn có tiếng bập bung uể oải của các cây đàn tam thập lục là còn phá tan sự im lặng. Sau khi đã biểu diễn như vậy nhiều lần, họ biến đi trong chốc lát rồi trở lại, tay nắm dây xích một con báo nâu lông xồm xoàm, vai mang mấy chú khỉ con. Con báo biểu diễn trò trồng chuối với vẻ hết sức trang nghiêm, còn mấy chú khỉ nhăn nheo thì chơi đủ thứ trò tinh nghịch với hai chú bé ấn Độ mà có lẽ là chủ của chúng. Chúng chơi đấu gươm, bắn súng và thực hiện đầy đủ các bài luyện tập đều đặn của người lính, in hệt như chính đội cận vệ của nhà vua. Rõ ràng các tiết mục biểu diễn của người ấn Độ là một thành công lớn. Nhưng cái phần vui nhộn ấy của toàn buổi biểu diễn buổi sáng, không nghi ngờ gì nữa là điệu nhảy của chú lùn bé nhỏ. Khi chú chập chững đi vào trường đấu, lạch bạch trên đôi cẳng khuỳnh và quay cái đầu méo mó từ bên này sang bên kia, bọn trẻ con thốt ra một tiếng reo to thú vị, và bản thân nàng công chúa cũng cười vui vẻ mãi khiến cho bà thị tì buộc phải nhắc nhở nàng rằng, tuy ở Tây-ban-nha đã có nhiều tiền lệ cho phép con gái một vị vua khóc lóc trước những người ngang hàng với mình, nhưng không hề có tiền lệ nào cho phép một nàng công chúa mang dòng máu vương giả được vui cười trước những bọn người thấp hèn hơn nàng.
    Tuy nhiên, chú lùn thực sự có sức lôi cuốn không cưỡng nổi. Và ngay cả tại triều đình Tây-ban-nha này -là nơi bao giờ cũng nổi tiếng với sự say mê có trau dồi đối với cái khủng khiếp -chưa ai từng thấy một con quái vật bé nhỏ kỳ hình dị tướng đến thế. Chú lùn bị phát hiện cách đây một ngày, lúc chú đang chạy qua rừng; có hai nhà quý tộc lúc đó tình cờ đang săn bắn ở phần xa lánh của khu rừng gỗ xốp bao quanh thành phố, nom thấy chú và họ mang chú về hoàng cung làm món quà bất ngờ tặng công chúa. Cha chú là một người thợ đốt than nghèo khổ, chỉ biết lấy làm khoái trá khi gạt bỏ được một đứa con xấu xí và vô dụng đến như vậy. Có lẽ điều lý thú nhất ở nơi chú, ấy là chú không có ý thức chút nào, về cái bề ngoài thô kệch của bản thân mình. Thật vậy, chú hầu như hoàn toàn sung sướng và hết sức phấn khởi. Lúc bọn trẻ con cười chú cũng cười thoải mái vui vẻ như bất cứ đứa nào trong bọn chúng.
    Và sau khi kết thúc một điệu múa, chú vừa cúi khom khom người một cách hết sức ngộ nghĩnh để chào từng đứa trẻ một, vừa mỉm cười và gật gật cái đầu như thể chú thật sự cùng bọn với chúng, chứ không phải một sinh vật méo mó mà tự nhiên, với cái lối đùa cợt như thế nào đó, đã nặn ra để cho những kẻ khác chế giễu. Còn về phần công chúa, rõ ràng nàng đã thu mất hồn của chú. Chú không thể rời mắt khỏi nàng và hình như chỉ nhảy múa cho riêng nàng. Khi tiết mục biểu diễn kết thúc, nhớ lại cái cung cách các vị phu nhân tại triều đình tung hoa cho Cáp-pha-ren-li, một ca sĩ giọng kim nổi tiếng -người mà đức giáo hoàng đã từ giáo đường của riêng ngài, gửi tới Ma-đrít để y có thể chữa lành nỗi đau buồn của nhà vua bằng giọng hát du dương của y -nàng công chúa rút từ mái tóc ra đóa hồng trắng xinh đẹp và, phần để đùa nghịch, phần để trêu chọc bà thị tì -thị trưởng, nàng ném nó ngang qua trường đấu cho chú lùn, với nụ cười ngọt ngào mê lá. Chú lùn coi sự việc đó là chuyện nghiêm chỉnh hoàn toàn, vừa áp bông hoa lên đôi môi thô rám, chú vừa đặt tay lên trái tim và quỳ một chân xuống trước nàng, miệng cười toe toét, đôi mắt sáng chói ánh mừng vui. Điều đó làm đảo lộn vẻ trang nghiêm của nàng công chúa, nàng cười, cười cho đến khi chú lùn bé nhỏ đã chạy ra khỏi trường đấu; và nàng bày tỏ ý muốn với ông chú là phải để chú lùn biểu diễn lại ngay tức thì.
    Tuy nhiên, bà thị tì lấy cớ trời quá nóng nực, quyết định rằng tốt hơn hết là công chúa nên trở lại cung ngay; tại đấy đã chuẩn bị một tiệc lớn thú vị dành cho nàng, kể cả một chiếc bánh mừng ngày sinh mang cái tên tắt của nàng đắp bằng đường nhuộm màu và một lá cờ đuôi nheo bằng bạc phe phẩy trên đỉnh. Nghe nói vậy, nàng công chúa trang trọng đứng lên. Sau khi ra lệnh rằng sau lúc nàng nghỉ trưa xong thì chú lùn bé nhỏ phải nhảy múa nữa cho nàng xem, và sau khi gửi lời cảm tạ bá tước trẻ tuổi Ti-e-ra Nu-e-va về buổi tiếp tân thú vị của cậu, nàng trở gót về phòng riêng.
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Bọn trẻ con đi theo nàng, đúng với thứ tự như lúc chúng bước vào. Giờ đây, khi chú lùn bé nhỏ nghe nói chú phải nhảy múa lần thứ hai trước công chúa do chính mệnh lệnh dứt khoát nàng đưa ra, chú hết sức kiêu hãnh, chú chạy ra vườn vừa hôn đóa hồng với sự khoái trá hòa lẫn niềm phấn khích phi lý, vừa múa may thích thú với những động tác hoang dã vụng về. Các cây hoa đều rất bất bình vì chú cả gan xông vào nơi xinh đẹp của chúng; khi chúng nom thấy chú cứ nhảy cẫng, hết lên lại xuống các luống hoa, tay huơ trên đầu với điệu bộ quá lố bịch, chúng không còn giữ được lâu hơn nữa những cảm nghĩ của mình:
    -Hắn xấu xí, xấu như qủy kia thì nơi nào chúng mình ở, hắn không được phép tự do chơi nhởi.
    -Hoa tử đinh hương kêu lên.
    -Đáng lý hắn phải nuốt nhựa a phiến, rồi ngủ quách đi một ngàn năm.
    -Các hoa lan tím nói, và chúng đâm ra nóng rực vì giận dữ.
    -Sao mà hắn khủng khiếp thế!
    -Xương rồng hét.
    -Xem kìa, người hắn choắt lại, lùn tịt, đầu so với cẳng thì to ơi là to. Thật tình, hắn làm ta cứ thấy đau nhói khắp mình mẩy; hắn mà lại gần mình, mình sẽ lấy gai đâm cho hắn biết tay.
    -Mà bây giờ hắn lại vớ được đóa hoa đẹp nhất của tớ kia đấy.
    -Cây hồng trắng kêu.
    -Sáng nay tụi mình tặng nó cho nàng công chúa, gọi là quà mừng ngày sinh, thế mà hắn đánh cắp của nàng!
    -Rồi hồng trắng la to:
    -Kẻ cắp! Kẻ cắp! Kẻ cắp!
    -Ráng hơi ráng sức mà la. Ngay cả các cây phong lũ đỏ, thường chẳng hay lên mặt ta đây và được biết là có nhiều bà con nghèo khổ, chúng cũng cuốn lại với kẻ kinh tởm khi nom thấy chú; và khi các cây hoa tím nhỏ nhẹ nhận xét rằng tuy chú quả là tầm thường hết chỗ nói, nhưng chú đành phải chịu vậy chứ chẳng biết làm thế nào được, thì họ nhà phong lữ viện vào lẽ công bằng mà vặn lại rằng cái khuyết điểm chính yếu của chú là ở chỗ đó, rằng không có lý do gì bắt người ta phải ca tụng một người bởi chứng tật của y không chữa chạy được. Và thật tình mà nói, ngay một vài cây hoa tím cũng cảm thấy rằng cái xấu xí của chú lùn là gần như để phô trương. Và có lẽ chú được coi là còn chút đầu óc thẩm mỹ nếu như nom chú buồn bã hoặc ít ra thì cũng cố làm ra vẻ trầm ngâm, chứ không phải cứ nhảy nhót lung tung, buông thả theo những thái độ kệch cỡm, xuẩn ngốc đến thế. Còn như lão hướng dương một kẻ phi thường như hoàng đế Sác-lơ V, suốt ngày chỉ nói chuyện với không quá một người, cũng lấy làm sửng sốt trước diện mạo của chú lùn bé nhỏ, đến nỗi lão ngẩn người ra mất hai phút và lần này không nhịn được nữa phải nói với chim công lông trắng lúc đó đang tắm nắng trên bao lơn, rằng ai cũng biết:
    ?oCon vua nối nghiệp làm vua, con ông sãi chùa đi quét lá đa?; và sẽ là điều phi lý nếu cho như vậy là không đúng. Lời phát biểu này được chim công tán thành hoàn toàn và nó hét tướng:
    ?oĐúng! Đúng!?, tiếng của nó to và đanh, khiến cho cá vàng sống trong lòng trũng của bể phun nước mát lạnh phải ló đầu khỏi mặt nước để hỏi các thần nhân ngư to bằng đá, chẳng hay có chuyện gì đang xảy ra trên đất liền. Nhưng ai chê ai cười mặc ai, họ nhà chim vẫn yêu thích chú lùn. Chúng đã thường nom thấy chú trong rừng, trông thấy chú nhảy múa khắp nơi như một chú tiểu yêu đuổi theo những chiếc lá vàng đang bay xoáy lốc hoặc chính chú thu mình trong hốc một cây sồi nào đó, cùng những con sóc chia phần hạt dẻ. Chúng không mảy may có ý nghĩ rằng chú lùn xấu xí. Bởi lẽ đó ngay cả chim họa mi mà về ban đên vẫn ca hót trong lùm cây cam, dịu dàng đến nỗi thỉnh thoảng mặt trăng cũng phải nghiêng xuống lắng nghe, vẫn chẳng hề để ý đến điều đó. Vả lại chú rất tốt bụng đối với chúng; suốt mùa đông khủng khiếp vừa qua, khi cây cối không còn quả nữa và mặt đất cứng lại như thép, khi những con sói mò xuống tận cổng thành để kiếm miếng ăn, ngay cả những khi đó, chú lùn cũng không lần nào quên chúng. Chú luôn luôn cho chúng những mảnh vụn của khoanh bánh đen nhỏ bé mà chú đem theo, chia sẻ với chúng bất cứ một bữa điểm tâm xoàng xĩnh nào. Bởi vậy chúng bay đi liệng lại quanh chú, mỗi khi bay qua lại đưa cánh đụng khẽ vào má chú rồi ríu ra ríu rít gọi nhau. Chú lùn thích thú quá nên không tài nào không phô cho chúng xem đóa hồng trắng xinh đẹp và mách cho chúng hay là chính nàng công chúa tự tay ban cho chú, vì nàng yêu chú. Chúng chả hiểu mảy may lời chú nói, nhưng cái đó không hề gì, chúng nghiêng đầu sang một bên, tỏ vẻ rất khôn ngoan; như là chúng hiểu rõ ràng hơn bất cứ ai, mà lại dễ dàng hơn nhiều. Những con rắn mối cũng hâm mộ chú hết mực; khi chú đã thấm mệt vì đã chạy nhảy khắp nơi, chú gieo mình xuống cỏ để nghỉ ngơi, chúng bèn chơi đùa nô giỡn ầm ĩ xung quanh chú, cố gắng làm vui chú theo cung cách tốt nhất mà chúng có thể thi thố. Chúng hò reo:?Là ai thì cũng không xinh đẹp bằng rắn mối. Muốn đẹp bằng thì cứ đợi đấy hẵng, còn xơi. Nói ra có vẻ phi lý, chứ xét cho cùng thì chú ta có xấu chút nào đâu. Miễn là người ta phải nhắm mắt lại đừng có nhìn chú ta?.
    -Bản tính họ nhà rắn mối là những nhà triết học tầm cỡ, chúng thường ngồi suy tưởng hàng giờ khi chẳng có việc gì khác để làm, hoặc khi trời mưa quá nhiều khiến chúng không ra ngoài được. Tuy nhiên các cây hoa bực tức đến phát rồ lúc thấy chúng xử sự như vậy, và cả cách xử sự của họ nhà chim nữa. Họ nói:
    ?oĐiều đó chỉ chứng tỏ cái lối lao lên vút xuống lung tung đã đem lại kết quả tầm thường đến mức nào. Người có giáo dục như chúng ta đây, bao giờ cũng đứng nguyên một chỗ.
    Có ai thấy chúng ta nhảy lò cò trên lối đi, hết đàn nọ đến đàn kia hoặc như thằng điên cứ lao thục mạng để đuổi theo mấy con chuồn chuồn bao giờ đâu? Lúc nào chúng ta muốn thay đổi không khí, chúng ta chỉ việc sai đi tìm lão làm vườn, và lão mang chúng ta sang hướng khác. Điều đó đã được đề cao mà phải như thế mới được. Nhưng bọn chim và bọn rắn mối, chúng nó biết nghỉ ngơi là cái quái gì đâu! Mà quả thật, lũ chim chả có đến cả một cái địa chỉ cố định nữa. Chúng sống lông bông lang bang như bọn ấn Độ, cho nên phải đối xử với chúng đúng như với bọn ấn Độ?. Nói xong, lũ hoa hếch mặt lên trời, nom bộ tịch rất hợm hĩnh, và chúng lấy làm thích thú khi một lát sau, chúng thấy chú lùn từ đám cỏ bò lên và tiến ngay qua sân thượng để đi vào cung điện.
    -Chắc chắn phải nhốt hắn lại cho đến hết cái đời tự do của hắn.
    -Chúng nói.
    -Hãy trông cái lưng gù, đôi cẳng khuỳnh của hắn kia.
    -Và chúng bắt đầu xì xào. Nhưng chú lùn bé nhỏ nào có biết gì những chuyện đó!
    Chú yêu chim và rắn mối không sao kể xiết, chú nghĩ rằng hoa là những vật đẹp nhất đời, cố nhiên trừ nàng công chúa ra. Nhưng sau đó thì nàng tặng chú bông hồng trắng xinh đẹp nhất, nàng yêu chú và tình hình lại khác hẳn. si! Sao mà chú mong muốn lui về cung cùng nàng đến thế! Nàng sẽ đặt chú lên bàn tay phải của nàng, nàng sẽ mỉm cười với chú; không bao giờ chú rời khỏi nàng mà sẽ biến nàng thành bạn chơi đùa của chú, chú dạy cho nàng đủ các trò tinh nghịch thú vị. Tuy trước đây chú chẳng hề đến một cung điện nào, nhưng chú vẫn biết được bao nhiêu điều kỳ lạ. Chú có thể lấy lau sậy đan những chiếc ***g nhỏ cho những con sơn ca ở để chúng hót cho vui tai, biết lấy cây trúc nhiều đốt làm thành chiếc sáo mà thần Păng thích. Chú thuộc tiếng kêu của mỗi loại chim, và chú có thể gọi chim sáo đá từ trên ngọn cây xuống, gọi con diệc từ ao hồ lên. Chú thành thạo vết chân của mọi con vật và có thể tìm con thỏ qua dấu chân yếu ớt của nó, và con gấu qua những đám lá bị dẫm đạp.
    Chú nắm vững mọi điệu vũ hoang dại, điên cuồng của mùa thu trong bộ trang phục đỏ, điệu vũ thanh thoát trên cánh đồng ngũ cốc với những đôi dép màu xanh, điệu vũ những bông hoa tuyết cuồn cuộn trắng xóa về mùa đông, và điệu vũ hoa nở qua các vườn cây ăn quả lúc sang xuân. Chú biết con chim ngói xây tổ ở đâu, và có một lần, khi người săn chim đánh bẫy bắt mất bố mẹ lũ chim, chú đã tự tay mang chim non đi xây cho chúng một cái tổ trong kẽ nứt của một cây du cụt ngọn. Chúng đã hoàn toàn quen người và cứ mỗi buổi sáng chúng đã mổ ăn ở bàn tay chú. Nàng sẽ thích chúng, thích những chú thỏ chạy lon ton đây đó trong đám dương xỉ, những chim giẻ cùi với lông cứng mỏ đen, những con nhím có thể tự chúng cuộn tròn thành những quả cầu tua tủa gai, và những chú rùa to khôn ngoan, bò lồm ngồm chậm rãi, đầu rung rung, miệng gặm nhấm lá non. Phải rồi, nhất định nàng phải đi vào rừng và chơi đùa với chú. Chú sẽ tặng nàng chiếc giường bé nhỏ của riêng chú, và chú sẽ ở ngoài cửa sổ đứng canh gác cho tới rạng sáng, đề phòng giống thú hoang mang sừng cũng như những con chó sói gầy nhom lẻn đến căn lều quá gần có thể hại nàng. Và đến rạng đông, chú có thể đập khẽ vào cánh cửa sổ đánh thức nàng dậy, rồi cả hai sẽ đi ra ngoài và nhảy múa suốt ngày. Thật tình, ở trong rừng chả cô độc chút nào. Đôi khi có ông giám mục cưỡi con lừa trắng đi qua, cao giọng đọc một cuốn sách bìa sơn. Đôi khi, những thợ săn chim ưng đi qua gần đấy, đầu đội mũ chùm nhung xanh, mình bận áo da dê thuộc, mang những con chim ưng có mào đậu trên tay. Vào mùa nho chín, các bác thợ đạp nho tới, tay chân đỏ chót, mình quấn dây thừng bóng nhoáng, họ khuân những chiếc bầu bằng da thú đựng vang đang nhỏ giọt; các bác thợ đốt than ban đêm ngồi quanh đống lửa cháy rần rật ngóng nhìn những khúc củi khô dần dần cháy lụi, vùi những quả dẻ trong tro than, và bọn kẻ trộm từ các hang hốc đi ra vui đùa với họ. Lại có một lần chú thấy một đám rước đi qua, lượn rồng rắn trên con đường bụi bặm dài thăm thẳm dẫn tới Tô-lê-dô. ở hàng đầu, các thầy tu vừa đi vừa hát ngân nga, tay cầm những lá cờ lấp loáng và những cây thập tự bằng vàng; tiếp đó là các chú lính với bộ áo giáp bạc, tay cầm súng hỏa mai và kích, và giữa đám họ có ba người đi chân đất, bận những chiếc áo dài màu vàng vẽ lòe loẹt những hình thù kỳ dị, tay họ cầm những cây bạch lạp đang cháy.
