1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện trinh thám

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Co_be_ben_cua_so, 16/08/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Bàn Tay Khỉ
    Ngoài trời, đêm lạnh và ướt, nhưng trong biệt thự Lakesnam màn bỏ bốn bề, và lửa cháy sáng rực trong lò.
    Hai cha con ông White đang say mê đánh cờ. Người cha thua hai bàn nên có hơi bực.
    Bà vợ ngồi gần bên ôn tồn bảo:
    - Ông đừng nóng, có thể bàn sau ông sẽ thắng.
    Ông chồng vừa ngẩng đầu lên đúng lúc để nhìn thấy một cái nhìn đồng loã giữa hai mẹ con...
    Ngay lúc đó có tiếng động cửa bên ngoài và có tiếng chân bước về phía cửa. Ông White đứng lên mở cửa. Chủ và khách chào hỏi nhau rồi bước vào trong.
    Khách lạ là một người cao lớn vạm vỡ, mắt nhỏ và sáng, mặt đỏ gay. Ông tự giới thiệu:
    - Trung sỹ Morris.
    Khách bắt tay những người trong nhà rồi ngồi xuống bên cạnh lò sưởi trong khi chủ rót rượu mời khách.
    Đến ly thứ ba, đôi mắt khách lạ bừng sáng và ông ta bắt đầu nói chuyện. Gia đình nhỏ bé của chủ nhà gồm có ba người, quây quần chung quanh để nghe ông khách lạ từ phương xa kể nhiều chuyện kỳ quái.
    Ông White gật gù nói với bà vợ và cậu con:
    - Hai mươi mốt năm qua, khi cậu này ra đi lưu lạc giang hồ, cậu chỉ là một thiếu niên giúp việc trong kho hàng của mình. Bây giờ nhìn xem, cậu đã trưởng thành tốt đẹp!
    Bà vợ góp ý:
    - Cậu Morris có vẻ nhàn lắm.
    Ông chồng:
    - Tôi cũng muốn đi chu du thiên hạ, muốn ghé qua ấn Độ để cho biết với người ta.
    Trung sỹ lắc đầu, bảo:
    - Tôi nghĩ rằng ai ở đâu nên ở đó là tốt hơn hết.
    Rồi đặt ly rượu xuống, ông khẽ thở dài rồi lại lắc đầu.
    Ông White vẫn tiếp tục nói lên ý nghĩ của ông:
    - Tôi muốn thấy những đền đài cổ, những ông phù thuỷ và những tay thuật sỹ. à, hôm trước cậu có nói sơ qua về câu chuyện bàn tay khỉ, cậu có thể kể thêm cho chúng tôi nghe không?
    Trung sỹ vội gạt ngang:
    - Thôi bỏ qua đi. Chuyện đó không đáng nói. Toàn nhảm nhí.
    Nhưng bà White tò mò hỏi:
    - Chuyện bàn tay khỉ? Chuyện đó ra sao?
    Trung sỹ giải thích sơ qua:
    - Đó là một câu chuyện có thể gọi là huyền bí.
    Ba thính giả chồm tới lắng nghe. Ông khách mơ màng nốc cạn ly rượu rồi đặt xuống bàn. Ông White châm rượu vào ly.
    Trung sỹ mò trong túi áo lấy một vật, đưa ra:
    - Đây, bàn tay khỉ đây!
    Nó cũng chẳng có gì lạ. Người ta đã phơi khô nó tự bao giờ.
    Bà White ngả người ra sau, le lưỡi. Nhưng cậu con ngắm nghía cẩn thận. Ông White hỏi:
    - Cái này có gì đặc biệt không?
    Trung sỹ Morris tiếp tục nói:
    - Bàn tay khỉ này có một phép màu do một vị phù thuỷ đại tài ban cho nó. Vị phù thuỷ này muốn chứng tỏ là con người ở đời ai cũng có số mệnh, và kẻ nào toan cải đổi số mệnh sẽ bị tai nạn buồn phiền. Bàn tay khỉ này có phép màu. Ba người ở đây có thể xin mỗi người một điều ước.
    Thái độ của khách lạ rất trịnh trọng nên thính giả không cười nữa.
    Cậu Herbert hỏi:
    - Tại sao ông không xin ba điều ước đó?
    Trung sỹ nhìn cậu thanh niên với đôi mắt của kẻ lớn tuổi dành cho kẻ hậu sinh. Rồi ôn tồn đáp, gương mặt tái hẳn:
    - Tôi đã có xin rồi!
    Rồi nâng ly rượu lên nốc cạn. Bà White hỏi thêm:
    - Còn có ai khác xin nữa không?
    Trung sỹ đáp:
    - Người đầu tiên được cả ba điều ước. Tôi không rõ hai điều trước là gì. Nhưng điều thứ ba là chết. Nhờ người đó chết nên tôi mới có vật này.
    Giọng nói của ông ta rất trầm buồn, nghiêm nghị thành thử mọi người trở nên im lặng.
    Ông White nói:
    - Nếu cậu đã được ba điều ước rồi thì vật này không còn giá trị đối với cậu nữa. Tại sao cậu lại giữ nó để làm gì?
    Trung sỹ lắc đầu:
    - Tôi có ý định bán nó, nhưng nghĩ lại tôi không muốn. Vì nó đã gây tai nạn cho biết bao người rồi. Vả lại không ai mua đâu, không ai tin chuyện tôi nói. Họ nghĩ thời buổi này làm gì có những chuyện hoang đường như thế. Vài người đồi thử trước rồi mới trả tiền sau.
    Ông White lại hỏi:
    - Nếu cậu được phép xin thêm ba điều khác, cậu có muốn không?
    Trung sỹ lắc đầu:
    - Tôi không biết, tôi không nghĩ tới vấn đề đó.
    Y cầm bàn tay khỉ lên xoay qua xoay lại giữa mấy ngón tay rồi bỗng ném nó vào lửa.
    Ông White kêu lên một tiếng, cúi xuống kéo nó ra thật nhanh.
    Trung sỹ trịnh trọng:
    - Nên đốt nó đi là hơn.
    Ông White lắc đầu:
    - Nếu cậu không muốn giữ nó thì cậu cho tôi.
    Trung sỹ lắc đầu:
    - Không được. Tôi ném vào lửa. Nếu ông tiếc mà giữ nó lại thì có chuyện gì xảy ra, ông đừng phiền tôi. Ông nên ném vào lửa đi cho được việc.
    Ông White lắc đầu, chăm chú ngắm vật mà ông vừa làm chủ. Một lúc sau ông hỏi:
    - Muốn ước, phải làm thế nào?
    Trung sỹ:
    - Nắm vật này trong tay mặt và lớn tiếng nói rõ những điều ước. Nhưng tôi khuyên ông hãy suy nghĩ cẩn thận lại. Nên thấy rõ những hậu quả của hành động của ông.
    Bà White kêu lên:
    - Giống như chuyện ả Rập "Ngàn lẻ một đêm".
    Bà đứng lên lo buổi ăn tối, nói đùa:
    - Đâu, ông ước cho tôi có bốn tay để làm công việc nhà nhanh chóng.
    Ông chồng lấy bảo vật trong túi ra, và cả ba người trong gia đình bật cười khi trung sỹ hốt hoảng nắm tay ông lại, dặn dò thêm:
    - Nếu ông cương quyết xin ba điều ước thì nên xin sao cho hợp lý.
    Ông White vỏ lại vật trong túi, kéo ghế mời trung sỹ ngồi xuống bàn.
    Trong khi ăn, người ta quên câu chuyện bùa chú, nhưng sau lúc ăn cả ba người ngồi quây quần bên anh quân nhân để nghe chiuện kỳ thú ở ấn Độ.
    Ông khách cáo từ, Herbert tiễn ông ra cửa rồi quay vào ngay nói với cha mẹ cậu:
    - Nếu câu chuyện huyền hoặc về cái bàn tay khỉ là chuyện bịa đặt cũng như các câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà ông ta vừa kể cho mình nghe thì mình có bảo vật đó cũng chẳng ích gì.
    Bà White nhìn chồng chăm chú rồi hỏi:
    - Ông có trả cho cậu đó chút đỉnh gì không?
    Ông chồng:
    - Của chả đáng gì. Cậu ta không thèm nữa, ném vào lửa. Tôi lượm mót, cậu ta lại khuyên tôi vứt đi.
    Cậu Herbert vẻ tin tưởng:
    - Đâu mình thử ước xem. Nếu linh ứng thì gia đình mình sẽ giàu có, tên tuổi, hạnh phúc. Ba hãy ước được làm vua. Và trước khi làm vua, ba sẽ không... thờ bà.
    Nói xong cậu chạy quanh bàn ăn vì mẹ cậu đuổi theo toan "ký" vào đầu cậu về câu nói phạm thượng đó.
    Ông White lại móc túi lấy bùa ra, nhìn nó với vẻ bán tín bán nghi, lẩm bẩm:
    - Tôi chưa biết phải ước gì đây? Kể ra thì đời tôi đầy đủ, chẳng thiếu thứ gì.
    Cậu con đến bên cạnh cha, nói:
    - Bây giờ nếu có thêm một ít tiền xài chơi chắc ba thích lắm. Vậy ba nên ước có hai trăm bạc.
    Người cha cười dễ dãi, như tự tha thứ tánh dễ tin của mình rồi cầm bàn tay khỉ đưa lên cao, vẻ trịnh trọng. Ông nheo mắt về phía bà vợ đang ngồi sau chiếc dương cầm. Bà đánh lên mấy nốt nhạc thật mạnh.
    Ông chồng dõng dạ nói to lên:
    - Tôi muốn có hai trăm bạc.
    Bà White đánh thêm mấy nốt nhạc như để phụ hoạ với lời ước ao của chồng.
    Nhưng liền sau đó ông White kêu lên:
    - ý trời đất ơi! Nó nhúc nhích!
    How beautiful live is?
  2. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Vừa lạ, ông vừa nhìn cái bàn tay khỉ đang cử động trên sàn. Ông nói tiếp:
    - Khi nãy tôi có ước là trông thấy bàn tay này nhúc nhích trong bàn tay tôi như một con rắn. Rõ ràng là điều tôi ước đã được ứng nghiệm.
    Cậu con cầm bàn tay khỉ lên, đặt trên bàn, nói:
    - Nhưng con chưa thấy có tiền, và con cam đoan là số tiền đó sẽ không bao giờ đến với ta.
    Bà vợ hoang mang bảo chồng:
    - Ông ước chuyện không hay!
    Ông chồng lắc đầu:
    - Chỉ là trò đùa thôi. Bà đừng thắc mắc. Dù sao chuyện này cũng làm cho tôi kinh sợ.
    Cả gia đình ngồi bên lò sưởi. Hai cha con ông White ngồi hút ống điếu.
    Bên ngoài gió gào dữ dội hơn bao giờ hết, cánh cửa trên lầu bị gió đập kêu rầm rầm, tiếng động đó khiến ông White lo sợ không đâu.
    Bầu không khí lạ thường bao trùm gia đình cho đến khi họ đi ngủ.
    Cậu Herbert nói:
    - Con hy vọng ba sẽ nhận được số tiền hai trăm bạc mà ba ước trong một túi lớn đặt trên giường của ba và sẽ có một cái gì ghê gớm ngồi trên nóc tủ chứng kiến lúc ba nhận số tiền đó.
    II
    Sáng hôm sau trời trong sáng, Herbert mỉm cười trước những điều lo sợ hoang đường trong đêm. Bàn tay khỉ bỏ lăn lóc trên mặt bàn trong phòng. Điều này cho thấy là báu vật lúc này không được người ta tín nhiệm, tưng tiu như trong đêm.
    Bà White nói:
    - Tôi nghĩ ông quân nhân nào cũng vậy. Họ mê tín dị đoan lắm. Vậy mà chúng mình cũng chịu khó lắng nghe. Thật là vô lý. Vào thời buổi này làm gì có những chuyện ước nguyện như vậy! Và nếu như chuyện này có thật thì số bạc hai trăm đến tay ông bằng cách nào?
    Cậu Herbert xen vào:
    - Chắc là từ trên trời rơi xuống!
    Ông White nói:
    - Cậu Morris quả quyết là các điều ước ứng nghiệm một cách tự nhiên khiến người ta nghĩ đó là sự ngẫu nhiên.
    Sau khi ăn xong, Herbert đứng lên:
    - Nếu có tiền thật thì ba hãy giữ nguyên trước khi con về. Con chỉ sợ số bạc đó sẽ biến ba thành một người hà tiện và má với con phải giữ số tiền đó cho ba.
    Bà mẹ cười trước câu nói đùa của con. Bà theo Herbert ra cửa rồi quay trở về bàn ăn. Bà có vẻ vui tươi trước thái độ dễ tin của ông chồng.
    Dù vậy khi nghe người phát thư gõ cửa, bà cũng chạy nhanh ra hy vọng có tiền. Nhưng bà chỉ nhận được giấy đòi tiền Herbert may quần áo của ông thợ may.
    Đến bữa ăn chiều, vẫn không có gì mới lạ. Bà mẹ lẩưm bẩm:
