1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TRUYỆN TƯỞNG TƯỢNG KHOA HỌC

Chủ đề trong 'Thiên văn học' bởi tuanno1, 21/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    Hắn đặt ly xuống đi
    về phía cửa. Tôi lại chú ý
    đến dáng khập khiễng của
    hắn, những bước chân đi
    như vật nặng kéo lê trên sàn.
    Từ chỗ đứng, tôi nhìn
    thấy hai bàn chân hắn. Hai bàn chân không
    mang giày, chỉ có một đôi vớ
    rách rưới lấm tấm máu. Cánh
    cửa đã đóng lại sau lưng
    hắn mà nửa hồn tôi còn như
    muốn tìm theo những bước chân,
    rồi tôi nhớ lại là hắn
    vốn ghét sự chú ý quá đáng của
    người khác. Đầu óc tôi rối
    như mớ bòng bong đến cả
    phút đồng hồ. Rồi tôi nghe anh
    chủ báo nói: "Thái độ kỳ
    lạ của một khoa học gia tên
    tuổi." Câu nói nghe như tít của
    một bài báo đã đánh thức tôi
    trở lại với cõi thật của
    chiếc bàn ăn sáng sủa
    trước mặt.
    "Trò gì vậy?" anh ký giả hỏi.
    "Hắn chơi trò kịch sĩ tài
    tử à? Tôi thật không hiểu." Tôi
    bắt gặp ánh mắt của nhà tâm lý
    học, và đọc thấy ý nghĩ
    của tôi trên mặt ông tạ Tôi
    nghĩ về kẻ vượt thời
    gian đang khập khiễng đau
    đớn trên lầu. Tôi cho rằng tôi
    là người duy nhất để ý
    đến tình trạng bất bình
    thường của đôi chân hắn.
    Người thứ nhất hoàn toàn
    hồi tỉnh là ông bác sĩ. Ông rung
    chuông gọi một đĩa đồ
    ăn nóng - kẻ vượt thời
    gian không thích đầy tớ
    đứng hầu bàn trong bữa ăn.
    Thấy thế, anh chủ báo vừa hít
    hà vừa quay qua cầm dao nỉa lên; ông
    ký giả im lặng tức khắc làm
    theo. Bữa ăn tiếp tục.
    Những câu nói tiếp đó pha
    đầy sửng sốt xen vào với
    sự ngạc nhiên; và rồi anh chủ
    báo không còn dằn nổi tò mò nữa.
    "Bộ anh bạn của chúng ta thình lình
    đánh mất cái lợi tức khiêm
    nhượng của hắn rồi sao?
    Hay là hắn tự nhiên lên cơn
    sảng?" Anh hỏi. "Tôi chắc
    chuyện này phải dính tới cái máy
    vượt thời gian," tôi nói, và
    tiếp câu chuyện nhà tâm lý học
    kể dở dang lúc nãy. Những
    người khách mới rõ ràng là không tin.
    Anh chủ báo phản ứng. "Hắn
    đã vượt thời gian à?
    Người ta đâu thể nào dính
    bụi đầy áo vì cuộn mình trong
    đống đất của sự
    nghịch lý, phải không quý vị?"
    Rồi, cơn hứng nổi lên, anh xoay
    qua chuyện đùa cợt. "Bộ
    người tương lai không có bàn
    chải phủi bụi quần áo sao?"
    Anh ký giả cũng không tin một chút
    nào. Anh hùa theo, lấy câu chuyện
    để đùa bỡn, Họ thuộc
    lớp nhà báo tân thời, những
    người trẻ, vui vẻ, khônhg
    biết nể nang gì cả. "Đặc
    phái viên của chúng tôi loan tin trong ngày
    mốt rằng... " anh ký giả đang
    nói, đúng ra là đang hét lớn,
    giữa chừng thì kẻ vượt
    thời gian trở lại. Hắn
    mặc một bộ đồ đêm
    bình thường, và tất cả
    những nét đổi thay khiến tôi
    sửng sốt lúc nãy đã hoàn toàn
    biến mất, còn chăng là nét thê
    thảm trên khuôn mặt hắn mà thôi.
    Anh chủ báo đùa: "Mấy tay này nói
    với tôi là anh đã vượt
    thời gian tới giữa tuần
    tới! Nói cho chúng tôi biết về cô bé
    Rosebery đi, được không?
    Muốn đòi gì anh cứ cho biết,
    rồi mình tính với nhau."
    Kẻ vượt thời gian im lặng
    đến chiếc ghế đã dành
    sẵn cho hắn. Ngồi xuống
    rồi, hắn nở nụ cười
    nhẹ quen thuộc. "Thịt cừu
    của tôi đâu?" hắn nói. "Lại
    được ghim nỉa vào thịt
    quả là một hạnh phúc!"
    "Kể chuyện đi chứ!" anh
    chủ báo giục.
    "Không chuyện trò gì cả!" kẻ
    vượt thời gian đáp. "Tôi
    muốn ăn cái đã. Tôi không nói
    một chữ nào hết cho đến
    khi bơm đủ protein vào mạch máu.
    Cám ơn. Xin cho một chút muối."
    "Vậy thì một chữ thôi," tôi yêu
    cầu. "Anh vừa đi vượt
    thời gian phải không?"
    "Phải," kẻ vượt thời gian
    vừa trả lời vừa gật
    đầu, trong khi miệng vẫn còn
    đầy thức ăn.
    "Tôi trả một shilling mỗi dòng cho
    người nào ghi lại từng
    chữ," anh chủ báo nói. Kẻ
    vượt thời gian đẩy cái ly
    về phía người im lặng, và ra
    dấy bằng cách gõ nhẹ móng tay vào
    thành lỵ Người im lặng
    đang chăm chăm nhìn thấy
    vậy vội vàng cuống quýt rót
    rượu vào đầy ly cho hắn.
    Những phút kế tiếp của
    bữa ăn không thoải mái chút nào.
    Phần tôi, những câu hỏi cứ
    đột ngột muốn trào ra
    miệng, và tôi dám chắc những
    người khác cũng thế. Anh phóng
    viên cố phá tan bầu không khí nặng
    nề bằng cách kể vài câu chuyện
    về Hettie Potter. Kẻ vượt
    thời gian chăm chú ăn. Hắn
    ăn khỏe như một kẻ
    bụi đời đói khát. Ông bác
    sĩ châm một điếu thuốc,
    nhíu mày trầm tư quan sát kẻ
    vượt thời gian. Người im
    lặng càng tỏ ra lúng túng, ông ta
    uống champangne từng ngụm lớn
    hết ly này sang ly khác rõ ràng chỉ vì
    bối rối.
    Cuối cùng, kẻ vượt thời
    gian đẩy chiếc đĩa qua
    một bên và đảo mắt nhìn chúng
    tôi. "Chắc tôi phải yêu cầu quý
    vị tha lỗi," hắn nói. "Chỉ vì
    tôi đói quá. Tôi đã trải qua
    những giờ phút kỳ lạ ngoài
    sức tưởng tượng."
    Hắn với tay lấy một
    điếu xì gà và cắt đầu
    thuốc ra. "Chúng ta hãy qua phòng hút
    thuốc. Câu chuyện quá dài, kể bên
    cạnh những chiếc đĩa
    đầy dầu mỡ không hợp."
    Vừa đi vừa rung chuông báo hiệu
    cho đầy tớ biết bữa
    ăn đã chấm dứt, hắn
    dẫn chúng tôi sang phòng bên cạnh.
    "Anh đã nói cho Blank, Dash, và Chose biết
    về chiếc máy?" hắn hỏi tôi,
    nhắc đến tên ba người
    khách mới, trong khi tựa lưng trên
    chiếc ghế xoay.
    "Nhưng câu chuyện chỉ là một
    nghịch lý," anh chủ báo nói.
    "Tôi không thể tranh luận với ai
    tối naỵ Tôi rất sẵn sàng
    kể cho quý vị nghe mọi chuyện,
    nhưng tôi không thể tranh luận. Tôi
    sẽ," hắn tiếp, "kể cho quý
    vị nghe về những chuyện
    đã xảy đến cho tôi, nhưng
    quý vị phải hứa là sẽ
    dằn lòng không ngắt lời tôi
    mới được. Tôi muốn
    kể chuyện. Muốn kinh khủng.
    Gần như toàn thể câu chuyện
    sẽ giống như những lời
    nói dối. Chẳng sao! Tất cả là
    sự thật - từng chữ một,
    chỉ đơn giản như thế.
    Bốn giờ chiều nay tôi có mặt
    trong phòng thí nghiệm, và từ lúc
    ấy... tôi đã trải qua tám ngày...
    những ngày mà chưa một
    người nào khác từng sống! Tôi
    gần như hoàn toàn kiệt lực,
    nhưng tôi không thể ngủ cho
    đến khi tôi kể hết mọi
    chuyện cho quý vị nghe. Rồi tôi
    sẽ yên tâm nghỉ ngơi. Nhưng
    không được ngắt lời!
    Đồng ý chứ?"
    "Đồng ý," anh chủ báo nói, và chúng
    tôi phụ họa, "đồng ý."
    Thế là kẻ vượt thời gian
    bắt đầu câu chuyện của
    hắn, chính là những điều mà tôi
    sắp viết ra đây. Ở
    đoạn đầu câu chuyện,
    hắn tựa lưng vào ghế, kể
    lể như một người mệt
    mỏi. Sau một lát, hắn trở nên
    sống động. Tôi biết thật
    rõ là với giới hạn của bút
    mực và với khả năng ngôn
    ngữ thiếu sót của tôi, thật
    không thể nào diễn tả sức lôi
    cuốn của câu chuyện đến
    nơi đến chốn. Tôi đoán là
    bạn sẽ đọc với mọi
    sự chú tâm; nhưng bạn không
    được thấy khuôn mặt
    trắng nhợt đầy nét chân thành
    của người kể lung linh
    dưới ánh sáng của ngọn đèn
    nhỏ, bạn cũng không
    được nghe những biến
    đổi trong giọng nói của
    hắn. Bạn không thể thấy
    những biểu lộ trên nét mặt
    hắn phù hợp với diễn
    biến của câu chuyện như
    thế nào! Chúng tôi, những người
    nghe đều ở trong bóng tối, vì
    những ngọn nến trong phòng không
    hề được thắp lên.
    Chỉ có khuôn mặt của anh phóng viên
    và khoảng chân từ đầu gối
    trở xuống của người im
    lặng là được ánh đèn
    chiếu tới. Lúc đầu thỉnh
    thoảng chúng tôi còn quay sang nhìn nhau.
    Một lúc sau chúng tôi không nhìn nhau nữa,
    tất cả mọi đôi mắt
    đều dán vào khuôn mặt của
    kẻ vượt thời gian(còn nữa)
  2. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    Tuần trước, một số trong quý vị đã nghe tôi trình bày nguyên tắc của chiếc máy thời gian và đã thấy nó - Ở tình trạng chưa hoàn tất - trong phòng làm việc của tôi. Bây giờ nó vẫn đang ở đó, trầy sướt chút đỉnh sau chuyến đi. Một cái cần bằng ngà bị nứt, và một cái lườn đồng bị cong; nhưng những bộ phận khác vẫn còn hoàn hảo.
    "Tôi cứ tưởng có thể hoàn thành chiếc máy vào thứ sáu tuần trước, nhưng rồi tôi khám phá một thanh bạch kim bị ngắn đúng hai phân rưỡi, buộc lòng phải làm thanh khác, thành thử sáng hôm nay mới xong. Đúng mười giờ sáng, chiếc máy bắt đầu cuộc đời của nó. Tôi kiểm soát lại một lần cuối, vặn chắc những đinh ốc, nhỏ thêm một giọt nhớt vào chỗ nối cái cần thạch anh. Rồi tôi ngồi vào máy. Chắc những kẻ tự tử trong phút giây kề súng vào đầu mình cũng mang tâm trạng y hệt như tôi lúc ấy. Một tay tôi đặt trên cần số, tay kia đặt trên cần thắng. Người tôi đảo lộn vì cái cảm giác như người nằm mơ thấy mình rớt vào hố thẳm. Nhìn quanh, tôi vẫn thấy căn phòng thí nghiệm, tất cả y hệt như cũ. Có chuyện gì xảy ra chưa? Trong thoáng giây sau đó, tôi tưởng khả năng suy luận đã đánh lừa tôi. Nhưng rồi tôi nhìn lên đồng hồ. Ngay trước khi tôi kéo cần số, nó chỉ mười giờ hơn một phút gì đó, bấy giờ nó đã chỉ ba giờ rưỡi.
    "Tôi thở mạnh, nghiến răng, nắm cần số bằng cả hai tay, ấn mạnh xuống. Phòng thí nghiệm mờ đi rồi tối sầm lại. Bà Watchett vào phòng rồi ra bằng cánh cửa dẫn tới sau vườn. Hình như bà không hề thấy tôi. Tôi ước lượng muốn đi qua căn phòng bà phải mất khoảng một phút, nhưng tôi lại thấy bà bắn ngang nhanh như một chiếc hỏa tiễn. Tôi ấn cần số xuống mức tận cùng. Đêm đến như người ta tắt một ngọn đèn, và trong chớp mắt đã là buổi sáng. Căn phòng thí nghiệm càng lúc càng trở thành mờ nhạt. Đêm hôm sau mang màu đen tới, rồi ngày, rồi lại đêm, lại ngày thay đổi mỗi lúc một nhanh. Những tiếng lùng bùng vang trong tai tôi như từng đợt sóng, đầu óc tôi tràn ngập một cảm giác khủng hoảng lạ lùng.
