1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyền Thuyết ( những tác phẩm không có tác giả )

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi gio_mua_dong, 12/07/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. gio_mua_dong

    gio_mua_dong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/01/2002
    Bài viết:
    3.259
    Đã được thích:
    0
    Sự tích bãi Ông Nam
    Tác Giả : Chưa rõ ​

    Ngày ấy, những người dân chài vùng biển Nam nước Việt ta trong khi ra khơi làm ăn thường bị nạn bão tố. Mỗi lần bão tố thình lình xảy ra, nếu trên đất liền chỉ đổ cửa đổ nhà thì trên mặt biển khơi có thể chết hàng trăm hàng nghìn mạng người. Không những thế, nó còn chôn vùi xuống đáy biển biết bao nhiêu là chài lưới thuyền mảng, những của cải mồ hôi nước mắt tích góp không phải chỉ một ngày. Vì vậy, những dân chài vùng biển Nam luôn luôn kêu gào oán trời trách đất độc ác phũ phàng, làm cho con mất cha, vợ lìa chồng, táng gia bại sản. Cuối cùng lời kêu gào của họ cũng động đến tòa sen.
    Một hôm, đức Bồ tát ngự trên tòa sen nghe tiếng than khóc, bèn cúi nhìn xuống toàn cõi biển Nam. Nhận thấy muôn nghìn sinh linh bỏ mạng đều là những con người nghèo khổ, lương thiện, chất phác, thì động lòng thương, bèn cởi ngay chiếc pháp y mình đang mặc, xé thành từng mảnh ném xuống mặt biển rồi niệm chú cho mỗi mảnh hóa thành một con vật để chúng làm công việc cứu giúp dân chài. Những con vật ấy một khi xuất hiện ở biển Nam, bèn bơi lội khắp nơi, cố gắng làm những việc được giao, nhưng tiếc thay, thân tuy dài nhưng không lớn mấy, không thể chống chọi với những cơn bão tố, chẳng đủ sức che chở cho ghe thuyền, nên cuối cùng kết quả không được là bao. Bởi vậy, một hôm chúng họp lại trình lên tòa sen để Bồ tát biết sự bất lực của chúng.
    Thấy vậy, Bồ tát bèn lại mượn mấy bộ xương voi ném xuống biển, biến những con vật nhỏ bé trước thành những con vật vừa dài vừa có vóc dạc khổng lồ. Bồ tát dặn:
    - Ta đã làm cho thân thể các ngươi đủ sức đương đầu với bão tố. Từ nay ta giao cho các ngươi chuyên một nhiệm vụ cứu nguy trên vùng biển Nam. Các ngươi hãy cố gắng làm tròn bổn phận. Để giúp đỡ các ngươi, ta sẽ cho một số quân đi theo hầu hạ, đồng thời nhắc nhở các ngươi không được lơ là với phận sự.
    Nghe lời truyền phán, những con vật mới vui lòng chia nhau bơi đi các nơi làm chức trách của mình. Bọn quân hầu cũng chia nhau đi theo hết lòng giúp đỡ.
    Nhưng rồi Bồ tát vẫn chưa vừa ý. Nhận thấy mấy con vật mới sáng tạo vì quá to xác nên không được hoạt bát nhanh nhẹn, Bồ tát lại ban cho chúng phép thần thông để có thể sớm phát hiện ra tiếng kêu cứu dù xa hàng nghìn dặm. Đối với bọn quân hầu của chúng, Bồ tát cũng cho một tên dùng mực để chỉ đường vạch lối cho chủ chúng đi được nhanh, một tên thì cầm một ngọn đao luôn luôn hộ vệ tả hữu. Như vậy là Bồ tát đã tạo nên cá voi, cá mực và cá đao.
    Nhờ thế, dân chài vùng biển Nam cũng được an ủi đôi phần. Từ đó họ gọi cá voi bằng cái tên Ông Nam hay cá Ông(1).