    - Chốc nữa đây thằng Herbert về, nó sẽ chế nhạo ông nhiều nữa cho mà coi!
    Ông White rót bia vào ly nói:
    - Có một chuyện lạ là bàn tay khỉ cử động khi tôi nắm nó trong tay.
    Bà vợ cười:
    - Đó là tại ông giàu óc tưởng tượng.
    Ông chồng nhấn mạnh:
    - Tôi không nghĩ mà tôi biết rõ ràng nó cử động...
    Bà vợ không đáp, bà đang nhìn một người bên ngoài đang có những cử chỉ khác thường. Ông này nhìn đăm đăm vào nhà, nhưng do dự nửa muốn vào nửa muốn không.
    Bà White thấy kẻ lạ ăn mặc đàng hoàn, đầu đội nón thật mới. Ba lần y đứng lại trước cổng rồi tiếp tục đi. Đến lần thứ tư y đứng lại, đặt tay lên cổng rồi bỗng nhiên cương quyết đẩy cửa cổng bước vào con đường đưa tới trước cửa nhà.
    Bà White vội vàng cởi khăn choàng trước ngực giấu dưới nệm.
    Bà đưa khách lạ vào phòng. Ông này có vẻ không được tự nhiên. Ông thường nhìn trộm bà và lơ đãng nghe bà giải thích vì sao phòng khách không được ngăn nắp như thường ngày.
    Bà White không dám hỏi ngay lý do cuộc viếng thăm của khách lạ. Sau cùng ông khách mới nói:
    - Thưa bà, tôi được người ta nhờ đến đây để...
    Khách im lặng một lúc rồi tiếp:
    - Tôi từ Maw và Meggins tới đây.
    Bà White giật mình, hổn hển nói:
    - Có việc gì không? Herbert có chuyện gì?
    Ông chồng xen vào:
    - Bà nên bình tĩnh. Mời ông ngồi. Chúng ta nên thong thả. Tôi nghĩ ông không mang tin dữ đến cho chúng tôi, phải vậy không?
    Vừa nói ông vừa nháy mắt với khách lạ.
    Ông khách ấp úng:
    - Tôi rất tiếc...
    Bà White vẫn không an tâm:
    - Con tôi bị thương?
    Khách lạ gật đầu, ôn tồn nói:
    - Dạ phải, cậu Herbert bị thương nặng. Nhưng cậu cảm thấy không đau đớn gì hết!
    Bà mẹ chắp hai tay lại kêu lên:
    - Cám ơn Chúa đã giúp con tôi. Chua đã...
    Bà chưa dứt lời, bỗng thấy khuôn mặt buồn thảm của khách lạ, bà bấm bàn tay chồng để giữ bình tĩnh.
    Im lặng một lúc thật lâu, khách lạ nói thật nhỏ:
    - Cậu Herbert bị kẹt trong guồng máy!
    Ông White lặp lại câu đó như một tiếng vang:
    - Kẹt trong guồng máy!
    Rồi ông nhìn ra ngoài cửa sổ, siết chặt bàn tay vợ.
    Ông nói với khách lạ, giọng thật buồn:
    - Herbert là đứa con duy nhất còn lại của chúng tôi. Nó chết rồi, chúng tôi thật là bơ vơ.
    Khách lạ ho mấy tiếng, đứng lên từ từ bước về phía cửa sổ. Ông nói:
    - Công ty phái tôi đến để tỏ lời phân ưu với ông bà về tai nạn đáng tiếc vừa qua.
    Khách nói một hơi không nhìn đôi vợ chồng già, tiếp tục:
    - Tôi chỉ là nhân viên của công ty, xin ông bà hiểu cho tình thế của tôi.
    Không ai trả lời. Gương mặt bà vợ tái xanh, đứng tròng và hơi thở của bà chỉ còn thoi thóp. Còn ông thì có vẻ xa vắng.
    Khách lạ nói tiếp:
    - Công ty Maw và Meggins không nhận trách nhiệm trong tai nạn này. Nhưng vì cậu Herbert đã giúp việc lâu năm cho công ty nên công ty quyết định gửi đến cho ông bà món tiền gọi là...
    Ông White buông bàn tay của bà vợ mà ông đang nắm, nhìn khách lạ với đôi mắt đầy kinh hãi:
    - Bao nhiêu?
    - Hai trăm bạc.
    III
    Trong nghĩa địa mới lập, rộng thênh thang, cách nhà độ hơn dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con duy nhất. Học trở về nhà sống âm thầm như hai chiếc bóng.
    Chuyện xảy ra quá nhanh chóng khiến họ ý thức được tầm quan trọng của vấn đề. Họ vẫn ở trong tình trạng chờ đợi, hy vọng một cái gì xảy ra để cho họ nhẹ bớt được phần nào gánh nặng sầu đau, quá nặng đối với hai vợ chồng già.
    Nhưng ngày lại ngày thấm thoát qua và niềm hy vọng mơ hồ của họ trở thành tuyệt vọng.
    Họ sống âm thầm. Cả ngày không trao đổi với nhau một lời, vì họ chẳng còn gì để nói. Cho nên ngày tháng đối với họ thật dài, dài không chịu nổi.
    Một tuần sau, ông White giật mình thức giấc vào lúc nửa đêm. Ông dang cánh tay ra và chỉ thấy một mình trên giường.
    Gian phòng tối đen, chỉ có tiếng khóc nghẹn ngào bên cửa sổ. Ông ngồi dậy, lắng nghe một lúc rồi bảo:
    - Bà ơi! Bà vào đây, ở đó coi chừng trúng sương, trúng gió.
    Bà vợ khóc oà lên:
    - Nhưng con tôi còn lạnh hơn tôi nhiều!
    Ông chồng vẫn còn mê ngủ, ông nằm xuống chiếc giường ấm êm, nhắm mắt lại.
    Ông đang mơ màng thì nghe tiếng bà vợ hét lên thật hãi hùng. Ông lồm cồm bò dậy thì nghe tiếng bà vợ la tiếp:
    - Cái bàn tay khỉ! Cái bàn tay khỉ!
    Ông chồng hỏi:
    - ở đâu? Để làm gì?
    Bà vợ thất thểu tiến về phía ông nói:
    - Tôi muốn thấy cái bàn tay khỉ! Ông đã thiêu hủy nó chưa?
    - Chưa. Tôi để nó ở ngoài phòng khách, trên giá đàn. Nhưng để làm gì?
    - Mình mới chỉ ước có một điều, còn hai điều nữa.
    Ông chồng kêu lên giận dữ:
    - Trời ơi! Bấy nhiêu đó còn chưa đủ sao?
    Bà vợ cũng to tiếng không kém:
    - Chưa! Tôi còn có thể ước thêm một điều nữa. Ông xuống dưới lấy lên đây. Nhanh, nghe không? Và ước cho thằng Herbert sống lại.
    How beautiful live is?
  3. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Ông White ngồi dậy, vứt mền sang một bên, hoảng hốt:
    - Trời đất! Bà có điên không?
    Nhưng bà vợ vẫn cương quyết:
    - Ông đi lấy ngay đi. Và ước cho thằng Herbert sống lại.
    Ông chồng quẹt lửa thắp ngọn nến, bảo:
    - Bà nên đi ngủ đi, bà không biết bà đang nói gì.
    Bà vợ vẫn không chịu thua:
    - Chúng ta đã có điều ước thứ nhất, tại sao lại không có điều ước thứ hai?
    Ông chồng lẩm bẩm:
    - Đó là một sự ngẫu nhiên.
    Bà cụ ré lên:
    - Ông có đi nhanh không! Và ước y như tôi nói.
    Ông chồng đành đi xuống lầu trong đêm tối, mò mẫm vào phòng khách. Đến bên lò sưởi ông thấy bảo vật vẫn nằm ở chỗ cũ. Một sự lo sợ xâm chiếm lấy hồn ông. Ông sợ ước cậu con sống lại, cậu sẽ bị tật nguyền suốt đời. Với sự lo sợ đó ông toát mồ hôi, lò mò mãi mà không trở lên lầu được.
    Nét mặt của bà vợ đổi sắc khi ông White bước vào phòng ngủ. Ông cảm thấy sợ cả bà vợ của ông.
    Bà vợ kêu lên:
    - ước đi!
    Ông ấp úng nhưng bà vợ lại quát:
    - ước đi!
    Ông White nắm tay đưa lên:
    - Tôi ước con tôi sống lại!
    Cái bàn tay khỉ rơi xuống sàn. Ông thấy nó nhúc nhích.
    Hai vợ chồng già chăm chú nhìn bảo vật một lúc, tâm trí như đặt hết tin tưởng vào phép lạ. Một lúc sau bà vợ tiến đến bên cửa sổ, vén màn lên. Bà đứng đó, nhìn ra ngoài chờ đợi cậu Herrbert sống dậy trở về.
    Ông chồng ngồi bất động trên ghế. Ông cảm thấy khí lạnh thấm vào cơ thể, nhưng vẫn ngồi yên, thỉnh thoảng liếc về phía bà vợ đang nhìn lom lom ra phía ngoài đường.
    Ngọn nến đã tàn, ném những mảnh ánh sáng chập chờn lên trần, lên tường. Cuối cùng, khi tim nến đã lụi, đốm lửa bỗng loé lên lần chót rồi phụt tắt. Ông White thấy nhẹ người khi bảo vật không đem lại lời ước thứ hai của ông. Ông trở về giường nằm. Một hai phút sau bà cụ cũng đến ngồi bên ông.
    Không ai nói với ai lời nào, cả hai nằm trong tiếng tích tắc của đồng hồ. Trong sự yên lặng của đêm, dường như có tiếng răng rắc xuất phát từ thang lầu, tiếng chuột chạy sát chân tường. Bóng tối như đè lên người khiến ông cụ ngột ngạt, khó chịu. Sau khi nằm ráng một chút để lấy can đảm, ông cụ lấy hộp quẹt, bật lửa lên, đi xuống lầu để tìm một cây nến khác.
    Đúng vào lúc đó có tiếng gõ cửa thật nhẹ, lén lút cho nên tiếng động rất nhỏ, gần như đủ lớn để cho người nghe thấy.
    Hộp quẹt rơi khỏi bàn tay ông White. Ông đến chết sững, hơi thở của ông ngưng lại cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên lần nữa. Bấy giờ ông mới quay lưng lại để chạy về phòng ngủ, đóng cửa thật nhanh.
    Một tiếng gõ cửa thứ ba vang động khắp nhà. Bà cụ giật mình kêu lên:
    - Cái gì vậy?
    Ông chồng run run đáp:
    - Chuột, một con chuột chạy lên thang lầu, suýt dẫm lên chân tôi.
    Bà cụ ngồi trên giường lắng nghe. Lại một tiếng động vang lên khắp nhà. Bà kêu lên:
    - Herbert về! Chính Herbert về.
    Bà chạy về phía cửa, nhưng chồng bà đã tới trước bà. Ông nắm tay níu bà lại, hỏi:
    - Bà định làm gì?
    Bà cụ kêu lên:
    - Herbert về! Nó là con tôi. Ông phải để tôi mở cửa cho nó vào. Buông tôi ra!
    Ông cụ run rẩy, van nài:
    - Không! Bà không nên cho nó vào!
    Bà cụ bất bình:
    - Coi kìa! Ông sợ cả con ông nữa sao? Hãy buông tôi ra. Để tôi mở cửa cho nó vào.
    Rồi bà nói to:
    - Má đây! Herbert, chờ má một chút!
    Lại thêm một tiếng, rồi hai tiếng gõ cửa. Bà vợ vùng khỏi tay chồng, chạy ra khỏi phòng. Ông chồng theo bà tới cầu thàng, dang tay bất lực gọi với theo, nhưng bà lao xuống đến tầng dưới.
    Ông nghe tiếng mở khoá và tút chốt thật khó khăn. Thế rồi tiếng bà vợ hổn hển kêu to:
    - Còn cái chốt! Ông mau xuống mở giùm đi!
    Trên lầu, ông chồng đang quỳ xuống sàn mò kiếm cái bàn tay khi. Ông cố kiếm được nó trước khi kẻ gây ra tiếng gõ cửa bước vào nhà.
    Trong khi đó tiếng gõ cửa vang dội liên tiếp như một loạt súng. Ông nghe tiếng kéo ghế mà bà vợ đặt ngay trước cửa. Ông nghe tiếng chốt cửa khua lên. Cũng trong lúc đó ông tìm được cái bàn tay khỉ.
    Hổn hển, ông nắm nó vào bàn tay, đưa lên cao nói lên lời ước thứ ba và cũng là lời ước cuối cùng.
    Đột nhiên tiếng gõ cửa ngưng ngay tức khắc, mặc dầu những tiếng động trước đó vẫn còn vọng dội vào trong nhà. Cùng lúc ông nghe tiếng ghế kéo ở phía cửa và cánh cửa mở toang. Gió lạnh lùa vào, thổi tạt lên tận cầu thang...
    Tiếng rên đầy đau đớn thất vọng của bà vợ khiến ông White có thêm can đảm để chạy xuống bên cạnh bà. Rồi như còn quán tính, ông chạy thẳng ra cổng bên ngoài. Ngọn đèn đường lù mù đối diện với ngôi nhà toả ánh sáng yếu ớt xuống con đường im vắng, không một bóng người...