    "Tôi e tôi không thể diễn tả trọn vẹn những cảm giác kỳ dị mà tôi trải qua trong lúc vượt thời gian. Khó chịu kinh khủng. Tôi có cảm giác bất lực của một người bị phóng nhanh về bóng tối phía trước. Tôi cũng có cảm giác của một người biết trước là nếu không ngừng lại sẽ bị chạm vào một cái gì đó mà tan xác. Vận tốc càng tăng, đêm nối theo ngày như nhịp vỗ của một đôi cánh đen. Nét mờ nhạt của căn phòng thí nghiệm hình như rời xa tôi. Tôi thấy mặt trời từ dưới phóng lên cao mỗi phút, mỗi phút đánh dấu một ngày. Tôi đoán căn phòng thí nghiệm đã bị phá huỷ và tôi đã ra ngoài không khí. Tôi có cảm giác thoáng qua như thấy những tấm ván được dùng làm sàn cho thợ hồ xây cất, nhưng vì đang đi quá nhanh nên không thể nhận rõ bất cứ vật gì. Con ốc sên chậm chạp nhất cũng trở thành quá nhanh đối với tôi. Mắt tôi như không còn chịu nổi sự biến đổi chớp nhoáng giữa bóng tối và ánh sáng.
    "Rồi trong những khoảng tối ẩn hiện, tôi thấy mặt trăng xoay chuyển nhanh chóng từ khuyết đến tròn, và bóng mờ của những ngôi sao xoay vần trên bầu trời. Vận tốc vẫn gia tăng, sự biến đổi giữa ngày đêm đã hoà thành một màu xám liên tục; bầu trời biến ra một màu xanh đậm huy hoàng, loại màu óng ánh của những buổi chiều đẹp sắp chuyển qua đêm tối; mặt trời trở thành một lằn lửa cong rực rỡ đứng yên trên không trung; mặt trăng như một lằn khác, nhạt hơn và xoay động nhiều hơn. Tôi không thấy những vì sao nữa, ngoại trừ thỉnh thoảng có một khoảng sáng lập loè lẫn vào giữa vùng xanh thẵm.
    "Khung cảnh mờ ảo như có phủ sương. Tôi vẫn ở trên sườn của chiếc đồi này, đỉnh của nó ở phía trên tôi nhạt nhòa sắc xám. Tôi thấy cây cối mọc và thay đổi như những đợt hơi nước, vàng, rồi xanh; cỏ trồi lên, lan tràn, rồi chết. Tôi thấy những tòa nhà khổng lồ vươn cao, mờ và đẹp, rồi biến tan như mộng. Mặt địa cầu hình như biến đổi - chảy tan dưới mắt tôi. Chiếc kim chỉ vận tốc quay càng lúc càng nhanh hơn. Tôi thấy đường cung mặt trời thụt lên thụt xuống, từ vị trí này đến vị trí kia*, và từ đó tôi biết cứ mỗi phút tôi vượt khoảng một năm; mỗi phút tuyết phủ xuống địa cầu, tan biến, rồi nhường chỗ cho màu xanh tươi ngắn ngủi của mùa xuân.
    "Những cảm giác khó chịu lúc đầu bớt gay gắt rồi gom nhập vào nhau thành một khoái lạc điên cuồng. Chiếc máy thỉnh thoảng lắc qua lắc lại, tôi biết thế mà không hiểu lý dọ Nhưng đầu óc tôi không còn tỉnh táo đề bận tâm đến điều ấy. Với một sự điên dại tăng dần, tôi phóng tới tương lai không do dự. Đã có lúc tôi toan ngừng lại; nhưng rồi một loạt cảm giác của tò mò pha lẫn sợ hãi liên tục tràn lên, ngự trị tôi hoàn toàn. Thế là tôi cứ đi tới trước.
    "Tôi nghĩ đến biết bao nhiêu bước tiến lạ kỳ của nhân loại, bao nhiêu phát kiến tuyệt vời so với nền văn minh sơ khai hiện tại mà tôi không thể nào nhận biết rõ ràng qua hình ảnh của cái thế giới mờ ảo, khó phân định, đang hiện ra rồi biến đi vun vút. Tôi thấy những công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ hơn bất cư dinh thự lâu đài nào của chúng ta, mọc lên chung quanh; vậy mà chỉ mong manh như sương khói. Tôi thấy một màu xanh tươi đẹp tràn phủ lên đồi, lưu lại đó, không bị gián đoạn bởi mùa đông tuyết giá. Mặc dù tâm thần đang hỗn loạn, tôi thấy trái đất thật đẹp đẽ. Và tôi nghĩ đến việc dừng lại.
    "Nhưng nếu có bất cứ vật gì chiếm cùng khoảng không gian với tôi hoặc với chiếc máy thì thật là vô cùng nguy hiểm. Một khi tôi còn đi thật nhanh trong thời gian thì chẳng sao hết; vì tôi chỉ như một làn hơi luồn lách dễ dàng qua những kẻ hở của mọi vật thể. Nhưng ngừng lại có nghĩa là mỗi một phân tử trong thân thể tôi sẽ va chạm vào bất cứ vật gì chiếm cùng chỗ với nó. Rất có thể sự va chạm đó sẽ khiến mọi nguyên tử nổ tung, đưa tôi và chiếc máy thời gian về một cõi nào không biết. Khi chế tạo chiếc máy, tôi từng nhiều lần nghĩ đến điều này, và đã vui vẻ chấp nhận tất cả mọi hậu quả tàn khốc như đòi hỏi liều lĩnh phải có của đời sống. Nhưng lúc đối diện với thực tế, tôi thấy mình không còn nhìn sự việc vui vẻ như thế nữa.
  3. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0

    "Sự kỳ lạ tột cùng của mọi diễn biến, độ rung, lắc của chiếc máy, và nhất là cảm giác của một người bị rơi càng lúc càng nhanh vào khoảng trốn vô tận khiến hệ thống thần kinh của tôi nhộn nhạo. Tôi nhủ: "Có lẽ mình chẳng thể nào ngừng lại." Nhưng bất ngờ, như một gã điên nóng nảy, tôi chồm tay kéo lút cần thắng. Tức thì chiếc máy thời gian lật úp, ném văng tôi ra ngoài không khí.
    "Có tiếng sấm vang vào tai tôi. Hình như tôi chới với một lúc. Quanh tôi một trận mưa đá đang đổ xuống loạn cuồng; rồi tôi nhận ra mình đang ngồi trước chiếc máy thời gian lật úp. Vạn vật như vẫn còn mang màu xám, nhưng những tiếng ù trong tai tôi đã tan biến. Tôi nhìn quanh. Chỗ tôi đang ngồi hình như là một thảm cỏ trong một khu vườn, với nhiều bụi cây trường thanh bao quanh. Những đóa hoa tím nhạt và đậm rơi đầy trong cơn mưa đá. Những cục nước đá chạm vào chiếc máy thời gian, bật lên tung toé nhưng một cụm mây nhỏ, rồi rớt xuống chạy dài trên đất như những làn khói ngắn. Chỉ trong nháy mắt, tôi đã ướt như chuột lột. "Hay nhỉ", tôi thốt lên, "bạc đãi một người vượt thời gian vô tận để đến đây."
    "Nghĩ mình để bị ướt như vậy thật là dại, tôi đứng dậy, nhìn quanh. Một hình thù khổng lồ, hình như được đúc bằng đá trắng, hiện ra mờ mờ trong làn mưa sau những bụi trường thanh trải dài liên tiếp. Đó là tất cả những gì tôi thấy.
    "Thật khó diễn tả cảm giác của tôi lúc ấy. Khi lớp mưa đá mỏng dần, tôi thấy cái khối màu trắng rõ hơn. Quả thực khổng lồ, vì ngọn cây bạch thụ bên cạnh chỉ chấm tới hai phần ba của nó. Đó là một khối cẩm thạch, giống như các khối hình sư tử có cánh vĩ đại của sa mạc Trung Đông, nhưng đôi cánh thay vì xếp thẳng đứng lại xoè ra tạo thành dáng điệu như đang bay bổng. Những bậc thềm hình như bằng đồng thau, với hoen đồng xanh lướt phủ đầy. Đôi mắt vô hồn của con sư tử đá như đang nhìn tôi, và như có nét cười trên đôi môi nó. Nó đã bị tàn phá bởi thời gian, và cho tôi một cảm giác của sự bệnh hoạn. Tôi đứng nhìn nó, nửa phút, mà cũng có thể là nửa giờ đồng hồ. Nó như lùi lại, tiến lên tùy theo lớp mưa đá dày hơn hay mỏng bớt. Cuối cùng tôi quay mặt đi phía khác; trận mưa đá đã chỉ còn những hạt nhỏ li ti, không gian sáng lên hứa hẹn sự xuất hiện của mặt trời.
    "Tôi lại nhìn về phía con sư tử đá khổng lồ, và đột nhiên thấy chuyến đi của mình thật quá liều lĩnh. Việc gì sẽ xảy ra khi màn mưa đá mờ ảo kia hoàn toàn biến mất? Có chuyện gì không thể xảy ra cho loài người? Biết đâu sự tàn bạo đã trở thành tình cảm bình thường? Biết đâu con người đã mất hẳn nhân tính, trở thành một loài vô cảm xúc, với những khả năng cực kỳ ghê gớm? Biết đâu tôi sẽ bị coi như một con thú hoang của một thời quá khứ, với nét tương tự về hình dáng càng gây thêm sự bực tức khó chịu, một con vật dơ bẩn cần bị giết ngay lập tức?
    "Nhờ cơn mưa giảm bớt, tôi bắt đầu nhìn thấy những kiến trúc đồ sộ khác - những tòa nhà khổng lồ với ban công phức tạp và cột vút cao, bao quanh bởi cây cối phủ kín ngọn đồi. Tôi đâm ra hoảng hốt. Vội vàng, tôi chạy đến chiếc máy thời gian, cố tìm cách lật nó trở lại về vị trí đúng. Lúc ấy, ánh mặt trời tràn ra. Màn mưa bị kéo sang một bên, rồi tan biến như mảnh áo sau cùng của một bóng mạ Trên đầu tôi là bầu trời xanh của một ngày mùa hạ, vài thoáng mây nâu mờ chạy vào cõi hư vộ Những tòa nhà khổng lồ hiện rõ quanh tôi, lấp lánh dưới ánh mặt trời vì những giọt mưa đọng lại, và nổi bật trên nền trắng tạo thành bởi những hột mưa đá chưa kịp tan còn nằm trên mặt đất. Tôi thấy mình như kẻ trần truồng trong một thế giới xa lạ. Tôi có cảm tưởng như một con chim nhỏ đang bay, biết rằng phía trên cao có con ưng sắp nhào xuống chụp lấy mình. Cơn sợ hãi biến thành khủng hoảng, tôi thở vội lấy hơi, nghiến răng cố ghì chiếc máy thời gian, không những chỉ với hai bàn tay, mà với cả cổ tay, đầu gối. Không cưỡng nổi cố gắng tuyệt vọng của tôi, nó lật lại, đụng mạnh vào cằm khiến tôi đau điếng. Một tay đặt trên chỗ ngồi, tay kia trên cần số, tôi vừa thở dốc vừa lính quính cố leo lên chiếc máy.
    "Nhưng vừa biết rằng mình có thể trốn thoát, sự can đảm liền trở lại với tôi. Tôi lại nhìn, lần này tò mò nhiều hơn là sợ hãi, cái thế giới của một tương lai xa xôi. Qua khung cửa sổ tròn trên cao một tròa nhà gần đó, tôi thấy một nhóm người trong y phục mềm mại đắt tiền. Họ cũng đã thấy tôi, và tất cả đều quay mặt ra nhìn.
    "Rồi tôi nghe tiếng người đến gần. Qua những bụi cây gần tòa nhà sư tử trắng, tôi thấy đầu và vai của những người đang chạy. Từ con đường nhỏ dẫn tới thảm cỏ, người đầu tiên của tương lại xuất hiện trước mắt tôi. Hắn rất nhỏ con - có lẽ khoảng một thước hai (4 feet), mặc loại y phục mềm một mảnh có đeo thắt lưng (từ đây tôi sẽ gọi là nhất y cho gọn). Chân hắn đeo một loại như guốc hoặc sandals, ngoài ra để trần từ đầu gối trở xuống, và đầu hắn không đội nón. Nhìn hắn tôi chợt để ý là không khí xung quanh thật nóng.
    "Hắn cho tôi cảm tưởng của một người thật đẹp trai, dịu dàng, nhưng vô cùng yếu đuối. Nét mặt hồng của hắn khiến tôi nghĩ tới cái đẹp của những người bị bệnh lao - cái đẹp cuồng nộ mà chúng ta từng nghe nhiều lần. Nhìn hắn, tôi đột nhiên sinh ra tự tin. Thế là tôi buông tay ra khỏi chiếc máy thời gian(còn nữa)
  4. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi, tôi và con người yếu ớt của tương lai, đứng đối diện nhau trong khoảnh khắc. Hắn đến bên tôi và cười phá lên. Sự vắng mặt của những dấu hiệu chứng tỏ hắn sợ hãi ngay lập tức làm tôi ngạc nhiên. Rồi hắn quay qua hai người kia và nói với họ bằng một giọng lạ lùng nhưng rất ngọt và uyển chuyển.