    Chắc chắn ở trong rừng có vô khối những thứ để nhìn để ngắm; và lúc nàng đang mệt, chú sẽ tìm cho nàng một chiếc ghế êm bằng rêu, hoặc ẵm nàng trong cánh tay của chú, vì tuy rằng chú biết mình không cao lớn, nhưng rất khoẻ. Chú sẽ tết cho nàng một chiếc vòng cổ bằng những quả mọng đỏ và khi nàng đeo đã thấy chán, nàng có thể vứt nó đi, chú sẽ tìm cho nàng những chiếc vòng khác. Chú sẽ mang tới cho nàng những chiếc cốc làm bằng quả dâu, những cây cỏ chân ngỗng đẫm sương, những con đom đóm bé nhỏ cài vào mái tóc vàng nhạt để làm các vì sao. Nhưng nàng ở đâu? Chú hỏi bông hồng trắng, nhưng bông hồng không đáp lại chú nửa lời. Cả tòa cung điện này hình như đang ngủ thiếp đi, và ngay ở chỗ các cửa chớp không bị đóng lại, các bức rèm nặng nề đã được kéo ngang cửa sổ để tránh những con mắt tò mò. Chú đi lang thang quanh quẩn khắp xung quanh, tìm một nơi nào đó có thể đi vào, cuối cùng chú bắt gặp một cánh cửa nhỏ ở chỗ khuất đang để ngỏ. Chú lách qua và thấy mình đang đứng trong một đại sảnh tráng lệ, chú nghĩ là tráng lệ hơn nhiều so với khu rừng của chú; ở đây chỗ nào cũng mạ vàng, và ngay cái nền nhà cũng lát những viên đá màu, gắn lại với nhau thành một thứ mẫu vẽ hình học.
    Nhưng nàng công chúa không có ở đây, chỉ có mấy pho tượng trắng kỳ lạ từ trên bệ thạch đang nhìn xuống chú, với đôi mắt trắng buồn bã và những đôi môi mỉm cười lạ lùng. ở phía cuối đại sảnh, rũ xuống một bức màn thêu sang trọng bằng nhung đen điểm hình mặt trời và các vì sao, là những hình biểu tượng được đức vua ưa thích nhất và được thêu theo màu sắc nhà vua vừa ý nhất. Dễ chừng nàng đang nấp sau đó chăng? Dẫu có thế nào, chú cũng muốn thử xem. Thế là chú rón rén đi ngang qua phòng, kéo bức màn sang bên. Không có nàng; chỉ có một căn phòng khác, theo chú nghĩ, là một căn phòng đẹp hơn căn phòng chú vừa mới đi ra. Trên các bức tường có treo những bức trướng thêu màu xanh sặc sỡ, mang nhiều hình diễn tả một cuộc săn bắn -một công trình mà một số nghệ sĩ Phơ-la-măng đã bỏ ra trên bảy năm trời mới làm xong. Có một thời, đó là căn phòng của người mà được gọi là Giăng-lơ-phu -ông vua điên -say mê chuyện săn bắn đến nỗi thường khi trong cơn điên loạn, ông ta vừa cố gắng nhảy lên những con ngựa đang ***g, vừa kéo lê lết con hươu đực mà lũ chó săn đang nhảy bổ vào; mồm thổi kèn săn, tay lấy kiếm đâm vào con hươu cái lông trắng nhạt đang phóng như bay. Ngày nay, căn phòng đó được sử dụng làm phòng hội đồng, ở giữa chiếc bàn có đặt những chiếc cặp của các đại thần mang dấu ấn những hoa tử đinh hương Tây-ban-nha bằng vàng cùng những thứ vũ khí và huy hiệu dòng họ Háp-xbua.
    Chú lùn ngạc nhiên nhìn quanh nhìn quẩn, sợ hãi không dám bước tới. Những tay kỵ mã lạ lùng và im lìm kia đang phi như gió qua những khoảng trống dài mà không gây nên bất cứ tiếng động nào, chú nom chúng giống như những con ma khủng khiếp mà các bác đốt than đã nói đến -những giống Côm-pra-côx, nếu gặp người, chúng biến họ thành hươu để chúng săn đuổi. Nhưng chú nghĩ tới nàng công chúa và lại đâm ra bạo dạn. Chú muốn tìm thấy nàng ngồi một mình, nói với nàng rằng chú cũng yêu nàng. Có thể là nàng ở phòng bên kia. Chú chạy ngang qua những tấm thảm mềm mại xứ Mô-rơ rồi chú mở cửa.
    Không, nàng cũng không có ở đây. Căn phòng hoàn toàn vắng vẻ. Đây là phòng triều kiến dùng làm nơi tiếp các sứ thần nước ngoài khi mà nhà vua đồng ý dành cho họ một buổi bệ kiến riêng. Nhiều năm về trước, các đại diện ngoại giao nước Anh tới đã xuất hiện ở phòng này để thu xếp việc hôn nhân của nữ hoàng nước họ -lúc bấy giờ là một trong các vị quốc vương Gia-tô giáo châu âu -với người con trai cả của hoàng đế. Các bức tường làm bằng da Coóc-đô-ven dát vàng, một cây đèn nến vàng mang những nhánh đủ cắm ba trăm ngọn nến, buông thẳng xuống từ trần nhà màu trắng. Phía dưới một bức tường to -dệt bằng vàng có thêu những con sư tử và tháp Cax-ti-lơ bằng những hạt ngọc, chiếc ngai vua đứng sừng sững, phủ một chiếc áo hoàng bào sang trọng bằng nhung đen lốm đốm những hoa tử đinh hương bạc, mép viền bạc và ngọc một cách rất kỳ công.
    Trên bậc thứ hai của ngai vua đặt chiếc ghế và một chiếc gối bọc vải sợi bạc, dành cho công chúa lúc nàng đến quỳ xuống bệ kiến vua cha. Cũng ở phía dưới, nhưng ngoài giới hạn bức trướng là chiếc ghế dành cho giáo hoàng Nua-xi-ô, người duy nhất có quyền ngồi đối diện với nhà vua vào bất cứ dịp nào có ngày lễ và chiếc mũ hồng y giáo chủ của ngài với những núm rua đỏ chót chằng chịt, đặt trên chiếc ghế đẩu đỏ thắm ở phía trước mặt. Trên bức tường đối diện với ngai vua, treo bức chân dung Sác-lơ V lúc sinh thời, trong bộ quần áo đi săn, với một con chó lớn tai cụp bên cạnh. Một bức tranh vẽ Phi-lip II đang nhận lời chúc tụng của xứ Ne-thơ-ven chiếm trung tâm bức tường kia. Giữa các cửa sổ, có đặt chiếc tủ nhiều ngăn bằng ê-bô-nít đen, khảm những tấm ngà trên đó khắc những hình họa rút từ bức tranh
    ?oCuộc khiêu vũ của Thần chết? của Hôn-ben, mà có người nói rằng tự tay bậc danh họa này thực hiện. Nhưng chú lùn nhỏ bé chẳng chút để tâm đến cảnh huy hoàng tráng lệ này. Chú sẽ chẳng đổi bông hồng của chú để lấy tất cả các viên ngọc trên bức trướng, cũng không đổi cánh hoa để lấy chính cái ngai vua.
    Điều chú muốn, ấy là tìm được nàng công chúa trước khi nàng đi xuống lầu và xin nàng cùng với chú đi khỏi nơi đây một khi chú đã nhảy múa xong. ở đây, trong cái cung điện này, không khí tù hãm và nặng nề, còn trong rừng thì gió thổi tự do, ánh mặt trời với những bàn tay lượn lờ bằng vàng lật nghiêng những chiếc lá rung rinh. Trong rừng còn có hoa nữa, có lẽ không rực rỡ bằng hoa trong vườn, nhưng hương thơm ngạt ngào hơn; nào những lan dạ hương vào buổi đầu xuân đem màu đỏ thắm dập dềnh phủ ngập các thung lũng hẹp lạnh lẽo và những đồi nhỏ dệt cỏ xanh; nào những anh thảo vàng nép mình trong các bụi nhỏ xung quanh những rễ sồi xương xẩu; nào những cây đuôi diều màu hoa cà và vàng. Cả những cây đuôi sóc xám bám trên những cây phỉ, những cây mao địa hoàng nặng trĩu, những bộng ong lốm đốm. Cây dẻ có những vòng xoăn sao trắng, cây gai có những mặt trăng xanh xao xinh đẹp. Đúng rồi: chắc chắn nàng sẽ đến với chú, chỉ cần chú tìm thấy nàng thôi. Nàng sẽ đến với chú, cùng đi vào khu rừng xinh đẹp, và suốt ngày chú sẽ vì nàng mà nhảy múa cho nàng vui thích. Với ý nghĩ đó, một nụ cười làm sáng rực đôi mắt chú, rồi chú bước vào phòng bên cạnh. Trong tất cả các phòng thì đây là phòng sáng chói nhất, đẹp nhất. Các bức tường đều phủ gấm vóc màu hồng tô điểm những hình chim và những bông hoa cầu kỳ bằng bạc; đồ đạc đều bằng bạc khối trang trí hoa sặc sỡ và những thần Quá-di-đông đang dang rộng cánh bay; đối diện với hai lò sưởi to là những bức mành thêu chim vẹt và công; sàn nhà lát đá mã não hình như đang trải rộng ra tận phía xa. Nhưng ở đây, không phải chỉ có một mình chú. Đứng dưới bóng của ô cửa ở tận cuối căn phòng, chú thấy một người nhỏ bé đang ngắm nhìn chú.
    Trái tim chú rung lên, môi chú bật ra một tiếng kêu vui, và chú đi về phía có ánh sáng. Người kia cũng bước đi về phía ấy, giống như chú. Bóng nó thấp thoáng, chú chỉ thấy lờ mờ. Nàng công chúa! Không! Đó là một con quái vật, một con quái vật thô kệch nhất mà chú chưa hề thấy. Nó không có hình thù giống như mọi người, mà lưng gù, chân khuỳnh, cái đầu to ngả ra sau với một bờm tóc đen. Chú lùn chau mày, thế là con quái vật cũng chau mày. Chú cười, nó cũng cười theo, và nó chống tay lên hông đúng như chú đang làm. Chú cúi chào chế giễu nó, nó cũng cúi thấp người chào trả. Chú tiến lại phía nó, nó cũng bước tới gặp chú, bắt chước y nguyên mỗi một bước đi của chú, và dừng lại khi chú cũng dừng. Chú hét to thích thú, chạy tới phía trước và chìa tay ra; bàn tay con quái vật đụng tới bàn tay chú. Và bàn tay đó lạnh giá như băng. Chú đâm sợ, bèn đưa bàn tay sang phía bên kia thì bàn tay con quái vật chuyển theo ngay. Chú cố thử ấn mạnh lên nó, nhưng có một cái gì đó trơn và cứng chặn chú lại. Giờ thì khuôn mặt của con quái vật kề sát khuôn mặt chú, và hình như tràn ngập nỗi kinh hoàng. Chú vuốt tóc sang bên cho khỏi vướng mắt, nó bắt chước chú, chú đánh vào nó, nó đánh trả từng cú đấm một.
    Chú tỏ vẻ ghê tởm nó, nó phô ra cho chú thấy bộ mặt gớm guốc. Chú lùi lại sau, nó cũng lùi. Đó là cái gì nhỉ? Chú suy nghĩ một lát, đảo mắt quanh phòng nhìn những thứ khác. Thật là lạ lùng nhưng mọi thứ hình như có thêm một cái hình in hệt ở các tường vô hình trong như nước. Đúng thế, tranh được lắp lại bằng tranh, gối bằng gối. Thần đồng áng đang ngủ trong hốc gần khung cửa, có người anh em sinh đôi đang thiu thiu ngủ; và thần Vê-nuyx đứng trong ánh nắng đang chìa tay ra với một thần Vê-nuyx khác cũng xinh đẹp như mình. Phải chăng là nàng Tiếng Vang? Có một lần, chú đã gọi nàng ở trong thung, và nàng đã đáp lại chú từng lời, từng lời một. Lẽ nào nàng có thể chế nhạo con mắt, như đã chế giễu tiếng nói? Lẽ nào nàng có thể tạo nên một thế giới bắt chước in hệt thế giới thực? Lẽ nào bóng của các vật lại có thể có màu sắc, đời sống và cử động? Lẽ nào mà...? Chú bước đi và rút bông hồng trắng đeo ở ngực ra, chú quay vòng và hôn hoa. Con quái vật cũng có một bông hồng như của riêng chú, từng cánh, từng cánh in hệt nhau. Nó hôn hoa in như chú hôn và áp nó vào sát trái tim với những động tác khủng khiếp. Khi sự thật lóe lên trong đầu chú, chú thét lên một tiếng tuyệt vọng, chú ngã vật xuống đất khóc nức nở. Như vậy, chính chú là kẻ có đầu méo mó, khuỳnh chân, nom xấu xí, thô kệch. Chính chú là con quái vật, và tất cả bọn trẻ con đã nhằm vào chú mà cười vui, và nàng công chúa nhỏ bé -người mà chú đã nghĩ là yêu chú -cả nàng cũng vậy, đã chế giễu sự xấu xí của chú, thích thú với chân tay vặn vẹo của chú. Cớ sao người ta không để chú ở lại trong rừng, nơi mà không có chiếc gương nào nói cho chú biết chú gớm guốc đến nhường ấy? Cớ sao cha chú không giết chết chú đi, còn hơn là đem bán chú để cho chú phải hổ nhục. Những giọt nước mắt nóng hổi chảy xuống má chú, chú xé tan bông hồng trắng. Cái con quái vật đang nằm ườn xác ra kia cũng làm như vậy, nó tung những cánh hoa rách lên không trung. Nó ngã vật xuống đất, và khi chú nhìn nó, nó ngắm nhìn chú với khuôn mặt trễ xuống vì buồn đau.
    Chú len lén bỏ đi để khỏi phải trông thấy nó và đưa tay úp lấy mắt. Như một sinh vật bị thương, chú bò lê lết vào chỗ khuất ánh sáng, và chú nằm đấy khóc nức nở. Ngay lúc đó, nàng công chúa cùng với bạn bè đi vào qua cánh cửa để ngỏ, và khi họ thấy chú lùn bé nhỏ xấu xí đang nằm và đưa nắm tay đấm nền nhà với một điệu bộ kỳ cục quá đáng, họ bèn phá lên một trận cười sung sướng, họ xúm xít quanh chú và ngắm nhìn chú, nàng công chúa nói:
    -Nó nhảy múa đã ngộ nghĩnh, nhưng nó đóng kịch còn ngộ nghĩnh hơn. Quả thật, nó cũng giỏi gần bằng mấy con rối; có điều không được tự nhiên bằng, hẳn thế rồi. Nói xong, nàng phe phẩy chiếc quạt to và vỗ tay. Nhưng chú lùn bé nhỏ không hề ngước nhìn lên, tiếng nức nở của chú mỗi lúc một yếu dần và đột nhiên chú thở hắt ra một cách kỳ lạ, tay chú bám chặt lấy mạng sườn. Rồi tiếp đó chú ngã vật ra, nằm im không cựa quậy.
    -Chơi thế là tuyệt diệu rồi đấy,- nàng công chúa nói
    -nhưng giờ thì mi phải múa cho ta xem.
    -Phải đấy,
    -lũ trẻ hét lên, tán thưởng,
    -mi phải đứng lên và múa đi. Mi cũng thông minh ngang mấy con khỉ Bác-ba-ri, nhưng mi buồn cười hơn nhiều. Nhưng chú lùn bé nhỏ không đáp lại nửa lời. Thế là nàng công chúa dẫm chân thình thịch, gọi ông chú tới; ông ta đang dạo ngoài sân thượng với ông tể tướng và đang đọc một số những thông điệp nào đó mới gửi từ Mê-hi-cô tới, nơi mà Tòa án tôn giáo vừa được thành lập gần đây.
    -Thằng lùn của cháu nó đang dỗi.
    -Nàng kêu to.
    -Chú phải đánh thức nó dậy, bảo nó nhảy múa cho cháu xem. Họ mỉm cười với nhau, ung dung bước vào. Đông Pê-đrô cúi xuống, đưa chiếc tất tay thêu đập vào má chú lùn. Y nói:
    -Mi phải nhảy múa đi, thằng quái vật tí hon này, mi phải nhảy múa. Công chúa muốn giải trí. Nhưng chú lùn bé nhỏ không hề cựa quậy.
    -Phải gọi lão phạt đòn tới thôi.
    -Đông Pê-đrô nói.
    -Và y trở ra sân thượng. Nhưng quan tể tướng nom có vẻ nghiêm nghị, ông quỳ xuống bên cạnh chú lùn bé nhỏ, rồi đặt tay lên ngực chú. Một lát, ông nhún vai, đứng lên và cúi mình thật thấp trước nàng công chúa, ông nói:.
    -Thưa công chúa kiều diễm, thằng lùn bé nhỏ của công chúa không bao giờ còn nhảy múa nữa. Thật đáng tiếc, nó xấu xí đến thế thì có thể khiến đức hoàng thượng mỉm cười được.
    -Nhưng tại sao nó lại không nhảy múa nữa?
    -Công chúa vừa cười vừa hỏi.
    -Vì trái tim của nó đã vỡ. Thế là nàng chau mày, đôi môi xinh xắn như cong lên với vẻ khinh thị mà duyên dáng. Nàng kêu to:
    -Từ giờ về sau, những đứa nào không có trái tim thì mới được đến chơi đùa với tôi. Và nàng chạy ào ra vườn.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Nhà vua trẻ
    Lúc này, vào ban đêm trước ngày lễ phong vương được quá định, nhà vua trẻ ngồi một mình trong căn phòng xinh đẹp của mình. Tất cả các triều thần đã xin cáo từ sau khi cúi dập đầu xuống đất, đúng theo nghi thức của thuở đó, và họ đã lui về phòng khánh tiết ở hoàng cung để tiếp nhận một ít bài học cuối cùng của giáo sư nghi thức: trong đám các vị, có một vài người vẫn còn giữ những dáng điệu hết sức tự nhiên, mà đối với một triều thần, tôi cần phải đường đột mà nói ra, đó là một sự vi phạm nghiêm trọng. Cậu bé -vì đấy chỉ là một thiếu niên mới mười sáu tuổi -không lấy làm buồn phiền lúc họ đã đi khỏi. Với một tiếng thở dài khoan khoái, cậu ngả người xuống các tấm đệm êm dịu trên chiếc trường kỷ phủ vải thêu. Cậu nằm ở đấy, mắt nhìn hoang dại và miệng mở rộng nom như một con thú màu nâu vùng sơn cước hoặc như một động vật nào đó ở vùng rừng núi mới bị người thợ săn bẫy được. Mà thật vậy, chính các tay thợ săn đã tình cờ tìm thấy cậu lúc mà, chân không giày không guốc và tay cầm chiếc sáo, cậu đang đi theo đàn gia súc của bác chăn dê nghèo khổ đã nuôi nấng cậu, và cậu luôn luôn nghĩ rằng cậu là con trai bác ta.