    How beautiful live is?
  4. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    CON DặI TRỏđNG KHỏằ"NG Lỏằ'
    Có rỏƠt nhiỏằu chuyỏằ?n lỏĂ kỏằf vỏằ quyỏằn uy cỏằĐa cĂc vỏằp, hỏt thỏ hỏằ? này sang thỏ hỏằ? khĂc, 'ỏn cặỏằ>p phĂ.
    Trong sỏằ' nhỏằng kỏằ cặỏằ>p phĂ 'ó, có không ưt ngặỏằi là cĂc nhà Ai Cỏưp hỏằc hiỏằ?n 'ỏĂi. Hỏằ cặỏằ>p phĂ dặỏằ>i danh nghâa khoa hỏằc, nhặng 'iỏằu 'ó chỏng làm nên sỏằ khĂc biỏằ?t nào. Nhỏằng lỏằi nguyỏằn linh ỏằâng vỏằ>i tỏƠt cỏÊ nhỏằng kỏằ nào xÂm phỏĂm tỏằ>i nặĂi thiêng liêng cỏằĐa ngôi mỏằT, bỏƠt kỏằf mỏằƠc 'ưch cỏằĐa hỏằ là gơ. Có rỏƠt nhiỏằu cÂu chuyỏằ?n lỏĂ, vư dỏằƠ nhặ chuyỏằ?n kỏằf vỏằ lỏằi nguyỏằn ỏằY ngôi mỏằT cỏằĐa Tutankhamen và sỏằ' phỏưn cỏằĐa nhỏằng kỏằ cỏÊ gan xÂm phỏĂm.
    Trong nhỏằng ngày 'ỏĐu thỏ kỏằ?, giỏằ>i Ai Cỏưp hỏằc hỏt sỏằâc 'ông 'ỏÊo. Nhỏằng kỏằ 'ào bỏằ>i thuỏằTc mỏằi quỏằ'c tỏằn nhỏằng ngặỏằi 'ỏằTt tỏằư 'ỏằu có thỏằf 'Ê 'ỏằ"ng tơnh vỏằ>i 'ỏằ"ng nghiỏằ?p cỏằĐa mơnh rỏng cĂi chỏt cỏằĐa hỏằ không có liên quan gơ tỏằ>i nhỏằng 'iỏằu mê tưn dỏằ vỏân.
    Tuy nhiên, quan 'iỏằfm cỏằĐa Michael Hendry lỏĂi hoàn toàn khĂc. Sỏằ trỏÊi nghiỏằ?m quĂ kinh khỏằĐng tỏằ>i mỏằâc không còn nghi ngỏằ gơ nỏằa sỏằ trỏÊ thạ cỏằĐa cĂc tu sâ Ai Cỏưp 'Ê ỏằâng nghiỏằ?m vào ông bỏng mỏằTt cĂch thỏằâc thỏưt ghê rỏằÊn.
    Hendry không phỏÊi là chuyên gia Ai Cỏưp hỏằc mà câng chỏng phỏÊi là mỏằTt nhà khoa hỏằc. "ng vỏằ'n là ngặỏằi Ailen, sang Mỏằạ tỏằô khi còn trỏằ và 'Ê kiỏm 'ặỏằÊc lặng vỏằ'n kha khĂ tỏĂi SỏằY chỏằâng khoĂn New York vào thỏằi cỏằĐa nhỏằng tên tuỏằ.i nhặ Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bỏƠt kỏằ mỏằTt ngặỏằi buôn bĂn khôn ngoan nào câng có thỏằf trỏằY thành triỏằ?u phú - 'ó là thỏằi 'ỏĂi kinh tỏ hoỏÊ tiỏằ.n cỏằĐa Hoa Kỏằ thỏ kỏằã XIX.
    Hendry làm giàu rỏằ"i vỏằ hặu. "ng kỏt hôn vỏằ>i mỏằTt goĂ phỏằƠ già hặĂn ông hai mặặĂi tuỏằ.i. Đó không phỏÊi là mỏằTt cuỏằTc hôn nhÂn vơ vỏưt chỏƠt. "ng 'Ê rỏƠt yêu bà và bà câng vỏưy. Bà không lỏƠy ông vơ tiỏằn.
    Niỏằm say mê lỏằ>n trong cuỏằTc 'ỏằi ông là Ai Cỏưp hỏằc, mỏằTt sỏằY thưch vô thặỏằYng vô phỏĂt ỏằY nặỏằ>c Mỏằạ tỏằ do. Nhặng Mary Hendry nhanh chóng phĂt hiỏằ?n ra ngôi nhà 'ỏạp, yên tânh ỏằY Long Island, ngôi nhà bà 'Ê tỏằông ặỏằ>c ao, không phạ hỏằÊp vỏằ>i bà. Hendry thơ muỏằ'n dạng thỏằi gian cuỏằ'i 'ỏằi 'ỏằf theo 'uỏằ.i 'am mê lỏằ>n cỏằĐa mơnh và 'iỏằu 'ó 'ỏằ"ng nghâa vỏằ>i viỏằ?c sang Ai Cỏưp, 'ào bỏằ>i ỏằY nhỏằng khu vỏằc chôn cỏƠt cỏƠm kỏằi bà, chÂu ,u hay chÂu Mỏằạ 'ỏằu không quan trỏằng. Bà nghâ nên vỏằ sỏằ'ng ỏằY Ailen - quê hặặĂng ông - nặĂi 'ó, mỏằâc sỏằ'ng vào nhỏằng ngày ỏƠy câng khĂ cao, nỏu không nói là cao hặĂn ỏằY Mỏằạ.
    Nhặng chuyỏn 'i Ai Cỏưp thỏưt thú vỏằc khi chiỏn tranh thỏ giỏằ>i nỏằ. ra. Bà Hendry 'i theo cĂc 'iỏằfm du lỏằi mỏằƠc 'ưch du lỏằi ông, 'Ây là chuyỏn du lỏằi vạng 'ỏƠt cỏằĐa cĂc Pharaon. "ng vại mơnh vào viỏằ?c khai quỏưt nhiỏằu loỏĂi mỏằT ỏằY thung lâng cĂc Hoàng 'ỏ vỏằ>i niỏằm 'am mê mÊnh liỏằ?t. Hiỏằfu biỏt cỏằĐa ông 'Ê gÂy ỏƠn tặỏằÊng 'ỏằ'i vỏằ>i nhiỏằu nhà Ai Cỏưp hỏằc chuyên nghiỏằ?p và sỏằ giàu có cỏằĐa ông câng khiỏn hỏằ vỏằn cĂc cuỏằTc khĂm phĂ 'ỏằu do tặ nhÂn tỏằ bỏằ vỏằ'n và cĂc nhà triỏằ?u phú Mỏằạ luôn 'ặỏằÊc hoan nghênh, 'ỏãc biỏằ?t vỏằ>i mỏằTt ngặỏằi có kiỏn thỏằâc nhặ Hendry.
    How beautiful live is?
  5. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập, cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn xao dư luận. Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ có đẳng cấp cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào triều đại thứ tư, khoảng 4000 năm trước Công nguyên.
    Các bác sĩ nói rằng Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết của Schaffer.
    Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai Cập cho rằng chắc chắn phải có một phòng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến cho kẻ nào dám cả gan đột nhập vào.
    Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay chuyển. Hơn nữa, ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay và nếu lời nguyền của vị tu sĩ linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không mò đến.
    Vì thế, Hendry đã kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế.
    Tất cả những công nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai còn dám tới gần ngôi mộ và Hendry phải mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào phòng trong, nơi có xác ướp.
    Với sự trợ giúp của họ, Hendry đã mở tung được ba phòng và cuối cùng cũng tới được phòng chôn xác. Cánh cửa mang dấu niêm phong của Cheops - một con dơi có đôi cánh lớn. Đằng sau dấu niêm phong là nơi bất khả xâm phạm.
    Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một mình. Vào phòng trong, ông tìm thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn phòng được trang hoàng xa hoa, vì triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng, khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên, ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn còn hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của ông ta vẫn còn nguyên vẹn.
    Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình dáng như một con dơi chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết sau quá trình làm héo xác ướp. Ông nhặt nó lên, xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn.
    "Hình như," sau đó ông nói, "hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi như một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ. Ngọn đèn chỉ còn le lói. Một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ và tôi nghe thấy tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôi. Tôi đoán đó là những con dơi".
    Quá khiếp sợ, ông chạy ra khỏi phòng, trong tay nắm chặt lấy con bọ. Trước đây ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu và lúc này đây, ông chỉ muốn thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt rùng rợn của phòng huyệt, ra ngoài bầu trời trong lành. Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được.
    Ông lập tức trở lại Cairo, trong lòng còn quá hoảng sợ vì những gì đã xảy ra. Ông đã đọc được ở đâu đó rằng trong suốt thời gian trị vì, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" vì lòng sùng bái của mình. Liệu hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong phòng huyệt ? Và phòng huyệt có thể sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ. Chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở đó.
    Về tới Shepheard, ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt hoảng.
    "Michael, em lo cho anh quá. Suốt ngày nay, em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra. Cảm ơn Chúa, anh vẫn bình an".
    Hendry cũng cảm ơn Chúa. "Anh không thích nơi đó, anh sẽ không quay lại đó nữa," ông nói. "Chúng mình hãy cùng nhau xuôi sông Nile xuống Luxor. Thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta".
    Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt. Bà chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh những nơi kì bí cũng như ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó. Có lần bà nghe người ta kể rằng việc lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ chỉ mang lại toàn tai họa. Còn nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ xác ướp thì người đó nhất định phải chết.
    Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ con bọ vì ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến vậy. Ông giấu kĩ trong tư trang, không hề nói với ai, kể cả vợ mình về điều đó.
    Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile, cách Luxor không xa, ông bị một tiếng động lạ đánh thức. Hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ, trắng toát, bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít. Nó khiến ông sợ hết hồn. Ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng vòng tròn, đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn chòng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói rùng rợn. Ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế. Trong nó không giống như sinh vật ở thế giới này.
    Ông quay vào và đóng chặt cửa lều. Vợ ông nằm ngủ trên chiếc giường dã ngoại. Cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen.
    Hendry không tài nào ngủ được. Ông nằm đó, lắng nghe con dơi the thé báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoài. Có lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn tìm cách chui vào lều.
    Hendry để ý thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình. Khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra vì sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán. Liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy có ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người không ?
    Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn ra.
    Ông thấy con dơi trắng khổng lồ lượn vòng tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile, theo hướng Luxor. Ông thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã xuất phát. Bên dưới nó, đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes" do Amenhotep đệ tam cho xây cất, cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton. Nhưng giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm.
    How beautiful live is?
  6. Co_be_ben_cua_so