    "Có những người khác đi tới, và đây là một nhóm khoảng bảy hay tám người mảnh khảnh vây quanh tôi. Một người trong bọn lên tiếng hỏi. Tôi sực nhớ ra rằng tiếng nói của mình quá khàn và trầm, cho nên tôi lắc đầu và chỉ vào tai mình, lắc đầu lần nữa. Người đó tiến tới một bước, rụt rè, và sờ tay tôi. Rồi tôi cảm thấy những xúc tua mềm mại nhỏ xíu trên lưng và vai. Họ muốn biết chắc rằng tôi có thật. Không hề có một chút gì thù địch trong những cử động của họ. Quả thật, có cái gì đó trong những con người nhỏ bé đẹp đẽ này toát ra sự tự tin - sự nhã nhặn duyên dáng, nét ngây thơ hiển nhiên của trẻ con. Và bên cạnh đó, họ rất yếu đuối, đến nỗi tôi tưởng tượng một mình tôi có thể nhấc bổng một tá người như họ trong trò chơi ky chín con (ninepins). Nhưng tôi chỉ làm một cử chỉ đe dọa khi thấy những bàn tay hồng hào rờ rẫm chiếc máy thời gian. Tôi nghĩ đến một nguy hiểm mà tôi hầu như quên bẵng cho đến giờ và hấp tấp vươn đến những thanh ngang của chiếc máy, tháo những cái đòn bẩy nhỏ xíu dùng để khởi động nó, và mừng rỡ bỏ chúng vào túi trước khi quá muộn. Rồi tôi quay lại, suy nghĩ làm cách nào để chuyện trò với họ.
    "Nhìn gần hơn, tôi thấy vài nét sâu xa riêng biệt trong vẻ đẹp kiểu Dresden-china của họ. Tóc, uốn cong một cách đều đặn, đuôi tóc ở cổ và gò má để nhọn; không một gợi ý thêm bớt về khuôn mặt, dù là đường nét mờ nhạt nhất, lỗ tai của họ đặc biệt nhỏ. Chiếc miệng cũng nhỏ với đôi môi mỏng đỏ thắm và chiếc cằm nhọn be bé. Đôi mắt lớn, dịu dàng; và - có lẽ là tính tự cao tự đại của tôi - tôi cho rằng hiển nhiên có một sự kém hấp dẫn nơi họ, không như tôi hằng mong muốn.
    "Họ không tỏ vẻ muốn trò chuyện với tôi, chỉ đứng chung quanh tôi mỉm cười và thì thầm trao đổi với nhau những âm thanh nhẹ nhàng. Tôi bắt đầu cuộc nói chuyện. Tôi chỉ vào chiếc máy thời gian và tôi. Rồi do dự tìm cách diễn tả thời gian trong một chốc, tôi chỉ lên mặt trời. Ngay lập tức một người nhỏ bé xinh đẹp trong y phục kẻ ô vuông tím và trắng làm theo điệu bộ của tôi và làm tôi hết sức ngạc nhiên bằng cách bắt chước tiếng sấm.
    "Trong chốc lát, tôi sửng sốt, mặc dù ngụ ý trong dáng điệu của hắn ta vừa đủ rõ. Câu hỏi đến trong trí tôi một cách đột ngột: những người này ngớ ngẩn chăng? Qúy vị có lẽ khó hiểu câu hỏi chấn động tôi cỡ nào. Thấy đấy, tôi luôn luôn mong đợi rằng những người của năm tám trăm ngàn và hai ngàn lẻ sẽ là phi thường về mặt kiến thức, nghệ thuật, tất cả... Rồi một người trong bọn đột nhiên hỏi tôi một câu cho thấy trí thông minh của anh ta ở vào mức độ của một đứa trẻ lên năm - anh ta hỏi tôi, có thật tôi đến từ mặt trời trong một cơn bão! Việc này làm lung lay sự đánh giá mà tôi đã dựa trên những bộ áo quần của họ, những cánh tay mảnh dẻ, và những đặc điểm yếu đuối. Một cơn thất vọng chạy ngang qua đầu tôi. Thoáng chốc, tôi có cảm tưởng tôi đã chế tạo chiếc máy thời gian trong sự vô ích.
    "Tôi cúi đầu, chỉ lên mặt trời, và tặng lại một tiếng vỗ tay vang như sấm, khiến họ giật mình. Tất cả bọn họ lui lại một bước và cúi chào. Rồi một người vừa cười vừa tiến về phía tôi, mang theo một chuỗi những bông hoa tuyệt đẹp mà tôi chưa hề thấy, choàng lên cổ tôi.* Sáng kiến này được ngay một tràng pháo tay tán thưởng. Mọi người chạy đôn chạy đáo tìm hoa, phủ lên đầy cổ, rồi che cả mặt tôi đến nỗi muốn nghẹt thở. Qúy vị không chứng kiến tận mắt nên không thể tưởng tượng những bông hoa của tương lai đẹp tuyệt vời thế nào. Một người lên tiếng, hình như đề nghị với đồng bọn là nên chưng bày món đồ chơi (tức là tôi) ở một nơi gần đó, tôi đoán thế vì họ dẫn tôi ngang qua tòa nhà sư tử trắng mà tôi đã nói đến nhiều lần lúc nãy. Đôi mắt của con sư tử đá khổng lồ như theo dõi, và tôi có cảm tưởng nó đang cười trên sự ngạc nhiên của tôi. Chúng tôi tới trước một tòa nhà xây bằng đá đã bị xoi mòn. Vừa đi tôi vừa nhớ lại niềm tin mãnh liệt của mình trước đây về một thế giới tương lai nghiêm trang và trí thức mà không khỏi tức cười.
    "Cửa chính thật lớn, và những phần khác của tòa nhà cũng vĩ đại tương tự. Theo lẽ tự nhiên, tôi nghĩ nhiều nhất đến đám người càng lúc càng tụ về đông đảo, đến những bí mật đang dần hé mở. Nhìn từ tầm cao quá đầu đám người thấp bé, ấn tượng chung chung của tôi về thế giới của họ là một khoảng mênh mông đầy những bụi cây và bông hoa đẹp đẽ, một khu vườn bỏ quên nhưng lại không có dấu vết nào của loài cỏ dại! Tôi thấy những đọt dài, trên là những đóa hoa trắng lạ lùng, đường kính có lẽ đo tới 3 tấc, nở rộ khắp nơi, xen vào giữa những bụi cây đủ loại. Nhưng, như tôi đã nói, tôi không quan sát thật kỹ. Chiếc máy thời gian vẫn còn ở ngoài đồng trống, cạnh những bụi trường thanh.
    "Vòng cung trên cánh cửa được chạm trổ tỉ mỉ. Dĩ nhiên tôi không xem kỹ những vết chạm, nhưng tôi nghĩ tôi thấy chúng có nét Phoenician khi đi ngang quạ Điều khiến tôi chú ý là những vết này đều rất cũ, và bị tàn phá bởi thời gian. Tôi gặp thêm vài người mặc nhất y rực rỡ, họ nhập bọn với chúng tôi và cùng đi vào trong. Trong bộ quần áo sậm của thế kỷ 19, tôi như một hình ảnh thô kệch, người phủ đầy hoa, giữa những bộ nhất y đủ màu tươi mát, những tay chân người trắng như bông, và những đợt nói cười vang vang như sóng.
    "Qua cánh cửa lớn là một căn phòng vĩ đại giới hạn bởi những bức tường nâu. Trần ở trên cao nên ánh nắng bên ngoài không chiếu tới, nhưng nhờ những khung cửa sổ - có khung trống, có khung được lắp những mảnh kiếng màu giảm nắng - mà căn phòng có một ánh sáng dịu. Sàn được tạo thành bởi những khối khổng lồ của một thứ kim loại trắng nào đó (không phải mảnh, hoặc miếng, mà là khối). Sàn đã cũ lắm, chắc đã trải qua nhiều thế hệ, vì tôi thấy rõ những đường lõm sâu ở những lối nhiều người đi lại. Xếp thẳng góc với lối đi là những chiếc bàn làm bằng những khối đá mài, cao khoảng 3 tấc khỏi mặt sàn, trên có trái cây xếp thành đống. Một vài loại trái cây nhìn giống như dâu và cam, nhưng hầu hết tôi chưa từng thấy bao giờ.
    "Giữa những chiếc bàn có những chiếc nệm xếp rải rác. Đám người hướng dẫn tôi ngồi xuống nệm và ra dấu cho tôi làm theo. Không thể thức rườm rà, họ bắt đầu ăn trái cây, ném vỏ, cọng, hột v.v... vào những lỗ hổng tròn ở thành bàn. Tôi làm theo họ không ngại ngùng, vì tôi đã rất đói và khát. Vừa ăn, tôi vừa đảo mắt quan sát căn phòng.
    "Điều khiến tôi chú ý nhất là sự điêu tàn của nó. Những tấm kính giảm nắng ở cửa số - trang trí bằng các nét kỷ hà đơn giản - đã bị vỡ ở nhiều nơi, những tấm vải mành treo bên dưới phủ bụi dầy cộm, và tôi cũng thấy ngay là chiếc bàn đá gần tôi đã bị bể một góc. Tuy vậy, hình ảnh tổng quát vẫn là sang trọng và hùng vĩ.
    "Tôi ước lượng số người đang ăn trong phòng có lẽ tới hai trăm. Ai cũng cố tìm cách đến gần để quan sát tôi cho kỹ. Tất cả đều mặc cùng một loại y phục, làm bằng một thứ giống như lụa, có vẻ mềm nhưng bền chắc.
    "Trái cây là đồ ăn duy nhất của họ. Những con người tương lai này là dân ăn chaỵ vì vậy trong thời gian ở với họ, dù có khi thèm thịt, tôi cũng phải tập dần thói ăn trái cây. Sau tôi khám phá rằng ngựa, trâu, bò, heo, cừu, chó đều đã tuyệt chủng. Nhưng trái cây của họ cũng rất ngon. Một loại, hình như bao giờ cũng có trong thời gian tôi ở đó, có hình ba góc, cùi bên trong như bột, thì thật tuyệt, tôi luôn luôn chọn làm món ăn chính. Lúc đầu, sự hiện diện của những trái cây và những bông hoa đã khiến tôi vô cùng thắc mắc, mãi sau này tôi mới hiểu ra.
    "Qúy vị vừa nghe về bữa ăn trái cây của tôi trong tương lai xa tít. Hơi no rồi, tôi quyết định tìm cách học ngôn ngữ của những người bạn mới. Hiển nhiên đó là việc kế tiếp phải làm. Tên các loại trái cây có vẻ như một cách bắt đầu hợp lý. Tôi cầm một trái lên, cố làm dấu hỏi tên bằng miệng cũng như bằng taỵ Thoạt đầu, họ chỉ đáp lại tôi bằng những cái nhìn ngạc nhiên hoặc những tràng cười bất tận, nhưng rồi cũng có một người hiểu ý, lập đi lập lại một chữ cho tôi bắt chước. Họ mất khá nhiều thời giờ bàn thảo, giải thích cho nhau; và khi tôi cố gắng lặp lại một cách không mấy chính xác âm thanh líu lo vừa được dạy, họ lại phá lên cười. Không sao! Với sự tự tin của một ông thầy giáo giữa đám học trò nhỏ, tôi cứ tiếp tục. Một lát sau tôi biết một số danh từ, rồi một số đại danh từ, và ngay cả động từ "ăn". Nhưng tôi phải tốn rất nhiều công phu, và chẳng mấy chốc những người bạn nhỏ bé của tôi đã tỏ vẻ chán, không muốn dạy tôi nữa. Tôi chỉ còn cách để họ dạy mỗi lần một chút. "Một chút" ở đây phải hiểu là vô cùng ít ỏi, vì chẳng bao lâu sau tôi khám phá ra rằng những người bạn nhỏ bé mới quen của tôi là những người lười biếng nhất và mau mệt mỏi nhất mà tôi từng biết.
    "Cũng chẳng bao lâu sau, tôi khám phá rằng họ chẳng hề chú tâm tới một chuyện gì cả. Họ có thể đến gần tôi, kêu lên những tiếng ngạc nhiên như trẻ con gặp vật lạ, nhưng cũng như trẻ con, họ tức thì bỏ rơi tôi để đi tìm món đồ chơi khác. Bữa ăn và cuộc đàm thoại đầu tiên chấm dứt, tôi nhìn quanh, những người trong đám đông gặp tôi ở ngoài vườn và dẫn tôi vào đây đã biến đâu mất. Mà quả thật là lạ, vì chính tôi cũng quên những người mới gặp một cách mau chóng. Cơn đói vừa hết, tôi bước ra ngoài ánh nắng. Tôi lại gặp thêm nhiều nhóm người của tương lai, nói chung họ đều bước theo tôi một quãng, đùa cợt tíu tít với nhau về tôi, và sau khi cười nói và tỏ vài thái độ thân thiện, họ lại bỏ đi để mặc tôi muốn làm gì thì làm.
    "Sự bình lặng của hoàng hôn đã bắt đầu phủ lên mặt đất, khung cảnh quanh tôi được soi bởi ánh nắng vẫn còn ấm áp của mặt trời sắp lặn. Phải mất khá lâu tôi mới bắt đầu quen với những đổi thaỵ Tất cả đều khác lạ với những gì tôi quen thuộc, ngay cả những bông hoa. Tòa nhà lớn mà tôi được dẫn vào lúc nãy nằm trên sườn đồng bằng thoai thoải của một dòng sông rộng, nhưng dòng Thames đã đổi chỗ, khoảng một dặm từ vị trí hiện tại của nó. Tôi quyết định đi lên một đỉnh đồi cách nơi đang đứng khoảng một dặm rưỡi vì từ đó tôi có thể nhìn xa để biết rõ hơn cái hành tinh của chúng ta ở năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một. Về con số dài dằng dặc đó, cũng nên nói là tôi đọc nó từ đồng hồ chỉ năm của chiếc máy thời gian.