    Người con gái độc nhất của đức vua đã sinh ra cậu do một cuộc hôn nhân bí mật với một người ở địa vị thấp kém hơn nàng nhiều, có kẻ nói đó là một người nước ngoài đã khiến cho nàng công chúa trẻ phải lòng do tiếng đàn luýt có ma lực kỳ lạ của mình; những người khác lại đả động đến một nghệ sĩ từ Ri-mi-ni tới và được nàng công chúa trọng vọng- có lẽ lại quá trọng vọng -và chàng đã đột ngột biến khỏi thành bang, bỏ dở công trình của chàng ở nhà thờ lớn. Ra đời được một tuần, lúc còn nằm bên cạnh bà mẹ đang ngủ, cậu bé được giao cho vợ chồng một bác nông dân bình thường chăm sóc; họ không có con cái và ở trong một khu rừng hẻo lánh cách xa thành bang hơn một ngày đi ngựa. Hình như một thứ thuốc độc có công hiệu nhanh chóng được lùa vào một cốc rượu vang, đã giết chết người con gái trong trắng sinh ra cậu, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ sau khi nàng tỉnh giấc. Và trong lúc tin những kẻ thân tín của nhà vua mang đứa bé đi khỏi thành bang vừa nhảy xuống khỏi những con ngựa mệt nhoài, gõ vào cánh cửa thô kệch ở túp lều bác chăn dê, thì xác nàng công chúa được hạ xuống một cái hố lộ thiên đào sẵn trong một nghĩa địa xa khuất ở bên kia cổng thành. Theo như người ta đồn đại, đã có một cái xác khác trong huyệt, xác một chàng thanh niên với vẻ đẹp kỳ diệu của một người nước ngoài, tay bị trói quặt sau lưng bằng một chiếc dây thừng thắt nút, ngực bị những nhát dao đâm để lại những vết thương còn tươi máu.
    ít ra, câu chuyện người ta rỉ tai nhau mà đồn đại, là như vậy. Có điều chắc chắn, là vị vua già, lúc nằm trên giường đợi phút lâm chung, hoặc bị giày vò bởi sự ăn năn trước tội ác ghê gớm của mình, hoặc đơn giản hơn, muốn rằng vương quốc không bị lọt khỏi dòng họ mình, vị vua già đã phái người đi tìm đứa bé và trước mặt đông đủ các quan, ông đã thừa nhận nó là người kế vị. Hình như ngay từ phút đầu tiên được thừa nhận, cậu bé đã tỏ rõ những dấu hiệu mê đắm cái đẹp mà sẽ có một ảnh hưởng lớn lao đối với suốt cuộc đời của cậu. Những ai theo hầu cậu ta đến dãy phòng dành riêng cho cậu, đều thường nói đến tiếng kêu thích thú cậu bật ra khi trông thấy bộ áo quần đẹp đẽ cùng vô khối đồ trang sức đã được chuẩn bị sẵn cho cậu; và họ cũng nói đến niềm vui sướng gần như hoàn toàn lúc cậu vất sang một bên chiếc áo chẽn bằng da sù sì với chiếc áo da dê khô cứng. Thật tình, thỉnh thoảng cậu cũng thấy nhớ đời sống tự do ở rừng núi, và bao giờ cũng dễ dàng bực bội trước các nghi thức nhạt nhẽo ở triều đình đang chiếm phần lớn thời gian trong ngày; nhưng cái cung điện kỳ lạ
    -thiên hạ gọi là cung điện vui thú, mà giờ đây cậu thấy bản thân mình làm chủ, hình như là một thế giới mới được tạo ra vì lạc thú của cậu. Và hễ vừa thoát khỏi bàn hội đồng hoặc phòng bệ kiến là cậu chạy xuống chiếc cầu thang lớn trang trí bằng những con sư tử đồng thau dát vàng và các bậc bằng đá poóc-phia lấp lánh; cậu đi vẩn vơ từ phòng này sang phòng khác, từ dãy hành lang này đến dãy hành lang nọ, nom như một người đang tìm tòi để phát hiện ra ở cái đẹp một niềm an ủi cho nỗi buồn khổ, hoặc một thứ gì đó để phục hồi lại sau cơn đau ốm. Trong những ngày mà cậu gọi là những ngày khám phá
    mà thật thế, đối với cậu, đấy là những cuộc du hành thực sự qua một xứ kỳ diệu. Đôi khi đi cùng với cậu là những kiếm đồng triều đình, người mảnh khảnh, mái tóc xinh xắn, bận những chiếc áo khoác tà bay lất phất với những dây băng phấp phới vui mắt; nhưng thường khi cậu muốn đi một mình, do một bản năng nhạy bén nào đó, gần như một kinh nghiệm, cậu cảm thấy rằng nếu muốn tiếp thụ tốt nhất những bí quyết của nghệ thuật thì phải học tập một cách kín đáo, và cái Đẹp, cũng như sự Lịnh duyệt, chỉ yêu thương người thờ phụng nó trong cảnh cô đơn. Vào thời kỳ đó, người ta thuật lại nhiều câu chuyện lạ lùng về cậu ta. Chuyện kể rằng, có một ông thị trưởng người béo mập, nhân danh các công dân thành phố tới chúc tụng cậu đã bắt gặp cậu đang quỳ xuống trong sự sùng kính thực sự trước một bức tranh rập khổ vừa mới đưa từ Vơ-ni-dơ về, và hình như chuyện đó báo trước sự thờ phụng một vài thần linh mới. Vào một dịp khác, cậu đã vắng mặt trong nhiều tiếng đồng hồ, và sau một cuộc tìm kiếm kéo dài người ta tìm ra cậu trong một căn phòng nhỏ ở một cái tháp phía bắc cung điện, như một người ở trạng thái nhập định, cậu đang ngắm nhìn một viên đá khắc khuôn mặt A-đô-nix. Thế là chuyện đồn đại rằng người ta đã thấy cậu đưa đôi môi nóng hổi áp sát vầng trán bằng đá cẩm thạch của một pho tượng cổ được phát hiện trong lòng một con sông vào dịp xây dựng chiếc cầu bằng đá và trên đó có khắc tên người nô lệ Bai-ti-nai-ân. Có khi cậu thức suốt một đêm ròng để theo dõi hiệu lực của một chút ánh trăng trên tấm hình En-di-mi-ông bằng bạc. Mọi vật liệu hiếm hoi và đắt tiền thực sự đều có sức thôi miên cậu; do lòng hăm hở muốn có được những thứ đó, cậu phái các nhà buôn đi khắp nơi, kẻ đi trao đổi hổ phách với các ngư dân cục mịch tại các biển phương bắc, người sang Ai-cập tìm kiếm thứ ngọc lam kì lạ chỉ có trong mộ của các vị đế vương, mà theo lời đồn, chúng có những đặc tính ma thuật; người lại tới Ba-tư tậu các thảm lụa và đồ gốm trang trí hình vẽ; còn những kẻ khác sang ấn-độ mua sa và ngà voi đánh màu, các thứ đá mặt trăng và vòng xuyến bằng ngọc, gỗ đàn hương và men xanh, các tấm khăn choàng bằng len mịn. Nhưng vật khiến cậu bận tâm bận trí nhất, ấy là chiếc áo choàng bào cậu sẽ mặc vào dịp lễ phong vương, chiếc áo dệt bằng vàng, chiếc vương miện gắn hồng ngọc, cây thiền trượng với những dãy, những vòng ngọc thạch tiếp nối nhau. Quả thật đêm nay cậu đang nghĩ đến nó lúc cậu ngả lưng trên chiếc giường sang trọng ngắm nhìn thanh củi đang cháy ở chiếc lò sưởi để mở.
    Những hình mẫu do bàn tay các nghệ sĩ nổi tiếng thời đó phác họa ra, đã được trình lên cậu nhiều tháng trước đây, cậu đã ban lệnh cho các thợ thủ công phải ngày đêm làm việc miệt mài để hoàn thành nó và phải đi lùng khắp thế giới tìm các châu báu xứng đáng với công trình của họ. Cậu tưởng tượng mình đang đứng ở chiếc bàn thờ cao tại giáo đường, trong bộ quần áo đẹp đẽ của một vị vua; rồi một nụ cười nấn ná trên đôi môi trẻ con của cậu và, với một vẻ đẹp huy hoàng, nó làm rạng rỡ đôi mắt u sầu của người vùng rừng núi. Một lát sau, cậu đứng lên, tựa vào mái có chạm trổ của chiếc bếp lò, đảo mắt nhìn căn phòng chìm trong bóng tối lờ mờ. Trên tường treo những bức trướng lộng lẫy trang trí tấm hình Sự chiến thắng của cái đẹp. Một chiếc tủ lớn, khảm mã não và đá da trời, choán cả một góc phòng; đối diện với cửa sổ là một cái tủ con chạm trổ kỳ công, chỗ thì khảm bạc chỗ thì khảm vàng, trên đặt một vài cái cốc thanh nhã bằng thủy tinh Vơ-ni-dơ với một chiếc cốc bằng đá mã não có đường gân xám. Tấm khăn trải giường bằng lụa thêu những cây thuốc phiện xám nhạt như thể chúng rũ xuống từ những bàn tay mệt mỏi của thần giấc ngủ. Chiếc sạp bọc nhung mà từ đó có các chùm lông đà điểu như bọt biển trắng, vươn lên cho tới nền cái xanh xao của mái trần điểm hoa văn.
    Một thần Nác-xít bằng đồng thau xanh, cầm chiếc gương bóng loáng phía trên đầu. Trên bàn đặt một chiếc bát nông lòng, bằng thạch anh xanh. Nhìn ra bên ngoài, cậu có thể thấy cái đỉnh tròn to lớn của giáo đường hiện ra lồ lộ như một chiếc bong bóng trên đầu các ngôi nhà mờ ảo, lính tuần canh mệt mỏi đi lên đi xuống sân thượng mù sương ở gần con sông. Mùi hương nhài thoang thoảng bay vào qua cửa sổ để mở. Cậu chải những cụm tóc cuốn búp phía trước trán ra sau, rồi vớ lấy một cây đàn luýt, cậu dạo ngón tay lướt trên các phím. Đôi mi mắt nặng trĩu của cậu cụp xuống và một cảm giác uể oải lạ lùng đè nặng lên cậu. Từ trước đến nay chưa bao giờ cậu cảm thấy thấm thía đến thế, hoặc với một niềm vui sướng tế nhị đến thế, cái ma lực và cái huyền bí của các đồ vật xinh đẹp. Lúc đồng hồ ở tháp canh báo nửa đêm, cậu đụng vào một cái chuông nhỏ; các kiếm đồng bèn bước vào cởi áo cho cậu theo đúng nghi thức nghiêm ngặt, dội nước hoa lên bàn tay cậu và rắc hoa lên chiếc gối. Họ rời căn buồng được giây lát thì cậu ngủ thiếp đi. Và trong khi ngủ cậu đã mơ, và giấc mơ của cậu là thế này.
    Cậu thấy mình đang đứng trong một tầng nhà dài và thấp, giữa tiếng vo vo và tiếng lách cách của nhiều khung cửi. ánh sáng ban ngày yếu ớt xuyên qua các cửa sổ chỉ cho cậu thấy khuôn mặt gầy gò của những người thợ dệt đang cúi khom người xuống khung cửi của họ. Bọn trẻ con nom xanh xao, ốm yếu đang cúi xuống những thanh ngáng to. Mỗi khi các con thoi lao qua sợi dọc, chúng phải nâng các ván lót nặng nề lên, khi các con thoi ngừng lại thì chúng để các ván lót rơi xuống và ép các sợi chỉ lại với nhau. Mặt chúng nhăn nhúm lại vì đói, đôi bàn tay gầy guộc của chúng run run. Một vài người phụ nữ phờ phạc đang ngồi khâu ở một chiếc bàn may. Một thứ mùi khủng khiếp tràn ngập nơi đây. Không khí hôi thối, nặng nề, và khí ẩm ở các bức tường đọng lại nhỏ giọt rồi tuôn chảy. Cậu đi tới một người thợ dệt, rồi đứng cạnh bác và ngắm nhìn bác ta. Người thợ dệt giận dữ nhìn cậu và nói:
    -Cớ chi mà anh cứ đứng nhìn ta như thế, hở? ông chủ phái anh đến đây để do thám bọn ta hẳn?
    -Chứ bác là ai vậy?
    -Cậu hỏi.
    -Lại còn hỏi!
    -Người thợ dệt kêu lên giọng gay gắt.
    -ông ta cũng là người như ta đây này. Đúng thế. Duy chỉ có một sự khác biệt như thế này giữa hai bên
    -ông ấy thì mang quần áo đẹp trong khi bọn ta ăn mặc rách rưới; trong khi ta ốm yếu vì đói thì ông ta bội thực, chẳng đau ốm gì ráo.
    -Xứ sở đã tự do
    -cậu nói
    -và bác không phải là nô lệ của ai. Trong chiến tranh -bác thợ dệt đáp
    -kẻ mạnh bắt kẻ yếu làm nô lệ, còn trong thời bình, người giàu biến kẻ nghèo thành nô lệ. Bọn ta phải lao động để sống, và người ta cho bọn ta những đồng lương tồi tệ khiến bọn ta phải chết. Bọn ta suốt ngày nai lưng ra làm việc, còn họ thì chất chồng vàng bạc trong hòm xiểng. Con cái bọn ta tàn héo trước tuổi, khuôn mặt những kẻ ta yêu thương trở nên khắc khổ và độc ác. Bọn ta đạp quả nho còn kẻ khác thì uống rượu vang. Bọn ta gieo thóc nhưng bàn ăn của bọn ta trống rỗng. Chúng ta mang xiềng xích tuy chẳng có con mắt nào nom thấy; và người ta cho rằng bọn ta tự do, nhưng chúng ta vẫn là nô lệ.
    -Ai ai cũng thế cả, hay sao?
    -Cậu bé hỏi.
    -Ai ai cũng đều thế cả.
    -Người thợ dệt trả lời.
    -Với người trẻ cũng như người già, với đàn bà cũng như đàn ông, với trẻ con cũng như người già tuổi tác. Bọn lái buôn vùi bọn ta xuống tận đất đen, ấy thế mà bọn họ bảo sao, bọn ta phải nghe vậy. Các tu sĩ ngồi trên mình ngựa đi cạnh bọn ta, tay lần tràng hạt nhưng không có ai, săn sóc quan tâm đến bọn ta. Với đôi mắt háu đói; con Ma Nghèo đang luồn qua các ngõ hẻm thiếu ánh sáng mặt trời, và Tội ác, mang cái bộ mặt đần độn, đang đi bám sát nó. Buổi sáng, mối Cơ Hàn đánh thức bọn ta. Nhưng đối với anh, những cái đó có nghĩa lý gì? Anh đâu có phải người thuộc cánh bọn ta. Nom mặt mày anh sung sướng quá! Nói xong, bác vừa cau có giận dữ, vừa quay đi, làm việc với con thoi của mình và nhà vua trẻ thấy mắc vào thoi là một sợi chỉ bằng vàng. Một nỗi kinh sợ ghê gớm xâm chiếm cậu, cậu hỏi bác thợ dệt:
    -Cái áo bác đang dệt đây là áo gì vậy?
    -Đó là chiếc áo dùng vào việc phong vương cho nhà vua trẻ.
    -Bác đáp.
    -Việc gì đến anh mà anh hỏi? Thế là nhà vua trẻ hét lên một tiếng và tỉnh giấc, nhưng kìa, cậu vẫn nằm trong phòng riêng của mình, và qua cửa sổ, cậu thấy mặt trăng màu mật đang treo lơ lửng trên không trung mờ tối. Rồi cậu lại ngủ thiếp đi, lại chiêm bao và chiêm bao như thế này. Cậu thấy mình đang nằm trên boong một chiếc ga-lê to lớn do một trăm người nô lệ chèo. Chủ chiếc tàu ngồi cạnh cậu, trên một chiếc thảm. Da lão đen như gỗ mun, đầu chít một chiếc khăn lụa đỏ thắm. Đôi hoa tai bằng bạc buông thõng ở hai thuỳ tai dày và tay lão cầm một chiếc cân bằng ngà. Những người nô lệ mình trần trùi trụi, chỉ đeo một chiếc khố rách, người này bị xích vào người nọ. Mặt trời nóng gắt rót ánh sáng bỏng rát lên họ, còn bọn da đen thì chạy lên chạy xuống trên cầu thuyền và dùng roi da sáng quất vun vút vào người họ. Họ vươn đôi cánh tay khẳng khiu khua các mái chèo nặng nề trong nước làm bụi nước bắn tung tóe. Cuối cùng, tàu tới được một cái vịnh nhỏ và bắt đầu đo dò. Từ bờ biển, một ngọn gió nhẹ thổi tới phủ một thứ bụi đỏ mịn lên boong và tấm buồm tam giác. Có ba người ả-rập cưỡi trên những con lừa hoang xông tới và phóng những mũi lao vào họ. Người chủ chiếc tàu, tay vớ một chiếc cung sơn màu và bắn trúng cổ họng của một trong ba người. Người đó nặng nề đổ vật xuống bọt sóng vỗ bờ, còn người bạn của y thì quất lừa tháo chạy. Một phụ nữ, mình quấn chiếc khăn choàng màu vàng, cưỡi lạc đà, lặng lẽ đi theo, thỉnh thoảng ngoái lại sau nhìn cái xác chết. Buông neo và hạ buồm xong, bọn da đen đi xuống hầm tàu và kéo lên một chiếc thang dây đính những cục chì nặng. Lão chủ chiếc tàu ném thang qua thành tàu, khiến thang bám chặt vào hai cái trụ bằng thép. Thế rồi bọn da đen túm lấy người trẻ nhất trong đám nô lệ, đánh bật chiếc xiềng ở người anh, lấy sáp bít lỗ mũi, lỗ tai anh lại và buộc một hòn đá to vào ngực anh. Anh nô lệ mệt nhọc trườn xuống thang rồi mất hút vào biển. Một ít bong bóng nổi lên ở chỗ anh vừa lặn xuống. Vài người nô lệ tò mò chăm chú liếc nhìn. ở đầu mũi tàu ga-lê, một gã dụ mê ngồi gõ trống đều đều. Một lát sau, người lặn nổi lên khỏi mặt nước, miệng thở dốc, tay trái bám chặt chiếc thang, tay phải cầm một viên ngọc.