    Co_be_ben_cua_so Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/08/2003
    Bài viết:
    114
    Đã được thích:
    0
    Chẳng có gì liên quan giữa con dơi trắng khổng lồ với con bọ ông vẫn cố tình cất giữ cẩn thận trong đống hành lí.
    Ông quay lại lều, cố dỗ giấc ngủ. Ông thấy, từ lúc con dơi bay đi, vợ ông ngủ bình thản hơn. Còn ông đêm đó chẳng được an giấc. Ông nằm đó, trằn trọc, bị nỗi sợ hãi ám ảnh. Trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo; ở đó tối om và toàn những cảnh khủng khiếp rợn người.
    Buổi sáng ngủ dậy, vợ ông u sầu, chán nản ghê gớm, bà chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được. Bà nói rằng mình có một cơn ác mộng kinh khủng. Khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài câu, trong mơ, bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị, khác thường cứ cố săn đuổi bà.
    Bà chán ngấy Ai Cập. Đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước này. Ông đã mất gần hết lòng nhiệt thành đối với Ai Cập học nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ - kết quả thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ. Ông không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ gặp phải bất cứ hiểm họa gì.
    Họ sẽ rời Ai Cập, chuẩn bị tới Hi Lạp và sau đó tiếp tục sang ý - nơi ông thấy vẫn còn tồn tại thế giới cổ kính mà không bị bao trùm bởi những đám mây thần bí và không bị phù phép bởi các ma thuật khó hiểu của các tu sĩ.
    Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày ải, tai họa đã vây lấy họ. Kể từ đêm đó, bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ. Bà không còn vui vẻ, hoạt bát mà chìm sâu vào những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác. Bà rất ít khi ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống. lúc nào cũng muốn nằm.
    Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt chẩn đoán có vẻ hợp lý nhưng không ai thực sự tìm ra bệnh hoặc kê được đơn thuốc làm thuyên giảm bệnh tình của bà. Bà như không còn ở bên ông nữa, tự tuột ra khỏi cuộc sống. Sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong vòng vài tuần, quá nhanh đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho bà vì các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây Dương.
    Còn với Hendry, giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng. Vào một đêm, vợ ông có vẻ khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng thì ông có một giấc mơ rùng rợn, khủng khiếp.
    Ông đang đi qua một hội trường lớn, tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập khổng lồ được chạm khắc trên những công trình bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như chạy, như muốn vượt qua những căn phòng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa và ông cảm nhận rõ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn khiến ông không kìm nén được cơn buồn nôn.
    Giờ đây, những hội trường lớn Ai Cập khổng lồ được thay bằng những hành lang đá vô tận. Lúc đầu ông nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp nhưng ông rảo chân qua các hành lang ngày càng hẹp hơn và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất. Ông cũng biết mình đang bị săn đuổi. Ông không dám nhìn xung quanh nhưng ông biết rõ cái gì đang truy đuổi mình. Chính là hương thơm tỏa mùi đến phát ốm, chế ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn.
    Cuối cùng, ông cũng kết thúc được hành trình và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát. Khi đứng lên, mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn phòng càng ngày càng hẹp hơn, tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông.
    Giờ đây, ông đang nằm trên sàn, hoảng sợ tột độ, nghẹt thở vì hương thơm, hình như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên, ông mới thấy kinh hoàng - con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống, hút dần sinh khí của ông.
    Hendry tỉnh hẳn, tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi dậy, mồ hôi túa ra như tắm và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ họng.
    Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được thì khi nhìn quanh căn phòng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua, thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ.
    Ông nhảy khỏi giường, không chỉ sợ cho riêng mình. ý nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật ghê tởm ấy ra ngoài. Khi ông làm vậy, con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi trở lại phòng và con dơi cất đôi cánh lên kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển và nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng qua các ngôi nhà, bên trên các tán cây đến lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc.
    Từ phía cửa sổ, Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với phòng ông. Vừa bước vào phòng, ông vừa nhìn thẳng về phía trước, miệng gọi tên bà. Ông thấy bà nằm trên giường, trong tư thế không mấy tự nhiên như thể bị đánh thức bất ngờ. Bà không tỉnh dậy nữa. Bà nằm đó, hồn lìa khỏi xác, đôi mắt hoảng sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang phòng bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng.
    "Chứng đột tử vì tim", bác sĩ kết luận. Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc. Vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong tình trạng u uất như vậy, một giấc mơ mạnh cũng có thể giết chết bà ấy."
    Hendry vô cùng đau khổ. Ông yêu vợ và họ càng yêu nhau hơn từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt đầu xảy ra.
    Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạo. Vào ngày đưa tang vợ, ông nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại và ông phải hứng chịu thiệt hại rất lớn trong việc phá sản tiếp sau. Tiếp đến, một người bạn đáng tin cậy ở New York biển thủ 50.000 đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng nhiên chết vì cơn đột quỵ không rõ nguyên nhân.
    Trong tình trạng tuyệt vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát giờ đây cứ liên tục săn lùng ông. Nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó đến, ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng: ông nằm trong phòng huyệt của vị tu sĩ, không khí ngột ngàt toàn mùi hương ngạt ngào ấy. Căn phòng cứ hẹp vào, hẹp vào mãi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở vì hương thơm trong nỗi hãi hùng. Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần sinh lực của ông. Bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt người. Không giống những con dơi khác ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó không thuộc về thế giới này.
    Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè, những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng Hendry như đã bị bỏ bùa mê. Ông không hoàn trả nó về chỗ cũ. Ông đã mất hết mọi thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không còn có nghĩa với ông nữa.
    Ở Luân đôn, ông tham khảo ý kiến các nhà Ai Cập học và các sinh viên về chuyện huyền bí này. Đầu tiên, người ta nghi ngờ câu chuyện của ông và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều đại thứ tư, đó là thời gian trị vì của Cheops, hay Khufu gì đó và con bọ được tìm thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo có lẽ đã được đặt vào ở triều đại sau.
    Nếu thực thế, Hendry tin rằng, một thời gian sau, trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng. Và chắc họ, khi thấy ngôi mộ bị đột nhập đã niêm phong nó bằng những lời nguyền khủng khiếp, hơn thế, họ còn cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops.
    Điều huyền bí ấy đã được tìm ra, không phải nhờ các nhà Ai Cập học hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những người có thừa lòng ham mê, đầy một mớ lý thuyết nhưng không giúp được ông điều gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông không chút do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ. Nhưng Hendry không đời nào lại đi hứa làm việc đó.
    Đêm đêm, ông hoảng sợ lê bước đến bên giường và càng trì hoãn được việc đó càng lâu càng tốt. Sau những cơn ác mộng liên tiếp về dơi, ông tỉnh dậy, thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lại. Bác sĩ chẩn đoán ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn.
    Câu chuyện kết thúc tại Paris. Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường Fayette. Nửa đêm, trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ. Sáng hôm sau, người ta thấy Hendry chết cứng trên giường. Bác sĩ nói rằng ông bị đột tử vì tim ngừng đập. Người hầu phòng nói rằng, tối hôm trước, ông nhất định đóng chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ phòng ông. Nhưng khi ông chết, các cửa chớp và cửa sổ đều mở rộng.
    Người ta không tìm thấy con bọ trong đống hành lý của ông. Nó đã biến mất, và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng không xuất hiện nữa.
    Frank Usher
    How beautiful live is?
  7. xoai13388

    xoai13388 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Agatha Christie
    Chuyến tàu 16 giờ 50
    Chương một