    "Vừa đi tôi vừa cố tìm những dấu hiệp giúp tôi giải thích sự huy hoàng đã hoá điêu tàn. Vì khung cảnh quả là điêu tàn thật. Từ chân đồi đi lên một chút chẳng hạn là một đống đá nối với nhau bằng những khối nhôm, những bức tường thẳng đứng kết nối phức tạp như mê cung, những chồng vật liệu nằm ngổn ngang, bị thời gian soi mòn, làm cho rỉ sét, xen lẫn vào đó là những bụi cây dại thuộc họ xếp tầng - có thể là cây tầm ma - nhưng lá xen lẫn ánh nâu thật đẹp và hoàn toàn không có gai sắc. Chắc chắn đây là tàn tích của một công trình kiến trúc vĩ đại và công phu, dựng lên để làm gì thì tôi không thể biết. Chính nơi đó số mạng sau này đã dẫn dắt để tôi có một kinh nghiệm lạ kỳ - chỉ là bước đầu của một khám phá còn lạ kỳ hơn nữa - mà lát nữa tôi sẽ kể khi đến lúc.
    "Nhìn từ một mô đất mà tôi chọn làm chỗ tạm nghỉ, đột nhiên tôi nhận ra là xung quanh không hề có một ngôi nhà nào cả. Hình như loại nhà riêng, và có thể cả hệ thống gia đình nữa, đã biến mất. Đây đó giữa khoảng xanh mênh mông là những tòa chung cư vĩ đại giống như dinh thự, lâu đài; nhưng những căn nhà nhỏ, những túp lều con quen thuộc của đời sống người Anh chúng ta, đều không còn nữa.
    "Cộng sản." Tôi lẩm bẩm với chính mình.
  5. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    Vừa nghĩ đến đó, óc tôi lại nảy thêm một điều nữa. Tôi nhìn năm sáu người theo sau tôi. Đột nhiên tôi nhận ra y phục của họ đều được may cùng một kiểu, những khuôn mặt không râu đều tương tự, và ngay cả nét mềm mại như con gái của họ cũng tương tự nhau. Thật lạ kỳ, vì trước đó tôi chưa hề để ý đến sự tương tự này. Nhưng trong chuyến đi này của tôi, có gì mà không lạ kỳ đâu? Bấy giờ, tôi nhìn ra sự thật. Y phục, cũng như tất cả mọi sự khác biệt khác giữa hai phái, đều đã trở thành giống nhau ở những con người tương lai. Ngay cả những đứa trẻ, dưới mắt tôi, chỉ là những hình thu nhỏ của cha mẹ chúng. Dựa theo đó, tôi đoán những đứa trẻ ở tương lai phát triển rất sớm, tối thiểu về thể xác; và sau này tôi tìm ra nhiều bằng cớ chứng minh đó là một lời đoán đúng.
    "Nhìn thấy lối sống dễ dãi và hoàn cảnh an toàn mà những người tương lai được hưởng, tôi cho rằng sự tương tự giữa hai phái là một kết quả đoán được. Vì sự mạnh mẽ của phái nam, sự dịu dàng của phái nữ, hệ thống gia đình, và sự khác biệt về nhiệm vụ giữa hai phái chỉ là một hiện tượng bắt buộc cho nhu cầu sống còn của thời đại bạo lực. Khi dân số đã quân bình và đông đảo, việc sinh đẻ nhiều không còn là may mắn mà trở thành một hiểm họa cho tập thể. Khi bạo lực ít xảy ra và khi những đứa bé sơ sinh được bảo đảm an toàn, người ta sẽ bớt cần - thực ra, sẽ không cần nữa - sự đùm bọc của gia đình, và sự phân nhiệm của hai phái nhắm vào việc bảo vệ và nuôi dưỡng những đứa bé sơ sinh sẽ biến mất. Tiến trình này đã tỏ một số dấu hiệu ngay trong thời đại của chúng ta; ở tương lai, nó được hoàn thành. Cần nhắc cho quý vị rõ, những điều vừa kể chỉ là sự ước đoán của tôi lúc đó. Sau này tôi mới bật ngửa vì sự thật lại hoàn toàn khác hẳn.
    "Trong khi suy nghĩ, một vật đập vào mắt tôi. Nó có hình như một cái giếng đẹp, bên trên có mái hình vòng cung. Tôi lờ mờ liên tưởng đến sự kỳ lạ của những cái giếng vẫn còn hiện hữu, rồi lại tiếp tục dòng suy nghĩ. Đường đi lên đồi không có dinh thự nào cả, và sức đi bộ của tôi hẳn nhiên vượt xa những người tương lai. Thế là tôi chỉ còn lại một mình. Một cảm giác kỳ lạ của thôi thúc tự do cũng như ý muốn thám hiểm đẩy tôi dần lên đỉnh đồi.
    "Trên đó tôi thấy một chiếc ghế làm bằng một thứ kim loại màu vàng mà tôi không biết tên, hai chỗ để tay được đúc và mài dũa thành hình con sư điểu. Ghế đã cũ lắm rồi. Chỗ này chỗ kia đã biến thành hồng vì rỉ sét, phân nửa thì rêu mềm phủ kín. Tôi ngồi xuống quan sát cảnh mặt trời lặn trên thế giới của chúng ta sau ngày dài đó. Khung cảnh dịu và đẹp chẳng thua gì bất cứ cảnh nào tôi từng được thấy. Mặt trời vừa lặn hẳn, phương tây lung linh một màu vàng tươi pha lẫn những lằn tím và đỏ. Phía dưới là thung lũng ở giữa dòng Thames nằm như một khúc thép dài đang cháy bỏng. Qúy vị đã nghe về những dinh thự khổng lồ rải rác khắp nơi trong vùng đất mông mênh đầy cây cỏ, bị tàn phá cũng có, vẫn còn người ở cũng có. Đó đây những công trình kiến trúc màu trắng bạc nổi lên trong khu vườn hoang của trái đất, những đường xây thẳng đứng, những mái vòm cong, những đài cao bằng đá khắc hình thú vật. Không có hàng rào, không có dấu hiệu của tài sản riêng tư, của những thửa ruộng có người canh tác; toàn thể địa cầu đã biến thành một khu vườn vĩ đại.
    "Vừa quan sát, tôi vừa suy đoán về những điều nhìn thấy. Và buổi chiều chiều hôm đó đại khái tôi nghĩ thế này: (về sau tôi vỡ lẽ là tôi chỉ đúng phân nửa, chính xác hơn phải nói tôi chỉ mới thoáng thấy một mặt nhỏ của sự thật)
    "Tôi cho rằng tôi đã chứng kiến giai đoạn suy tàn của loài người. Màu ráng đỏ của bầu trời trong buổi hoàng hôn khiến tôi liên tưởng đến buổi hoàng hôn của nhân loại. Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ đến các kết quả kỳ dị của những nỗ lực xã hội đang được thực hiện bởi chúng tạ Nhưng, nếu suy cho kỹ, thì tất cả đều hợp lý. Sức mạnh là kết quả của nhu cầu sống còn; sự an toàn tạo cơ hội cho sự yếu đuối. Những công lao được bỏ ra để tăng điều kiện sống - một tiến trình tất yếu của con người văn minh giúp cho đời sống càng lúc càng an toàn - đã tiến dần đến tột đỉnh. Loài người đoàn kết tranh đấu với thiên nhiên, đạt hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Những điều chỉ là mơ mộng ở hiện tại đã trở thành kế hoạch được hoàn thành mỹ mãn. Và những gì tôi thấy chính là kết quả của những chiến thắng đó!
    "Các ngành vệ sinh học và nông học của thời chúng ta vẫn còn ở trình độ sơ khai. Khoa học chỉ mới thành công trong việc ngăn ngừa và tiêu diệt một số nhỏ các bệnh tật, nhưng, ngay cả như thế, nó vẫn tiến một cách vững vàng và quyết liệt. Với khoa nông lâm súc, khi diệt một loài cây cỏ dại chúng ta đồng thời trồng lên nhiều loại cây cỏ tốt đẹp, để chúng đấu tranh với nhau mà sống còn. Những loại cây cỏ, thú vật mà chúng ta thích được cải tiến (và con số của chúng thật ít) bằng khoa gây giống. Hôm nay là một loại trái đào mới hơn và ngon hơn, ngày mai là một loại nho không có hột, ngày mốt là một loại hoa lớn hơn và tươi mát hơn, một ngày khác nữa là những giống gia súc mới dễ nuôi hơn. Những bước cải tiến xảy ra dần dần, vì chúng ta chỉ hiểu một cách lờ mờ những điều muốn nhắm tới, vì kiến thức của chúng ta rất giới hạn, và vì thiên nhiên rất nhút nhát và chậm chạp trong bàn tay của chúng tạ Một tương lai nào đó, tất cả sẽ được tổ chức quy củ hơn, để kết quả đạt được còn tốt đẹp hơn nữa. Như dòng nước vẫn cứ trôi mặc cho sự cản ngăn của những vùng rốn xoáy. Cả thế giới sẽ trở thành thông minh, học thức, và có tinh thần hợp tác cao độ. Vận tốc của các chuyển biến sẽ xảy ra càng lúc càng nhanh, dẫn đến sự khuất phục thiên nhiên một cách hoàn toàn. Cuối cùng, một cách khôn ngoan và thận trọng, chúng ta sẽ chọn một tình trạng quân bình giữa động vật và thực vật sao cho những đòi hỏi của chúng ta được tuyệt đối thỏa mãn.
    "Những bước điều chỉnh này, theo tôi, đã được thực hiện, và được thực hiện trong mọi lúc của thời gian, trong suốt khoảng thời gian mà chiếc máy của tôi đã vượt quạ Trên không hết hẳn ruồi muỗi, dưới đất cỏ dại và nấm dại không còn; chỉ có trái cây, những bông hoa tươi đẹp, và những cánh **** muôn màu bay lượn. Phương thuốc ngừa bệnh lý tưởng đã được tìm thấy. Bệnh tật hoàn toàn biến mất. (Tôi không thấy bất cứ dấu hiệu nào của một bệnh hay lây trong suốt thời gian ở tương lai.) Và tôi cần thêm rằng những thay đổi này có ảnh hưởng lớn đến ngay cả diễn trình hủy hoại của các sinh vật.
    "Một kết quả nữa là sự chiến thắng của đời sống xã hội. Tôi thấy nhân loại ở trong những dinh thự nguy nga, mặc những y phục lộng lẫy, vậy mà không ai làm việc gì cả. Không có dấu hiệu gì của nỗ lực đấu tranh, xã hội cũng như kinh tế. Hàng quán, quảng cáo, xe cộ, tất cả những thứ liên quan đến thương mại được coi là một phần căn bản của đời sống chúng ta, đều đã tan biến. Và trong buổi chiều vàng đó, ý tưởng của một thiên đường xã hội đã đến với tôi một cách tự nhiên. Tôi đoán là vấn đề dân số đã được giải quyết, và tổng số nhân loại không tăng thêm nữa.
    "Nhưng với điều kiện sống thay đổi, tất nhiên con người cũng phải thay đổi cho thích hợp. Và nếu môn vạn vật không sai từ nền tảng thì nguyên nhân gì dẫn đến sự thông minh và cần cù của loài người? Hoàn cảnh khó khăn và ước muốn tự do là lý do khiến những người tích cực, có sức mạnh, và khôn ngoan tồn tại trong khi những kẻ yếu bị tiêu diệt; đó chính là lý do tại sao sự trung thành, sự tự chế, kiên nhẫn, và khả năng quyết định được ca tụng. Hệ thống gia đình và những tình cảm từ đó sinh ra, tính ghen tuông tàn khốc, sự dịu dàng với những đứa trẻ sơ sinh, sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái, tất cả đều từ nhu cầu bảo vệ những sinh vật đồng chủng còn non nớt mà ra. Nhưng trong cái tương lai mà tôi gặp có mối nguy hiểm nào đâu? Trong hoàn cảnh đó, khuynh hướng chống lại những ghen tuông giữa vợ chồng, những tình mẫu tử cuồng nhiệt, cũng như tất cả mọi loại tình cảm khác sẽ phát triển lớn mạnh. Bởi tất cả những tình cảm đó không còn cần thiết nữa, chỉ còn là đầu mối gây ra những khó chịu, man rợ, bất hòa trong một đời sống tiến bộ vui tươi.
    "Tôi nghĩ đến vóc dáng yếu đuối và sự thiếu thông minh của những người tương lai, đến những tàn tích đầy dẫy xung quanh, và càng chắc chắn hơn nữa rằng con người đã hoàn toàn chiến thắng thiên nhiên. Vì sau trận đánh là sự im lặng. Con người đã mạnh mẽ, hăng hái, thông minh, và đã xử dụng năng lực của mình để đổi thay điều kiện sống của họ. Đã đến lúc xảy ra những phản ứng của sự đổi thay đó.
    "Trong hoàn cảnh mới, tuyệt đối thoải mái và tuyệt đối an toàn, cái năng lực phải phát tiết mà chúng ta gọi là sức mạnh giờ trở thành sự yếu đuối. Ngay trong thời của chúng ta, một số khuynh hướng và ý muốn rất cần thiết cho sự sống còn ở thuở xa xưa đã trở thành lý do khiến người ta thất bại. Tính liều mạng và thích đánh nhau, chẳng hạn, không những ít khi làm lợi mà nhiều khi còn biến thành trở ngại cho con người văn minh. Sức mạnh, trí não cũng như thể xác, chẳng còn chỗ đứng nào nữa khi đã có sự an toàn tuyệt đối. Tôi đoán thế giới của tương lai đã trải qua một giai đoạn rất dài không bị đe dọa bởi chiến tranh cũng như tội ác cá nhân, không bị đe dọa bởi thú dữ, không có bệnh ngặt nghèo đòi hỏi sức mạnh để sống còn, và không có nhu cầu lao động. Trong một đời sống như vậy, kẻ mà chúng ta gọi là yếu cũng thích ứng y hệt như kẻ mạnh, nên không thể gọi họ là "yếu" nữa. Mà thực ra họ mới là kẻ thích hợp hơn, vì kẻ mạnh sẽ bị hành hạ bởi cái năng lực không có chỗ phát tiết. Hẳn nhiên nét đẹp tuyệt vời của những dinh thự hùng vĩ mà tôi thấy chính là tàn tích sau cùng của cái năng lực đã mất mục đích ấy, trước khi nhân loại hòa mình vĩnh viễn vào đời sống mới - đoạn kết của chiến thắng, và khởi điểm của nền hòa bình sau cùng. Đây là số phận đương nhiên của năng lực sau khi đã có sự an toàn; nó phát tiết qua nghệ thuật, ********, tiếp tục bằng sự mệt mỏi, bế tắc, và kết thúc bằng sự suy tàn.