    Bọn da đen giật nó khỏi tay anh rồi lại đẩy anh xuống biển. Những người nô lệ ôm lấy mái chèo mà ngủ thiếp đi. Hết lượt này đến lượt khác, anh nô lệ đi lên và mỗi lần như vậy, anh cầm theo mình một viên ngọc đẹp. Lão chủ cân ngọc rồi bỏ nó vào một cái túi nhỏ bằng da màu xanh. Nhà vua trẻ cố thử lên tiếng, nhưng lưỡi líu lại, như gắn chặt vào vòm miệng và môi không chịu mấp máy. Bọn da đen không ngớt chuyện trò với nhau rồi bắt đầu cãi cọ vì một dây chuyền gồm những hạt lấp lánh. Rồi hai cái đầu lăn tròn trên tàu, kêu công cốc. Thế rồi một lần cuối cùng, người nô lệ nổi lên, và viên ngọc anh mang theo đẹp hơn tất cả các viên ngọc khác, bởi vì hình dáng nó giống như mặt trăng rằm và nó sáng hơn ngôi sao mai. Nhưng mặt anh nô lệ nhợt nhạt lạ lùng, và khi anh ngã vật trên cầu tàu thì máu mũi và máu tai trào ra. Anh run run chốc lát rồi nằm bất động. Bọn da đen nhún vai, vất xác anh qua mạn tàu. Lão chủ vừa cười vừa với tay cầm lấy viên ngọc và lão nhìn nó, lão áp nó vào trán và kính cẩn cúi mình. Lão nói:
    ?oViên ngọc này phải dành cho cây thiền trượng của đức vua trẻ?. Nói xong lão ra hiệu cho bọn da đen nhổ neo. Nhà vua trẻ nghe như vậy, liền hét lên một tiếng và thức giấc. Qua cửa sổ, cậu nom thấy những ngón tay xám dài của rạng đông bám chặt lấy các vì sao đang nhạt dần. Rồi một lần nữa, cậu lại ngủ thiếp đi, lại chiêm bao, và chiêm bao như thế này. Cậu thấy mình đang đi lang thang qua một khu rừng tối mờ, cây cối lủng lẳng những quả kì lạ và những bông hoa độc xinh đẹp. Những con rắn lục rít vào mặt cậu lúc cậu đi qua và những con vẹt lông óng ánh đang kêu inh ỏi chuyền từ cành này sang cành khác. Những con rùa to lớn nằm ngủ trên bùn nóng ấm. Cây cối đầy khỉ và chim công. Cậu cứ bước đi, đi mãi cho đến khi tới một bìa rừng, và tại đấy, cậu thấy một đám người đông nghịt đang làm việc cực nhọc trong lòng một con sông đã được tát cạn. Họ tụ lại đông như kiến ở các vách đá dựng đứng. Họ đào các giếng sâu trong lòng đất và trèo xuống. Một số trong đám họ dùng những chiếc búa chim bổ vào các tảng đá; những người khác lần mò trong cát. Họ nhổ bật rễ các cây xương rồng và giẫm lên các bông hoa màu đỏ thắm. Họ làm việc hối hả, thúc giục nhau và không ai là đứng không. Từ trong bóng tối âm u của một cái hang, Thần Chết và mụ Keo Kiệt ngắm nhìn họ, rồi Thần Chết nói:
    -Ta yếu lắm; hãy cho ta một phần ba trong số bọn đó rồi để ta đi. Nhưng Keo Kiệt lắc đầu:
    -Chúng là tôi tớ của ta, cho sao được! ông bèn nói:
    -Nhà ngươi cầm cái gì trong tay ấy thế?
    -Ta có ba hạt ngũ cốc.
    -Mụ đáp.
    -Cái đó việc gì đến ngươi?
    -Hãy cho ta một hạt.
    -Thần Chết kêu.
    -Để ta gieo trong vườn của ta. Chỉ một hạt thôi, rồi ta sẽ đi khỏi nơi đây.
    -Ta sẽ không cho ngươi một tí gì hết.
    -Keo Kiệt đáp.
    -Rồi mụ giấu bàn tay trong nếp áo quần của mụ. Thế là Thần Chết cười; lấy một chiếc cốc nhúng vào một ao nước và từ trong chiếc cốc, Sốt Rét nổi lên. Sốt Rét đi qua đám đông và một phần ba số người bị chết. Một đám sương mù lạnh lẽo cuốn theo thần bệnh và những con rắn nước chạy bên cạnh nó. Lúc thấy một phần ba đám đông đã bị chết, Keo Kiệt vừa đấm ngực thùm thụp vừa kêu khóc; mụ ta đập vào trái tim cằn cỗi của mình rồi hét to:
    -Ngươi đã giết một phần ba bọn tôi tớ của ta. Ngươi hãy cút đi. Trong vùng núi Tác-ta-ri, đang có chiến tranh và các vị vua của mỗi phe đang kêu gọi ngươi. Bọn người áp-găng dắt những con bò mộng đang đi vào chiến trận. Chúng lấy giáo gõ vào những chiếc khiên và chúng đội mũ sắt. Cái thung lũng của ta có can hệ gì đến ngươi mà ngươi cứ phải nấn ná lại đây? Ngươi hãy cút đi, đừng có đến đây nữa.
    -Không.
    -Thần Chết đáp
    -chừng nào ngươi chưa cho ta một hạt ngũ cốc thì ta còn chưa đi. Nhưng Keo Kiệt đã khép tay lại, vừa nghiến răng ken két vừa thì thầm:
    -Ta không cho mi chút gì hết! Thần Chết bèn cười, nhặt lấy một hòn đá to ném vào rừng sâu; và từ một khu rừng cây độc mộc tua tủa, Bệnh Sốt bước ra trong chiếc áo rực lửa. Nó đi qua đám đông, đụng vào họ và hễ nó đụng tới ai thì người ấy chết. Nó đi tới đâu thì cỏ xanh tàn héo dưới bước chân của nó tới đó. Keo Kiệt rùng mình, lấy tro rắc lên đầu:
    -Ngươi độc ác quá, độc ác quá chừng. Nạn đói đang hoành hành trong các thành bang có tường bao quanh của ấn-độ, và các giếng ở Xa-mác-can đã khô cạn. Nạn đói đang hoành hành trong các thành bang có tường bao quanh của Ai-cập, và từng đàn châu chấu từ sa mạc đổ tới. Sông Nin không dâng nước tràn bờ và các giáo sĩ đang nuôi dưỡng I-dít và s-di-rix. Ngươi hãy cút đi, tới những nơi cần đến ngươi và hãy chừa tôi tớ của ta ra.
    -Không.
    -Thần Chết đáp
    -ngươi chưa cho ta hạt ngũ cốc thì ta còn chưa đi.
    -Ta không cho ngươi chút gì hết.
    -Keo Kiệt nói. Và Thần Chết lại cười, nó đưa ngón tay lên huýt một tiếng sáo. Qua không trung một mụ đàn bà bay tới. Bệnh dịch hạch hiện ra trên trán mụ và một đàn diều hâu gầy nhom bay vờn quanh mụ. Mụ giang rộng cánh bao trùm lên thung lũng và không còn một ai sống sót. Thế là Keo Kiệt vừa la hét vừa bay vào rừng, còn Thần Chết nhảy lên con ngựa sắc đỏ, và con ngựa phi đi, nhanh hơn gió. ở đáy thung lũng những con mãng xà và nhiều con vật khủng khiếp có vẩy, từ trong bùn sền sệt, trườn ra, và những con chó rừng chạy tới dọc theo bờ sông, lỗ mũi hếch lên trời và hít hít. Nhà vua trẻ bật khóc và nói:
    -Những người đó là ai, và họ đang tìm kiếm cái gì vậy?
    -Tìm ngọc cho chiếc vương miện của đức vua.
    -Một người đứng sau cậu, trả lời. Nhà vua trẻ giật mình và quay nhìn xung quanh, cậu nom thấy một người ăn mặc như một kẻ hành hương cầm trong tay một chiếc gương bằng bạc. Cậu tái mặt hỏi:
    -Cho đức vua nào?
    -Hãy nhìn vào chiếc gương này xem!
    -Người hành hương đáp.
    -Và ngươi sẽ thấy. Cậu bèn nhìn vào gương và khi nom thấy khuôn mặt của mình, cậu hét lên một tiếng và thức dậy: ánh ban mai lấp lánh đang tuôn chảy vào căn phòng và từ các lùm cây trong vườn, chim chóc đang hót ca. Quan tể tướng cùng các nhà quan đại thần bước vào bày tỏ lòng tôn kính lên nhà vua trẻ; các kiếm đồng đem đến cho cậu chiếc áo dệt bằng vàng, rồi đặt vương miện cùng cây thiền trượng trước mặt cậu. Nhà vua trẻ nhìn những thứ đó, thấy chúng quá là đẹp, đẹp hơn bất cứ cái gì người ta từng thấy. Nhưng cậu nhớ lại những giấc chiêm bao, và cậu nói với các quan:
    -Hãy đem những thứ đó đi, vì ta sẽ không dùng đến. Nghe vậy, các triều thần đều sửng sốt, một số vị lại còn cười vì họ nghĩ rằng nhà vua đang đùa. Nhưng cậu nghiêm nghị nhắc lại một lần nữa và cậu nói:
    -?Hãy đưa những thứ này đi chỗ khác, và hãy cất giấu đi, đừng để ta trông thấy. Tuy hôm nay là ngày ta được tấn phong, nhưng ta sẽ không dùng đến. Bởi lẽ chiếc áo của ta được dệt trên chiếc khung cửi của Đau Khổ và do bàn tay trắng của Cực Nhọc. Trong ruột viên ngọc có Máu, và trong ruột viên trân châu có Thần Chết?. Rồi kể cho họ nghe ba giấc mơ của mình. Khi các triều thần nghe kể, họ vừa nhìn nhau vừa thì thầm:
    ?oChắc chắn là nhà vua điên rồi, bởi vì chiêm bao chỉ là chiêm bao, chứ không thì là cái gì? Những chuyện đó đâu phải là chuyện thực mà chúng ta phải lưu ý tới? Vả lại, với những người làm việc khó nhọc vì chúng ta, chúng ta quan tâm đến cuộc sống của họ để mà làm gì? Lẽ nào con người không nên ăn bánh khi nom thấy người gieo hạt, không uống rượu vang khi y nói chuyện với người làm ra vang?? Rồi ông tể tướng trình lên nhà vua trẻ:
    -Tâu hoàng thượng, cúi xin Người hãy gác sang bên những ý nghĩ u uất của Người. Người hãy mặc chiếc áo xinh đẹp này, và đội chiếc vương miện này lên. Bởi lẽ rằng dân chúng làm sao biết được Người là một vị vua nếu Người không có áo quần nhà vua? Nhà vua trẻ nhìn y:
    -Thật như thế hay sao?
    -Vua hỏi.
    -Nếu ta không có quần áo của vị vua, họ sẽ không nhận ra ta là vua hay sao?
    -Tâu hoàng thượng, họ sẽ không biết được Người.
    -Ta từng nghĩ rằng đã có những người giống như vua. Nhưng thôi, có thể đúng như khanh nói. Tuy nhiên, ta vẫn không mặc chiếc áo này, mà ta cũng không đội chiếc vương miện này. Trước đây, ta đã đến cung điện này như thế nào thì nay ta ra khỏi nơi đây như thế ấy. Dứt lời, nhà vua trẻ bảo bọn họ hãy rút lui, trừ một kiếm đồng, một cậu bé kém cậu một tuổi, mà cậu giữ lại để làm bạn và phục vụ cậu. Khi cậu đã tự mình tắm lấy bằng nước trong vắt, cậu mở một chiếc hòm sơn to, rút ra một chiếc áo chẽn bằng da và chiếc áo ngoài bằng da đã thô rám, những thứ cậu đã từng mặc thuở còn ngồi trên sườn đồi trông coi đàn dê lông bờm xờm của người chăn dê. Cậu mặc những thứ đó vào và cầm lấy chiếc gậy thô cứng của kẻ chăn dê. Chú kiếm đồng ngạc nhiên mở to đôi mắt xanh lơ và vừa mỉm cười, chú vừa hỏi:
    -Tâu hoàng thượng, tiểu thần thấy người đã có áo choàng và cây thiền trượng rồi; nhưng chiếc vương miện thì tiểu thần chưa được thấy.
    Nhà vua trẻ ngắt một nhánh tầm xuân dại leo ở bao lơn, uốn cong nó lại, kết thành một vòng nhỏ và đặt lên đầu. Nhà vua đáp:
    -Đây sẽ là vương miện của ta. Trong bộ quần áo như vậy, cậu đi qua phòng mình, bước vào phòng đại sảnh, ở đó các vị quý tộc đang đợi cậu. Nom thấy sự thể như vậy, các nhà quý tộc bèn đùa cợt và có một vài vị nói to:
    -Tâu hoàng thượng, thần dân đang đợi vị vua của họ, còn người lại chỉ cho họ thấy một gã ăn xin. Những vị khác thì giận dữ nói:
    -Y làm nhục quốc thể, không xứng đáng là vua của chúng ta. Nhưng cậu không đáp lại họ nửa lời, cậu tiếp tục đi qua, rồi bước xuống chiếc cầu thang bằng poóc-phia lấp lánh, vượt qua những chiếc cổng đồng đen, cậu leo lên ngựa, đi về phía nhà thờ lớn trong khi chú kiếm đồng bé nhỏ chạy bên cạnh. Dân chúng reo cười, họ nói:
    -Đây là tên hề của đức vua cưỡi ngựa đi qua. Và họ chế giễu cậu. Cậu ghìm cương ngựa và nói:
    -Không phải đâu, ta là vua đây. Rồi cậu kể cho họ nghe ba giấc chiêm bao của cậu. Cậu vừa dứt lời thì một người đàn ông bước ra khỏi đám đông và nói với cậu bằng một giọng gay gắt:
    -Thưa ngài, há ngài lại không biết rằng chính cuộc sống xa hoa của người giàu mà nảy sinh ra cuộc sống của người nghèo sao? Do sự phù hoa của các ngài mà chúng tôi được nuôi dưỡng, và những thói đồi bại của các ngài đem đến cho chúng tôi cơm ăn áo mặc. Phải nai lưng làm việc cho một người chủ, đó là một điều cay đắng, nhưng còn cay đắng hơn nếu không có một ông chủ để vì ông ta mà cực nhọc. Ngài tưởng rằng lũ quS đen cho chúng tôi ăn sao? Mà, trước những điều đó, ngài có gì để cứu chữa? Liệu ngài có thể nói với người đi mua:
    ?oNgươi phải mua ngần này?, và với người bán:
    ?oNgươi phải bán với giá ngần này?. Có thể thế chăng? Tôi chả tin. Do vậy, ngài hãy quay trở về cung, hãy mặc thứ vải len đỏ thắm và mịn màng vào. Ngài làm được gì cho chúng tôi? Và ngài làm được gì cho những đau khổ của chúng tôi?
    -Thế người giàu và kẻ nghèo không phải là anh em sao?
    -Nhà vua hỏi.
    -Phải,
    -người kia đáp, và tên người anh em giàu có là Ca-anh. Thế là nhà vua trẻ nước mắt tràn trề, giục ngựa tiến lên qua những tiếng lầm rầm của dân chúng. Chú kiếm đồng nhỏ bé đâm sợ nên bỏ mặc nhà vua. Khi cậu tới cửa lớn của giáo đường, bọn lính canh chĩa kích ra và nói:
    -Mi tới đây tìm cái gì hở? Trừ đức vua ra, không ai được vào đây. Thế là mặt cậu đỏ bừng bừng vì giận, cậu bảo họ:
    -Ta là vua đây.
    -Rồi gạt những chiếc kích sang bên, cậu bước vào. Thấy cậu bước vào với bộ quần áo của kẻ chăn dê, đức ************* già nua đang ngồi ở ngai, ngạc nhiên đứng lên, bước xuống gặp cậu và nói:
    -Con ơi! Đây là trang phục của một vị vua sao? Ta đặt chiếc vương miện nào lên cho con được? Và ta trao cây thiên trượng nào vào tay con? Đối với con, hôm nay chắc chắn phải là một ngày hoan lạc chứ đâu phải là một ngày sỉ nhục.
    -Thế Hoan Lạc phải khoác vào những gì mà Đau Khổ đã tạo ra chăng?
    -Vua hỏi. Và vua kể lại ba giấc chiêm bao của mình. Nghe kể xong, ông ************* chau mày và nói:
    -Con ạ, ta là một người già cả. Vào mùa đông tuổi tác của ta, ta biết người ta làm quá nhiều điều xấu xa trên cõi thế bao la này. Bọn trộm cướp độc ác từ vùng rừng núi kéo xuống và cướp bọn trẻ con đem bán chúng làm nô lệ cho bọn Mô-rơ. Những con sư tử nằm rình các đoàn người lái buôn và nhảy bổ vào những con lạc đà. Con gấu hung dại nhổ bật cây lúa trong thung lũng và cáo gặm nát cây nho trên đồi. Bọn cướp tàn phá vùng duyên hải, đốt cháy thuyền của ngư dân, lấy lính của họ mang đi. Những người bị bệnh phong sống trong các đầm lầy nước mặn, nhà của họ lợp thưng bằng phên liếp lau sậy, không một ai có thể tới gần họ. Kẻ ăn xin đi lang thang qua các đô thị, chia sẻ miếng ăn với lũ chó. Con xem, con có thể ngủ cùng giường với người phong, ăn cùng bàn với người ăn xin được chăng? Liệu con sư tử có làm theo lệnh con và con gấu dữ phải phục tùng con hay không? Bởi lẽ đó, ta không ca tụng con vì điều con đã làm, ta chỉ yêu cầu con hãy trở về cung, hãy làm cho nét mặt con được hân hoan lên, hãy mặc bộ áo quần xứng đáng với một vị vua; ta sẽ đặt lên đầu con chiếc vương miện bằng vàng, ta sẽ trao vào tay con cây thiền trượng nạm ngọc. Còn những chiêm bao của con, con hãy thôi đừng nghĩ đến nữa. Gánh nặng này của thế gian này quá lớn, một người đâu có mang nổi được; và nỗi đau khổ của trần thế quá nặng nề, riêng một trái tim đâu có chịu đựng được cho xuể.
    -Trong ngôi nhà này mà cha nói thế sao?
    -Nhà vua trẻ nói.
    -Rồi cậu thúc ngựa vượt lên trước. Cậu bước lên các bậc điện thờ rồi đứng trước tượng Thiên Chúa. Cậu đứng trước tượng của Thiên Chúa; bên phải và bên trái cậu là những hình kỳ lạ bằng vàng, chiếc cốc rượu lễ đựng rượu vang vàng và chiếc lọ nhỏ chứa nước thánh. Cậu quỳ xuống trước Thiên Chúa; các cây bạch lạp cháy sáng lóa bên cạnh hòn ngọc đựng thánh cốt, khói hương nghi ngút màu xanh nhạt cuộn vờn bay lên qua vòm nhà. Cậu cúi đầu cầu nguyện, và các tu sĩ trong bộ áo lễ cứng đờ, ren rén xuống khỏi nơi bệ thờ.