    * * *
    Bấy giờ ở một cửa biển Nam có một vàm sông (2) quen gọi là vàm Ông Đốc, có một cá Ông làm trấn thủ tại đây. Cá Ông làm việc tận tụy, ít khi xa rời vùng mình cai quản. Nhưng một hôm nó có ý muốn được ngao du một chuyến ra khỏi cõi bờ để ngắm xem cho thỏa thích. Bèn ngỏ ý ấy với những kẻ tùy tòng. Cá mực và cá đao đều trả lời: - "Hiện nay chưa phải là mùa dông bão, ngài có đi xa cũng chẳng sao. Chỉ mong ngài phải nhớ trở về sớm, đừng có la cà mà hối không kịp. Hơn nữa cũng cần phải bảo vệ tấm thân vì ngài đang kỳ thai nghén".
    Được lời, cá Ông bèn quyết chí xuất hành cùng với cá mực và cá đao. Chương trình đã định là sẽ vòng theo mũi biển, cứ như bây giờ gọi là mũi Cà Mau, lần lượt tiến dần về phía đông bắc đi thăm các vàm khác, ở đó sẽ gặp một số bạn bè và người thân thuộc, cuối cùng lại vòng theo mũi biển trở về chỗ cũ. Nhằm một buổi tối trời, cả đoàn kéo nhau ra đi. Vừa qua khỏi mũi đất, họ tiến vào vàm sông Bồ Đề. Đối với cá Ông, cuộc ngao du trở nên ngày một thú vị khi được gặp lại những người quen thuộc và được thấy những cảnh đẹp ở vùng Biển Đông. Cho nên cả đàn lưu lại nhiều ngày ở vàm sông Bồ Đề để xem cho thỏa thích trước khi rời lên phía bắc.
    Nhưng một đêm nọ, bỗng nhiên khí lạnh làm rởn da mọi người, báo hiệu một cơn sóng gió hãi hùng sắp nổ ra. Không ngờ bão tố lại xuất hiện bất thường như vậy, cả đoàn hết sức hoảng hốt. - "Trời nổi bão rồi! Chúng ta phải mau mau trở về đi thôi, vì thế nào cũng có người bị nạn". Tiếng chủ tướng kêu lên. Và nó ra lệnh cho cả đoàn tập hợp đông đủ để chuẩn bị trở về.
    Nhưng khi quay về, vì có phép thần nên cá Ông đã biết tin có một chiếc ghe đang vô tình tiến xa ra khơi thuộc vàm sông Ông Đốc. Cá Ông than thở: - "Ôi! vẫn còn có một chiếc ghe đang vật vờ ngoài vàm. Bây giờ mà trở về vùng ấy nhanh nhất cũng phải mất một ngày. Biết làm sao bây giờ?"
    Thấy cá đao thỉnh thoảng lại thúc bên hông, cá Ông hết sức lo lắng. - "Bây giờ về đường biển thì e không kịp vì phải đi quanh. Chỉ có cách là chúng ta chịu liều đi tắt vào vàm sông Bồ Đề, tuy có nguy hiểm nhưng may ra có thể cứu kịp".
    Nói sao làm vậy. Cả đoàn lại tiến phát. Nhưng khi lọt vào vàm thì bão đã nổi lên mỗi lúc một mạnh. Hơn nữa, sông Bồ Đề thì nước cạn mà thân của Ông Nam thì lại quá vĩ đại. Tuy vậy, theo dấu cá mực, nó vẫn cố trườn, có lúc phải trườn trên bãi đầy cây tràm và cây đước xây xát cả mình mẩy. Hồi này nó đang mang thai. Vì phải cố gắng dùng hết sức lực nên cái thai bị sảo. Cá bé ra đời đáng lý có thể sống được, nhưng vì nước cạn nên chẳng mấy chốc thì tắt thở. Tuy lòng đau như cắt và mệt hết sức, Ông Nam vẫn không bịn rịn, vẫn cố xuyên qua dòng nước để về cho kịp vàm sông Ông Đốc, nơi mình có trách nhiệm với dân chài.
    Chẳng mấy chốc cả đoàn cũng về được đến nơi. Bão khi ấy đang tung hoành dữ dội hết mức. Cá Ông vùng ngay ra khơi, chỉ một nhoáng nó đã đội được chiếc ghe sắp bị chìm lên lưng đưa vào bờ. Dọc đường nó còn cứu được năm chiếc khác đang vật vờ trong sóng biển.