    Bà Gilucuddy hấp tấp và hổn hển cố bước theo một người nhân viên đội vận chuyển đang vác chiếc vali to của bà lách qua đám khách hành khách chen chúc trong ga xe lửa Paddington của thủ đô London. Bà đã có tuổi, vóc lại thấp, hơi béo, nặng nề rảo bước cố gắng theo kịp nhân viên trẻ, chân dài, đang băng băng đi về phía sân ga. Đã thế, bà còn ôm xách đủ thứ lỉnh kỉnh, toàn quà Noel bà vừa mua sắm ở thủ đô.
    Sắp đến ngày lễ lớn nên hành khách rất đông, bà Gilucuddy bị xô đẩy từ các phía, cả đám khách vừa xuống tàu, cả đám khách chen lấn để ra cho kịp chuyến tàu tới, chưa kể những hành khách vây chặt các quầy ăn uống giải khát và các bàn chỉ dẫn. Được thần May Mắn phù hộ, cuối cùng bà Gilucuddy ra được đến đường sắt số 3, nơi đoàn tàu "của bà" đang đỗ, chuẩn bị xuất phát. Đó là chuyến tàu 16h50''. Đúng lúc đó, loa điện trên cao vang lên: "Chuyến tàu đi Brackhampton và Milchester sẽ chuyển bánh sau đây 4 phút".
    Thở phào nhẹ nhõm, bà khách Gilucuddy lúc này mới nghĩ đến vé. Bà vội lục trong túi xách, cuối cùng lần được nó tận dưới đáy, giữa đủ thứ vặt vãnh. Bà ngẩng lên nhìn, ngạc nhiên thấy nhân viên bốc vác đứng trước toa hạng ba. Hơi thở vẫn còn hổn hển, bà nhăn mặt khó chịu:
    - Tôi đi toa hạng nhất cơ mà, bà nói giọng đĩnh đạc.
    Không tỏ vẻ khó chịu, người nhân viên bốc vác liếc nhìn tấm áo măng tô của bà khách màu muối tiêu, may cắt theo kiểu đàn ông, lẩm bẩm nói:
    - Tôi không ngờ đấy.
    Anh ta nhấc vali đi lên và đi về phía toa hạng nhất. Cuối cùng bà đã leo lên được toa tầu. Sau khi xếp hành lý vào một căn trống, chưa có hành khách nào, bà quay lại trả tiền công kèm theo một khoản "trà thuốc" nhỏ.
    Ngồi thoải mái xong, bà Gilucuddy liếc nhìn xuống sân ga rồi lật tung trang tạp chí ra xem. Liền sau đấy, bà gục đầu, để rơi tờ tạp chí xuống sàn, thiếp ngủ. Phải đến lúc tàu phanh lại, lắc mạnh, bà mới choàng tỉnh. Nỗi mệt mỏi lúc trước đã tan biến, bà sửa lại chiếc mũ nhỏ trên đầu, lơ đãng nhìn phong cảnh lướt qua ngoài cửa sổ. Đúng ra, chỉ là những bóng đem lờ mờ, bởi mùa đông tối nhanh. Chỉ 5 ngày nữa là Noel, tuy nhiên những ánh đèn phía xa vẫn đem lại cho bà một chút vui vui.
    Một nhân viên đường sắt đi ngang qua bên ngoài lối đi, rao to, phá không khí yên tĩnh của toa tàu:
    - Đã có trà, quý khách nào dùng xin cho biết!
    Bà Gilucuddy ngập ngừng, nhớ lại đã tiêu gần cạn số tiền mang ở nhà đi trong các cửa tiệm của thủ đô London. Một linh cảm khiến bà giật mình, đưa mắt kiểm tra số hành lý vẫn còn ngổn ngang trên giá.
    Yên tâm, bà lại quay nhìn ra cửa sổ. Đột nhiên một tiếng còi tàu rú lên rung chuyển tấm kính làm bà giật mình. Tiếng bánh xe lăn ầm ầm trên đường ray, một đoàn tàu khác chạy tới trên đường ray bên cạnh. Một điều rất đặc biệt xảy ra: Hai đoàn tàu chạy song song bên nhau, cùng chiều, như thể trong một cuộc đua tốc độ, không đoàn tàu nào chịu kém đoàn nào.
    Đang nhàn tản, bà Gilucuddy tò mò ngó những hành khách trên đoàn tàu bên kia. Nhưng đêm mùa đông lạnh giá và tối tăm, hầu hết cửa sổ các toa tàu đều buông rèm, bà không nhìn thấy gì bên trong.
    Do chạy cùng chiều, cùng tốc độ, hai đoàn tàu như thể chạy chậm lại hẳn. Một tấm rèm cửa sổ ngang tầm với chỗ bà ngồi ở toa tàu bên kia bị cuốn lên khiến bà được thoả mãn trí tò mò. Nhưng cảnh tượng bà nhìn thấy bên đó làm bà thét lên một tiếng nhỏ. Bà cố đứng lên, nhưng lại rơi phịch xuống ghế đệm, thở dồn dập. Trong ngăn ở toa bên kia, một người đàn ông đứng quay lưng về phía cửa sổ, đang bóp họng một phụ nữ, rồi từ từ tàn bạo xiết chặt cổ họng chị ta. Cặp mắt người phụ nữ từ từ lồi hẳn ra, mặt đỏ xậm vì xung huyết, rồi chị ta oặt người ngã xuống. Kinh hoàng, bà Gilucuddy không sao rời mắt được cảnh tượng khủng khiếp ấy.
    Một sự ngẫu nhiên khiến đoàn tàu "16h50''" của bà chạy chậm lại và đoàn tàu "song song" kia vọt lên, biến vào bóng đêm.
    Bà Gilucuddy cố níu thành ghế, lần ra chỗ dây chuông báo động, nhưng toàn thân bà co cứng, không sao lê chân được. Đúng lúc đó, cửa căn phòng giường nằm của bà mở ra, nhân viên soát vé vào:
    - Xin mời quý khách vui lòng cho xem giá.
    Bà Gilucuddy cố gắng lắm mới thốt lên được, giọng bà hổn hển, đứt quãng:
    - Một? người phụ nữ?. bị bóp cổ?trong đoàn tàu vừa chạy qua đây? Tôi nhìn thấy rõ.
    "Lại một bà già hoang tưởng", hẳn người nhân viên thầm nghĩ như vậy. Anh ta nhìn bà khách bằng cặp mắt nghi ngờ:
    - Một người phụ nữ bị bóp cổ? anh thản nhiên hỏi lại.
    "Anh ta không tin", bà Gilucuddy thầm nghĩ.
    - Đúng thế! Tôi đã nhìn thấy! Chính mắt tôi nhìn thấy, ông phải làm cái gì ngay đi!
    Người nhân viên khẽ ho, thản nhiên hỏi:
    - Quý bà vừa ngủ phải không? Rất có thể quý bà tưởng tượng đấy thôi?
    Bà Gilucuddy không để cho anh ta nói hết câu:
    - Quả thật tôi có ngủ thiếp đi một lúc, nhưng nếu ông cho rằng tôi ngủ mê thì hoàn toàn không phải. Tôi nhìn thấy thật! Cam đoan với ông là tôi nhìn thấy thật!.
    "Thì ra bà ta có ngủ và đấy là một giấc mê", người nhân viên kiểm soát vé thầm nghĩ và nói:
    - Vậy thì quý bà tưởng tượng ra đấy! Chắc quý bà đọc một câu chuyện hình sự và tưởng tượng ra là nhìn thấy cảnh giết người thật. Những chuyện hình sự đó dễ gây ấn tượng mạnh lắm.
    Bà khách lại ngắt lời người nhân viên:
    - Tôi không tưởng tượng! Tôi không mê. Tôi rất tỉnh. Hoàn toàn tỉnh táo! Tôi nhắc lại, tôi nhìn qua cửa sổ sang đoàn tàu vừa chạy ngang bên kia, thấy rõ một người phụ nữ bị giết bằng cách bóp cổ. Tôi nghĩ là ông phải thi hành biện pháp nào đi chứ!
    Người nhân viên đường sắt vẫn không tin. Anh ta thở dài liếc nhìn đầu hồ:
    - Thôi được! Chỉ 7 phút nữa, đoàn tàu chúng ta sẽ đỗ ở ga Brackhampton. Quý bà chịu khó nán đợi. Mà đoàn tàu quý bà vừa nói đến chạy theo hướng nào?
    - Tất nhiên là cùng hướng với đoàn tàu này. Bởi nếu chạy ngược chiều với chúng ta thì làm sao tôi lại nhìn thấy rõ ràng như thế?
    Người nhân viên đường sắt vẫn tin rằng bà khách tưởng tượng ra, nhưng anh ta thận trọng, không làm mất lòng khách.
    - Quý bà hãy tin ở tôi. Tôi sẽ báo cáo điều quý khách nhìn thấy với người có trách nhiệm. Xin bà vui lòng cho biết họ tên và địa chỉ, được không ạ? Chỉ đơn giản để nếu trường hợp?
    Không đợi người nhân viên nói hết câu, bà Gilucuddy cho anh ta biết tên, họ và địa chỉ của bà tại nơi bà định lưu lại vài ngày tới, cả địa chỉ thường trú của bà ở Scotland.
    Ghi vào sổ tay, nhân viên đường sắt bước ra đóng cửa văn phòng lại, vẻ mặt hài lòng là đã giải quyết khôn ngoan một vụ "hoang tưởng" của khách đi tàu. Trong cương vị này, anh ta đã gặp biết bao trường hợp khách đi tàu tưởng tượng ra đã "nhìn thấy" đủ thứ quái đản.
    Về phần mình, bà Gilucuddy vẫn chưa yên tâm. Liệu người nhân viên đường sắt kia có làm đúng như lời anh ta nói với mình không? Hay anh ta chỉ nói cốt để đối phó. Tất nhiên nhiều bà khách có tuổi, nhút nhát, khi ngồi trên tàu rất dễ tưởng tượng ra đủ mọi thứ chuyện khủng khiếp. Thậm chí có bà kêu ầm lên là vừa nhìn thấy một đĩa bay của người ngoài hành tinh. Anh nhân viên soát vé này đã gặp nhiều trường hợp khác như thế và anh ta tin rằng bà khách hôm nay cũng là một trong những trường hợp như vậy.
    Bà Gilucuddy đã nhìn thấy bên ngoài cửa sổ những ánh đèn rực rỡ như sao sa của một thành phố lớn. Tàu đến Brackhampton! Bà Gilucuddy mở xách tay, lấy giấy bút và một tờ giấy, viết ra vài dòng rồi gấp tờ giấy nhét vào phong bì, là thứ bà thường xuyên mang sẵn theo người, đề phòng khi cần đến.
    Đúng lúc đó, đoàn tàu chạy chậm lại rồi đỗ hẳn vào một bên ga sáng choang ánh đèn và đông kín người. Bà Gilucuddy lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ. Trên sân ga, hành khách thì quá nhiều và nhân viên khuân vác lại quá ít. Bà đã bắt đầu thất vọng thì chợt nhìn thấy một nhân viên khuân vác đi về phía mình.
    Bà Gilucuddy gọi to:
    - Anh kia, lại đây tôi nhờ. Anh vui lòng chuyển giúp chiếc phong bì này ngay cho ông trưởng ga! Và anh nhận cho một hào gọi là tiền trà thuốc.
    Trao lá thư và đồng hào xong, bà khách cảm thấy mệt rũ, bà ngồi phịch xuống ghế. Bà Gilucuddy không phải là người dễ bị kích động, nhưng cảnh tượng nhìn thấy lúc nãy trong đoàn tàu bên cạnh khiến bà đến giờ vẫn còn thấy run rẩy. Tuy nhiên, bà thầm nghĩ mình chẳng thể làm gì hơn, dần dần hình ảnh kia mờ dần trong óc bà. Bà chợt nghĩ đến số tiền "trà thuốc" bà vừa đưa người nhân viên khuân vác. Lẽ ra chỉ cần một nửa số tiền đó là đủ, bà thầm tiếc rẻ. Để khỏi phải ân hận chuyện đó, bà chuyển sang tiếp tục suy nghĩ về tấn thảm kịch lúc này.
    Sự ngẫu nhiên quả là kỳ lạ. Sao đúng lúc đó thì gió thổi cuốn tấm rèm lên khiến bà nhìn rõ mọi chuyện diễn ra trong ngăn của đoàn tàu bên kia? Và chỉ một mình bà! Không một ai khác nhìn thấy. Số phận đã định bà là nhân chứng duy nhất của vụ án này.
    Nhưng trên sân ga đang ồn ào náo nhiệt. Các cửa lên toa tàu ầm ĩ khép lại. Một hồi còi rú lên và đoàn tàu lại tiếp tục chuyển bánh, từ từ ra khỏi ga.
    Một giờ sau, tàu đỗ ở ga Milchester. Bà Gilucuddy vội vã chuẩn bị hành lý để xuống. Bà đứng lại, chờ nhân viên khuân vác. Lát sau bà đi theo người khuân vác hành lý đi ra khỏi ga. Một chiếc taxi đã đợi bà ngoài cửa ga.
    Người lái xe bước ra:
    - Bà là phu nhân Gilucuddy phải không ạ? Tôi được thuê bà đến thị trấn Mary Mead.
    Vali, các hộp gói lỉnh kỉnh được nhét vào khoang xe hẹp. Xe lao đi trong đêm: quãng đường sắp tới dài 15 cây số. Ngồi trong xe, bà Gilucuddy không sao bình thản được. Đầu óc bà vẫn rối mù, mọi ý nghĩ ngổn ngang. Cuối cùng bà nhận ra xe đang chạy trên phố chính của thị trấn quen thuộc. Xe taxi đỗ lại.
    Tim đập rộn ràng, bà Gilucuddy bước ra, theo sau là người lái xe xách vali. Bà bước nhanh trên lối đi dẫn đến một ngôi biệt thự đồ sộ. Một bà người làm, tuổi trung niên, vồn vã đón bà. Bà chỉ kịp đáp lại "Chào chị" rồi đi nhanh vào gian tiền sảnh. Một bà phu nhân già vẻ ốm yếu, đang đứng chờ ở phòng khách:
    - Chị Gilucuddy thân mến!- bà chủ nhà reo lên mừng rỡ. Nhưng không sao vẻ mặt chị căng thẳng thế kia? Có chuyện gì chăng?
    Chưa kịp ôm hôn bà bạn thân thiết, bà khách đã vừa hổn hển vừa nói:
    - Chị Marple, tôi vừa chứng kiến một vụ án mạng!