    Rồi đột nhiên, từ ngoài đường phố vọng vào tiếng huyên náo dữ dội; các nhà quý tộc bước vào, với kiếm tuốt trần, với những chùm lông đà điểu phất phất trên mũ, với những chiếc khiên thép bóng loáng. Họ thét lên:
    -Cái gã mộng mị chiêm bao ấy đâu rồi? Cái gã vua trang phục như thằng ăn xin ấy đâu? Cái thằng bé làm hổ nhục quốc gia chúng ta, hắn đâu? Nhất định ta phải giết hắn đi, vì hắn không xứng đáng để trị vì. Nhưng nhà vua trẻ lại cúi đầu thấp hơn và vẫn cầu nguyện. Cầu nguyện xong, cậu đứng lên đảo mắt ra xung quanh, cậu buồn bã nhìn họ. Và kỳ lạ chưa! Qua các cửa sổ sơn son thiếp vàng, ánh mặt trời rọi vào, tuôn chảy trên người cậu, các tia nắng dệt xung quanh cậu một chiếc áo còn đẹp hơn chiếc áo đã được tạo ra vì sự thích thú của cậu. Chiếc gậy khô cứng kết nụ và sinh ra các bông huệ trắng hơn ngọc ngà. Cành gai khô khốc kết nụ và sinh ra các đóa hồng thắm đỏ hơn hồng ngọc. Trắng hơn ngọc là những bông huệ mà cuống bằng bạc lấp lánh. Đỏ hơn hồng ngọc là những bông hồng mà lá là vàng điệp. Cậu đứng đấy trong trang phục của một vị vua; các cửa của hòm thánh cốt bằng ngọc bật mở ra và từ pha lê của chiếc lọ đựng bánh thánh nhiều sọc, tỏa ra một thứ ánh sáng diệu kỳ và thần bí. Cậu đứng đấy trong trang phục của một vị vua và vầng hào quang của Chúa tràn ngập nhà thờ, các vị thánh trong các hãm tường hình như đang cử động. Trong trang phục xinh đẹp của một vị vua, cậu đứng đấy trước mặt các vị thánh; và chiếc đại phong cầm ngân nga từng tràng nhạc, các tay kèn thổi kèn vang vang, bọn trẻ con đồng ca cất tiếng hát. Thế là dân chúng bèn quỳ xuống trong nỗi kinh hoàng, các nhà quý tộc tra kiếm vào vỏ rồi dâng lời chúc tụng; khuôn mặt ông đức giám mục trở nên trắng bạch và tay ông run lên. ông nói:
    -Phong vương cho Người phải là một đấng cao cả, chứ tôi đâu có dám.
    -Rồi ông quỳ xuống trước mặt cậu. Đến đây, nhà vua trẻ từ trên bệ thờ cao bước xuống, rẽ qua đám đông dân chúng để trở lại hoàng cung. Nhưng không một ai dám nhìn thẳng vào mặt cậu vì khuôn mặt cậu nom như một thiên thần.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Ông Hoàng hạnh phúc
    Trên một bệ cao, pho tượng ông Hoàng hạnh phúc đứng sừng sững nhìn xuống thành phố. Khắp mình ông phủ đầy những mảnh vàng lá nguyên chất, mắt ông là hai viên ngọc bích long lanh, một viên hồng ngọc rực sáng ở chuôi kiếm của ông. Quả thật, người người đều ca tụng ông hết lời. Một vị ủy viên Hội đồng thành phố nhận xét:
    ?oông ta cũng đẹp bằng chiếc chong chóng gió?; ông ủy viên này muốn được tiếng là con người có những sở thích nghệ thuật, nhưng rồi ông nói thêm:
    ?oCó điều không hẳn đã có ích bằng?, ông e thiên hạ cho rằng ông không thực tế, mà sự thực thì ông đâu có như vậy. Một bà mẹ khôn ngoan hỏi đứa con trai bé nhỏ của bà đang kêu khóc đòi ông trăng:
    ?oCớ sao con không thể như ông Hoàng hạnh phúc, hử ? ông Hoàng hạnh phúc không bao giờ kêu khóc vẩn vơ để đòi bất cứ một cái gì?. Một người chán ngán sự đời, nhìn chằm chằm vào pho tượng kỳ lạ, đã thốt lên:
    ?oTa cũng lấy làm vui lòng thấy trên thế gian này còn có người hoàn toàn sung sướng?.
    -Nom ông ta đúng như một thiên thần,
    -bọn trẻ con ở Viện mồ côi nói như vậy, lúc chừng từ nhà thờ lớn bước ra trong những chiếc áo màu đỏ tươi và những chiếc tạp dề trắng tinh.
    -Chúng mày biết làm sao được?
    -thầy giáo dạy toán nói.
    -Chẳng bao giờ chúng mày thấy được thiên thần cả.
    -ồ thế mà chúng cháu đã thấy rồi, khi chúng cháu nằm mơ,
    -lũ trẻ đáp. Thầy giáo dạy toán bèn cau mày nom rất nghiêm khắc, vì ông không tán thành để trẻ con mơ mộng. Một đêm, có một con chim én bé nhỏ bay trên thành phố. Sáu tuần trước đây, bạn bè của nó đã sang Ai Cập, nhưng nó nán lại sau mới lên đường. én bay, én bay suốt ngày, vào lúc đêm thì tới thành phố
    ?oMình trọ ở đâu được nhỉ ?
    -én nói.
    -Mong sao dân phố đã chuẩn bị chu đáo?. Thế rồi, én nom thấy pho tượng sừng sững trên bệ cao. Nó kêu lên:
    ?oMình muốn trú đêm trên đó; chỗ ấy thanh lịch, tha hồ thoáng mát?. én bèn đậu xuống đúng giữa đôi bàn chân của ông Hoàng hạnh phúc.
    ?oMình có một phòng ngủ bằng vàng?,
    -nó vừa nhìn quanh vừa thoải mái tự nghĩ, và sửa soạn ngủ. Nhưng vừa đúng lúc nó đang cúp đầu dưới đôi cánh thì có một giọt nước to rơi lên người nó.
    ?oGì mà kỳ thế này!-nó kêu lên.-Trên trời không một gợn mây, sao thì sáng long lanh, ấy vậy mà lại mưa! Cái khí hậu vùng Bắc âu quả thật đáng sợ?.
    Rồi một giọt nước khác rơi xuống.
    ?oTượng mà không thể che mưa được cho người ta thì tượng dùng để làm gì?
    -nó nói.
    -Mình phải đi tìm một cái chụp ống khói mới được?.
    -Và én quyết định bay đi. Nhưng nó chưa kịp mở đôi cánh ra, thì lại một giọt thứ ba rơi xuống; nó bèn ngước nhìn lên và trông thấy
    -nó trông thấy gì nhỉ? Chao ôi! Đôi mắt của ông Hoàng hạnh phúc tràn trề nước mắt, và những giọt nước mắt đang ròng ròng chảy xuống đôi má bằng vàng của ông. Trong ánh trăng, nom ông đẹp đến nỗi con chim én bé nhỏ thấy lòng tràn ngập mối thương tâm. Nó hỏi:
    -ông là ai vậy?
    -Ta là ông Hoàng hạnh phúc!
    -Thế tại sao ông khóc?
    -én hỏi.
    -ông làm em ướt sạch rồi.
    -Thuở xưa, lúc ta còn sống và mang một trái tim người,
    -ông Hoàng đáp,
    -ta không biết nước mắt là gì, bởi vì ta sống trong Cung điện Không-sầu-tư; ở đó nỗi đau buồn không được phép bước vào. Ban ngày, ta vui chơi với các bạn bè trong khu vườn. Buổi tối, ta điều khiển cuộc khiêu vũ trong đại sảnh. Có một bức tường cao ngất chạy bao quanh khu vườn, nhưng chưa bao giờ ta từng để tâm hỏi xem bên kia tường có gì, bởi lẽ xung quanh ta cái gì cũng đẹp quá đỗi. Các triều thần gọi là ông Hoàng hạnh phúc. Ta sống như thế, rồi ta chết như thế. Bây giờ, khi ta đã chết, họ đặt ta trên cao đây, cao đến nỗi ta có thể nom thấy tất cả cái xấu xa cùng tất cả cảnh cơ cực của thành phố ta; và cho dẫu trái tim ta đúc bằng chì, ta cũng không có cách nào khác hơn là khóc và khóc.
    ?oSao thế nhỉ? Tượng không phải bằng vàng khối ư??
    -én nghĩ thầm, nó rất lịch sự nên không nói to những nhận xét của riêng bản thân. Bằng một giọng trầm trầm du dương, pho tượng nói tiếp:
    ?oở đằng xa, ở đằng xa kia, trong một khu phố nhỏ, có một căn nhà nghèo nàn. Một cánh cửa sổ để mở, qua đó, ta có thể nom thấy một người đàn bà ngồi bên một chiếc bàn. Khuôn mặt bà ta gầy gò và tiều tuỵ; bàn tay bà thô kệch, ửng đỏ, chi chít những vết kim châm, bởi vì bà ta là một người thợ khâu. Bà đang thêu những bông hoa lạc tiên trên chiếc áo xa-tanh cho nàng hầu yêu quý nhất của hoàng hậu để nàng mặc trong buổi khiêu vũ sắp tới ở triều đình. Đứa con bé nhỏ của bà bị ốm, đang nằm trên một chiếc giường kê ở góc phòng. Nó lên cơn sốt và đòi ăn cam. Mẹ nó chẳng có gì cho nó ngoài nước lã lấy ở sông về, cho nên nó đang khóc. én ơi, én ơi, én bé nhỏ ơi, em có vui lòng gỡ viên hồng ngọc ở chuôi kiếm của ta rồi mang đến cho bà ấy không? én ạ, chân ta bị gắn chặt vào cái bệ này nên ta không thể cử động được?.
    -Người ta đang đợi em bên Ai Cập, ông Hoàng ạ, -én nói.
    -Tụi bạn em chúng đang bay xuôi bay ngược dọc sông Nin và đang trò chuyện với các bông hoa sen to mập. Chẳng mấy chốc nữa, chúng sẽ đến ngủ ở ngôi mộ của ông đại vương. ở đấy, bản thân ông ta cũng nằm trong chiếc hòm quét sơn. ông ta được quấn trong vải len màu vàng và được ướp trầm hương. Cổ ông ta đeo một dây chuyền ngọc bích xanh nhạt, và tay ông giống như những chiếc lá héo
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi,
    -ông Hoàng nói,
    -én có vui lòng nán lại đây một đêm với ta làm điệp sứ cho ta không hở én? Thằng bé nó khát khô cổ, mà bà mẹ thì buồn nẫu ruột.
    -Em không nghĩ là em thích cái tụi trẻ con,
    -én nói.
    -Mùa lũ vừa qua, lúc em đang lưu lại trên bờ sông, có hai thằng bé láo xược, con bác chủ cối xay, lúc nào cũng lấy đá ném em. Dĩ nhiên, đời nào chúng ném trúng được; chúng em bay giỏi, bay xa thế này thì ném như chúng có ăn thua gì, hơn nữa, em thuộc một gia đình nổi tiếng nhanh nhẹn, nhưng như thế chứng tỏ rằng chúng còn vô lễ nữa. Nhưng ông Hoàng hạnh phúc nom buồn bã quá, khiến én lấy làm khổ tâm. Nó nói:
    -ở đây lạnh lắm. Nhưng em sẽ lưu lại với ông một đêm và sẽ làm điệp sứ cho ông.
    -Cám ơn én bé nhỏ.
    -ông Hoàng nói. Thế là én tháo viên hồng ngọc to tướng ở chuôi kiếm ông Hoàng ra, rồi mỏ cắp viên ngọc, én bay đi phía trên các mái nhà của thành phố. Nó bay cạnh tháp chuông nhà thờ lớn; ở đó có chạm trổ những thiên thần bằng cẩm thạch. Nó bay cạnh cung điện và nghe âm thanh cuộc khiêu vũ vọng tới. Một cô nàng xinh đẹp bước ra bao lơn với người tình của mình.
    -Các vì sao mới kỳ diệu làm sao!
    -chàng nói với nàng.
    -Và kỳ diệu biết bao, sức mạnh của tình yêu!
    -Em mong chiếc áo của em may xong cho kịp với cuộc khiêu vũ nhân dịp Khánh tiết,
    -nàng đáp.
    -Em đã bắt phải thêu hoa lạc tiên lên áo, nhưng cái con mụ thợ khâu nó lười nhác quá đi mất! én bay ngang qua sông và nom thấy những đèn treo mắc trên cột buồm các tàu bè. Nó bay ngang qua khu chợ, nom thấy những người Do Thái già đang mặc cả mua bán với nhau, cân tiền trên những chiếc cân đồng. Cuối cùng, nó tới căn nhà tồi tàn và nhìn vào phía trong. Đứa bé đang sốt, ho, còn bà mẹ thì vì mệt lả nên ngủ thiếp đi. én nhảy lò cò vào trong nhà, thả viên hồng ngọc to tướng lên mặt bàn ngay cạnh chiếc đê khâu, rồi nó bay liệng nhẹ nhàng xung quanh giường, lấy đôi cánh phe phẩy vào trán thằng bé.
    ?oMát ơi là mát!
    -thằng bé reo lên.
    -Chắc con đã đỡ rồi?. Và nó chìm vào một giấc ngủ mê lá. Thế rồi én bay trở về với ông Hoàng hạnh phúc, kể cho ông nghe nó đã làm những gì.
    -Kỳ thật, ông ạ,
    -nó nhận xét,
    -trời lạnh là thế mà bây giờ em thấy ấm hẳn lên rồi.
    -Đó là do em đã làm một việc tốt,
    -ông Hoàng nói. én bắt đầu suy nghĩ và nó cảm thấy buồn ngủ. Bao giờ cũng vậy, cứ hễ suy nghĩ là én ta ngủ. Lúc trời rạng sáng, nó bay xuống sông tắm một chút.
    ?oThật là một hiện tượng đặc biệt!
    -vị giáo sư điểu học nói, khi ông đi qua cầu và nom thấy én.
    -Một con én trong mùa đông!?. ông ta bèn viết một bài dài về tin đó cho tờ báo địa phương.
    ?oĐêm nay mình đi Ai Cập?.
    -chim én nói. Nó rất hứng chí trước viễn tưởng đó. Nó đi thăm tất cả các lâu đài dinh thự công cộng, đậu một lúc lâu trên nóc tháp chuông nhà thờ. Bất cứ nơi nào nó bay qua, lũ chim sẻ cũng kêu ríu ra ríu rít với nhau:
    ?oVị khách nước ngoài này mới đặc biệt chứ?. Trong thâm tâm, én ta rất lấy làm thích thú. Lúc mặt trăng lên, nó bay trở về chỗ ông Hoàng hạnh phúc. Nó kêu to:
    -ông có công việc gì cần ủy nhiệm bên Ai Cập không? Em sắp lên đường đây.
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi, -ông Hoàng nói,
    -em không muốn ở lại với ta một đêm nữa sao?
    -Người ta đang đợi em bên Ai Cập ông ạ, -én đáp,
    -Ngày mai tụi bạn em chúng bay lên phía con thác thứ hai. Tại đấy, lão hà mã đang nằm trong đám lau cói, thần Mem-nơn đang ngồi trên chiếc ngai to lớn bằng đá hoa cương. Suốt đêm ròng rã, thần ngắm nhìn các vì sao, và khi ngôi sao mai chiếu sáng, thần thốt lên một tiếng kêu vui, rồi im bặt. Đến trưa, những bác sư tử lông vàng đi xuống đầu nguồn để uống nước. Chúng có những đôi mắt nom như ngọc xanh, tiếng gầm của chúng to hơn tiếng gầm của thác nước.
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi,
    -ông Hoàng nói,
    -cách xa đây, phía bên kia thành phố, ta trông thấy một chàng trai ở trong một căn gác xép. Chàng đang cúi mình trên một chiếc bàn phủ đầy giấy má. Trong một chiếc cốc ở bên cạnh chàng, có một bó hoa tím đã héo. Tóc chàng màu nâu và quăn tít, đôi môi chàng đỏ như hoa lựu, chàng có đôi mắt to và mơ mộng. Chàng đang cố gắng hoàn thành một vở kịch cho ông giám đốc rạp hát, nhưng chàng rét quá nên không viết thêm được gì. Trong lò sưởi không có lửa, và chàng mệt lả vì đói.
    -Em sẽ lui lại một đêm nữa, -én nói, vì thực tình, én tốt lòng tốt dạ.
    -Em có phải lấy cho chàng ta một viên hồng ngọc khác không.
    -Chao ôi! Giờ thì ta không có hồng ngọc nữa, em ạ. -ông Hoàng nói.
    -Tất cả cái gì ta còn lại, chỉ là đôi mắt thôi. Chúng được làm bằng ngọc hiếm, từ ấn Độ đưa về cách đây một ngàn năm. Hãy giật lấy một viên và đưa đến cho chàng. Chàng sẽ đem bán cho người thợ kim hoàn, chàng sẽ mua củi đốt và viết xong vở kịch.
    -ông Hoàng thân mến ơi,
    -én nói.
    -Em không thể làm thế này được, ông ạ,
    -và én bắt đầu khóc.
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi, ta bảo sao, em cứ làm vậy đi. Thế là én giật viên ngọc quý ở mắt ông Hoàng ra, bay tới căn gác xép của anh sinh viên. Đi vào đó cũng khá dễ dàng, vì có một lỗ thủng trên mái. én lao vút qua lỗ thủng vào căn phòng. Chàng thanh niên đang vùi đầu vào đôi bàn tay, nên không nghe tiếng cánh chim phần phật. Khi chàng ngước mắt nhìn lên, chàng thấy viên ngọc xinh đẹp nằm trên bó hoa tím héo hắt. Chàng reo lên:
    -Bước đầu mình được đánh giá đúng rồi đây! Cái này là do một người nào đó rất hâm mộ mình gửi tặng. Giờ thì mình có thể viết xong vở kịch được rồi. Nom chàng hết sức vui sướng. Ngày hôm sau chim én bay xuống phía cảng. Nó đậu trên cột buồm một chiếc tàu lớn, ngắm nhìn các thủy thủ dùng dây chão kéo những chiếc hòm to ra khỏi hầm tàu. Mỗi khi một chiếc hòm được đưa lên thì họ lại hét to:
    ?oDô hò dô!?.
    ?oTa sắp đi sang Ai Cập đây?,
    -chim én kêu rõ to, nhưng chẳng ai chú ý. Khi mặt trăng mọc, chim lại bay trở về với ông Hoàng hạnh phúc. Nó kêu:
    -Em đến tạm biệt ông đây.
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi,
    -ông Hoàng nói,
    -em không muốn ở lại với ta một đêm nữa hay sao?