    Vì mất sức khỏe, nên chuyến ấy Ông Nam cũng bị đau trong mấy tuần. Biết được mọi việc xảy ra, Bồ tát cũng vui lòng xá tội.
    Từ đó, dân chài vàm sông Bồ Đề lập miếu thờ đứa con vô tội của cá Ông đẻ rơi trong khi làm nhiệm vụ. Hiện nay cái miếu ấy vẫn còn, người ta quen gọi là miếu Ông Nam. Cả cái dòng nước mà ông vượt qua ngày nay đã bồi thành bãi, người ta cũng gọi là bãi Ông Nam (3).
    (1) Đoạn này theo Toan Ánh: Nếp cũ hội hè đình đám, quyển hạ; và Văn hóa tập san số 3 (1973).
    (2) Vàm sông: tức cửa sông hoặc cửa biển, chỗ sông đổ ra biển.
    (3) Theo Sơn Nam: Truyện xưa tích cũ tập I.
    Người dân chài ở vùng Côn Lôn cho rằng mỗi lần cá voi đi đâu thì ở phía trước có cặp cá đao rất lớn, kế đó là một cặp cá mực rất to, nhưng là để kiếm mồi cho cá voi. Cá đao phải dùng cái gươm của mình để lùa các loài cá nhỏ vào cái miệng khổng lồ của chủ tướng, còn cá mực thì phun chất mực đen trong nước biển khiến cho các loại cá nhỏ không thấy đường mà đi phải chạy vào miệng chủ tướng. Khi miệng đã đầy cá, cá Ông bèn ngậm lại, ăn một cách ngon lành, lại còn xịt nước lên cao thành vòi để cảm ơn những kẻ tùy tòng đã giúp cho mình ngon miệng. Còn ở một số vùng khác thì cho rằng cá Ông đi đâu, tiền đội thường có cá mực cầm cờ dẫn đường, lại phun chất mực như để đánh dấu cho chủ tướng biết đường mà đi, còn hai bên sườn thì có cá đao đi hộ vệ.

    Hêt​
    Cha Mẹ nuôi con như biển hồ lai láng .Con nuôi Cha Mẹ sao tính tháng , tính ngày .
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Có ai làm chứng
    Chưa rõ tác giả ​

    Ngày xưa có ông nhà giàu chỉ chuyên làm nghề cho vay lãi.
    Trong vùng, có một nhà đói khó vay ông được ba mươi quan tiền.
    Ông nhà giàu đi đòi đã năm bẩy trận, mà nhà ấy không sao giả được cứ khất lần.
    Một hôm ông đến đòi nữa thì cả nhà đi vắng, chỉ có một đứa bé đang nghịch ngoài sân.
    Ông mới hỏi đứa bé rằng:
    - Cha ****** đi đâu vắng cả?
    Đứa bé làm thinh không đáp.
    Ông kia tức mình hỏi mãi:
    - Cha ****** đi trốn nợ, hay đi đâu, mày phải nói cho thật.
    Đứa bé bây giờ mới thủng thỉnh đáp rằng:
    - Cha tôi thì đi chém cây sống, giồng cây chết. Mẹ tôi thì đi bán gió mà mua que.
    Ông kia nghe nói, chẳng biết cha mẹ nó làm cái gì, mà nó nói lạ thế. Ông gặng hỏi nó đôi ba lần, nó cứ cười không đáp ra sao cả.
    Thấy vậy, ông mới dỗ dành nó rằng:
    - Cha ****** làm gì, mày cứ nói cho thật. Rồi cha ****** còn nợ tao bao nhiêu, thì tao cho mày cả, tao không đòi nữa.
    Thằng bé làm ra chuyện ngù ngờ nói rằng:
    - Tôi biết ông đùa tôi đấy! Ông cứ nói chuyện đưa trâu qua đò làm gì thế!
    Ông kia bảo:
    - Không, tao nói thật mà!
    Nó nói:
    - Thật à! Thế thì tôi phải đi mời người đến làm chứng. Rồi tôi hãy xin nói.