    "Ngay cả khuynh hướng nghệ thuật cũng đã gần như chết hẳn trong cái tương lai tôi đến. Người ta khoác hoa lên mình, nhảy múa, ca hát dưới ánh mặt trời: đó là tất cả những gì còn sót lại và không gì hơn nữa. Nhưng rồi sẽ đến một lúc ngay cả những hành động vu vơ như vậy cũng chấm dứt, nhường chỗ cho một trạng thái thụ động đầy hạnh phúc. Sự sắc bén của loài người có được là nhờ hòn đá mài kết tạo từ hai yếu tố khổ đau và cần thiết. Ở tương lai tôi thấy cuối cùng hòn đá mài đó đã bị đập tan!
    "Tôi đứng đó trong bóng đêm càng lúc càng dày đặc, cho rằng với những lập luận đơn giản vừa kể, tôi đã nắm vững vấn đề của thế giới, hiểu trọn vẹn cái bí mật của giống người rất dễ thương này. Có thể phương pháp giới hạn dân số của họ quá hiệu nghiệm, nên dân số thế giới thay vì đứng yên đã giảm sút. Giả thuyết này giải thích được sự hoang phế của nhiều công trình kiến trúc mà tôi đã thấy. Lập luận của tôi thật đơn giản, và thật hữu lý, như tất cả mọi lý thuyết sai lầm.
  6. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    PHẦN 5
    Trong khi tôi đứng đó ngẫm nghĩ về cái chiến thắng quá toàn vẹn của loài người thì vầng trăng tròn, vàng và đầy đặn đã nhô lên từ vùng ánh sáng phía đông bắc. Bên dưới không còn bóng người qua lại, một con cú bay qua lặng lẽ*, tôi quyết định xuống đồi tìm chỗ ngủ.
    "Nhìn xung quanh để định lại phương hướng, mắt tôi chạm vào tòa sư tử nền đồng nổi bật dưới ánh trăng ở phía xa xạ Tôi thấy cây bạch thụ bên cạnh, những bụi trường thanh hiện hình như những bóng đen, và thảm cỏ quen thuộc. Nhìn lại thảm cỏ lần nữa, sự bình thản của tôi biến mất. "Không," tôi tự nói với mình, "đó không thể nào là thảm cỏ cũ."
    "Nhưng đó chính là thảm cỏ cũ, vì khuôn mặt trắng bệch của con sư tử đá vẫn nhìn thẳng về phía nó. Qúy vị chắc không thể nào tưởng tượng nổi những ý nghĩ chạy qua đầu tôi lúc ấy. Chiếc máy thời gian đã biến mất!
    "Tức thì, đột ngột như vừa bị một vết chém vào mặt, tôi nghĩ đến việc mình bị mất lối trở về, bị kẹt lại vĩnh viễn ở cái thế giới lạ hoắc này. Ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác khủng khiếp. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại, như không thể nào thở nổi. Trong chớp mắt sự sợ hãi khiến tôi chạy như bay xuống đồi. Qúa vội, tôi vấp chân té sướt cả mặt. Nhưng tôi không hề lau những giọt máu rỉ xuống má, xuống cằm, mà lại nhảy dựng lên, chạy tiếp. Vừa chạy tôi vừa lẩm bẩm với chính mình: "Họ đã đẩy nó vào một bụi cây ở đâu đó thôi." Nghĩ là nghĩ vậy, tôi vẫn chạy như điên. Bởi cùng lúc, với một sự chắc chắn thường đi theo cảm giác sợ hãi, tôi biết là tôi đã tự dối mình, tôi biết chiếc máy đã bị dời đến một nơi nào đó ngoài tầm tay với của tôi. Hơi thở của tôi bắt đầu mệt nhọc và đau đớn. Từ đỉnh đồi đến thảm cỏ có lẽ đến hai dặm, tôi cũng chẳng còn trẻ gì, vậy mà chỉ chạy khoảng mười phút đồng hồ đã đến nơi. Vừa chạy tôi vừa mắng chửi mình, tự trách sự tự tin ngu xuẩn đã khiến tôi để lại chiếc máy giữa thảm cỏ trống. Tôi hét thành tiếng lớn, nhưng không có ai trả lời. Vạn vật im lìm trên mặt đất phủ đầy ánh trăng.
    "Tới thảm cỏ, nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của tôi trở thành sự thật. Không có một dấu vết gì của chiếc máy. Tôi đứng ngây người, mệt và lạnh trên vùng cỏ bao quanh bởi những bụi cây. Tôi chạy quanh thảm cỏ, rồi đứng phắt lại, vò tai bứt tóc. Ở trên cao, chiếc đầu sư tử trên bệ đồng, trắng toát, lung linh bệnh hoạn dưới ánh trăng hình như mỉm cười thích thú trước hoàn cảnh khốn đốn của tôi.
    "Tôi muốn tự trấn an rằng có lẽ những người tương lai nhỏ bé kia đã đưa chiếc máy đến một nơi an toàn dùm tôi, nhưng sự yếu đuối và ngu ngốc của họ khiến tôi phải bỏ ý nghĩ ấy đi. Và đó chính là lý do khiến tôi sợ hãi: bởi như vậy tức là có một thế lực nào khác đã lấy mất chiếc máy thời gian, và tôi không hề biết gì về thế lực ấy. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi tạm yên tâm: trừ trường hợp một thời đại nào đó có phát minh y hệt, chiếc máy chắc chắn chưa bị đẩy vào một khoảng thời gian khác. Lý do là cách gắn những chiếc cần số - mà lát nữa tôi sẽ trình bày với quý vị - khiến chuyện ấy không xảy ra được. Như vậy chiếc máy chỉ bị dời chỗ và dấu kín trong không gian thôi. Nhưng nó bị dấu ở đâu lại là một vấn đề khác.
    "Hình như lúc ấy tôi nổi cơn điên. Tôi chạy một cách hung dữ từ bụi cây này đến bụi cây nọ chung quanh tòa sư tử, gây sự sợ hãi cho một con vật màu trắng mà tôi cho là một loài hươu nhỏ. Tôi cũng nhớ rõ lắm; khuya đêm đó, tôi liên tục đấm vào những lùm cây, để mặc cho tay mình chảy máu vì những cành gẫy đâm vào. Rồi, vừa khóc vừa la sảng trong nỗi đớn đau cùng cực, tôi trở lại tòa nhà bằng đá. Căn phòng lớn tối đen, lặng yên, và hoang vắng. Tôi trượt chân trên mặt sàn lồi lõm, ngã nhào vào một chiếc bàn, tưởng muốn gẫy ống quyển. Tôi đốt một que diêm soi đường qua những tấm màn cửa phủ đầy bụi đã tả trước đây.
    "Trước mắt tôi là một căn phòng lớn khác, xếp đầy gối và có thật nhiều người tương lai đang ngủ. Chắc chắn họ phải thấy cách xuất hiện lần thứ hai của tôi thật là lạ lùng: phóng ra từ bóng tối, miệng kêu la, tay cầm một que diêm đang cháy. Vì họ đã quên diêm quẹt từ lâu rồi. "Chiếc máy thời gian của tôi đâu?" Tôi vừa gào vừa lay hết người này đến người khác. Hẳn nhiên, họ cho rằng tôi quái đản lắm. Vài người cười rộ, nhưng hầu hết chỉ nhìn tôi thảng thốt. Khi họ đứng lên bao quanh tôi, tôi nghĩ lại thấy mình đã làm một việc hoàn toàn vô ích. Mục đích của tôi là gây sự sợ hãi trong lòng họ; nhưng dựa theo thái độ ban ngày của họ mà xét, tôi cho rằng họ đã quên mọi nỗi sợ hãi từ lâu rồi.
    "Tôi vất toẹt que diêm xuống, đẩy một người tình cờ đứng cản đường sang bên, loạng choạng trở lại căn phòng ăn vĩ đại, và bước ra ngoài ánh trăng. Tôi nghe những tiếng kêu hoảng hốt, những tiếng chân vội vàng của họ vọng theo. Tôi không nhớ hết những gì tôi làm trong suốt khoảng thời gian mặt trăng lặng lẽ đi xuyên qua bầu trời. Có lẽ sự mất mát quá bất ngờ đã làm tôi cuồng dại. Tôi tuyệt vọng vì đã bị cắt đứt khỏi thời đại của mình - một con thú lạc trong một thế giới lạ lùng. Tôi biết là tôi đã chạy qua chạy lại, kêu khóc, thống trách thượng đế và số mệnh. Tôi nhớ là trong khi đêm dần đi qua, tôi mệt mỏi lục tìm hết chỗ này đến chỗ khác, xem xét từng đống gạch đá dưới ánh trăng soi, sờ nhằm những sinh vật lạ trong bóng tối; cuối cùng, tôi nằm vật trên mặt đất gần tòa sư tử khóc nức lên trong niềm thống khổ tận cùng, rồi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi tỉnh dậy đã là một ngày mới, mở mắt ra tôi thấy hai con két nhảy nhót xung quanh trong tầm tay với của tôi.*
    "Tôi ngồi lên trong không khí tươi mát của buổi bình minh, cố nhớ lại tại sao mình ở chỗ này, và tại sao mình lại có cảm giác tuyệt vọng tận cùng đến thế. Rồi đầu óc tôi trở thành sáng sủa. Với sự bình thường và hợp lý của ánh sáng ban ngày, tôi bắt đầu có đủ bình tĩnh để trực diện với hoàn cảnh. Tôi thấy rõ sự dại dột của mình đêm hôm trước. "Giả sử trường hợp tệ hại nhất." Tôi tự nhủ. "Giả sử chiếc máy đã mất hẳn, ngay cả bị phá huỷ. Cách hay nhất là mình phải bình tĩnh và kiên nhẫn, làm quen với lề lối của xã hội này, nhớ lại cách chế tạo, tìm cách kiếm vật liệu; như vậy biết đâu mình có thể làm ra một chiếc máy khác." Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của tôi; khó khăn, nhưng vẫn hơn là tuyệt vọng. Vả lại, đây là một thế giới đẹp có nhiều điều lạ lùng đáng khám phá.
    "Và có lẽ chiếc máy chỉ bị mang đi đâu đó mà thôi. Dù sao, tôi vẫn phải bình tĩnh và kiên nhẫn để tìm chỗ người ta dấu nó, rồi lấy lại bằng sức mạnh hoặc sự khôn ngoan. Nghĩ thế rồi tôi nhổm chân đứng dậy nhìn quanh, tìm chỗ tắm rửa. Tôi đang mệt, khó chịu, và không lấy gì làm sạch sẽ. Sự tươi mát của buổi bình minh khiến tôi muốn hưởng một sự tươi mát tương tự. Đêm hôm trước, tôi đã đi đến tận cùng của cảm tính. Nghĩ lại, tôi không hiểu tại sao mình có thể có những thái độ và hành động thiếu suy nghĩ đến thế. Tôi xem xét xung quanh thảm cỏ, tốn phí một số thời giờ vô ích hỏi han vài người đi ngang. Không ai hiểu ý nghĩa những cử chỉ làm dấu của tôi; có người đứng nghệch ra, có người tưởng tôi đùa bèn cười đáp lại. Phải cố gắng lắm tôi mới dằn nổi ý muốn tát vào mặt họ vài cái đích đáng. Tôi biết đó là một ý muốn tệ hại, nhưng con quỷ sinh ra từ sự sợ hãi và giận dữ vẫn hoành hành trong tâm trí hoang mang của tôi. Thảm cỏ giúp tôi bình tĩnh lại, vì tôi nhìn thấy trên đó một vệt lõm, khoảng giữa cái bệ của tòa sư tử và nơi hằn những dấu chân do chính tôi tạo ra khi vật lộn với chiếc máy bị lật ngược lúc mới tới thế giới này. Có những dấu khác chứng tỏ chiếc máy bị di chuyển, cùng với vài vết chân lê lết lạ lùng. Những điều này khiến tôi chú ý đến cái bệ của tòa sư tử. Như tôi đã nói, nó bằng đồng thau, nhưng không phải là một khối phẳng, mà được trang trí tỉ mỉ thành hình những khung ở mọi phía. Tôi chạy đến, đập tay vào những khung này và khám phá là cái bệ không đặc, mà rỗng ở bên trong. Xem xét những đường viền một cách kỹ lưỡng, tôi thấy chúng không dính liền vào nhau ở mọi chỗ mà có một số khe ở giữa. Vậy thì đây phải là những cánh cửa. Vì bên ngoài không có nắm đấm, chỗ cầm tay, hoặc lỗ khóa, tất cả có lẽ đều ở phía trong. Mọi việc trở thành rõ ràng. Không cần phải suy nghĩ sâu xa gì, tôi biết ngay chiếc máy thời gian đang ở bên trong cái bệ. Nhưng ai kéo nó vào đó lại là chuyện khác.