    -Mùa đông rồi ông ạ,
    -én đáp,
    -tuyết lạnh lẽo sắp rơi xuống đây. ở Ai Cập, mặt trời ấm áp chiếu trên những cây cọ xanh tươi, những lão cá sấu nằm dài trong bùn lầy đưa mắt lười nhác nhìn ra xung quanh. Bạn bè em đang xây tổ trên ngôi đền Bân-béc; những con chim câu hồng và trắng đang ngắm nhìn họ vừa hòa tiếng gù với nhau. ông Hoàng thân mến ạ, em phải từ biệt ông, nhưng em sẽ không bao giờ quên ông đâu. Mùa xuân tới, em sẽ mang về cho ông hai viên ngọc xinh đẹp để thay thế những viên mà ông đã cho đi. Viên hồng ngọc sẽ thắm đỏ hơn một đóa hồng đỏ thắm và viên bích ngọc nhất định sẽ xanh như biển cả.
    -Trong vườn hoa ở phía dưới kia,
    -ông Hoàng hạnh phúc nói,
    -có một em bé gái bán diêm đang đứng khóc. Em đã để diêm rơi xuống rãnh nước và diêm đã ướt hết; em bé mà không mang về nhà được một ít tiền, bố em sẽ đánh em, cho nên em đang kêu khóc. Em bé không có giày mà cũng không có tất, còn cái đầu bé nhỏ thì trần trụi. Em hãy giật mắt kia của ta ra và đem cho em bé, thế là nó sẽ không bị cha đánh đòn.
    -Em sẽ ở lại với ông một đêm nữa, -én nói,
    -nhưng em không thể giật mắt ông ra được đâu, ông Hoàng ạ. Như thế thì ông mù hẳn mất thôi.
    -én, én ơi, én bé nhỏ ơi, ta bảo sao em cứ thế mà làm. Thế là én giật viên ngọc xanh ở con mắt kia của ông Hoàng ra, cắp lấy và bay vút xuống. Nó tới bên em bé bán diêm, buông viên ngọc vào lòng bàn tay em.
    ?oCái mảnh gương này mới xinh làm sao chứ!?
    -em bé kêu lên, vừa chạy về nhà vừa cười. Thế rồi én bay trở về với ông Hoàng. Nó nói:
    -Bây giờ thì ông bị mù mất rồi, vậy thì em sẽ ở lại đây với ông mãi mãi.
    -Không, én bé nhỏ ơi, không được đâu; em phải đi sang Ai Cập đi.
    -Mãi mãi em sẽ ở lại đây với ông,
    -én nói, rồi én ngủ dưới chân ông Hoàng. Suốt cả ngày hôm sau, én đậu trên vai ông Hoàng, kể cho ông nghe những câu chuyện về những gì én đã thấy ở các xứ xa lạ. én kể cho ông nghe về những con cò quăm đứng thành hàng dài trên đôi bờ sông Nin; mỏ cắp những con cá vàng; én kể về ông nhân sư, cũng già nua như chính thế giới vậy, ông sống trong sa mạc mà cái gì cũng biết; én nói về những người lái buôn đi thủng thẳng bên cạnh những con lạc đà, tay cầm những hạt hổ phách; về ông vua của vùng núi Mặt Trăng, ông ta cũng đen ngang gỗ mun, ông thờ phụng một viên pha lê to tướng; én nói đến con trăn màu xanh lục nằm ngủ trong một cây cọ, có hai mươi thầy tu đem bánh mật ong đến cho nó ăn; về những người tí hon bơi thuyền qua một hồ rộng trên những chiếc lá dẹt to bản, và họ luôn luôn gây chiến với những lũ ****.
    -én bé bỏng thân mến ơi.- ông Hoàng nói,
    -em đã kể cho ta nghe những điều kỳ diệu, nhưng kỳ diệu hơn hết thảy, đó là nỗi khổ đau của con người, đàn ông cũng như đàn bà. Không có bí mật nào lớn lao bằng nỗi cơ hàn. én bé nhỏ ạ, em hãy bay trên thành phố của ta và kể cho ta nghe em thấy những gì ở đấy. Thế là chim én bay khắp thành phố lớn, nó thấy người giàu đang vui chơi trong những ngôi nhà đẹp đẽ trong khi những người ăn xin đang ngồi ngoài cổng. Nó bay vào những ngõ hẻm tối tăm, nom thấy những khuôn mặt trắng bệch của những đứa trẻ chịu đói rét đang lờ phờ nhìn ra ngoài đường phố. Phía dưới gầm một chiếc cầu có hai thằng bé đang nằm ôm chặt lấy nhau để cố gắng giữ mình cho được ấm. Chúng nói:
    ?oChúng mình đói quá đi mất?.
    -Chúng mày không được nằm ở đây!
    -người gác cầu quát. Thế là chúng bước ra, đi lang thang trong mưa lạnh.
    Thế rồi chim bay trở về, kể cho ông Hoàng nghe những điều chim đã thấy. ông Hoàng nói:
    -Mình ta phủ đầy vàng nguyên chất, em hãy gỡ nó ra, từng lá từng lá một, rồi đem đến cho người nghèo của ta; chúng sinh bao giờ cũng nghĩ rằng vàng có thể khiến cho họ sung sướng. Cứ từng lá, từng lá một, vàng nguyên chất được chim én gỡ ra cho tới lúc ông Hoàng hạnh phúc nom mờ đục và xám xịt hẳn. Hết lá này đến lá khác vàng nguyên chất chim đem đến cho người nghèo. Khuôn mặt của bọn trẻ con trở nên hồng hào hơn, chúng cười và chơi đùa trên đường phố. Chúng reo to:
    ?oBây giờ chúng mình có bánh ăn rồi?. Rồi tuyết đến và đi theo tuyết là băng giá. Các đường phố nom như thể dát bạc, lấp lánh và sáng lóa mắt; những thỏi băng dài nom giống những thanh kiếm pha lê buông thõng xuống từ những mái hiên các ngôi nhà; người qua lại khoác những chiếc áo lót lông thú, bọn trẻ con đội mũ đỏ đang chơi trượt băng. Chim én bé nhỏ tội nghiệp ngày càng thấy lạnh hơn, nhưng nó không muốn rời bỏ ông Hoàng vì nó yêu ông Hoàng quá đỗi. Nó nhặt những vụn bánh phía ngoài cửa hàng bán bánh, khi ông chủ không trông chừng tới, và nó đập đập đôi cánh để cố giữ cho mình được ấm. Nhưng cuối cùng nó biết nó sắp chết. Nó chỉ còn vừa vặn đủ sức để bay lên đậu trên vai ông Hoàng một lần nữa.
    -Tạm biệt ông, ông Hoàng thân mến ạ,
    -nó thì thầm.
    -ông vui lòng để em hôn tay ông chứ?
    -Rốt cuộc thì em cũng đi sang Ai Cập, ta bằng lòng lắm, én bé nhỏ ạ,
    -ông Hoàng nói.
    -Em đã nán lại đây quá lâu rồi, nhưng em phải hôn lên môi ta kia, vì ta yêu em.
    -Không phải em đi sang Ai Cập đâu, ông ạ. Em đi tới ngôi nhà của Thần Chết. Chết với Ngủ là anh em, có phải không ạ? én hôn lên môi ông Hoàng sung sướng và rơi xuống chết dưới bàn chân ông. Ngay lúc đó một tiếng ?orắc? kỳ lạ vang lên bên trong pho tượng, như thể có vật gì đã bị vỡ. Sự thật là trái tim bằng chì của ông Hoàng đã bị tách đúng làm hai mảnh. Tảng sáng ngày hôm sau, ông thị trưởng đi dạo dưới công viên cùng với các vị ủy viên Hội đồng thành phố. Lúc họ đi tới cái bệ, ông thị trưởng ngước nhìn lên pho tượng.
    -Trời! ông Hoàng sung sướng nom sao mà tiều tụy thế kia!
    -Quả có tiều tụy thật!
    -các ông ủy viên Hội đồng thành phố cũng kêu lên. Bao giờ họ cũng phụ họa với ông thị trưởng. Nói xong, họ bước lên để tận mắt nhìn pho tượng. ông thị trưởng nói:
    -Viên hồng ngọc đã rơi khỏi chuôi kiếm của ông ta, đôi mắt cũng đã mất, ông ta đâu có bằng vàng nữa. Thật tình, ông ta chả hơn một thằng ăn mày mấy tí.
    -Chả hơn thằng ăn mày mấy tí,
    -các ông ủy viên Hội đồng thành phố lắp lại.
    -Mà đây, hiện có một con chim chết ở chân ông ta,
    -ông thị trưởng tiếp tục.
    -Chúng ta phải thực sự ban bố một tuyên cáo rằng chim chóc không được phép chết tại đây. Và viên thư ký Hội đồng thành phố ghi vào sổ lời gợi ý đó. Thế rồi người ta xô đổ pho tượng ông Hoàng hạnh phúc. Vị giáo sư nghệ thuật tại trường Đại học tổng hợp phát biểu:
    ?oBởi lẽ ông ta không còn đẹp nữa, cho nên ông ta cũng hết có ích?. Sau đó người ta đem pho tượng nung chảy trong lò nung. ông thị trưởng tổ chức một cuộc họp để quyết định xem phải làm gì với thứ kim loại đó. ông nói:
    -Chúng ta phải có một pho tượng khác, cái đó thì đã hẳn, và phải là tượng của chính tôi.
    -Của chính tôi,
    -mỗi vị ủy viên Hội đồng thành phố đều nói như vậy. Rồi họ cãi cọ nhau. Lần cuối cùng khi tôi nghe họ nói, họ vẫn đang còn lời qua tiếng lại.
    -Gì mà lạ lùng chưa này!
    -viên đốc công xưởng đúc nói.- Cái trái tim bằng chì bị vỡ này bỏ vào lò nung mà không chịu chảy cho. Phải vứt nó đi thôi.- Và họ quẳng nó lên một đống rác, ở đó có xác con chim chết. Chúa truyền bảo một trong những vị thiên thần của Chúa rằng:
    ?oNgươi hãy đem cho ta hai vật quý báu nhất trong thành phố?. Thiên thần liền mang về cho Người trái tim bằng chì và con chim chết. Chúa phán bảo:
    ?oNgươi đã chọn đúng. Trong vườn Lạc uyển của ta, con chim bé nhỏ này sẽ đời đời ca hót, và trong thành phố bằng vàng của ta, ông Hoàng hạnh phúc sẽ dâng lời tán tụng lên ta?.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Ông Khổng lồ ích kỷ
    Cứ sau mỗi buổi trưa, lúc ở trường ra về, bọn trẻ con thường có thói quen tới nô đùa trong khu vườn của ông Khổng lồ. Đó là một khu vườn rộng đẹp phủ đầy cỏ xanh mơn mởn. Đó đây khắp trên bãi cỏ, những bông hoa xinh đẹp mọc nom tựa sao, có mười hai cây đào mà mỗi kỳ xuân tới đều kết nụ hồng hoặc đỏ, chim chóc đậu trên cây cất tiếng hót ca êm Yi đến nỗi bọn trẻ con thường ngừng các trò chơi để lắng tai nghe. Chúng nói với nhau:
    ?oChúng mình ở đây sướng mê đi, nhỉ!?. Một ngày nọ, ông Khổng lồ trở về. ông đã đi thăm ông bạn Yêu tinh Coóc-nít và đã lưu lại với bạn trong bảy năm ròng. Bảy năm trôi qua, ông đã nói tất cả những gì phải nói, vì chuyện trò của ông chỉ có hạn, nên ông quyết định trở về lâu đài của mình. Lúc tới nhà, ông nom thấy bọn trẻ con đang nô đùa trong vườn.
    -Chúng bay làm gì ở đây hả?
    -ông quát. Tính ông thô lỗ cục cằn, và bọn trẻ con bỏ chạy tán loạn. ông nói tiếp:
    -Vườn của ta là vườn của riêng ta, bất cứ ai cũng có thể hiểu như vậy. Ta không cho phép một kẻ nào, trừ ta ra, được chơi trong đó. Rồi ông xây một bức tường cao bao quanh, cắm một cái bảng yết thị: Kẻ vi phạm sẽ bị truy tố ông là một ông Khổng lồ ích kỷ hết chỗ nói. Tội nghiệp cho bọn trẻ con, chúng chẳng có nơi nào để nô đùa cả. Chúng thử ra chơi trên đường cái, nhưng đường cái thì bụi bặm và lởm chởm những hòn đá cứng, mà chúng thì không thích như vậy. Chúng thích đi lang thang quanh bức tường cao vào những buổi tan học, và nói chuyện về khu vườn đẹp đẽ ở bên kia tường. Chúng nói với nhau:
    ?oHồi nào, chúng mình ở trong đó, sướng biết mấy?. Thế rồi mùa xuân tới, trên khắp vùng quê, đâu đâu cũng có chim và hoa. Riêng trong vườn của ông Khổng lồ ích kỷ vẫn còn là mùa đông. Chừng nào ở đấy không có trẻ con, thì chim chóc cũng không buồn đến ca hát, cây cối cũng quên đâm bông. Có một lần, một bông hoa xinh đẹp nhú đầu trên cỏ, nhưng khi nom thấy tấm biển cấm, nó lấy làm buồn cho tụi trẻ con, đến nỗi nó lại lẩn xuống đất rồi ngủ im lìm trong đó. Những kẻ lấy làm thích thú nhất, ấy là tuyết và sương giá. Chúng reo lên:
    ?oMùa xuân đã quên khu vườn này rồi. Thế là chúng mình ở đây suốt năm?. Tuyết thì phủ lên cỏ tấm áo choàng trắng rộng lớn của mình, còn sương giá quét lớp sương bạc lên cây cối. Xong xuôi, chúng mời gió bấc tới ở với chúng. Quanh mình gió quấn những tấm lông thú và ròng rã ngày đêm nó gào, nó rú khắp vườn, rồi nó hất nhào trụ ống khói xuống. Nó nói:
    ?oChỗ này mê thật, chúng mình phải rủ ông bạn mưa đá tới đây chơi mới được?. Thế là mưa đá tới. Cứ ba tiếng đồng hồ mỗi ngày, nó rơi rào rào trên mái ngói của lâu đài cho tới lúc đập vỡ phần lớn các viên ngói đen, sau đó thì nó thả sức chạy xung quanh khu vườn. Nó mặc đồ xám, hơi thở của nó lạnh như băng. ông Khổng lồ ngồi trong cửa sổ nhìn ra khu vườn trắng xóa và lạnh lẽo. ông nói:
    ?oMình không thể hiểu tại sao mùa xuân lại đến muộn thế này. oeớc gì thời tiết có sự thay đổi nhỉ?. Nhưng mùa xuân không bao giờ tới, mùa hạ cũng không. Mùa thu đem những quả vàng óng cho mọi khu vườn, nhưng vườn của ông Khổng lồ chẳng nhận được gì hết. Mùa thu nói:
    ?oLão ấy ích kỷ quá đi mất?, bởi thế mà ở đó mãi mãi vẫn là mùa đông. Gió bấc và mưa đá, sương giá và tuyết nhảy múa tứ tung qua các lùm cây. Vào một buổi sáng, ông Khổng lồ thức dậy, lúc còn nằm trên giường, ông nghe có tiếng nhạc mê li. Tiếng nhạc ngọt ngào vọng đến tai ông, khiến ông nghĩ rằng chắc hẳn các nhạc công của nhà vua đi qua. Thật ra, đó chỉ là một chú sẻ lanh bé nhỏ đang hót bên ngoài cửa sổ, nhưng vì đã lâu lắm ông không được nghe một tiếng chim hót trong vườn cho nên ông tưởng như nghe tiếng nhạc du dương nhất trần gian. Thế rồi mưa đá ngừng nhảy múa trên đầu ông, gió bấc thôi không gào rú nữa, và qua khung cửa sổ, một mùi hương ngạt ngào bay tận tới ông.
    ?oCó thế chứ! Mãi rồi thì mùa xuân cũng phải tới!?
    -ông reo lên như vậy rồi nhảy khỏi giường nhìn ra ngoài. ông thấy gì đây? si! Một cảnh tượng vô cùng thú vị! Qua một lỗ hổng trong tường, bọn trẻ con trườn vào vườn và chúng đang ngồi trên các cành cây, mỗi cây một đứa.
    Thấy bọn trẻ con đã trở lại, cây cối lấy làm vui mừng quá đỗi nên tự chúng phủ đầy hoa, đu đưa cành nhánh một cách duyên dáng phía trên đầu bọn trẻ. Chim chóc đang bay liệng qua lại và đang ríu rít thích thú; xuyên qua đám cỏ xanh, các bông hoa đang ngước nhìn lên và cười vui. Thật là một cảnh tượng xinh đẹp. Nhưng riêng ở một góc vườn, mùa đông vẫn đang làm chủ. Đó là một góc xa nhất, có một thằng bé đang đứng tại đấy. Nó bé nhỏ quá nên không với được tới các cành cây, nó đang vừa đi loay hoay quanh gốc cây vừa khóc lóc thảm thiết. Cái cây tội nghiệp đó vẫn bị sương giá và tuyết phủ đầy, gió bấc đang thổi và đang gào rú ở phía trên.
    ?oLeo lên đi, chú bé!?
    -cây nói và nó sa cành xuống hết sức thấp, nhưng thằng bé ấy bé quá. Lòng ông Khổng lồ se lại khi ông nhìn ra. ông nói:
    ?oMình đến là ích kỷ. Bây giờ mình mới biết cớ sao mùa xuân không chịu tới đây. Mình sẽ đặt thằng bé tội nghiệp này lên ngọn cây rồi sẽ phá đổ bức tường đi. Lúc đó vườn của mình mãi mãi sẽ là sân chơi của tụi trẻ?. ông thật tình lấy làm đau buồn về việc ông đã làm. Thế rồi ông rón rén đi xuống cầu thang, mở cửa hết sức nhẹ nhàng và đi ra vườn. Nhưng khi bọn trẻ con nom thấy ông, chúng hoảng sợ quá nên bỏ chạy hết, và ngay lập tức mùa đông lại quay trở về khu vườn. Riêng có thằng bé là không bỏ chạy, nước mắt nó tràn trề nên nó không thấy được ông Khổng lồ đang đi tới. ông Khổng lồ rón rén tới sau lưng nó, nhẹ nhàng bế nó, rồi đặt nó lên cây. Thế là ngay lập tức cây lại đâm bông, chim chóc lại bay tới hát ca, và thằng bé dang rộng đôi cánh tay ôm ghì lấy cổ ông Khổng lồ mà hôn ông. Thấy ông Khổng lồ không còn độc ác nữa, bọn trẻ bèn quay trở lại; cùng với chúng mùa xuân lại đến.