    Ông kia nghĩ bụng: ''''Thằng bé này đáo để''''. Thì ngay lúc ấy, vừa trông thấy một con mối, ông muốn xui trẻ ăn *** gà, mới bảo với nó rằng:
    - Có con mối kia nó làm chứng cho cũng được rồi... Mày cứ nói đi.
    Thằng bé thấy có chứng cớ tử tế mới nói rằng:
    - Cha tôi đi chém cây sống, giồng cây chết tức cha tôi đi cấy; còn mẹ tôi đi bán gió mua que tức là đi bán quạt.
    Ông kia nghe nói, ngẫm nghĩ chịu thằng bé là tài trở ra về.
    Cách được mấy hôm, ông kia lại cứ đến hỏi nợ...
    Người cha lại nằn nì xin khất, nhưng thấy thằng con lon ton chạy ra bảo:
    Cha không phải giả món nợ ấy nữa. Ông ấy đã cho con cả rồi.
    Ông kia nói:
    - Trẻ con đừng nói láo ! Ai cho mày?
    Nó bảo:
    - Thì có chứng cớ tử tế, ông còn cãi gì...
    Ông kia giận dữ ra về, lẩm bẩm doạ rằng:
    - Ừ rồi tao xem cha con nhà mày có phải trả tao không !
    Người cha nghe nói sợ hãi, hỏi lại con:
    - Ông ấy bảo cho mày nợ, mày nói có chứng cớ thì chứng cớ gì mà chứng cớ đâu?
    Thằng con nói:
    - Cha chớ lo. Cha cứ đừng giả, để đó mặc con. Khôn ngoan lên đến cửa nhà quan mới biết. Quả nhiên được mấy hôm, có trát quan về đòi người kia lên thật. Vì ông nhà giàu đã đầu đơn kiện tại công đường.
    Người cha cứ thực, trình rằng:
    - Bẩm, tôi có nợ ông ấy ba mươi quan tiền. Tôi đã có nhời khất rồi tôi xin giả. Nhưng con tôi nó bảo đừng giả, vì ông ấy đã cho nó cả rồi, mà nó nói lại có chứng cớ tử tế.
    Ông nhà giàu cãi:
    - Thằng bé nó nói láo ! Chớ tôi có cho nó bao giờ đâu, mà có chứng cớ gì đâu. Xin quan cho đòi nó lên mà tra hỏi.
    Quan nghe, lập tức cho đòi thằng bé lên.
    Thằng bé vào quan, chào lạy rất lễ phép, rồi kể lại rành mạch đầu đuôi câu chuyện.
    Quan hỏi vặn nó:
    - Nhưng lúc bấy giờ có ai làm chứng cho câu nói của ông kia không?
    Nó thưa: Bẩm có, có người làm chứng, chính ông ấy, lúc bấy giờ, chỉ vào một con mối đang leo trên cột nhà, bảo làm chứng.
    Ông kia nghe nó nói sai, đỏ mặt cãi rằng:
    - Lúc ấy chỉ có con mối đậu trên chiếc đũa cả, chớ làm gì có con mối leo ở cột nhà.
    Quan nghe ông kia cãi, cười mà nói rằng:
    - Thế thì ông có cho nó thật rồi. Mà lúc ông nói, có con mối làm chứng cho nó thật rồi. Ông còn cãi gì nữa. Ông tưởng lừa trẻ được nhưng ngờ đâu nó lại lừa lại được ông. Con cháu bây giờ thật khôn hơn ông vải đấy ông ạ.
    Rồi quan xử cho người kia không phải giả nợ nữa.
    Ông nhà giàu phải cắn răng chịu, lấy làm căm tức lắm, nhưng trong bụng vẫn khen thầm thằng bé sao mà khôn ngoan tài giỏi đến bực ấy.
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Cây đa biết nói
    Chưa rõ tác giả ​

    Ngày xưa có một người mang bạc đi đường. Đi đến gốc cây đa, ngồi đó nghỉ mát. Lúc đứng dậy đi thì bỗng thấy mất một bao bạc. Không biết hỏi vào đâu người ấy mới nằm lăn bên gốc cây đa mà làm vạ.