    "Tôi thấy hai người mặc áo màu cam đi giữa những bụi trường thanh, tới phía dưới những cây táo phủ đầy hoa, rồi hướng về phía tôi. Tôi quay người, cười với họ và ra dấu cho họ đến gần. Khi họ đến nơi, tôi chỉ tay về phía cái bệ đồng, cố cho họ hiểu ý muốn của tôi là mở nó ra. Nhưng chỉ một cử chỉ đầu tiên của tôi đã đủ khiến họ có phản ứng hết sức lạ lùng. Tôi không biết phải làm sao để diễn tả thái độ của họ. Giả sử quý vị làm một cử chỉ vô cùng thiếu lịch sự với một phụ nữ hết sức gia giáo, có lẽ người ấy cũng chỉ phản ứng đến mức như thế. Hai người ấy bỏ đi, như thể vừa bị làm nhục đến mức không thể chịu đựng nổi. Kế tiếp tôi thử một anh chàng mặc đồ trắng, với kết quả (hay hậu quả) y hệt. Có một cái gì đó trong phản ứng của hắn khiến tôi đâm ra hổ thẹn với chính mình. Nhưng, như quý vị biết, tôi cần lấy lại chiếc máy thời gian, nên tôi lại thử ra dấu với hắn một lần nữa. Khi hắn quay lưng đi như hai người lúc nãy, tôi không còn dằn nổi nóng giận. Chạy vài bước tôi đã bắt kịp hắn. Tôi chụp tay vào cổ áo kéo hắn xềnh xệch về phía toà sư tử. Nhưng rồi tôi thấy trên mặt hắn nét kinh hoàng và ghê tởm. Tôi sững sờ buông tay, để mặc hắn chạy đi.
    "Vẫn chưa chịu thua, tôi đấm tay thùm thụp vào thành bệ. Bên trong hình như có tiếng động, nói rõ hơn, hình như có tiếng cười vọng ra; nhưng tôi cho là tôi đã nghe lầm. Tôi xuống sông lấy một cục đá lớn, đập mãi vào thành bệ cho đến khi một vòng tròn khắc nổi trên đó bị lõm xuống và những teng đồng vụn lả tả rơi ra. Những người tương lai yếu đuối ở xa hàng dặm chắc còn nghe thấy tiếng đập tuyệt vọng của tôi. Tôi thấy một đám đông đứng trên sườn đồi nhìn tôi bằng những cặp mắt bất lực. Cuối cùng, vì nóng và vì mệt, tôi đành ngồi xuống nhìn cái bệ chăm chăm. Nhưng tâm lý quá tây phương của tôi khiến tôi không thể nhìn lâu. Tôi có thể miệt mài suy nghĩ về một vấn đề nhiều năm trời, nhưng ngồi đợi mà không làm gì cả trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
  7. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    "Một lát sau tôi đứng dậy, đi một cách vô định giữa những bụi cây về phía sườn đồi. "Phải kiên nhẫn," tôi nói với chính mình. "Nếu mày muốn tìm lại cái máy thì mày có đập móp cái thành đồng đó cũng vô dụng mà thôi. Và nếu người ta muốn trả chiếc máy lại cho mày, thì nó sẽ trở lại với mày khi mày yêu cầu đúng lúc. Đừng cố gắng làm việc vô vọng, vì như vậy mà chỉ hóa điên thôi. Hãy đối diện với thế giới này, học đường lối của nó; cẩn thận, đừng kết luận vội vàng, rồi cuối cùng mày sẽ khám phá ra mọi mấu chốt cần thiết." Đột nhiên tôi nghĩ đến sự ngộ nghĩnh của hoàn cảnh lúc đó: bao nhiêu năm trời nghiên cứu và làm việc nhọc mệt chỉ cốt để đi đến tương lai, rồi khi đã ở tương lai lại phải lo lắng tìm cách trở về hiện tại. Tôi đã tự quàng vào mình cái bẫy phức tạp nhất và khó thoát nhất mà loài người từng chế tạo. Mặc dù nạn nhân chính là tôi, tôi cũng không khỏi thấy buồn cười. Thế là tôi cười lên ha hả.
    "Khi trở về tòa nhà cũ, hình như những người tương lai đều tránh né tôi. Có thể tôi tưởng tượng, cũng có thể đây là hậu quả của việc tôi đập vào cái bệ đồng lúc nãy. Dù sao, tôi khá chắc chắn cảm tưởng của mình là đúng. Thận trọng, tôi cũng làm bộ như không để ý đến họ. Một hai ngày sau thì mọi việc trở lại bình thường. Về ngôn ngữ, tôi đạt mọi bước tiến có thể đạt được; ngoài ra tôi cũng làm việc dò xét chỗ này chỗ kia một ít. Nếu tôi không lầm thì tiếng nói của những người tương lai này rất đơn giản, gần như chỉ gồm những danh từ cụ thể và động từ. Có rất ít, nếu không muốn nói là hoàn toàn không có, những từ ngữ cần thiết cho sự diễn tả hoàn cảnh hoặc tình cảm. Hầu hết những câu nói của họ chỉ gồm hai chữ. Nhưng chính vì sự đơn giản đó mà tôi gặp khó khăn trong việc tìm hiểu họ cũng như làm cho họ hiểu mình.
    "Tôi đã quyết định tạm quên chiếc máy thời gian, tòa sư tử và cái bệ đồng có cửa đóng kín, cho đến khi sự hiểu biết của tôi giúp tôi đạt mục đích mong muốn một cách tự nhiên. Nhưng, chắc quý vị hiểu, như có trực giác xui khiến, tôi chỉ lẩn quẩn trong một chu vi vài dặm tính từ chỗ đến đầu tiên với chiếc máy thời gian.
    "Dựa theo những gì tôi thấy, có lẽ toàn thể địa cầu đều có nét đẹp phong phú như dòng Thames. Leo lên bất cứ ngọn đồi nào, nhìn ra xa tôi đều thấy những lâu đài dinh thự nguy nga, kiến trúc nhiều kiểu khác nhau và được xây cất bằng những vật liệu khác nhau, những đám trường thanh mát mẻ, những cây đầy hoa, những cỏ êm mượt. Đây đó những dòng nước chảy óng ánh như bạc, mặt đất nổi lên thành những ngọn đồi xanh, chạy xa dần, mờ lẫn vào chân trời êm lặng.
    "Óc tò mò khiến tôi chú ý đến sự hiện diện của một số giếng tròn, có lẽ khá sâu. Một cái nằm ở trên đường dẫn lên đồi mà tôi đã thấy trong chuyến đi bộ đầu tiên. Như tất cả những cái khác, miệng giếng này được bọc bằng một lớp đồng thau đúc lạ lùng, và được che khỏi nắng mưa bằng một cái nắp nhỏ hình vòng cung. Ngồi cạnh giếng nhìn xuống, tôi chỉ thấy một màu đen, không có ánh nước, không có gì phản chiếu lại, ngay cả khi đốt diêm soi xuống. Nhưng tôi lại nghe một thứ tiếng động ầm ầm ầm như tiếng kêu của một loại máy lớn. Dựa theo chiều của ánh lửa que diêm, tôi khám phá rằng không khí được liên tục hút xuống giếng một cách đều đặn. Tôi vất thử một mẩu giấy nhỏ xuống giếng, thay vì chỉ rơi chậm, mẩu giấy tức thì bị hút nhanh mất dạng.
    "Một thời gian sau, tôi tìm ra sự liên quan giữa những chiếc giếng và vài cái cột cao rải rác trên sườn đồi. Trên những cột này thỉnh thoảng lại hiện một gợn không khí như chúng ta thường thấy trên các bãi biển vào những ngày mặt trời chiếu nóng. Gom tất cả mọi dữ kiện, tôi kết luận đây là một hệ thống thông hơi dưới lòng đất vô cùng phức tạp. Nhưng mục đích của nó là gì thì quả là khó đoán. Lúc đầu tôi tưởng đó là hệ thống vệ sinh của những con người tương lai mà tôi đã gặp. Một kết luận khá hiển nhiên, nhưng là một kết luận hoàn toàn sai.
    "Phải thú nhận là tôi gần như chẳng học được gì về cống rãnh, phương pháp chuyển vận, hoặc những tiện nghi tương tự khi còn ở thế giới đó. Trong những sách vở dự đoán tương lai, tôi đã đọc rất nhiều chi tiết về kiến trúc nhà cửa, về cách xếp đặt xã hội, vân vân. Nhưng ghi nhận những chi tiết đó bằng óc tưởng tượng thì dễ, mà bằng cách thực sự đối diện lại vô cùng khó khăn. Qúy vị thử nghĩ những câu chuyện do một người da đen ở Trung Phi ghé vội sang Luân Đôn rồi trở lại kể cho bộ lạc của anh ta! Anh ta biết gì về các hãng xe lửa, các phong trào xã hội, về điện thoại, điện tín, về bưu điện, về các hãng gửi đồ? Đó là chúng ta đã vui lòng giải thích mọi việc cho anh ta nghe! Và giả sử anh ta hiểu hết thì cũng chắc gì giải thích nổi cho những người bạn chưa du lịch cùng hiểu hoặc tối thiểu tin là anh ta không nói dối? Còn nữa, hãy nghĩ về cái khoảng cách nhỏ bé giữa anh da đen và người da trắng ở thời đại chúng ta, và cái khoảng cách vô cùng lớn giữa tôi và những người ở thời đại vàng son của tương lai! Tôi cảm nhận được hầu hết những gì tôi không được thấy, và điều đó khiến tôi phần nào thoải mái; nhưng trừ cái cảm tưởng tổng quát của một xã hội siêu tổ chức, tôi e rằng tôi không thể diễn tả cho quý vị hiểu sự khác biệt giữa thời đại chúng ta và thời đại tương lai.
    "Chuyện tang tế chẳng hạn, tôi không hề thấy một địa điểm hỏa táng, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của những nấm mộ. Nhưng tôi lại nghĩ, rất có thể các nghĩa địa và nơi hỏa táng đều nằm ngoài khu vực mà tôi biết tới. Đây là một câu hỏi tôi tự đặt với chính mình, và sự tò mò của tôi tạm thời được giải tỏa bằng cách giải thích vừa kể. Điều khiến tôi ngạc nhiên, rồi chú ý, để rồi ngạc nhiên thêm nữa là trong xã hội ở tương lai không hề có người già và người bệnh.
  8. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    "Tôi phải nhìn nhận thuyết của tôi về một nền "văn minh tự động" và diễn trình thoái hóa của nhân loại chẳng đứng vững được bao lâu. Nhưng tôi không tìm ra cách giải thích nào khác. Tôi xin được trình bày vài khúc mắc. Những tòa lâu đài mà tôi đã vào chỉ là những chung cư vĩ đại để người ta ăn, ở, và ngủ. Tôi không thấy máy móc, không thấy bất cứ một phương tiện nào. Vậy mà những người tương lai này lại có những y phục đẹp mắt cần thỉnh thoảng thay đổi; những đôi sandals của họ, dù sơ sài nhưng vẫn có phần bằng kim loại phải được chế tạo. Đó là chưa kể họ tỏ ra chẳng có một khả năng sáng tạo nào hết. Không có hàng quán, cửa tiệm, nơi thu đồ nhập cảng ở bất cứ đâu. Chỉ có những con người tản bộ trên bờ, tắm gội dưới sông, ******** như đùa giỡn, ăn trái cây, và ngủ. Tôi chẳng thấy lý do nào để một xã hội như vậy có thể tồn tại.
    "Còn chiếc máy thời gian. Tôi không biết ai đã đem nó dấu bên trong cái bệ rỗng của tòa sư tử. Để làm gì? Tôi không thể nghĩ ra. Những chiếc giếng không có nước, những cột thông hơi. Rõ ràng phải có một bí mật nào đó mà tôi chưa biết. Tôi có cảm tưởng - tôi phải trình bày như thế nào nhỉ? Giả sử quý vị gặp một bản văn tự, trên đó có những dòng tiếng Anh giản dị xen giữa là những chữ, những câu mà quý vị chưa từng thấy bao giờ. Vâng, trong ngày thứ ba của cuộc viếng thăm của tôi, đó là cảm tưởng của tôi về cái thế giới của năm tám trăm lẻ hai ngàn bảy trăm lẻ một.
    "Cũng ngày đó tôi làm quen với một người bạn, có thể tạm gọi như thế. Tôi có mặt trong khi một số người tương lai đang tắm ở một chỗ nước không sâu. Một người trong bọn họ vọp bẻ bị nước cuốn đi. Dòng nước chảy khá nhanh, nhưng không lấy gì là xiết, ngay cả đối với người có khả năng bơi lội thuộc hạng trung bình. Qúy vị có thể hình dung được phần nào mức thụ của động của những con người tương lai khi tôi kể cho quý vị nghe rằng mặc dù kẻ sắp chết đuối la lên cầu cứu, chẳng hề có ai tỏ một thái độ hoặc hành động nào cả. Thấy vậy, tôi vội cởi quần áo ngoài, đi lần ra, kéo người bị nạn vào bờ. Đó là một cô gái. Chỉ xoa nắn một chùt, cô gái trở lại bình thường, và tôi có niềm vui được nhìn thấy cô hồi phục trước khi bỏ đi nơi khác. Vì quá coi thường chủng tộc của cô, tôi không cho rằng cô biết ngỏ lời cám ơn. Nhưng, riêng chuyện này, tôi đã sai lầm.
    "Vừa cứu buổi sáng thì buổi chiều tôi gặp lại "nàng" nhỏ bé của tôi - tôi tạm gọi như thế - khi tôi trở về từ một chuyến thăm dò địa hình. Nàng chào tôi bằng những tiếng reo sung sướng và trao cho tôi một vòng hoa. Vòng hoa này rõ ràng đã được kết cho tôi và chỉ cho tôi mà thôi. Hành động của nàng khiến tôi vô cùng xúc động. Có thể tâm thần của tôi đã ở trạng thái tuyệt vọng chăng? Không biết, nhưng tôi cố hết sức tỏ cho nàng biết rằng tôi rất thích món quà tặng của nàng. Một lát sau, chúng tôi đã ngồi cạnh nhau trên một tảng đá, bắt đầu cuộc trò chuyện, không bằng lời lẽ mà gần như chỉ bằng những nụ cười. Sự thân thiện của cô gái gây cho tôi những cảm tưởng y hệt như khi đối diện với một đứa trẻ dễ thương. Chúng tôi trao nhau những đóa hoa. Nàng hôn bàn tay tôi, và tôi hôn bàn tay nàng. Tôi cố diễn tả bằng lời nói, và biết được tên nàng là Weenạ Tôi không hiểu Weena có ý nghĩa gì, nhưng thấy là một cái tên thật thích hợp. Đó là điểm khởi đầu của một tình bạn lạ lùng kéo dài một tuần lễ và rồi chấm dứt, như tôi sẽ kể cho quý vị nghe.