    ?oBây giờ vườn là vườn của chúng mày đấy, các cháu bé ạ?,
    -ông Khổng lồ nói. Rồi ông lấy một chiếc rìu to phá sập bức tường. Vào mười hai giờ trưa, lúc dân chúng ra chợ mua bán, họ thấy ông Khổng lồ đang chơi đùa với tụi trẻ con trong khu vườn xinh đẹp nhất mà họ chưa từng thấy. Bọn trẻ con chơi đùa suốt ngày và chiều đến, chúng tới chào ông Khổng lồ để ra về.
    -Nhưng chú bạn nhỏ của các cháu đâu?
    -ông hỏi.
    -Cái chú bé mà bác đã đặt lên cây ấy mà?
    -ông Khổng lồ yêu nó nhất vì nó đã hôn ông.
    -Chúng cháu không biết, ông ạ,
    -bọn trẻ con đáp,
    -bạn ấy đã đi rồi.
    -Các cháu bảo nó cứ yên trí, ngày mai lại tới nhé! Nhưng bọn trẻ trả lời rằng chúng chẳng biết em ấy ở đâu và trước đây chưa bao giờ thấy em. ông Khổng lồ cảm thấy buồn vô hạn. Mỗi buổi chiều lúc tan học bọn trẻ con tới nô đùa với ông Khổng lồ, nhưng ông Khổng lồ không bao giờ còn gặp được thằng bé mà ông yêu mến. ông Khổng lồ thân Yi cân cần với tất cả bọn trẻ, nhưng ông mong mỏi người bạn bé nhỏ đầu tiên của ông và thường nói về nó. ông hay nhắc lại:
    ?oSao mà mình lại muốn gặp nó đến thế!?
    Năm tháng trôi qua, ông Khổng lồ ngày càng già yếu đi. ông không thể ra ngoài dạo chơi đây đó được nữa, cho nên ông ngồi trong một chiếc ghế bành ngắm nhìn bọn trẻ con chơi và ca ngợi khu vườn của ông. ông nói:
    ?oTa có nhiều hoa đẹp, nhưng những bông hoa đẹp nhất vẫn là bọn trẻ con?. Một buổi sáng mùa đông, ông nhìn ra ngoài cửa sổ lúc đang bận quần áo. Bây giờ ông không ghét mùa đông nữa, vì ông biết, đơn giản đấy chỉ là mùa xuân đang ngủ và hoa lá đang nghỉ ngơi. Đột nhiên ông giụi đôi mắt với nỗi kinh ngạc và ông nhìn, nhìn mãi. Cảnh tượng thật là kỳ diệu... Trong một góc vườn xa nhất, có một cây phủ đầy nụ hoa trắng nuột nà, cành nhánh của nó bằng vàng đeo lủng lẳng những quả bạc, còn đứa bé mà ông yêu dấu đang ngồi dưới gốc cây. Trong niềm vui sướng mênh mông, ông chạy ra khỏi nhà và đi vào vườn. ông vội vã đi qua bãi cỏ đến gần thằng bé. Khi ông đến sát đứa bé thì mặt ông bỗng đỏ bừng giận dữ. ông nói:
    ?oĐứa nào cả gan dám làm em bị thương như vậy hả??. Bởi vì trên lòng bàn tay của thằng bé có hai vết đinh đóng, và hai vết đinh đóng cũng in dấu trên đôi chân nhỏ.
    -Kẻ nào dám cả gan làm cháu bị thương thế?
    -ông Khổng lồ hét.- Nói bác nghe, để bác lấy thanh kiếm to của bác giết chết hắn đi.
    -Không ai cả,-thằng bé trả lời,
    -đấy là những dấu vết của tình yêu thương.
    -Em là ai vậy? -ông Khổng lồ nói, một nỗi kinh hoàng lạ lùng đè nặng lên ông, ông quỳ sụp xuống trước mặt đứa bé. Thế rồi đứa bé mỉm cười với ông Khổng lồ và nói với ông:
    -Có hồi, ngươi đã để ta chơi trong vườn của ngươi. Hôm nay ngươi sẽ cùng ta tới khu vườn của ta, tới cõi thiên đường. Về buổi chiều, lúc bọn trẻ con chạy vào vườn, chúng thấy ông Khổng lồ nằm chết dưới gốc cây, mình phủ đầy những bông hoa trắng muốt.
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Người bạn nhiệt tình
    Một buổi sáng nọ, chuột nước già nua ló đầu ra ngoài hang. Mắt lão tròn sáng, ria mép cứng màu xám, đuôi nom như một đoạn cao su dài màu đen. Lũ vịt con đang bơi lội tung tăng khắp mặt ao, nom hệt như bầy chim hoàng yến màu vàng, còn mẹ chúng, lông trắng tinh với đôi cẳng đỏ chót, đang cố dạy chúng tập chúc đầu xuống nước.
    -Không bao giờ các con được đứng trong xã hội thượng lưu, trừ phi các con có thể đứng đầu chúc xuống,
    -vịt mẹ luôn miệng bảo chúng như vậy và cứ chốc chốc lại bày vẽ cho chúng nên làm như thế nào. Nhưng lũ vịt con chẳng để ý nghe mẹ. Chúng bé quá, thành thử không hiểu, nếu được liệt vào giới thượng lưu thì có được cái lợi gì.
    -Con cái gì mà không biết vâng lời thế! -chuột nước kêu lên.
    -Quả thật chúng đáng bị chết đuối.
    -Không phải thế đâu, -vịt mẹ đáp.
    -Ai cũng phải học vỡ lòng chứ, mà làm cha làm mẹ thì kiên nhẫn mấy cũng không phải là thừa.
    -Ra thế! Lão đây chẳng biết gì về tình cảm làm cha làm mẹ cả, -chuột nước nói.
    -Lão không phải là người có gia đình. Thật ra lão chưa bao giờ lấy vợ, mà cũng không bao giờ có ý định đó. Tình thương yêu, bản thân nó rất chi là tốt, nhưng tình bạn cao cả hơn. Quả thật, trên thế gian này, lão chẳng biết có gì cao thượng hơn hoặc hiếm hoi hơn một tình bạn chân thành. Lúc đó có một chú sẻ lanh màu xanh đang đậu trên một cây liễu gần đấy nhe lỏm được câu chuyện, bèn hỏi:
    -Thế theo ý bác thì bổn phận của một người bạn nhiệt tình là thế nào?
    -Phải rồi, đó đúng là điều tôi muốn biết đấy,
    -vịt mẹ nói. Rồi chị bơi tới đầu kia ao, đứng chúc đầu xuống nước để làm mẫu cho tụi nhỏ.
    -Hỏi gì mà ngốc tệ!
    -chuột nước nói.
    -Ta trông đợi những người bạn nhiệt tình của ta phải tận tình với ta. Dĩ nhiên là chỉ có thế thôi.
    -Còn bác thì bác đền đáp lại thế nào cơ?
    -chú chim nhỏ vừa hỏi vừa đung đưa trên một cành bạc, đôi cánh bé xíu khẽ vỗ vỗ.
    -Tớ không hiểu được chú đấy, chú mày ạ,
    -chuột nước đáp.
    -Để cháu kể một câu chuyện về vấn đề đó cho bác nghe,
    -sẻ lanh nói.
    -Có phải là cái chuyện về ta không đã?
    -chuột nước hỏi.
    -Nếu đúng, thì ta sẵn sàng nghe, chả là ta mê kể chuyện cực kỳ.
    -Nó thích hợp với bác đấy, bác ạ,
    -sẻ lanh đáp, rồi sà xuống đậu trên bờ, kể chuyện người bạn nhiệt tình.
    ?oNgày xửa ngày xưa,
    -sẻ lanh kể,
    -ngày xửa ngày xưa có một chú bé thật thà, tên là Hanx.
    -Hắn ta có gì đặc biệt không đã?
    -Không,
    -sẻ lanh đáp,
    -cháu nghĩ chú ấy chẳng đặc biệt chút nào, trừ tấm lòng tốt của chú và khuôn mặt ngộ nghĩnh, tròn và vui tươi. Chú sống trong một túp lều bé nhỏ, tự mình lo liệu lấy mọi việc và ngày nào chú cũng làm lụng trong vườn. Trong khắp vùng quê, không có vườn nào xinh đẹp như vườn của chú, đủ các loại hoa: cẩm chướng, hồng đỏ, hồng vàng, từ đinh hương, thủy tiên đâm bông hoặc kết nụ với trình tự riêng của chúng; theo các mùa các tháng kế tiếp nhau mà hoa này nhường chỗ cho hoa kia, do đó mà bao giờ cũng có những thứ hoa xinh đẹp để ngắm và những mùi hương êm dịu để ngửi.
    ?oChú Hanx có rất nhiều bạn, nhưng người bạn nhiệt tình nhất, ấy là lão xay bột Húc hộ pháp. Quả thật lão xay bột giàu có nhiệt tình với chú Hanx đến nỗi chưa bao giờ lão đi bên vườn chú mà không chống tay đầu bờ giậu, hái một bó hoa to tướng, hoặc một nắm cỏ thơm ngọt, hoặc, nếu đang là mùa quả, thì nhét mận và anh đào đầy các túi áo.
    ?oĐã là bạn bè thực sự thì cái gì cũng là của chung?,
    -lão chủ cối xay thường hay nói như vậy, còn chú Hanx thì gật đầu rồi mỉm cười: chú cảm thấy rất tự hào đã có một ông bạn với những tư tưởng cao quý như thế.
    ?oThật ra, đôi khi hàng xóm láng giềng cũng cảm thấy là lạ rằng lão chủ cối xay không bao giờ cho chú Hanx bất cứ cái gì, tuy rằng lão có một trăm bao bột dự trữ chất trong cối xay của lão, bảy con bò sữa và một đàn cừu đông đúc để lấy len. Nhưng Hanx không bao giờ để tâm đến những chuyện đó và không gì đem tới cho chú niềm thích thú lớn hơn là được lắng nghe tất cả những điều kỳ diệu mà lão chủ cối xay thường hay nói về tính vô tư trong tình bạn chân chính.
    ?oHanx tiếp tục làm việc trong khu vườn của mình. Suốt mùa xuân, mùa hạ và mùa thu, chú thật là sung sướng. Nhưng khi mùa đông tới, khi chú không có hoa quả để đem ra chợ bán, chú khốn khổ trăm bề với đói rét dồn dập, và thường phải đi nằm mà không có gì ăn tối, trừ một ít quả sấy khô và mấy hạt dẻ cứng ngắc. Cũng về mùa đông, chú hết sức cô đơn, vì lúc đó, lão chủ cối xay không bao giờ đến thăm chú. Lão thường hay nói với mụ vợ:
    -Tuyết rơi còn kéo dài thế này mà đi thăm thằng Hanx thì chả ích gì. Bởi cái lẽ rằng khi người ta đang có điều phiền muộn thì cần phải để họ ở yên một mình, đừng để khách khứa quấy nhiễu. ít ra đó cũng là ý kiến của tôi về tình bạn, tôi nhất quyết ý kiến tôi là đúng. Vậy nên, tôi đợi mùa xuân tới sẽ đi thăm nó một quắn, lúc đó nó có thể tặng tôi một giỏ lớn hoa anh thảo. Coi mà nó sướng phải biết!
    -Quả thật mình hay nghĩ đến kẻ khác,
    -mụ vợ đáp, lúc đó mụ ta đang ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành cạnh bếp củi thông lớn.
    -Mình quá lo nghĩ đến họ nữa là khác. Nghe mình nói về tình bạn, sao mà thú vị quá đi mất, mình ạ. Tôi chắc chắn là cha cố cũng không nói được những điều hay ho như mình đâu, tuy rằng cha được sống trong một ngôi nhà có đến mấy kho dự trữ, và cha đeo một chiếc nhẫn vàng ở ngón tay út.
    -Nhưng nhà ta có thể gọi Hanx đến đây được không ạ?
    -đứa con út của lão chủ cối xay nói.
    -Nếu cái thằng khốn khổ ấy có khó khăn, con sẽ chia sẻ với nó phần cháo đặc của con, rồi cho nó xem những con thỏ trắng của con.
    -Cái thằng này, sao mày ngốc thế hả?
    -lão chủ cối xay quát.
    -Thực tình tao không hiểu cho mày đi học thì được tích sự gì. Hình như mày chả học được cái khỉ gì. Đây nhé, thằng Hanx mà đến đây, nó sẽ thấy chúng ta sưởi ấm này, nhà ta ăn ngon này, có một thùng lớn chứa rượu vang này, thế là nó có thể đâm ra ganh tị. Mà ganh tị là thói xấu đáng sợ nhất, làm hư hỏng tính nết con người. Dứt khoát, tao không để cho tính nết thằng Hanx bị hư hỏng đâu. Tao là người bạn tốt nhất của nó tao luôn luôn săn sóc đến nó, trông chừng để nó không sa vào những cám dỗ. Hơn nữa, nếu thằng Hanx lên đây, có thể nó hỏi vay tao một ít bột, mà cho vay cho mượn thì tao không nỡ. Bột là một chuyện, tình bạn lại là chuyện khác, không được lẫn lộn hai thứ...
    -Mình nói mới hay làm sao!
    -mụ vợ vừa tán thưởng, vừa rót cho mụ một cốc vại bia ấm.
    -Thú thật, tôi thấy buồn ngủ ríu mắt. In hệt như trong nhà thờ ấy.
    -Có ối kẻ,
    -lão chủ cối xay đáp,
    -có ối kẻ làm đúng, nhưng rất ít người nói đúng. Điều đó chứng tỏ, giữa nói và làm, thì nói là điều khó khăn hơn, mà cũng là điều tế nhị hơn nhiều.
    ?oNói tới đây, lão nghiêm khắc nhìn thằng con út ngồi ở bên kia bàn; thằng bé cảm thấy xấu hổ đến nỗi phải gục đầu xuống, mặt đỏ dừ lên và úp mặt vào tách trà mà khóc. Tuy nhiên, nó còn nhỏ quá, cho nên bác có thể xá cho nó. Nghe tới đây, chuột nước hỏi:
    -Câu chuyện hết rồi ư?
    -Cố nhiên là chưa,
    -sẻ lanh đáp,
    -đó mới là mở đầu.
    -Thế là mày lạc hậu với thời đại rồi con ạ,
    -chuột nước nói.
    -Vào thời buổi này, một tay kể chuyện giỏi phải đi từ phần cuối, tiếp đó lên phần đầu và kết thúc với phần giữa. Phương pháp mới đấy nhé! Một nhà phê bình đã nói như vậy, lúc ông ta đang đi dạo quanh ao với một thanh niên. Ta đã nghe được tất. ông nói một thôi dài về vấn đề đó. Mà ta nhất quyết cho là ông ta có lý, chả là ông ta có đôi kính xanh, đầu ông hói, và bất cứ lúc nào, hễ anh thanh niên kia đưa ra một nhận xét gì đó thì bao giờ ông ta cũng đáp bằng một tiếng
    ?oxì!?. Nhưng thôi, chú mày hãy tiếp tục câu chuyện của chú đi. Ta thích lão chủ cối xay hết nhẽ. Bản thân ta cũng có đủ các loại tình cảm đẹp đẽ, do đó, giữa ta và lão có một mối đồng cảm lớn.
    -Được thôi,
    -sẻ lanh vừa nói vừa nhảy lò cò, khi thì chân trái, khi chân phải.- Mùa đông vừa chấm dứt và các hoa anh thảo vừa bắt đầu nở các
    ?ongôi sao? vàng nhạt thì lão chủ cối xay nói với vợ rằng lão sẽ xuống làng thăm chú Hanx.
    -Thế đấy, bụng dạ ông tử tế quá đi mất,
    -mụ vợ nói.
    -Bao giờ ông cũng nghĩ đến người khác. ông nhớ đem theo cái giỏ to để đựng hoa.
    ?oThế là lão chủ cối xay lấy xích sắt thật khỏe buộc chiếc quạt gió của cối xay lại, rồi với chiếc giỏ ngoắc ở cánh tay, lão đi xuống đồi.
    -Chào cháu Hanx, -lão nói.
    -Chào bác, -Hanx vừa chào đáp lại, vừa chống tay lên xẻng, miệng cười rộng đến mang tai.
    -Suốt mùa đông, cháu thế nào?
    -Tốt, bác ạ, tốt! -Hanx reo lên.
    -Bác tử tế quá, bác đã hỏi thăm cháu, bác tử tế quá đi mất. Cháu thật khủng khiếp vì đã phải qua một mùa đông khá gay go, nhưng bây giờ đã sang xuân, cháu sung sướng hết chỗ nói, tất cả các thứ hoa của cháu tốt tốt là...
    -Suốt mùa đông,
    -lão chủ cối xay nói,
    -nhà bác cứ nhắc đến cháu luôn. Hanx ạ, ai cũng cứ băn khoăn chẳng hiểu cháu sống thế nào.
    -Các bác tốt bụng quá. Cháu gần như sợ là bác đã quên mất cháu.
    -Hanx,-lão chủ cối xay nói,
    -cháu nói gì mà lạ vậy, hử? Bạn bè đâu có quên nhau bao giờ. Đó là điều kỳ diệu nhất của tình bạn, nhưng bác sợ cháu không hiểu được cái thơ mộng của cuộc sống. à này, hoa anh thảo của cháu nom đẹp hết ý đấy, cháu ạ.
    -Chúng quả là rất đẹp, bác nhỉ. Thật may mắn cho cháu đã có nhiều thứ đến thế. Cháu sắp đem nó ra chợ bán cho cô con gái ông thị trưởng, lấy tiền chuộc lại chiếc xe cút kít của cháu.
    -Chuộc lại xe cút kít là thế nào? ý cháu không định nói là cháu đã bán nó rồi, phải không? Làm thế thì khờ quá.
    -Đúng thế, bác ạ,-Hanx đáp,
    -cháu bị bắt buộc phải làm như vậy. Bác tính, mùa đông là một mùa tai hại đối với cháu, mà thực tình, cháu chả có lấy một xu để mua bánh ăn. Bởi thế, thoạt đầu cháu bán đi những chiếc khuy bạc ở chiếc áo khoác ngày chủ nhật của cháu, rồi cháu bán cái chuỗi bạc, tiếp đó là cái ống tiêu lớn, và cuối cùng đến chiếc cút kít. Nhưng bây giờ thì cháu sắp chuộc lại được tất.
    -Hanx ơi,
    -lão chủ cối xay nói,
    -bác sẽ cho cháu chiếc xe cút kít của bác. Thật ra nó không còn lành lặn cho lắm đâu, đã mất mất một bên, các nan hoa có phần trục trặc, nhưng tuy thế, bác vẫn cứ cho cháu. Bác biết, làm như vậy là bác hào hiệp lắm đấy, cháu ạ, có khối người sẽ cho rằng bác phải cực kỳ xuẩn ngốc mới từ bỏ nó, nhưng bác đâu có phải như thiên hạ. Bác nghĩ tính hào hiệp là bản chất của tình bạn, vả lại bác đã có một chiếc xe mới cho bác rồi. Thế nhé, cháu đừng băn khoăn, cứ yên tâm, bác sẽ cho cháu chiếc xe cút kít của bác.