    XOAI
  8. xoai13388

    xoai13388 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Chương hai


    Trung thành với nguyên tắc mà mẹ và bà đã giáo dục, cụ thể là, một phụ nữ quý tộc trong bất cứ trường hợp nào cũng không được tỏ thái độ sửng sốt, thậm chí ngạc nhiên, bà Marple chỉ khẽ dướn đôi lông mày, gật gù nhẹ mái đầu.
    Bà nói:
    - Nhìn thấy tận mắt cảnh tượng như thế, chị chấn động là phải, Gilucuddy thân mến! Nhưng chị có thể kể tỉ mỉ toàn bộ cho tôi nghe bây giờ được không?
    Thì đó cũng chính là điều bà Gilucuddy đang muốn làm. Để bà bạn ngồi chiếc ghế nệm bên lò sưởi ấm áp, bà Gilucuddy tháo đôi găng tay, bắt đầu kể, giọng vẫn còn thảng thốt.
    Bà Marple lặng lẽ, nín thở chăm chú lắng nghe. Nghe xong, bà mới cố ghìm cơn cảm xúc, thở ra thật nhẹ, rồi mới nói, giọng kiên quyết:
    - Chị Gilucuddy thân mến, tôi nghĩ tốt nhất là chị cần lên phòng nghỉ ngơi. Vào đấy, chị có thể tháo mũ, rửa mặt mũi, rồi xuống ăn tối. Ta tạm gác tất cả các câu chuyện này, bàn bạc kỹ lưỡng mọi khả năng xem thế nào.
    Bà Gilucuddy tán thành.
    Thế là trong bữa tối, đôi bạn trò chuyện hàn huyên, bình luận về cuộc sống đang diễn ra trong thị trấn Mary Mead này. Trong câu chuyện bà Marple kể có chuyện về một vụ tai tiếng mới xảy ra gần đây về cách xử sự của bà vợ ông chủ hiệu thuốc tây và câu chuyện về cô giáo trường tiểu học phản đối nhà chức trách địa phương. Lát sau câu chuyện chuyển sang bình phẩm về thời tiết khắc nghiệt mùa đông năm nay. Nhưng trong khi trò chuyện, khách vẫn còn có vẻ bồn chồn, không tập trung hoàn toàn vào câu chuyện. Thấy vậy, bà Marple chủ nhà bèn mời bạn sang phòng khách, ngồi bên lò sưởi, rồi bà bước đến tủ rượu, lấy ra một chai pha lê chạm trổ tinh vi và hai chiếc ly.
    - Tôi không muốn chị dùng cà phê! - bà Marple nói: Thần kinh chị đã căng thẳng quá mức rồi. Tôi muốn chị nhấp một chút rượu anh thảo tôi tự ngâm lấy, rồi sau đó dùng một tách nước sắc cam túc.
    Bà Gilucuddy ngoan ngoãn tuân theo. Nhưng nhấp xong một ngụm chất an thần quả là khó nuốt, bà không nhịn được hỏi luôn:
    - Marple, chị không nghĩ là tôi tưởng tượng ra tất cả câu chuyện đấy kia chứ? Hay chị cho tôi là đã tưởng tượng?
    - Tất nhiên tôi không cho là chị tưởng tượng, bà Marple chân thành đáp.
    Khách thở phào nhẹ nhõm:
    - Nghe chị nói thế tôi thấy nhẹ cả người, vì từ lúc người nhân viên soát vé nói, tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng nhẽ không ai tin là tôi đã nhìn thấy thật hay sao? Tất nhiên anh nhân viên đường sắt kia nói năng rất lịch sự, nhưng tôi thấy rõ anh ta không tin? anh ta?
    Bà Marple lấy giọng dịu dàng ngắt lời bạn:
    - Nên thông cảm với anh ta. Chị phải công nhận là câu chuyện của chị, mới thoạt nghe, người ta dễ nghi là không có thật. Nó có vẻ quá quái đản. Hơn nữa anh ta đã biết chị là ai đâu?
    Bà Gilucuddy lại lộ vẻ bực bội.
    Bà Marple liền nói tiếp:
    - Câu chuyện kỳ quái, nhưng trên cõi đời này, thiếu gì chuyện kỳ quái như thế! Nghe chị kể, tôi chợt nhớ có một lần tôi đã chứng kiến một cảnh tượng xảy ra đúng trong một đoàn tàu chạy song song với đoàn tàu của tôi. Một đứa bé gái chơi với con gấu bông, bỗng quăng con gấu, trúng vào đầu một ông già đang thiu thiu ngủ, khiến ông ta choàng tỉnh dậy và nổi cáu. Tôi đã tận mắt chứng kiến câu chuyện xảy ra giữa ông và đứa bé, cùng thái độ của những người ngồi gần đó. Đang rỗi rãi, tôi quan sát kỹ đến mức có thể kể lại hình dạng, quần áo từng người, họ đã nói gì và thái đội ra sao, chính xác một trăm phần trăm. Chị Gilucuddy này, chị bảo gã đàn ông đó đứng quay lưng về phía chị, nghĩa là chị không thấy rõ mặt y phải không?
    - Đúng thế, tôi không nhìn được mặt gã.
    - Còn người phụ nữ? Chị thấy hình dạng chị ta chứ? Trẻ hay già?
    - Khá trẻ. Khoảng ba mươi, ba mươi nhăm gì đó. Tôi khó nói được chính xác.
    - Đẹp không?
    - Làm sao tôi biết? Lúc đó mặt cô ta méo xệch, lưỡi thì lè ra?
    - Măng tô bằng lông thú, nhưng tôi thấy có vẻ cũ vì màu đã bạc. Không đội mũ, tóc vàng.
    - Tuy gã đàn ông không quay mặt về phía chị, nhưng chị có nhận xét thấy đặc điểm nào của gã không?
    Bà Gilucuddy suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp:
    - Gã cao lớn. Tóc đen, hình như thế. Tấm măng tô hắn mặc rất dày nên không đoán được khổ vai.
    Bà thở dài, thất vọng nói thêm:
    - Mấy chi tiết đó quá ít ỏi, chẳng giúp ích được gì mấy!
    - Chị đừng nghĩ thế, bà Marple trấn an ban. Mấy chi tiết đó không phải không có giá trị đâu. Đợi sáng mai, chúng ta sẽ còn biết thêm nữa.
    - Sáng mai?
    - Đúng thế! Tôi đoán báo chí sáng mai sẽ đưa tin về vụ việc này. Bởi giết người thì không khó, nhưng cái khó là làm sao thủ tiêu được cái xác. Tôi đoán sau khi gây án, hung thủ tất phải xuống ngay chỗ ga tàu đỗ gần nhất? Mà là toa giường ngủ phải không?
    - Không!
    - Nghĩa là không phải tàu chạy chặng xa. Dù sao thì chắc chắn ga tàu đó đỗ liền sau đấy là ga Brackhamton. Ta đặt khả năng, hung thủ bỏ lại xác nạn nhân ở một góc kín đáo trên toa tàu, rồi xuống ga, không quên dựng cổ áo măng tô lên che mặt, cốt để không ai nhìn thấy mặt hắn? Chà, tôi tin là sự việc đã diễn ra đúng như tôi đoán. Nếu vậy, sớm muộn người ta cũng tìm thấy thi thể nạn nhân. Tôi tin rằng chuyện một phụ nữ bị giết trên toa tàu hỏa, các báo chí không đời nào bỏ qua. Rồi chúng ta sẽ thấy!
    Sáng hôm sau, không một tờ báo nào nói đến vụ án mạng. Thấy vậy, lúc ăn điểm tâm, đôi bạn già chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man, không ai nói lên một lời. Sau bữa điểm tâm, họ ra vườn dạo chơi, nhưng niềm thích thú mọi khi hôm nay không còn. Quả thật bà Marple có chỉ cho bạn thấy mấy cây hoa đẹp, nhưng bản thân bà cũng không thiết tha là bao.
    Hai người lặng lẽ một lúc rồi đột nhiên bà Gilucuddy đứng lại, nhìn thẳng vào mắt bạn:
    Vậy theo chị, ta nên làm thế nào bây giờ?
    Câu hỏi đơn giản, nhưng chứa đựng cả một nỗi băn khoăn lớn lao. Bà Marple không đoán lầm.
    - Tôi còn đang nghĩ, bà đáp.
    Bà Gilucuddy khẽ rùng mình,
    Thấy vậy, bà Marple nói tiếp:
    - Tôi tính tốt nhất ta ra đồn cảnh sát trình bày toàn bộ câu chuyện với trung sĩ Cornish. Anh ta rất thông minh, biết kiên nhẫn lắng nghe, lại rất quen biết tôi. Tôi tin Cornish sẽ báo cáo lên cấp trên toàn bộ câu chuyện này.
    Thế là sau đấy 45 phút đồng hồ, hai bà đứng trước một người đàn ông khoảng 30-40 tuổi, khuôn mặt sáng sủa, thái độ niềm nở, nhưng vẫn giữ vẻ nghiêm túc.
    - Chào bà Marple! Bà cần tôi giúp gì đây?
    - Tôi muốn ông lắng nghe câu chuyện của bà bạn tôi, bà Gilucuddy.
    Lời đề nghị được trung sĩ chấp nhận ngay.
    Nghe xong, viên trung sĩ im lặng suy nghĩ một lúc lâu. Anh kín đáo chăm chú quan sát người kể chuyện và anh tin bà Gilucuddy này không thuộc loại phụ nữ nhẹ dạ, dễ bị cuốn theo các thứ hoang tưởng. Hơn nữa, bà Marple tỏ vẻ rất tin vào bà bạn mà trung sĩ thì đã biết rất rõ bà. Bà Marple không phải là người nông nổi. Không cứ anh mà cả thị trấn Mary Mead này biết rõ tính tình bà: Bên ngoài có vẻ sởi lởi, thật ra bà rất hiểu biết và có nghị lực.
    Viên trung sĩ cảnh sát ho nhẹ một tiếng thông cổ họng rồi nói với bà Gilucuddy:
    - Tất nhiên có thể bà nhìn nhầm, nhưng tôi không tin là như thế. Dù sao, đó mới chỉ là môt khả năng. Đôi khi hành khách ngồi trên tàu dễ buồn chán, thả cho trí tưởng tượng bay bổng. Cho nên cũng có khả năng điều bà nhìn thấy không phải là chuyện trầm trọng như bà nghĩ.
    Câu nói đó làm bà Gilucuddy bực bội:
    - Tôi biết tôi nhìn thấy gì chứ!, bà chua chát nói.
    "Vậy là bà ta không chịu buông xuôi sự việc này, viên trung sĩ thầm nghĩ. "Mà bản thân mình cũng phải thận trọng, nhưng mình vẫn cảm thấy bà này nói có lý".
    Nghĩ như vậy, nhưng khi nói ra miệng, anh ta lại tỏ ý nghi hoặc:
    - Bà đã báo nhà ga và vừa rồi bà đã tường trình cho tôi. Theo đúng nguyên tắc, chúng tôi sẽ tiến hành điều tra theo đúng trình tự. Bà có thể tin ở tôi là cuộc điều tra sẽ được tiến hành.
    Mãn nguyện, bà Marple nghiêng đầu lịch sự cảm ơn. Bà Gilucuddy, tuy không chia sẻ niềm lạc quan ấy, nhưng cũng không nói gì.
    Viên trung sĩ Cornish nói tiếp. Lần này anh ta hướng về phía bà Marple. Không phải để nghe những gợi ý, mà để biết bà này nghĩ thế nào về toàn bộ câu chuyện.
    - Căn cứ vào tất các sự kiện kia, theo bà thì thi thể nạn nhân hiện ra sao?
    Bà Marple đáp ngay, không hề ngập ngừng:
    - Tôi nghĩ có hai khả năng. Tất nhiên cách đầu tiên hiện ra trong trí óc hung thủ là giấu thi thể nạn nhân vào một góc nào đó trên tàu, nhưng chuyện đó không thể có, vì nếu vậy, đến ga cuối cùng, khi làm vệ sinh các toa, nhân viên đường sắt tất phải phát hiện thấy cái xác.
    Trung sĩ Cornish làm một cử chỉ tán thành.
    Bà Marple nói tiếp:
    - Do đấy, thủ phạm chỉ còn một cách duy nhất, đẩy thi thể nạn nhân ra khỏi tàu giữa lúc tàu đang chạy. Vậy thì xác người phụ nữ kia ắt phải nằm bên cạnh đường ray, khốn nhưng cho đến nay chưa ai nhìn thấy. Theo tôi phán đoán thì ngoài cách ấy ra hung thủ không còn cách nào khác để giấu xác chết.
    Lúc này bà Gilucuddy mới lên tiếng:
    - Người ta đã từng nói đến những xác chết giấu trong hòm xiểng. Nhưng thời nay hành khách không mang hòm mà xách va li. Mà va li nhỏ như thế, thì làm sao có thể nhét thi thể một con người vào được?
    Viên trung sĩ suýt bật cười, nhưng vì lịch sự anh ta cố nén lại:
    - Tôi đồng ý với cả hai bà. Nếu như có xác chết, thì lúc này người ta đã phải phát hiện ra rồi, nếu không thì cũng chỉ chờ vài hôm nữa thôi. Dù sao, tôi cũng xin hứa với hai bà là biết được gì thêm về vụ này tôi sẽ báo hai bà biết ngay. Nhân đây tôi thấy cần nêu thêm một khả năng: Tuy bị bóp cổ nhưng người phụ nữ kia không chết. Và không phải không có khả năng bà ta đã ra khỏi tàu.
    - Nếu vậy ắt phải có người giúp, bà Marple nói. Và nếu như thế, khách đi tàu không chỉ chú trọng ý đến tình trạng chị ta, mà chú ý cả người dìu chị ta. Và khi đó, anh ta sẽ trả lời rằng chị ta bị ốm.
    - Bà hoàn toàn có lý, trung sĩ Cornish nói. Và nếu người ta phát hiện có người đau nặng hoặc bất tỉnh trên tàu, họ sẽ gọi cấp cứu, đưa chị ta đến bệnh viện ngay. Khi đó cảnh sát sẽ được thông báo. Cho nên chỉ ngày mai, hai bà sẽ được nghe đăng tin về vụ việc này.
    Nhưng đến hết ngày hôm ấy, vẫn không nghe thấy có tin tức gì hơn. Cả hôm sau cũng thế. Rồi chập tối ngày thứ ba, bà Marple nhận được thư của trung sĩ Cornish:
    Một cuộc điều tra kỹ lưỡng đã được tiến hành xung quanh vụ việc bà kể tôi nghe, nhưng không đem lại kết quả nào. Người ta không thấy một xác chết nào. Không bệnh viện nào đã tiếp nhận một phụ nữ như hai bà vừa kể. Người ta cũng không tìm thấy dấu vết nào của một người ra khỏi ga có người khác dìu đi. Xin bà tin rằng mọi việc tìm kiếm có thể tiến hành đều đã được thực hiện. Tôi nghĩ đến khả năng, có thể bà bạn của bàn nhìn thấy cảnh tượng như thế, nhưng sự thật không đến nỗi trầm trọng như bà ấy tưởng chăng?