    "Nàng y hệt như một đứa bé, luôn luôn muốn ở cạnh tôi, luôn luôn muốn theo tôi từng bước. Trong chuyến đi tiếp đó, tôi cố bước thật nhanh để nàng không theo kịp, nàng quá mệt chỉ biết kêu tôi từ phía sau. Nhưng còn quá nhiều vấn đề phải giải quyết. Tôi tự nhủ, đâu phải mình đến tương lai để có một người tình nhỏ bé. Tuy thế, sự đau khổ của nàng khi bị tôi bỏ rơi thật ghê gớm, những cử chỉ của nàng lúc ấy như điên dại. Vả lại, tôi ngẫm nghĩ, sự tha thiết của nàng dù có gây phiền toái cũng đồng thời là một nguồn an ủi rất lớn cho tôi. Thoạt đầu tôi cho rằng lý do khiến nàng muốn ở cạnh tôi chỉ là một loại tình cảm trẻ con. Khi tôi hiểu rõ sự đau khổ của nàng lúc phải rời xa tôi, cũng như sự quan trọng của nàng đối với tôi thì mọi việc đã quá trễ rồi. Vì, chỉ cần những hành động hết sức yếu đuối và vô vọng mà nàng dành cho tôi đã đủ khiến tôi mỗi lần đến gần tòa sư tử trắng có cảm tưởng gần như mình đang trở về một mái nhà thân yêu. Và vì thế, mỗi lần đi khỏi ngọn đồi tôi đều dõi mắt tìm kiếm bóng dáng nhỏ bé quen thuộc trong bộ nhất y hai màu trắng và vàng của nàng.
    "Chính nhờ nàng mà tôi biết là sự sợ hãi chưa biến mất trên mặt địa cầu. Ban ngày nàng rất bạo dạn, và nàng tin tưởng tôi một cách tuyệt đối. Có lần trong một phút giây không suy nghĩ tôi nhăm mặt cố ý dọa nàng, nàng chỉ cười phá lên đáp lại. Nhưng nàng sợ đêm tối, sợ những bóng mờ, sợ những vật màu đen. Bóng đêm với nàng là cả một mối đe dọa. Tâm lý đặc biệt này khiến tôi phải suy nghĩ và chú ý. Sau đó tôi khám phá rắng mỗi đêm những con người nhỏ bé của tương lai đều ngủ tụ lại với nhau thành nhóm trong những dinh thự lớn. Chỉ cần bước vào thình lình, tay cầm lửa là đủ gây cho họ một cảnh náo loạn đầy sợ hãi. Tôi không hề thấy một người nào ngủ ngoài trời, hoặc ngủ một mình trong nhà khi đêm xuống. Nhưng tôi ngốc quá nên vẫn không hiểu ra bài học của sự sợ hãi ở thế giới tương lai, và mặc dầu Weena tỏ ra rất khổ sở, tôi vẫn nhất định không ngủ chung với những đám đông này.
    "Nàng hết sức lo ngại, nhưng mối tình cảm kỳ lạ mà nàng dành cho tôi đã chiến thắng, và trong năm đêm chúng tôi quen nhau, kể cả đêm cuối cùng, nàng ngủ dựa đầu lên tay tôi. Nhưng, mải kể về nàng tôi đã lạc đề mất rồi. Trở lại câu chuyện, hình như ngay cái đêm trước ngày tôi cứu Weena thì phải. Trong giấc ngủ mệt mỏi, tôi nằm mơ thấy mình chết đuối, mặt bị phủ đầy những cánh hoa biển. Giật mình tỉnh dậy, tôi có cảm giác mơ hồ như thấy một con vật màu xam xám vừa chạy khỏi phòng. Tôi cố ngủ lại, nhưng thấy người khó chịu, trăn trở không yên. Lúc ấy trời gần sáng, khoảng thời gian mà vạn vật đều thiếu màu sắc và mơ màng như không có thật dưới mắt con người. Tôi đứng dậy, đi qua căn phòng lớn, ra phía trước tòa lâu đài để nhìn cảnh mặt trời mọc.
    "Những tia cuối cùng của mặt trăng đang lặn trộn với ánh sáng yếu ớt của mặt trời sắp lên tạo thành một sắc ma quái. Những bụi cây đen như mực, mặt đất xám ngắt, bầu trời không màu ảm đạm. Trên sườn đồi hình như tôi thấy mạ Đảo mắt qua lại vài lần; quả thật là những bóng trắng. Có đến hai lần, tôi cho rằng mình thấy một con vật trắng, hình dạng như khỉ chạy khá nhanh lên đồi. Một lần, tôi thấy một đám những con vật tương tự đang khiêng một bóng màu đen cạnh những di tích đổ nát. Chúng di chuyển vội vàng, không biết về đâu, nhưng dường như mất dạng gần những bụi cây. Qúy vị phải hiểu lúc ấy trời còn tranh tối tranh sáng. Tôi vẫn còn có cái cảm giác thiếu chắc chắn của một người ngái ngủ. Tôi không tin ở mắt tôi.
    "Khi bầu trời phía đông bắt đầu rực rỡ hơn, và ánh sáng của ban ngày đã trao lại màu sắc cho thế giới, tôi quan sát kỹ lại một lần nữa. Nhưng không còn dấu vết gì của những bóng trắng lúc nãy. Phải chăng chúng chỉ là ảo ảnh? "Chắc là ma," tôi tự nhủ "không hiểu họ chết từ bao giờ." Tôi nhớ lại một ý tưởng ngộ nghĩnh của Grant Allen và cười một mình. Ông ta lập luận: nếu mọi thế hệ khi chết đi đều để lại những con ma, thì cuối cùng thế giới sẽ đầy ngập những bóng mạ Theo ý tưởng đó, thì hơn tám trăm ngàn năm nữa (tính từ thời chúng ta) số bóng ma trên thế giới này sẽ nhiều đến mức không ai đếm xuể, vậy nếu thấy bốn con ma một lúc cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng ý tưởng ngộ nghĩnh đó dĩ nhiên không thể làm tôi thỏa mãn. Tôi nghĩ mãi về những bóng trắng suốt buổi sáng, mãi đến khi cứu Weena mới quên chúng đi. Tôi đoán chúng có liên quan đến con vật bị tôi làm cho sợ hãi trong cái đêm tôi điên cuồng tìm chiếc máy thời gian. Weena là một hình ảnh đáng giữ hơn trong tâm tưởng, nhưng số mệnh đã định là những bóng trắng đó sẽ trở thành ám ảnh lớn trong đầu óc tôi sau này.
  9. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    "Hình như tôi đã cho quý vị biết là khí hậu của thời tương lai vàng son đó nóng bức hơn thời chúng ta rất nhiều. Tôi không hiểu hiện tượng này. Có thể là mặt trời nóng hơn, có thể là trái đất tiến đến gần mặt trời hơn. Theo lẽ thường thì phải đoán là mặt trời sẽ càng ngày càng giảm nhiệt độ. Nhưng người ta, vì không biết tới những thuyết tương tự như của Darwin, quên rằng cuối cùng tất cả mọi hành tinh sẽ lần lượt rơi trở về ngôi sao mẹ của chúng. mỗi lần như vậy, mặt trời sẽ tăng thêm năng lượng. Rất có thể đây đã là số phận của một hành tinh nào đó ở trong khoảng giữa mặt trời và trái đất. Nhưng bất kể vì lý do gì, sự thật vẫn là mặt trời tương lai nóng hơn mặt trời hiện tại của chúng ta.
    "Một buổi sáng rất nóng - buổi sáng thứ tư, tôi nghĩ thế. Trong khi đang tìm nơi trốn sức nóng và ánh sáng của mặt trời cạnh đống tàn tích khổng lồ gần tòa lâu đài nơi tôi ăn ngủ, tôi gặp một chuyện lạ lùng. Trong khi đi lần theo những đống vụn gạch đá tôi khám phá một phòng triển lãm hẹp với tất cả mọi cửa sổ, bên hông cũng như ở hai đầu, bị che bởi những tảng đá có lẽ rơi từ trên cao xuống vào một thời xa xưa nào đó. So với ánh nắng chói chan ngoài trời, căn phòng ấy hiện dưới mắt tôi như một chỗ hết sức tối tăm. Tôi luồn theo những chỗ hở dò từng bước đi vào. Sự đổi thay từ ánh sáng vào bóng tối khiến mắt tôi như thấy vô vàn ngôi sao bay nhảy. Đột nhiên, tôi sửng sốt đứng lại. Vì có ánh sáng từ bên ngoài phản chiếu, tôi thấy rõ một đôi mắt đang theo dõi tôi trong bóng tối.
    "Lòng tôi rợn lên nỗi sợ hãi của một người bình thường khi đối diện loài thú dữ. Tôi nắm chặt tay nhìn vào đôi mắt ấy mà không dám xoay người. Tôi nghĩ đến ý tưởng trước đây của mình về tình trạng an toàn tuyệt đối mà tôi cho rằng con người tương lai đã đạt tới, và rồi liên tưởng đến sự sợ hãi kỳ lạ của họ đối với bóng đêm. Chế ngự được phần nào sự sợ hãi của mình, tôi vừa bước tới một bước vừa lên tiếng. Tôi phải thú nhận là giọng tôi lúc ấy rất khan và không mấy bình tĩnh. Đưa tay ra phía trước tôi chạm vào một vật mềm. Tức thì đôi mắt sáng kia chuyển sang hướng khác, và một vật màu trắng chạy xẹt ngang tôi. Tôi há hốc miệng, quay đầu nhìn theo thấy một thân hình như khỉ, đầu cúi thấp một cách lạ kỳ, chạy xuyên qua vùng ánh sáng sau lưng tôi. Nó vấp vào một khối cẩm thạch, loạng choạng, nhưng rồi chỉ trong nháy mắt đã lẩn vào khoảng tối dưới một đống gạch đá.
    "Những gì tôi ghi nhận dĩ nhiên không được hoàn hảo; nhưng tôi biết đó là một con vật màu trắng xỉn, hai mắt lớn lạ kỳ màu đỏ pha sắc xám, ngoài ra, trên đầu nó có lông dài màu vàng hoe, và phía sau lưng cũng thế. Nhưng, như tôi đã kể, nó chạy nhanh quá nên tôi không thể nào nhìn rỗ. Tôi cũng không chắc là nó chạy bằng cả hai tay hai chân, hay là chỉ để khuỷu tay quá gần mặt đất. Một chút phân vân, tôi theo nó đến đống gạch đá thứ nhì. Có một lúc tôi mất dấu nó; nhưng, lần mò làm sao tôi lại đến cạnh một cái giếng bị che phân nửa bởi một cái cột sập đổ lên. Loại giếng mà tôi đã kể cho quý vị nghe. Một ý nghĩ đột ngột đến với tôi. Có thể nào con vật đó đã biến xuống giếng không? Tôi đốt một que diêm, nhìn xuống. Tôi thấy một bóng dáng nhỏ, màu trắng, với đôi mắt to và sáng vừa chăm chú nhìn tôi vừa tuột xuống thoăn thoắt. Tôi rùng mình. Bóng dáng ấy quá giống một con nhện hình người đang rút vào lòng đất. Đó là lần đầu tiên tôi thấy những thanh kim loại nằm ngang tạo thành một cái thang xuôi theo thành giếng. Ngọn lửa của que diêm cháy vào tay tôi và tắt ngúm khi tôi buông nó ra. Khi tôi đốt que diêm khác, con quái vật nhỏ bé đã biến mất dạng.
    "Tôi không nhớ tôi đã chăm chăm nhìn xuống lòng giếng đó bao lâu, và phải mất bao lâu tôi mới thuyết phục được chính mình rằng con vật tôi thấy chính là một con người. Nhưng sự thật dần trở thành sáng tỏ: nhân loại không còn là một, mà đã tách thành hai loài khác nhau. Những con cháu đẹp đẽ của tôi ở thế giới bên trên không phải là hậu duệ duy nhất của thế hệ chúng ta: mà con vật trắng bệch, kinh tởm của bóng đêm đã chạy trước mắt tôi cũng là truyền nhân của bao nhiêu niên kỷ loài người.
    "Tôi nghĩ tới những cây cột lung linh ánh không khí và giả thuyết của tôi về một hệ thống thông hơi ngầm dưới đất. Tôi bắt đầu nghi ngờ công dụng đích thực của những cây cột này. Tôi tự hỏi, loài người giống khỉ kia đóng vai trò gì trong giả thuyết của tôi về một hệ thống xã hội tuyệt đối quân bằng. Loài ấy liên quan thế nào với những người sống trên mặt đất? Những gì được ẩn dấu dưới đáy giếng kiả Tôi ngồi bên cạnh giếng tự nhủ rằng chẳng có gì để sợ hãi, rằng tôi phải xuống đáy giếng để tìm ra cách giải quyết tình trạng khó khăn của tôi. Nó vậy chứ tôi không sợ sao được. Trong khi tôi đang phân vân, hai người trên mặt đất chạy ngang, một nam một nữ. Họ đang đuổi nhau trong một trò chơi tình ái. Người nam vừa chạy vừa ném những bông hoa về phía người nữ đằng trước anh ta.