    -ôi! Quả thật như thế thì bác xởi lởi lắm,
    -chú Hanx nói và khuôn mặt ngộ nghĩnh của chú rạng rỡ thích thú. Cháu có thể sửa chữa lại dễ dàng thôi mà, vì trong nhà cháu đang có một tấm gỗ.
    -Một tấm gỗ!
    -lão chủ cối xay kêu lên.
    -May quá, thì chính bác đang cần nó để chữa lại cái mái nhà kho. ở đấy có một lỗ thủng lớn, bác mà không lấp lại ngay thì thóc có thể bị ướt hết. May sao cháu lại nhắc đến nó! Một nghĩa cử bao giờ cũng làm nẩy sinh một nghĩa cử khác, thế mới phi thường chứ! Bác cho cháu chiếc xe cút kít, bây giờ cháu sắp tặng lại bác tấm gỗ. Dĩ nhiên, chiếc xe cút kít ăn đứt tấm gỗ, nhưng tình bạn chân chính có đâu lại so đo, để ý những điều đó. Cháu đi lấy ngay cho bác, và ngay ngày hôm nay bác bắt tay vào việc lợp nhà kho.
    -Hẳn đi rồi!
    -chú Hanx reo, và chú chạy vào lều lôi tấm ván đem ra.
    -Tấm ván chẳng lấy gì làm to lắm,
    -lão chủ cối xay vừa nhận xét vừa ngắm nó.
    -Bác e rằng sửa chữa mái nhà kho xong thì chả còn thừa để cháu sửa chữa xe cút kít, nhưng cố nhiên, lỗi không phải tự bác. Còn bây giờ thế này, bác đã cho cháu chiếc xe cút kít, cháu chắc cũng vui lòng cho bác ít hoa. Giỏ đây, cháu nhớ bỏ cho thật đầy vào.
    -Thật đầy kia hở bác?
    -chú Hanx nói và khá buồn rầu, vì thật tình, đó là một cái giỏ rất to, và chú biết, nếu chủ bỏ cho đầy giỏ thì chẳng còn hoa để đem ra chợ bán, mà chú lại rất áy náy muốn chuộc lại những chiếc khuy bạc.
    -Thì đúng thế mà,
    -lão chủ cối xay đáp,-vì bác đã cho cháu chiếc xe cút kít, nên bác nghĩ rằng có xin cháu một ít hoa thì cũng chẳng nhiều nhặn gì. Có thể bác nhầm, nhưng bác đã từng nghĩ rằng tình bạn, tình bạn chân chính không mảy may dính líu đến tính ích kỷ thuộc bất cứ loại nào.
    -ôi, bác là bạn thân, người bạn tốt nhất của cháu,
    -chú Hanx phân trần. -Hoa trong vườn cháu cũng như là của bác thôi. Tất nhiên, cháu thích được bác coi là người tử tế hơn là thích mấy chiếc khuy bạc. Nói xong, chú chạy đi hái tất cả các bông hoa anh thảo xinh đẹp và bỏ đầy giỏ cho lão.
    -Tạm biệt cháu Hanx,-lão chủ cối xay nói rồi đi lên đồi, vai vác tấm gỗ, tay xách chiếc giỏ to.
    -Tạm biệt bác,
    -chú Hanx nói. Và chú lại bắt đầu đào xới rất vui vẻ, vì chú rất mừng về chuyện cái xe cút kít.
    ?oNgày hôm sau, lúc chú đang vít chặt cây kim ngân vào cổng thì nghe tiếng lão chủ cối xay gọi chú ở ngoài đường cái. Thế là chú nhảy xuống thang, chạy ra vườn và nhìn qua đầu bờ giậu.
    ?oĐó là lão chủ cối xay với một bao tải to tướng trên lưng.
    -Cháu Hanx thân mến, -lão nói,
    -liệu cháu có lấy làm khó chịu nếu phải mang bao bột này ra chợ bán hộ bác không?
    -ôi! Cháu lấy làm tiếc,-Hanx nói,
    -hôm nay quả thật cháu bận quá, bác ạ. Cháu phải vít cành buộc tất cả các cây leo, rồi phải tưới nước cho hoa, rồi rẫy cỏ.
    ?oLão chủ cối xay bèn nói:
    -Thế này nhé, bác sắp cho cháu chiếc xe cút kít, cứ lấy đó mà suy thì thật tình bác nghĩ, cháu mà từ chối tức là cháu tỏ ra không thân tình cho lắm.
    -ôi! Xin bác đừng nói thế, cháu đâu có muốn mang tiếng là không thân tình.
    ?oThế rồi chú chạy đi lấy mũ, lặc lè lê bước với chiếc bao tải to tướng đè trên vai.
    ?oHôm đó trời nóng như đốt, đường sá bụi kinh khủng và chưa đi tới được cây số thứ sáu thì chú đã mệt phờ, khiến chú phải ngồi xuống nghỉ. Tuy nhiên, chú lại mạnh bạo dấn bước và mãi rồi chú cũng đi được tới chợ. ở đấy, sau một lát chờ đợi, chú bán được bao bột với một giá rất hời. Bán xong, chú lên đường trở về nhà ngay, bởi vì chú sợ, nếu dừng lại quá muộn thì có thể gặp vài tay cướp đường.
    ?oChắc chắn hôm nay là một ngày vất vả,
    -chú Hanx tự nhủ khi lên giường nằm.
    -Nhưng mình cũng mừng là đã không từ chối giúp bác chủ cối xay, một người bạn tốt nhất của mình. Hơn nữa, bác ấy sắp cho mình cái xe cút kít.
    ?oNgày hôm sau, tảng sáng lão chủ cối xay đã đến lấy tiền bán bột, còn chú Hanx mệt nhọc đến nỗi vẫn còn nằm trên giường. Thấy vậy, lão nói:
    -Bác thề là cháu lười biếng quá đấy. Bác nói thật nhé, bởi lẽ bác sắp cho cháu chiếc xe cút kít của bác, cho nên bác thiết tưởng cháu phải làm việc cố gắng hơn. n không ngồi rồi là một tội lớn, và nhất định bác không ưa người bạn nào của bác ăn bơ làm biếng, lờ phờ. Cháu đừng lấy làm khó chịu vì bác đã nói với cháu một cách thẳng thắn. Dĩ nhiên bác đâu có tơ tưởng làm như vậy nếu bác không phải là bạn của cháu! Nhưng, cái tốt đẹp trong tình bạn là gì, nếu như ta không nói đúng những điều ta nghĩ? Bất cứ ai cũng có thể nói những lời quyến rũ, cố gắng làm đẹp lòng và nịnh nọt, nhưng một người bạn chân thành thì luôn luôn nói những điều khó chịu và không nghĩ đến chuyện làm phiền kẻ khác. Quả thật, nếu y thực sự là người bạn chân thành thì y ưa làm như vậy hơn, vì y biết làm như vậy là đúng.
    -Cháu rất lấy làm tiếc,
    -Hanx vừa nói vừa giụi mắt và giật chiếc mũ trùm đầu xuống,
    -nhưng vì mệt quá nên cháu định nằm rốn lại trên giường một lát và nghe chim hót. Bác biết không, sau khi nghe chim hót, bao giờ cháu cũng làm việc tốt hơn.
    -Thôi, thế là bác bằng lòng,
    -lão ta vừa nói vừa vỗ vỗ lưng chú Hanx,
    -vì bác muốn cháu lên chỗ cối xay sửa giùm bác cái mái nhà kho. Cháu mặc quần áo xong là ta đi.
    ?oChú Hanx rất lấy làm áy náy muốn đi làm vườn của mình, vì đã hai ngày nay, hoa của chú không được tưới, nhưng chú không muốn từ chối lão chủ cối xay khi mà lão là một người bạn tốt đến thế. Bằng một giọng nói rụt rè, xấu hổ, chú dò hỏi:
    -Nếu cháu nói cháu bận thì liệu bác có nghĩ rằng cháu thiếu tình bạn hay không ạ?
    -Thế này, bác không nghĩ rằng bác đòi hỏi cháu quá nhiều, bởi lẽ rằng bác sắp cho cháu chiếc xe cút kít, nhưng, dĩ nhiên, cháu mà từ chối thì thôi, bác về tự làm lấy.
    -ồ,-Hanx kêu lên,
    -muốn ra sao cháu cũng cứ đi.
    ?oRồi chú nhảy ra khỏi giường, mặc quần áo và lên đường tới cối xay.
    ?oChú làm việc suốt ngày cho tới mặt trời lặn, và đến lúc mặt trời lặn thì lão chủ cối xay bột tới xem chú làm ăn ra sao. Với giọng vui vẻ, lão hỏi:
    -Cháu đã lấp cái lỗ hổng trên mái chưa, Hanx?
    -Lấp kín rồi, bác ạ,
    -chú vừa đáp vừa xuống thang.
    -ôi! -lão chủ cối xay nói.- Chẳng có công việc nào thú vị bằng công việc làm cho kẻ khác.
    ?oChú Hanx ngồi xuống và lau trán:
    -Được nghe bác nói chuyện, quả là một đặc quyền, một đặc quyền lớn. Nhưng cháu lo, chẳng bao giờ cháu có được những ý kiến đẹp đẽ như bác.
    -ồ! Rồi cháu khắc có,
    -lão chủ cối xay đáp.
    -Nhưng cháu phải tốn công tốn sức nhiều hơn kia. Hiện giờ cháu chỉ mới thực hành tình bạn, một ngày nào đó cháu cũng nắm được lý thuyết nữa.
    -Thực tình, bác nghĩ là cháu cũng nắm được ư?
    -Cái đó thì chắc! Chẳng có nghi ngờ gì hết. Nhưng cháu đã sửa chữa mái nhà rồi, tốt nhất cháu nên về mà nghỉ ngơi vì bác muốn ngày mai cháu lùa đàn cừu lên núi cho bác.
    ?oChú Hanx tội nghiệp ngại không dám có ý kiến gì và sáng sớm ngày hôm sau, lão chủ cối xay lùa đàn cừu đến quanh căn nhà lá, rồi Hanx dẫn chúng lên núi. Chú ở trên ấy mất một ngày ròng rã, rồi chú đi về. Khi về tới nơi, chú mệt lử đến nỗi ngủ lịm đi trên ghế, và chỉ đến lúc sáng lóa mắt chú mới tỉnh dậy được.
    -Chà! Trời hôm nay mà làm vườn thì thú vị phải biết.- chú nói và ngay lập tức bắt tay vào việc.
    ?oNhưng chẳng hiểu ra làm sao mà không lúc nào chú có thể trông nom săn sóc đến hoa của mình, vì ông bạn chủ cối xay luôn luôn tạt lại nhà chú, sai chú làm những việc vặt, hết việc nọ đến việc kia, hoặc nèo chú đến làm việc tại cối xay. Đôi khi Hanx rất lấy làm khổ tâm mỗi khi chú sợ rằng hoa của chú có thể cho rằng chúng đã bị chú bỏ quên, nhưng chú tự an ủi với ý nghĩ rằng lão chủ cối xay là ông bạn tốt nhất của chú.
    ?oHơn nữa, -chú thường nói,
    -bác ấy sắp cho mình chiếc xe cút kít, mà như vậy, hoàn toàn chỉ do lòng hảo tâm của bác ấy thôi?.
    ?oCứ như vậy, chú bé Hanx tiếp tục lao động cho lão chủ cối xay, còn lão ta thì cứ nói đủ mọi điều hay ho về tình bạn mà Hanx ghi vào sổ tay và buổi tối thường giở ra đọc lại, vì chú là một người rất ham học.
    ?oThế rồi, vào một buổi tối chú bé Hanx đang ngồi cạnh bếp lửa thì bỗng nghe một tiếng gõ đánh cốp rất to vào cửa. Hôm ấy là một đêm dữ dội, quanh nhà gió thổi và gào rú khủng khiếp đến nỗi thoạt đầu chú tưởng rằng tiếng động ấy chẳng qua chỉ do gió gây nên. Nhưng một tiếng cốp thứ hai, rồi tiếng thứ ba lớn hơn tiếng đầu.
    ?oChắc có kẻ qua đường khốn khổ nào đó thôi,
    -Hanx tự nhủ và chạy lại mở cửa.
    ?oLão chủ cối xay đang đứng ở đó, một tay xách chiếc đèn bão, một tay cầm chiếc gậy to.
    -Cháu Hanx thân mến,
    -lão nói to,
    -bác đang lo quá, cháu ạ. Thằng con út của bác đã ngã thang và bị thương, bác phải đi mời ông đốc tờ. Nhưng ông ta ở xa quá, đêm lại xấu trời thế này nên bác chợt nghĩ hay là cháu đi hộ bác thì tốt hơn. Cháu biết đấy, bác sắp sửa cho cháu chiếc xe cút kít, bởi thế, giá cháu có làm chút gì đó cho bác gọi là đền đáp lại, điều đó cũng phải nhẽ thôi.
    -Hẳn thế rồi,
    -chú Hanx kêu lên,
    -bác đã cất công tới đây nhờ cháu, cháu xem đó hoàn toàn như một lời ngợi khen rồi, bác ạ. Cháu đi ngay bây giờ đây. Nhưng bác phải cho cháu mượn chiếc đèn, vì trời tối quá, cháu có thể rơi xuống ngòi.
    -Bác rất tiếc, đây là chiếc đèn mới, nếu nó có bị hư hỏng gì thì bác thiệt to.
    -Thôi cũng được, bác đừng băn khoăn, không đèn cũng xong, cháu đi đây,
    -Hanx đáp. Chú nhấc chiếc áo khoác lông xuống mặc vào, đội chiếc mũ trùm ấm màu đỏ tươi, quấn chiếc khăn quanh cổ, rồi ra đi.
    ?oDông tố mới dữ dội làm sao! Đêm tối như mực khiến chú khó nom thấy được gì, và gió thổi mạnh đến nỗi chú khó lòng đứng vững. Tuy nhiên chú rất can đảm và sau khi đã đi mất ba tiếng đồng hồ, chú tới nhà ông thầy thuốc. Chú gõ cửa.
    -Ai ngoài ấy?
    -ông thầy thuốc vừa hỏi vừa ló đầu ra cửa sổ buồng ngủ.
    -Thưa bác, cháu là Hanx đây ạ.
    -Có việc gì thế, cháu Hanx?
    -Con trai bác chủ cối xay ngã thang và bị thương, bác ấy mời bác đến ngay cho.
    -Đâu rồi!
    -ông thầy thuốc nói. ông chuẩn bị ngựa, một đôi ủng to, chiếc đèn, rồi ông lên đường, cho ngựa rẽ về hướng nhà lão chủ cối xay, còn chú Hanx thì chậm chạp đi đằng sau.
    ?oDông tố mỗi lúc một tệ hại, mưa như trút nước, và chú Hanx không thể biết được mình đang đi về đâu, hoặc không thể theo kịp ngựa. Cuối cùng chú lạc đường, đi chệch vào một cánh đồng hoang, một nơi rất nguy hiểm và đầy những hố sâu. Và chú Hanx bị chết đuối tại đấy. Ngày hôm sau một số người chăn súc vật đã tìm thấy xác chú dập dềnh trong một cái đầm lớn; họ đưa xác chú về căn lều.
    ?oAi nấy đều dự đám tang chú Hanx, vì chú được mọi người yêu mến, và lão chủ cối xay là kẻ khóc mướn chủ yếu. Lão nói:
    -Bởi chúng tôi là bạn thân thiết nhất của nó, cho nên giá tôi có đứng vào chỗ tốt nhất, thì cũng là điều hợp lý thôi.
    ?oThế là lao đi ở đầu đoàn người đưa ma, với một chiếc áo dài đen, và chốc chốc lão lại chùi mắt với một chiếc khăn tay to.
    -Chú Hanx mất đi, chắc chắn là một mất mát lớn cho mọi người,
    -bác phó rèn nói lúc đám tang kết thúc và ai nấy đang ngồi trong túp lều uống rượu vang và ăn bánh ngọt.
    -Dẫu sao thì cũng là một mất mát lớn đối với tôi,
    -lão chủ cối xay nói.-Thì đấy, cứ coi như tôi đã cho thằng bé chiếc xe cút kít rồi và bây giờ, quả thật tôi không biết xoay xở thế nào với chiếc xe đấy. ở nhà tôi, nó phải thuộc quyền của tôi, nhưng nó hư hỏng quá nên giá có bán đi thì cũng chả thu lại được gì. Cố nhiên, tôi sẽ thận trọng, không đem cho đi bất cứ cái gì khác. Đố có sai, làm phúc xúc lấy tội?.
    -Sao nữa?
    -chuột nước hỏi sau khi chim ngừng kể một lúc lâu.
    -ồ, hết rồi đấy,-sẻ lanh đáp.
    -Nhưng rồi lão chủ cối xay sẽ như thế nào? -chuột nước hỏi.
    -ồ, thật tình, cháu chẳng biết thế nào. Mà chắc chắn là cháu chẳng để tâm tới.
    -Thế thì hoàn toàn rõ ràng chú là người chả có thiện cảm với ai,
    -chuột nước nói:
    -Cháu sợ rằng bác hoàn toàn không nhận ra cái bài học của câu chuyện, -sẻ lanh nhận xét.
    -Bài gì?-chuột nước hỏi.
    -Bài học đạo đức.
    -Chú có ý nói câu chuyện đó là một bài học ư?
    -Hẳn đi rồi,- sẻ lanh đáp. Với một thái độ rất giận dữ, chuột nước nói:
    -Thôi, ta nghĩ rằng đáng lý ra, trước khi bắt đầu câu chuyện, chú phải nói với ta điều đó đã. Nếu chú làm thế thì chắc chắn ta đã không nghe chú rồi. Thật ra, lúc đó, cũng như cái nhà phê bình nọ, ta đã nói
    ?oXì!? rồi. Tuy nhiên, giờ đây ta vẫn có thể nói thế.
    -Và lão ráng hơi ráng sức:
    ?oXì!?, xong ngoắt đuôi một cái, rúc trở lại hang. Mấy phút sau, chị vịt lạch bạch đi tới, hỏi:
    -Mà làm sao chú có thể ưa lão chuột nước được? Lão có nhiều điểm đến kỳ lạ, nhưng về phần ta, ta lại có tấm lòng của người mẹ, ta không bao giờ có thể nhìn một gã độc thân mà không rơm rớm nước mắt được.
    -Em cũng phần nào sợ là đã làm cho bác ấy bực mình,
    -sẻ lanh đáp.
    -Sự thực là em đã kể cho bác ấy nghe một câu chuyện có ý nghĩa là một bài học.
    -ờ! Làm thế thì bao giờ cũng nguy hiểm lắm. Còn tôi, tôi hoàn toàn đồng ý với chị vịt đấy.

Chia sẻ trang này