    Dân trong làng thấy vậy, bàn với nhau rằng:
    - Cây đa ấy thuộc về địa phận làng ta, một mai có sinh ra chuyện gì, thì cả làng phải cữu.
    Rồi lên trình quan.
    Quan cho đòi người kia đến, hỏi:
    - Tại sao người nằm vạ ở đó?
    Người kia nói rằng:
    - Bẩm quan lớn, con nghỉ mát dưới gốc cây đa mà mất một bao bạc. Con không biết hỏi ai, nên phải nằm dưới gốc cây ấy mà kêu van.
    Quan bèn truyền cho dân chặt một cành đa lên để quan khảo.
    Rồi quan sai người đào cái hố trước, cho một tên lính nằm phục sẵn đấy, và dặn nó hễ thấy tra hỏi, thì người phải nói rằng:
    - Bẩm lạy quan lớn, xin quan lớn hãy khoan tay để con xem đứa nào lấy bạc, con xin xưng.
    Khi làng chặt cành đa đem đến, quan cho để phủ lên trên chỗ hố người lính nằm, rồi sai lấy vồ khảo mãi vào cành đa.
    Người lính ở dưới hố, cứ nói đi nói lại câu quan đã dặn trước.
    Bấy giờ từ trong dinh quan tiếng đồn ra khắp mọi nơi rằng:
    - Cây đa biết nói, sắp xưng tên lấy bạc.
    Có tật giật mình, trong làng có một đứa gian đã lấy bạc của người kia, nghe đồn lo quá, sợ cây đa nói, xưng tên mình ra thì chết.
    Tiên năng tự thú, nó vội vàng ra lấy bạc đem đến trước quan thú tội và xin giảm tội. Thế là quan lấy mẹo xử, mà quân gian mắc mẹo thật.
  4. gio_mua_dong

    gio_mua_dong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/01/2002
    Bài viết:
    3.259
    Đã được thích:
    0
    Sắt ngắn , gỗ dài ​
    Hồi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan về quê làng Trung Am mở trường dạy học, học trò theo học rất đông. Vào buổi tối 30 tết năm nọ; ông Trạng đang ngồi đàm luận về lý số với một anh học trò xuất sắc của ông đến thăm và biếu ông lễ vật, thì bỗng ngoài cổng có tiếng người gọi. Ông sai gia nhân ra bảo hãy chờ một chút. Trong khi đó, ông và người học trò cùng bấm quẻ để thử đoán xem người đó vào có việc gì?
    Cả hai thầy trò cùng bấm vào một quẻ "thiết đoản, mộc trường". Nghĩa là "Sắt ngắn, gỗ dài". Ông hỏi người học trò:
    - Vậy anh đoán người đó vào đây có việc gì?
    Anh học trò trả lời:
    - Thưa thầy! "Thiết đoản, mộc trường, theo ý con, người vào đây chắc hẳn chỉ có mượn chiếc mai đào đất mà thôi, chứ ngoài ra không còn cái gì là "sắt ngắn, gỗ dài" nữa.
    Ông cười nói:
    - Khác với anh, tôi lại đoán người đó vào đây mượn búa.
    Nói xong, ông cho mở cổng. Quả nhiên người ấy vào hỏi mượn búa thật.
    Anh học trò chững người ra vì sự đoán sai của mình.
    Thấy vậy, ông giải thích cho anh học trò:
    - Kể thì anh bấm quẻ cũng giỏi, nhưng mức đoán còn thấp. Anh bảo "sắt ngắn, gỗ dài" mà đoán là mượn mai, như vậy thử hỏi, 30 tết người ta đến đây để mượn mai làm gì cơ chứ? Còn tôi bảo là người đó vào mượn búa để về bổ củi nấu bánh chưng Tết mà thôi. Bấm quẻ đã đúng nhưng khi đoán còn phải có ý thức cơ biến, mà tránh được những sự sai lầm.
    Anh học trò bái phục thầy, xin nhận những lời chỉ bảo quí. Trạng Trình thật là người suy đoán giỏi.
    Hết ​

Chia sẻ trang này