    XOAI
  9. xoai13388

    xoai13388 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Chương ba


    Vớ vẩn, làm như trò đùa ấy, bà Gilucuddy kêu lên giận dữ. Đây là một vụ án mạng một trăm phần trăm!
    Nói xong bà quay sang nhìn bà bạn bằng cặp mắt nghi ngờ, mặc dù bà Marple thản nhiên.
    Bà Gilucuddy nói tiếp, không giấu giếm nỗi bực bội:
    - Marple, chị nói thẳng ra. Chị cũng cho là tôi nhìn nhầm chứ gì? Hoặc chị cho là tôi đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó? Chị nói thật đi, Marple! Thật lòng chị cho là thế nào?
    Bà Marple đĩnh đạc nói:
    - Bất cứ ai cũng có lúc lầm. Đúng thế, bất cứ ai, kể cả chị Gilucuddy. Nhưng tôi vẫn tin rằng trong trường hợp này chị không lầm. Khốn nhưng bây giờ chị không còn cách nào nữa.
    Nếu bà Gilucuddy đang trong tâm trạng điềm tĩnh, hẳn bà đã chú ý đến chữ "chị" được nhấn mạnh kia.
    - Chị đã báo cho trưởng ga, rồi trình bày toàn bộ sự việc cho cảnh sát, đúng thế không nào?
    Trái với sự chờ đợi của bà Marple, bà bạn chỉ im lặng.
    Lát sau bà Gilucuddy nói:
    - Về một mặt nào đó, nhận định của chị làm tôi đỡ áy náy. Bởi chị biết đấy, sau lễ Noel này tôi sẽ đi Ceylan ngay. Tôi hoàn toàn không muốn hoãn chuyến đi mà tôi mong đợi lâu nay. Nhưng chị đã thừa biết tính tôi đấy, khi thấy bổn phận phải làm một việc gì đó, bao giờ tôi cũng gạt mọi trở ngại để cố làm tròn.
    - Tôi biết tính chị chứ, Gilucuddy, nhưng tôi nhắc lại, chị ở lại đây cũng chẳng ích gì.
    - Điều này phụ thuộc vào cơ quan cảnh sát. Và nếu họ cố tình ngu xuẩn...
    - Chị bạn thân mến, cảnh sát không ngu xuẩn đâu. Điều họ cần biết là sự thật diễn ra như thế nào.
    Vẻ ngạc nhiên trên mặt bà Gilucuddy chứng tỏ bà chưa thấy hết tầm quan trọng của lời nhận xét kia. Nhìn thấy bạn như vậy, bà Marple hiểu ra rằng bà bạn mình tuy sống rất nghiêm túc, nhưng lại thiếu óc tưởng tượng.
    Bà Gilucuddy một lần nữa bực tức ngắt lời bạn:
    - Nhưng rõ ràng một người phụ nữ đã bị giết.
    - Đồng ý! Nhưng kẻ giết người là ai? Vì động cơ gì? Và hiện nay xác chị ta đang ở đâu?
    - Tìm hiểu nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của cảnh sát.
    - Đúng thế! Nhưng hiện nay họ chưa tìm ra. Do đấy chúng ta có thể nhận định: Hung thủ hết sức khôn ngoan! Hết sức! Tôi có thể suy ra như thế này. Gã đàn ông đã giết chị ta trong một cơn giận dữ, y không ghìm được, có nghĩa y không có chủ định giết người từ trước. Tôi đoán là như thế, bởi nếu y suy tính cẩn thận từ trước, hẳn không đời nào y giết người đúng vào lúc chỉ vài phút nữa tàu đến ga. Tôi cho rằng giữa hung thủ và nạn nhân đã diễn ra một cuộc cãi lộn ghen tuông và đến lúc không ghìm nổi, y mới gây án.
    Bà Marple cau mày suy nghĩ. Bà mải suy nghĩ đến mức bà Gilucuddy gọi hai lần mà bạn vẫn không nghe thấy.
    - Tai chị điếc hay sao đấy?, bà Gilucuddy kêu lên.
    - Có thể! Tôi cảm thấy thời nay người ta không phát âm rành rọt như xưa nữa. Nhưng sẽ không đúng nếu chị bảo tôi không nghe thấy chị nói. Đúng ra tôi không muốn nghe.
    Hơi tự ái, bà Gilucuddy nói tiếp:
    - Tôi chỉ định hỏi chuyện khác: Về tàu đi London. Liệu tôi đáp chuyến tàu trưa, tôi có đến kịp để dùng bữa phụ giữa buổi chiều với bà chị họ của tôi được không?
    - Nếu vậy tôi khuyên chị nên đáp chuyến tàu 12h15''. Như thế chị vẫn kịp dùng bữa trưa ở đây với tôi. Tất nhiên tôi sẽ bảo chị nấu bếp chuẩn bị bữa ăn sớm hơn thường lệ một chút.
    - Được đấy, nhưng?
    Muốn chặn trước sự từ chối, bà Marple nói ngay:
    - Tôi không muốn biết bà chị họ liệu có bực mình nếu thấy chị đến không kịp bữa ăn phụ buổi chiều không?
    Bà Gilucuddy lo lắng nhìn bạn:
    - Chị nói thế nghĩa là sao?
    - Bởi tôi đang nghĩ, có lẽ tôi nên cùng đi London với chị. Sau đó, hai chúng ta sẽ đi ngược lại chặng đường từ ga Paddington đến thành phố Brackhamton. Ta sẽ ngồi trên đúng chuyến tàu chị đã đi hôm qua để đến đây. Sau đó, chị cứ chuyển tàu tiếp tục lên thủ đô, còn tôi quay trở lại đây một mình... Tôi xin nói thêm là chị cho tôi cho tiền vé được không?
    Bà Marple một mực nài nỉ về điều đề nghị này. Bà biết tính bạn mình bao giờ cũng sòng phẳng. Tuy nhiên ý định đi một chuyến tàu nữa làm bà Gillicuddy ngạc nhiên. Bà hỏi:
    - Chị định đi như thế là nhằm mục đích gì? Để chứng kiến một vụ án mạng nữa hay sao?
    - Tất nhiên là không rồi. Nhưng thú thực tôi muốn kiểm nghiệm trên thực tế điều chị đã kể tôi nghe... biết nói với chị thế nào đây? Thôi tôi nhớ ra rồi: Tôi muốn nhìn thấy khung cảnh xảy ra vụ án.
    Thế là hôm sau, khi đến ga Paddington - London, đôi bạn già vội vã xuống rồi lại lên chuyến tàu 16h50 kia. Chỉ có hai người ở trong căn phòng của toa hạng nhất, họ ngồi đối diện nhau, mỗi người một góc phòng.
    Lần này không có đoàn tàu nào chạy song song bên cạnh. Chốc chốc lại có một đoàn tàu từ phía London tới, lao vun vút vượt lên rồi mất hút vào bóng đêm. Mỗi lần thấy có tiếng ầm ầm bên cạnh, bà Gillicuddy, mắt chăm chú nhìn đồng hồ tay, lại giật mình nhỏm dậy. Lát sau bà quyết định đáp lại cặp mắt dò hỏi của bà bạn:
    - Tôi rất khó nói chính xác giờ đến lúc mỗi ga, bởi tôi phải nhìn kỹ mới nhận được ra.
    Bà Marple nói:
    - Năm phút nữa tàu sẽ đến ga Brackhamton.
    Đúng lúc đó nhân viên soát vé mở cửa phòng bước vào. Bà Marple đưa mắt nhìn bạn, nhưng bà Gillicuddy ra hiệu ý nói không phải người nhân viên hôm trước. Bấm lỗ vào tấm vé xong, người nhân viên bước ra, loạng choạng vì đường tàu đi vào một đoạn đường vòng cung.
    - Ga Brackhamton kia rồi, bà Marple nói.
    Đúng thế, đoàn tàu đang giảm tốc độ chỗ đường tránh. Cau có, bà Gillicuddy nói:
    - Cuộc đi thế này là vô ích. Hay chị thấy thêm được gì chăng chị Marple?
    - Tôi e là không thấy thêm được gì, bà Marple đáp, giọng ngập ngừng.
    - Thế là phí tiền vô ích! Bà Gillicuddy nhăn mặt.
    Bà không nói câu này nếu như bà bạn không nhất quyết từ chối nhận cho bà chi một nửa tiền vé.
    Đoàn tàu chạy vào nhà ga lớn này một cách bình thường, giống hệt như mọi khi: vẫn tiếng cửa mở toa ầm ầm, tiếng người huyên náo chen chúc nhau. Nhìn quang cảnh này, bà Marple nảy ra nhận xét: Tình trạng nhốn nháo như thế này thì một người dễ dàng trà trộn vào đám đông, rồi lẻn ra cửa ga, thậm chí lên một toa khác cũng không ai biết. Nhưng còn xác chết thì y giải quyết bằng cách nào mà bỗng nhiên mất tăm như thể bốc thành khói bay lên trời vậy? Nhận xét thứ hai: Nếu người ta không thấy xác chết trong toa tàu nơi xảy ra vụ án, có nghĩa nó đã giấu được ở một nơi không ai ngờ tới.
    Lúc xuống sân ga để lên chuyến tàu đi thủ đô London, bà Gillicuddy chia tay với bạn:
    - Viết thư cho tôi nhé, Marple. Nhưng chị nên nhớ một điều là chị không còn trẻ trung gì đâu, đừng lao vào cuộc phiêu lưu nào nữa!
    Trong lúc nhìn theo bà bạn đi xa dần, bà Marple ngắm nghía dáng đi đường bệ của bạn. Gillicuddy lên đường sang Ceylan với một lương tâm thanh thản. Chị ấy đã làm tròn bổn phận của mình và không phải áy náy gì nữa.
    Sau khi tàu chuyển bánh, bà thu mình vào góc phòng, vẫn không thấy thanh thản. Bà miên man suy nghĩ. Bà đang đứng trước một băn khoăn cần giải quyết: phải xử sự thế nào đây? Lạ một nỗi là bà có cảm giác, giống như bạn bà lúc trước, đó là phận sự kia bà có bổn phận phải làm tròn.
    Quả là chị Gillicuddy cho rằng hai người đã làm tất cả những gì có thể làm. Mà về phía chị ấy như thế là đúng. Nhưng khi suy nghĩ kỹ, bà Marple lại thấy mình không thể như vậy. Bà cảm thấy mình muốn khám phá ra vụ án này cần phải hết sức khôn khéo. Nhưng làm như vậy liệu có phải mình kiêu căng không? Có thể nhưng nếu thế, ta nên xử sự như thế nào bây giờ? Đột nhiên, bà nhớ lại câu dặn dò của bà bạn: Chị không còn trẻ trung nữa đâu!
    Nhưng nỗi do dự kết thúc rất nhanh. Trong đầu Marple đã hình thành cả một kế hoạch chiến đấu, giống như một bản kế hoạch chi thu, lỗ lãi của một doanh nghiệp. Đối với việc tiến hành một cuộc điều tra, bà kê ra các lập luận ?onên? và ?okhông nên?.
    Về mặt thuận lợi, bà nhẩm tính:
    1. Mình đã có khá nhiều kinh nghiệm về cuộc đời và con người.
    2. Huân tước Henry Clithering vốn có tình bạn chân thành với mình, lại có con trai đang làm việc ở Cục Điều tra tại thủ đô London.
    3. David, con trai thứ hai của cháu mình là Raymond West lại là nhân viên cao cấp trong công ty hoả xa.
    4. Leornard, con trai chị bạn mình là Griselda chuyên sưu tầm các bản đồ đường xá.
    Marple suy nghĩ rất lâu về bốn thuận lợi trên, nhưng như thế phải chăng mình chưa tính đến các khó khăn. Mà khó khăn thứ nhất là sức khỏe của mình. Điều này không được quên.
    Bà thầm nghĩ: "Mình không còn ở tuổi có thể đi hết chỗ này đến chỗ kia để tiến hành cuộc điều tra, tìm ra điều bí mật".
    Tuy vào tuổi này mình vẫn còn được thế này là rất quý, nhưng cần phải công nhận mình đã già. Bác sĩ Haydock đã cấm bà làm vườn, vậy liệu ông ta có đồng ý để bà lao vào việc điều tra một vụ sát nhân không? Bởi việc bà dự tính làm chính là như thế. Liệu bà có gỡ được cái nút rắm rối này không? Mà đã làm, bà sẽ phải nhận trách nhiệm về mình. Trước kia, việc săn lùng một tên thuỷ thủ tùy thuộc vào nhiều hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng lần này bà chỉ có thể tự mình giải quyết.
    Nghĩ đến đây, Marple thấy ngại lao vào một cuộc phiêu lưu đầy gian khó. Lúc này, sau một ngày căng thẳng, bà thấy không muốn vạch ra bất cứ một kế hoạch nào. Mong ước duy nhất chỉ là về nhà cho thật nhanh, rồi đi ngủ. Mai bà sẽ dạo chơi thanh thản trong vườn, cố tránh làm bất cứ thứ gì có thể khiến bà mệt.
    Gạt đi mọi suy nghĩ, bà Marple cố bắt mình nhích lại gần cửa sổ để nhìn ra ngoài, đúng lúc trước mắt bà hiện ra một đoạn đường vòng cung của đường ray. Một đoạn đường vòng cung?
    Rất chậm chạp, một ý nghĩ từ từ hiện ra trong đầu bà, vậy là nhân viên soát vé đến bấm lỗ trên tấm vé đúng vào trước lúc đoàn tàu đi vào đoạn đường vòng cung này và đoạn tàu đi hết đường vòng cung là đến ga Brackhamton.
    Trong óc bà đột nhiên nảy ra một ý nghĩ! Mới chỉ là ý nghĩ thôi, nhưng hoàn toàn khác với....
    Bà Marple bỗng thấy mặt bà nóng bừng lên, bao mệt mỏi đột nhiên tan biến. Bà tự nhủ mình phải viết thư ngay cho David. Và một ý nghĩ thứ hai loé lên trong đầu bà: Tại sao mình lại chưa nghĩ đến chị người làm cũ của mình nhỉ: Florence trung thành?
    Không chút ngập ngừng, bà Marple lập tức nghiên cứu lại hết sức tỉ mỉ bản kế hoạch hành động vạch ra lúc trước. Nhận thấy kỳ nghỉ lễ Noel sắp tới là một yếu tố trì hoãn, bà tự nhủ: Ít ra mình cũng nhân dịp gửi thư chúc mừng Noel, yêu cầu luôn đưa cháu là David West gửi theo một số thông tin.
    Thêm nữa, trong bữa tiệc ông mục sư chồng bà bạn tổ chức, bà có thể trò chuyện với Leonard, con trai ông. Ai cũng biết Leornard say mê sưu tầm các loại bản đồ đường bộ cũng như đường sắt và bà thấy nhất thiết phải khai thác anh ta. Biết đâu anh ta chẳng có một bản đồ với tỷ lệ xích cao, có thể giúp bà tìm hiểu sâu địa thế vùng này?
    Leonard không hề dò đoán động cơ thầm kín của bà bạn mẹ anh mà vui vẻ đáp ứng, chỉ yêu cầu bà dùng xong thì trả lại ngay.
    Mấy hôm sau, bà Marple nhận được thư trả lời của Daniel West:
    Bà yêu quý,
    Bà lại có âm mưu làm chuyện gì thế? Nhưng dù là chuyện gì đi nữa thì cháu cũng xin trả lời câu hỏi của bà:
    Hai chuyến tàu bà quan tâm là hai chuyến 16h33 và 17h. Chuyến thứ nhất tàu thường, chuyến thứ hai tàu tốc hành. Thông thường, chuyến thứ nhất chạy trước và cũng đến ga Brackhamton trước chuyến 16h50 của bà, còn chuyến tàu tốc hành khởi hành sau, nhưng đuổi kịp và vượt lên trước chuyến tàu 16h50 của bà ở chỗ sắp đến ga Brackhamton.
    Cháu đoán điều bà muốn biết liên quan đến vụ tai tiếng ở thị trấn gần đây và trong một chuyến đi tàu bà đã tình cờ nhìn thấy vợ ông thị trưởng trong vòng tay ông thanh tra cung đường, có đúng thế không ạ? Một cuộc ngao du tình cảm vào kỳ nghỉ cuối tuần mà! cảm ơn bà về chiếc áo len cho, đúng thứ cháu đang ao ước.
    Cháu yêu của bà.
    David.
    Bà Marple mỉm cười trước khi nghiên cứu các thông tin. Bà bạn Gillicuddy đã kể lại rõ ràng là đoàn tàu có vụ án mạng không có toa giường ngủ. Như vậy không thể là chuyến tàu nhanh mà chỉ có thể là chuyến tàu 16h33. Thế thì mình phải đi thử chuyến đó vậy.
    Hôm sau, bà Marple đi London. Lúc về tất nhiên, bà chọn chuyến tàu 16h33, chuyến của đoàn tàu có vụ án mạng. Khách thưa thớt, ngăn bà ngồi chỉ có một mình bà. Chuyến đi yên ổn, không có biến cố nào. đến mỗi ga số khách lên xuống lẻ tẻ. Trước khi đến ga Brackhamton, đoàn tàu chạy vào đường vòng cung mà bà đã chuẩn bị đón trước. Đến lúc đó, bà Marple vội vàng đứng lên, rồi thử ?odiễn lại? vụ án bằng cách quay lưng ra phía cửa sổ, giống tư thế của tên hung thủ hôm đó. Cửa sổ này bà đã buông rèm xuống sẵn.
    Bà Marple nhận thấy lúc chạy trên đoạn vào cung, đoàn tàu luôn thay đổi tốc độ cho nên những ai không ngồi mà đứng sẽ rất mất thăng bằng, thậm chí bị hất ngửa ra phía cửa sổ, làm chệch rèm. Bà Marple nhìn ra ngoài nhưng lúc này trời đã tối, bà rất khó nhìn thấy gì.
    Bà Marple vốn có ưu điểm kiên trì nhẫn nại. Thế là sáng hôm sau bà lại ra tàu đi London. Bà tranh thủ thời gian ở đây đi mua sắm vài thứ cần thiết. Mua bán xong, bà Marple quay ra ga Paddington, lên chuyến tàu 12h10, là chuyến đến Brackhampton vào lúc trời còn sáng để dễ quan sát.
    Trước khi tàu đến ga Brackhampton khoảng 15 phút, bà lấy trong cặp tấm bản đồ của Leonard ra nhận xét. Tấm bản đồ này bà đã nghiên cứu đến mức thuộc lòng từng chi tiết nhỏ, cho nên bây giờ bà dễ dàng xác định đúng vị trí của đoàn tàu từng lúc là đang ở điểm nào trên bản đồ. Đoạn đường vòng cung này khá dài. Bà áp mũi vào kính cửa sổ chăm chú nhìn mặt đất bên dưới. Trên đoạn này, đường sắt được đắp khá cao, từ đó xuống bãi cỏ là sườn khá dốc. Rỗi bà đưa mắt nhìn rộng ra xung quanh. Nhà ga Brackhampton đã hiện ra ở cuối đoạn vòng cung.
    Ngay tối hôm đó, bà Marple viết một lá thư gửi cho Florence Hill số 4, đại lộ Madeson, thành phố Brackhampton. Sáng hôm đó, lúc ra thư viện thị trấn bà nghiên cứu kỹ lưỡng bản danh bạ của thành phố và cuốn từ điển địa lý của tỉnh, không quên nghiên cứu cả một cuốn lịch sử địa phương.
    Cho đến lúc đó, chưa co một thứ gì trái với ý nghĩ đang ám ảnh bà, một ý nghĩ hiện lên vãn còn lờ mờ. Vậy là điều bà phỏng đoán đã có lý. Bây giờ chỉ cần đẩy tiếp lên.
    Nhưng bước đi thứ hai này đòi hỏi tốn nhiều công sức và tuổi tác của bà không kham nổi. Muốn đẩy cuộc điều tra đến cùng, không thể tự làm một mình, phải có thêm lực lượng hỗ trợ. Nếu không, bao công sức bỏ ra đến giờ chỉ là công cốc.
    Bà Marple đã nghĩ đến rất nhiều người, nhưng chưa thấy ai thích hợp. Người thì không đủ thông minh để đảm nhiệm, người có đủ thì lại đang quá bận, không thể bỏ ra một thời gian giúp bà.
    Đang lúc gần như tuyệt vọng, chợt mặt bà rạng rỡ và cái tên buột ra khỏi miệng bà:
    - Lucy Eyelessbarrow!

    XOAI
  10. xoai13388

    xoai13388 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/07/2002
    Bài viết:
    191
    Đã được thích:
    0
    Chương bốn


    Lucy Eyelessbarrow năm nay 32 tuổi. Tên của cô đã được biết đến trong một số giới. Do thành tích học tập xuất sắc tại trường Đại học Oxford, Khoa Toán, cô có triển vọng tiến xa hơn trên con đường sư phạm. Nhưng ngoài năng khiếu toán học, Lucy còn có thêm cách suy nghĩ tỉnh táo khiến cô nhận thấy nghề nhà giáo là một nghề bạc bẽo.
    Không những thế, quanh quẩn mãi ở các trường đại học làm Lucy thấy chán ngấy. Cô thích giao du với những người bình thường, trình độ học thức kém mình, mà số này thì lại rất đông, cho nên cô không ở lại với ai lâu. Lucy thích cuộc sống liên tục thay đổi. Cuối cùng, vì không phải không cần tiền, cô sẵn sàng nhận làm một việc nào đó để có tiền.
    Ai cũng biết rằng, muốn thoả mãn nhu cầu đó, cần phải tìm một lĩnh vực hoạt động không quá vướng chân. Và nếu cần, Lucy không ngần ngại làm cả chân phục vụ các gia đình miễn là có tiền mà lại không mất tự do, lại luôn được thay đổi khung cảnh. Những người quen biết đều ngạc nhiên thấy một cô gái tốt nghiệp Đại học Oxford lại đi vào cuộc sống kiểu làm thuê cho các gia đình như vậy.
    Lucy đạt thành công ngay và thành công lâu bền. Độ bền mà không hiếm những bà vợ bảo chồng: "Kỳ này em có thể đi cùng với anh sang Mỹ, vì giao nhà cửa cho Lucy Eyelessbarrow thì yên tâm hoàn toàn".
    Và các bà vợ ấy nói không ngoa: Không thể kiếm được một người quản gia nào thông minh, đảm đang như Lucy. Cô phục dịch người già, người ốm, trẻ con và bất cứ ai cũng hoàn toàn thoả mãn. Lucy còn có tài đối xử tế nhị, khéo léo với những người nổi tiếng khó tính khó nết nhất, kể cả những người nghiện ngập rượu chè. Và lòng kiên nhẫn của cô đối với các con vật thì quả không ai bằng. Lucy đúng là một viên ngọc quý.
    Số người nhờ cô nhiều đến nỗi Lucy cuối cùng quyết định chỉ phục vụ trong một phạm vi nhỏ, gồm những gia đình cô đã biết hợp với sở thích cá nhân của cô hơn cả.
    Chính vào lúc Lucy vừa quyết định như vậy thì cô nhận được thư của bà Marple. Cô quen biết bà cách đây 2 năm, khi ấy anh chàng Raymond West mà ta đã biết, có điều kiện gửi cô đến chăm sóc cho bà lúc đó vừa chữa khỏi bệnh viêm màng phổi, đang thời kỳ dưỡng bệnh.
    Gạt kỷ niệm cũ đó đi, Lucy đọc đi đọc lại lá thư của bà già. Trong thư bà Marple hỏi xem cô có muốn đọc một sứ mệnh, "một sứ mệnh khá đặc biệt", bà nhấn mạnh như vậy và nếu muốn thì mời cô đến gặp bà thử trao đổi xem.
    Lucy bối rối. Cô đang có quá nhiều nơi tha thiết mời, nhưng mấy chữ trong thư "sứ mệnh khá đặc biệt" làm cô chú ý. Không những thế lòng mến mộ đối với bà Marple đã vượt lên trên mọi suy tính khác. Thế là Lucy lập tức gọi điện thoại cho bà báo rằng cô có thể gặp bà ngay từ ngày mai tại London, trong câu lạc bộ riêng của cô. Câu trả lời của cô được bà Marple chấp nhận ngay.
    Kết quả là cuộc đối thoại đã diễn ra tại nơi quy định. Không khí yên tĩnh ở nơi này hoàn toàn thích hợp với cuộc trò chuyện kín đáo. Sau những lời ca tụng thường lệ. Lucy đi ngay vào việc:
    - Tôi e chỉ có thể rảnh rỗi được một thời gian không dài. Vì vậy xin bà cho biết bà định giao cho tôi việc gì vậy?
    - Một công việc bình thường, quả là như thế!, bà Marple bình thản nói, rất đơn giản nhưng nhưng hơi bất ngờ đấy: Tôi muốn cô tìm một tử thi.
    Lucy không ngạc nhiên, nhưng một nỗi hoài nghi lướt qua trên gương mặt cô: Bà này định khai thác tất cả mọi khả năng của cô sao? Nhưng ý nghĩ khó chịu đó lập tức tan biến: Bà Marple nổi tiếng tỉnh táo, thăng bằng. Do đấy bà nói ra điều gì đều đã qua suy nghĩ chín chắn.
    - Tử thi nào vậy, thưa bà Marple? Cô điềm tĩnh hỏi.
    - Tử thi một người phụ nữ bị giết, nói cụ thể là bị bóp cổ chết trên một đoàn tàu hoả, bà Marple đáp cũng điềm tĩnh không kém.
    - Thế thì đúng là bất ngờ thật! Xin bà cho biết thêm một số chi tiết?
    Khi nghe xong một cách hết sức chăm chú, Lucy chỉ đưa ra một nhận xét:
    - Tất cả còn tùy thuộc vào bà Gilucuddy kia nhìn thấy thật hay chỉ là do tưởng tưởng ra?
    Câu nói có giá trị tương đương một câu hỏi.
    Bà Marple đáp không chút ngập ngừng.
    - Bà Gilucuddy không thuộc loại người tưởng tượng ra bất cứ thứ gì bao giờ. Chính vì thế mà tôi tin bà ấy. Bà bạn tôi thuộc loại phụ nữ phải khó khăn lắm mới chịu tin vào một chuyện vượt ra ngoài mức bình thường. Bà ấy không bao giờ tưởng tượng ra điều gì, hoặc bị một ám ảnh nào đó chi phối. Có thể nói bà Gilucuddy vững chãi như một khối đá.
    - Tôi hiểu, Lucy nói, nhưng tại sao bà lại nghĩ đến tôi?
    - Hồi cô đến nhà giúp tôi một thời gian, cô đã để lại trong tôi một ấn tượng rất đậm, bà Marple dịu dàng đáp. Và cô thấy đấy, tôi yếu sức rồi, không còn đủ sức khoẻ để liên tục di chuyển nơi này nơi khác nữa.
    - Nghĩa là bà muốn tôi tiến hành cuộc điều tra. Nhưng phải chăng cảnh sát đã làm tất cả những gì cần thiết? Hay bà cho rằng họ chưa dồn sức vào đó?
    - Hoàn toàn không phải thế. Vấn đề ở đây chỉ là phỏng đoán cá nhân của tôi, xung quanh chuyện cái xác chết biến mất. Tôi cho rằng cái xác tất nhiên phải đang ở đây đó, làm sao "mất tăm" được? Người ta không thấy trên toa tàu, có nghĩa là nó bị đẩy ra ngoài đoàn tàu. Nhưng lại chưa ai nhìn thấy nó trên đường ray. Chính vì thế mà đã hai lần tôi lên tàu, mỗi lần đi theo một hướng cốt để nghiên cứu xem nếu hung thủ đẩy xác chết ra ngoài, thì chỗ nào hắn có thể đẩy xuống để khi nếu ai chỉ nhìn lướt qua rất khó thấy được? Và tôi đã phát hiện ra có một chỗ như thế. Trước khi đến gia Brackhampton, đoàn tàu phải chạy trên một đoạn vòng cung, ở đoạn này đường ray được đắp khá cao. Cô có thể đoán được là khi chạy trên đoạn vòng cung, đoàn tàu phải hơi nghiêng và nếu có kẻ đẩy xác chết ra ngoài, cái xác ắt phải rơi ra ngoài và lăn xuống chân dốc.
    - Đúng thế! Nhưng nếu xảy ra như thế thì tìm ra có gì khó đâu?
    - Tôi công nhận. Nhưng đó là khi?
    - Khi thế nào, thưa bà?
    - Khi cái xác vẫn nằm yên chỗ đó! Nhưng rõ ràng hung thủ đã đem nó đi khỏi đấy rồi? Chuyện này tôi sẽ bàn với cô sau. Trước mắt, xin cô xem tấm bản đồ này đã, đặc biệt là chân dốc ở chỗ tôi đoán hung thủ đã đẩy thi thể nạn nhân xuống.
    Lucy cúi nhìn trong khi bà Marple đưa ngón tay chỉ giải thích:
    - Chỗ này này, bên rìa một khu trang viên rất rộng nằm ở ngoại ô thành phố Brackhamton. Trang viên này có một toà nhà lớn nằm trên, là sở hữu tư nhân, thường được gọi là dinh cơ Rutherford Hall. Toà nhà do một kỹ nghệ gia giàu có tên là Josiah Crackenthorpe xây năm 1884. Vào thời điểm đó dinh cư này gồm cả toà nhà và trang viên, nằm trơ trụi một mình. Nhưng ngày nay đã có nhiều ngôi nhà xây xung quanh. Nghe nói hiện nay người thừa kế của kỹ nghệ gia giàu có kia là một ông già đang ở trong dinh cư này cùng với cô con gái. Tên ông là Luther, họ là Crackenthorpe.
    - Vậy bà muốn tôi làm gì?
    - Bà Marple trả lời luôn.
    - Tôi muốn cô xin được vào làm chân gia nhân trong dinh cơ Rutherford Hall. Theo tôi biết thì dễ thôi vì tôi đã đọc thấy họ đăng cần thuê người giúp việc trên báo địa phương mãi mà chưa ai đến nhận làm. Mà hiểu được thôi, ai cũng ngại vào làm ở chỗ hẻo lánh vắng vẻ ấy.
    - Điều ấy tôi công nhận, Lucy nói ngay.
    Bà Marple khẽ ho một tiếng thông cổ họng rồi nói:
    - Theo tôi biết, ông già Crackenthorpe có tính bủn xỉn. Chính vì thế, nếu ông ta trả lương cho cô quá thấp, tôi xin bù thêm để cô có được hưởng một khoản tiền công cao hơn mức cô nhận của người khác.
    - Vì trong sứ mệnh này, tôi sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, phải không thưa bà Marple?
    - Nói nguy hiểm có lẽ thích hợp hơn, bởi công việc của cô có thể sẽ nguy hiểm đấy. Cô cần biết trước là như thế.
    Lucy đăm chiêu nói:
    - Vấn đề nguy hiểm hình như không ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi thì phải.
    - Tôi cũng đoán như thế. Cô không thuộc loại người ngại nguy hiểm.
    - Và bà cho rằng tôi thích nguy hiểm chăng? Sự thật là cho đến nay tôi chưa gặp chuyện gì nguy hiểm. Nhưng quả thật bà cho rằng trong trường hợp này, công việc có thể sẽ nguy hiểm?
    - Tất nhiên. Cô thử nghĩ xem có một kẻ đã dám giết người và hắn đã tiến hành rất đạt, không bị ai nghi ngờ gì hết. Hai bà già kể lại một câu chuyện khó tin cho cảnh sát nghe và họ tiến hành điều tra nhưng không đạt kết quả. Cuối cùng là vụ giết người của hắn được nhà chức trách cất vào hộc tủ thôi không điều tra nữa. Trong điều kiện như thế, tôi không tin hung thủ chịu để yên cho ai muốn bới tung vụ án của hắn lên, nhất là người đó muốn thành công.
    - Tất nhiên rồi, công việc đầu tiên của tôi ở đấy là gì?
    - Trước hết cô cần tìm những dấu vết ở gần đường tàu. Muốn thế, cô phải đi men theo bên rìa khu trang viên kia, biết đâu còn một mảnh vải, một vật dụng nào đó, tôi chưa biết. Cô cũng đừng quên quan sát xem tình trạng các bụi cây, đám cỏ gần đấy có gì khác thường không.
    - Nếu tìm thấy thứ gì đó thì tôi phải làm thế nào?
    - Tôi sẽ đến gần chỗ đó. Chị hầu phòng cũ của tôi hiện rút về thành phố Brackhampton, mở một nhà trọ kiểu gia đình rất sang. Tôi sẽ thuê của chị ta một phòng nhỏ và tiếp tục dưỡng bệnh giống như ở nhà tôi vậy. Về phần cô, cô cũng nên nói cho chủ nhà là cô có một bà dì không được khoẻ ở gần đấy cho nên cô muốn làm ở đó để thỉnh thoảng có thể chăm sóc bà dì. Đồng thời cô đề nghị nhà chủ tạo cho cô một số thời gian để chăm sóc bà dì.
    Lucy không ngập ngừng nói ngay:
    - Lẽ ra tôi có một việc phải đi vào ngày kia, nhưng tôi có thể hoãn lại. Dù sao tôi cũng chỉ dành được ba tuần lễ để làm việc bà giao.
    - Ba tuần là thừa đủ, bà Marple trấn an cô gái. Nếu trong ba tuần chúng ta không tìm thấy gì, tôi sẽ bỏ cuộc. Sức đâu mà theo đuổi một cái bóng!
    Bà Marple đi rồi. Lucy ngồi suy nghĩ thêm vài phút, rồi cô gọi điện đến văn phòng tuyển người làm ở thành phố Brackhampton, báo cho bà giám đốc, cũng chính là người quen của cô, là cô muốn tìm một việc làm ở thành phố này để được ở gần bà dì đã có tuổi đang đau ốm. Bà giám đốc kể ra một loạt chỗ làm, cô đều khéo léo thoái thác cho đến khi bà ta kể đến nhà Rutherford Hall.
    - Đúng rồi, chỗ như thế rất hợp với tôi đấy! Bây giờ Lucy mới dứt khoát nhận lời.
    Văn phòng liên hệ với tiểu thư Crackenthorpe. Và hai ngày sau, Lucy rời London đến nơi làm việc mới.
    Ngồi cầm tay lái chiếc ôtô nhỏ của mình, Lucy Eyelessbarrow cho xe chạy giữa hai cánh cổng sắt đồ sộ. Một bên cổng là ngôi nhà nhỏ xây dành cho người bảo vệ, ngôi nhà đã đổ nát. Có thể cho chiến tranh hoặc không ai trông nom. Lucy cho xe chạy trên đồi ngoằn nghèo, hai bên trồng lộn xộn những cây cao rậm lá, đến bậc thềm dẫn lên toà nhà chính. Cô suýt nghẹn thở vì đau lòng khi nhìn thấy các bậc thang bằng đá nham nhở thảm hại, cỏ mọc um tùm giữa các khe đá.
    Lucy giật dây chuông, tiếng chuông cũ kỹ rè rè kêu lên trong nhà. Vài phút sau, một phụ nữ trung niên ăn mặc nhem nhuốc chậm chạp ra mở cửa. Chùi hai bàn tay vào tạp dề màu nước dưa, bà ta chăm chú nhìn người lạ.
    - Có phải chị là người nhà này đang đợi và có cái tên rất khó đọc đấy không?, bà ta cau có hỏi.
    - Vâng, chính tôi, Lucy bình thản đáp.
    Bà giúp việc nhún vai rồi ra hiệu bảo Lucy đi theo vào nhà. Không gian trong nhà lạnh lẽo. Đi hết gian tiền sảnh, bà ta mở một cánh cửa, tạo ra một tiếng động khô khốc. Lucy ngạc nhiên bước vào một phòng khách khá lịch sự. Cô chú ý đến chiếc tủ chật cứng những cuốn sách gáy mạ vàng.
    - Chị đợi đây để tôi vào báo cô chủ, bà giúp việc nói, vẫn giọng cấm cảu.
    Bà ta đi ra, đóng sập cửa lại. Lát sau, cửa lại mở và thoạt nhìn, Lucy hiểu ngay rằng tiểu thư Emma Crackenthorpe là người sẽ làm cô mến.
    Con gái vị chủ nhân toà nhà Rutheford Hall là một phụ nữ không trẻ lắm, không đẹp nhưng cũng không xấu, tóc đen thả xuống ngang lưng, cặp mắt đen láy nhìn thẳng thắn. Tấm váy vải tuýt và áo len dệt chui đầu hợp màu nhau chứng tỏ tiểu thư là người có khiếu thẩm mỹ. Giọng nói của tiểu thư cũng khá dịu dàng.
    - Chị Eyelessbarrow? Tiểu thư Emma Crackenthorpe chìa tay.
    Tuy nhiên tiểu thư có dáng vẻ lo âu.
    - Tôi đang lo, chưa biết liệu công việc tôi sẽ giao cho chị có làm chị vừa ý xong không? Nói thật, tôi không cần một quản gia chỉ tay năm ngón, mà tôi cần một người làm việc thật sự.
    Lucy đáp ngay rằng đó là bình thường, người chủ nào chẳng lo như thế. Nhưng ngay bản thân cô cũng có những nỗi lo.
    Tiểu thư Crackenthorpe nói tiếp:
    - Nhiều người cho rằng chỉ cần phủi bụi qua loa là đủ, nhưng tôi lại không tán thành như thế và tôi tự làm cái công việc đơn giản ấy.
    - Tôi rất hiểu. Cô chủ muốn tôi nấu bếp và giặt giũ phải không? Những việc đó tôi hoàn toàn có thể làm được.
    - Tòa nhà của chúng tôi rất rộng, tôi e cách bố trí các phòng rất không thuận tiện cho việc chăm sóc. Tuy nhiên cha tôi và tôi chỉ sử dụng một phần của toà nhà. Cần nói thêm để cho chị biết, cha tôi gần như một người tàn phế. Tôi có nhiều anh em trai nhưng ít khi thấy mặt họ. Chết, tôi suýt quên. Nhà còn có 2 chị giúp việc. Bà Kidder đến làm các buổi sáng. Chị Hart chuyên lau chùi đồ đồng và làm thêm một số việc vặt, nên chỉ đến đây mỗi tuần 3 buổi chiều. Vậy ra chị có ôtô riêng?
    - Vâng, nhưng có thể để nó ngoài trời, nếu nhà không có gian để xe. Tôi quen để nó ngoài trời rồi.
    - Không sao, nhà tôi có rất nhiều chuồng ngựa bỏ không, cho nên có tha hồ chỗ để ôtô.
    Tiểu thư Crackenthorpe suy nghĩ một lát rồi mới đưa ra một câu hỏi nữa:
    - Tên chị rất nhiều người biết. Gia đình Kenedy quen tôi có kể tôi nghe về một chị giúp việc tên là Lucy Eyelessbarrow. Có phải chính là chị đấy không?
    - Chính tôi. Tôi có giúp việc phu nhân Kenedy thời gian bà ấy sinh con.
    Một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt tiểu thư Emma Crackenthorpe.
    Bà ấy ca ngợi chị lắm. Nhưng tôi e lương của chị ở đây không được cao. Tôi đã báo văn phòng môi giới việc làm biết lương chị sẽ là bao nhiêu rồi?
    - Tôi biết. Ngần ấy là rất đủ đối với tôi! Thưa tiểu thư, tôi muốn kiếm việc làm ở thành phố Brackhampton này chủ yếu vì tôi có bà dì tuổi cao lại ốm yếu đang ở đây. Lương chỉ là chuyện thứ yếu. Vả lại, tôi không muốn ngồi rỗi. Nhân đây, xin hỏi tiểu thư, liệu tôi có thể đôi lúc rảnh rỗi được không?
    - Tất nhiên là được! Chị được tự do các buổi chiều, từ 12 đến 18 giờ, như thế có thuận tiện cho chị không?
    - Thế là quá thuận tiện.
    Tiểu thư Crackenthorpe lại có vẻ ngập ngừng, rồi sau khi ho thông cổ họng, cô nói tiếp:
    - Lúc nãy tôi có kể là cha tôi không được khỏe, nhưng tôi thấy phải nói thêm rằng cha tôi còn khó tính hơn nhiều, nhiều lúc nói những câu?
    - Cô chủ yên tâm, tôi đã quen phục vụ những người già nên rất hiểu tính cách các cụ.
    Tiểu thư Crackenthorpe có vẻ yên lòng. Về phần mình, Lucy linh cảm thấy hai cha con nhà này có vẻ xung khắc. Hẳn ông già tính nết lỗ mãng, cục cằn, cô thầm nghĩ.
    Tiểu thư Emma dẫn Lucy lên phòng dành cho cô, rộng nhưng lạnh lẽo. Có một lò sưởi điện, không biết có chạy được không. Lucy chưa kịp mở thử thì tiểu thư Emma đã vội vã đưa cô đi xem toàn bộ toà nhà, rất rộng, nhưng trông hoang tàn thế nào ấy.

    XOAI

Chia sẻ trang này