    "Họ tỏ ra sợ sệt khi thấy tôi tì tay lên cây cột ngang miệng giếng, chăm chăm nhìn xuống dưới. Hiển nhiên việc xem xét những chiếc giếng bị coi là không thể chấp nhận được đối với thế giới này, vì khi tôi chỉ vào cái giếng và cố đặt một câu hỏi bằng ngôn ngữ của họ, cả hai vẫn giữ nét sợ sệt như cũ, và làm như muốn bỏ đi nơi khác. Nhưng họ thích que diêm đang cháy mà tôi cầm trên taỵ Thấy vậy, tôi đốt vài que diêm nữa để giữ chân họ và tìm cách hỏi họ một lần nữa về cái giếng, nhưng vẫn vô ích. Tôi đành để họ đi, định bụng sẽ về hỏi Weena xem nàng có thể cho tôi biết thêm chút nào không. Dù sao, tôi đang trải qua một cuộc cách mạng suy tư với những ước đoán và cảm tưởng khác hẳn lúc đầu. Tôi đã tìm ra mấu chốt của sự liên quan giữa những chiếc giếng và những cột thông hơi với cái bí mật của những bóng mạ Đó là chưa nói đến những cánh cửa bằng đồng và số phận của chiếc máy thời gian! Đồng thời, tôi cũng bắt đầu mường tượng ra lời giải của bài toán kinh tế tương lai đã từng khiến tôi phải điên đầu.
    "Đây là quan điểm mới của tôi. Hiển nhiên, loài người thứ hai sống dưới lòng đất. Có ba bằng cớ khiến tôi kết luận sự xuất hiện hiếm hoi của họ trên mặt đất là hậu quả bình thường của những sinh vật quen sống trong bóng tối - loài cá trắng ở những hốc đá vùng Kentucky chẳng hạn. Đôi mắt lớn, với khả năng phản chiếu ánh sáng, là đặc điểm của những loài sinh hoạt trong đêm - như loài cú hoặc mèo. Cuối cùng, sự hoảng hốt dưới ánh mặt trời, sự vội vàng và vụng về khi trốn vào chỗ tối, và cách cúi đầu kỳ lạ khi ở ngoài ánh sáng - tất cả đều là biển hiện của một sinh vật có hai đồng tử mắt cực kỳ nhạy cảm.
    "Như vậy, dưới chân tôi, lòng đất có vô số địa đạo, và những địa đạo này là chỗ sống của một loài người mới. Sự hiện diện của những cột thông hơi và những chiếc giếng dọc theo sườn đồi - và mọi nơi khác, trừ khu vực thung lũng của dòng sông - chứng minh điều đó. Vậy có giả thuyết nào hiển nhiên bằng giả thuyết cho rằng những phương tiện của thế giới trên mặt đất là công trình được thực hiện bởi cái thế giới nhân tạo dưới lòng đất kiả Quan điểm này quá hợp lý, đến nỗi tôi phải chấp nhận tức thì, và dựa theo đó mà suy ra diễn trình tách đôi của nhân loại. Chắc quý vị có thể đoán trước giả thuyết của tôi đại khái như thế nào. Riêng phần tôi, chẳng bao lâu sau tôi lại khám phá mình vẫn còn quá rời xa sự thật.
    "Trước hết, dựa theo những vấn đề của thời đại chúng ta, tôi thấy rõ như ban ngày rằng sự khác biệt tăng dần giữa hai giai cấp tư bản và nhân công là nguyên nhân gây ra tất cả. Tôi nhìn nhận sự khác biệt này trong thời chúng ta còn rất nhỏ, vì vậy quý vị có thể cho rằng giả thuyết của tôi quá cường điệu và không thể nào đúng được. Nhưng ngay trong hiện tại đã có những hoàn cảnh thiên về chiều hướng mà tôi nói tới. Con người trong thời đại chúng ta đã có khuynh hướng xử dụng lòng đất cho những phương tiện văn minh không đòi hỏi bề ngoài đẹp đẽ. Đường xe lửa ngầm trong thành phố Luân Đôn chẳng hạn, lối đi ngầm. Cũng phải kể những nơi làm việc và nhà hàng dưới lòng đất, với số lượng càng ngày càng tăng thêm. Hiển nhiên, tôi nghĩ, khuynh hướng này sẽ phát triển mãi cho đến khi kỹ nghệ mất hẳn chỗ đứng của nó dưới ánh mặt trời. Ý tôi muốn nói rằng các ngành kỹ nghệ sẽ đầu tư sâu hơn và sâu hơn vào những nhà máy dưới lòng đất, giờ làm việc ở đó càng lúc càng tăng, cho đến cuối cùng... ! Mà ngay bây giờ, chẳng phải là một công nhân tiểu biểu ở phía đông thành phố đang sống trong những điều kiện nhân tạo khiến anh ta coi như đã bị tách rời hẳn cuộc đời trên mặt đất rồi đó sao?
    "Hơn nữa, khuynh hướng đặc biệt của giai cấp giàu có - kết quả của nền giáo dục càng ngày càng hoàn hảo mà họ được hưởng và khoảng cách càng ngày càng tăng giữa họ và những người nghèo khó thô kệch - hiện đã dẫn đến tình trạng một phần lớn diện tích đất được giữ cho riêng họ mà thôi. Ở khu vực Luân Đôn, chẳng hạn, có lẽ phân nửa những vùng đất tốt đã ở vào tình trạng ấy. Vì thời gian đòi hỏi quá dài và phí tổn quá lớn cho giáo dục cao cấp, lại thêm phương tiện thuận lợi cũng như khuynh hướng có sẵn khiến người giàu càng ngày càng củng cố vững vàng thêm vị trí của mình, khoảng cách giữa hai giai cấp sẽ càng ngày càng lớn. Trong diễn trình đó, sự trao đổi giữa các giai cấp - thể hiện bình thường bằng các cuộc hôn nhân tạm thời ngăn cản sự phân chia nhân loại theo tiêu chuẩn xã hội - sẽ càng ngày càng ít xảy ra. Cuối cùng, trên mặt đất sẽ là những người CÓ, theo đuổi lạc thú và thẩm mỹ, dưới lòng đất sẽ là những người KHÔNG CÓ, những nhân công dần trở thành quen thuộc với hoàn cảnh lao động. Một khi ở đó, họ phải trả tiền mướn chỗ ở, và một phần không nhỏ cho nhu cầu thông hơi. Nếu chống đối họ sẽ bị bỏ đói cho chết ngộp. Những kẻ bẩm sinh yếu đuối hoặc bướng bỉnh sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, mức quân bình trở thành vĩnh viễn, những kẻ sống còn trở nên phù hợp với đời sống dưới mặt đất, và cũng hạnh phúc trong lối nhìn riêng của họ y hệt như những người sống trên mặt đất. Với tôi, vẻ đẹp hoàn hảo và nét trắng bệch vì thiếu nắng của hai loại người tương lai chỉ là kết quả đương nhiên.
    "Cái chiến thắng vĩ đại của loài người mà tôi mơ tưởng đã đổi khác trong tâm trí tôi. Đó không phải là chiến thắng của giáo dục luân lý và hợp tác toàn vẹn như tôi tưởng tượng. Thay vì vậy, tôi thấy một giai cấp quý tộc, trang bị bằng một khoa học hoàn hảo để đưa hệ thống kỹ nghệ hiện tại của chúng ta đến một đoạn kết tất yếu. Cái chiến thắng của họ không phải chỉ là một chiến thắng trên thiên nhiên, mà là một chiến thắng trên những người đồng loại. Điều này, cần nhắc với quý vị, là giả thuyết của tôi lúc ấy. Lập luận của tôi trái ngược với những sách viết về một thế giới lý tưởng. Giả thuyết của tôi có thể hoàn toàn sai, nhưng ngay bây giờ tôi vẫn cho nó là giả thuyết hợp lý nhất. Nhưng, ngay cả với giả thuyết này, ở thế giới tôi đến, nền văn minh quân bình đó hẳn đã vượt quá cao điểm và đi vào giai đoạn suy đốn từ lâu. Sự an toàn quá hoàn hảo của những người trên mặt đất đã khiến họ dần thoái hóa, hình dạng nhỏ đi, sức mạnh và trí thông minh giảm xuống. Điều ấy tôi đã thấy rõ ràng. Những gì đã xảy ra cho thế giới dưới đất thì tôi chưa biết, nhưng dựa theo những gì tôi thấy về giống Morlock - đó là tên của họ - tôi đoán những thay đổi của loài người dưới đất có lẽ còn ghê gớm hơn giống Eloi, giống người đẹp mà tôi đã biết.
    "Vẫn còn những điều khó hiểu. Tại sao người Morlock lại lấy cái máy thời gian của tôi? (Tôi đoán chắc họ đã làm việc ấy) Lại nữa, nếu những người Eloi là chủ, tại sao họ không thể giúp tôi lấy lại cái máy? Tại sao họ quá sợ bóng tối như vậy? Như đã nói từ trước, tôi hỏi Weena về thế giới dưới đất, và tôi đã thất vọng. Thoạt đầu, nàng không hiểu tôi nói gì, khi đã hiểu, nàng nhất định không trả lời tôi. Nàng run rẩy, làm như đó là một đề tài mà nàng không thể nào nghe nổi. Rồi khi tôi ép nàng trả lời, có lẽ hơi quá đáng, nàng bật khóc nức nở. Đó là những giọt nước mắt duy nhất, ngoài nước mắt của chính tôi, mà tôi thấy trong thời tương lai vàng son. Những giọt nước mắt ấy khiến tôi tức khắc quên hẳn giống Morlock, cố tìm mọi cách làm biến mất cái di sản buồn bã của loài người trên đôi mắt nàng. Chỉ một lát sau nàng đã vỗ tay cười thích thú nhìn tôi nghiêm trang đốt một que diêm
  10. tuanno1

    tuanno1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/10/2003
    Bài viết:
    3.227
    Đã được thích:
    0
    PHẦN 6
    "Qúy vị có thể cho là lạ, nhưng phải hai ngày sau tôi mới tiếp tục nổi nhưng việc muốn làm. Hình ảnh của con người dưới đất khiến tôi kinh tởm: trắng như những loài sâu và thảo mộc được giữ trong viện sinh vật, và khi đụng vào thì lạnh đến rợn da taỵ Lý do khiến tôi kinh tởm người Morlock có lẽ một phần do cảm tình tự nhiên của tôi với người Eloi. Tôi bắt đầu cảm thông nỗi ghê sợ của họ.
    "Đêm sau đó tôi ngủ không yên. Có lẽ vì sức khỏe của tôi bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh. Lòng tôi đầy hoang mang và nghi ngờ; đôi khi có cảm giác vô cùng sợ hãi mà không hiểu lý dọ Tôi nhớ một lần im lặng lẩn vào căn phóng lớn nơi những người tương lai nhỏ bé đang ngủ dưới ánh trăng - Weena ngủ chung với họ đêm đó - và cảm thấy an toàn hơn vì sự hiện diện của họ. Lúc ấy tôi đã nghĩ chỉ vài ngày nữa khi mặt trăng đi vào tuần lễ cuối cùng của nó, khi đêm sẽ tối đen, thì những con vật từ thế giới phía dưới, loài trắng bệch thay chỗ những con chuột cống cũ, sẽ xuất hiện nhiều hơn. Và trong suốt hai ngày đó tôi liên tục có mặc cảm là mình đã trốn tránh một trách nhiệm đương nhiên. Tôi biết là muốn lấy lại chiếc máy thời gian tôi phải can đảm tìm ra những bí mật của thế giới dưới lòng đất. Nhưng tôi lại không dám đối diện với những bí mật đó. Nếu có thêm một người đồng hành thì đã khác hẳn. Đằng này tôi chỉ có đúng một mình. Chỉ nghĩ đền việc leo xuống bóng tối của cái giếng đủ làm tôi ghê rợn. Không biết quý vị có hiểu không, nhưng tôi luôn cảm thấy như có một cái gì đe dọa ở phía sau lưng.
    "Có lẽ cảm giác khó chịu và thiếu an toàn đó đã thúc đẩy tôi dò xét nhiều địa điểm hơn nữa. Đi về phía tây nam, vùng đất cao hiện nay là Combe Wood, nhìn về phía vùng Banstead của thế kỷ 19, tôi thấy một lâu đài xanh đậm, khác hẳn những công trình kiến trúc khác. Nó lớn hơn tất cả những toà lâu đài đã bỏ hoang mà tôi biết, và có một vẻ Á Đông: màu của mặt tiền pha giữa xanh đậm và xanh lá cây, như màu đồ sứ Trung Hoa. Sự khác biệt bề ngoài khiến tôi nghĩ bên trong chắc cũng khác. Tôi muốn đến nơi xem xét. Nhưng khi tôi nhìn thấy toà lâu đài thì trời đã gần tối; tôi lại vừa trải qua một ngày nhọc mệt. Tôi bèn quyết định hoãn cuộc thám hiểm lại ngày hôm sau, trở về với sự chào mừng và những cái vuốt ve của cô bé Weenạ Sáng hôm sau nghĩ lại, tôi cho rằng sự tò mò của tôi đối với tòa lâu đài xanh chỉ là một cách tự lừa dối để tránh né thêm một ngày nữa cái việc mà tôi sợ phải làm. Nghĩ thế rồi, tôi liền ra đi từ sớm, trực chỉ một cái giếng gần những đống đá và nhôm đổ nát.
    "Weena chạy theo, nhảy nhót bên cạnh tôi. Nhưng khi đến miệng giếng, thấy tôi tì vào thành nhìn xuống dưới, nàng tỏ ra thảng thốt lạ kỳ. "Chào em nhé, Weena, " tôi nói. Tôi hôn nàng, đặt nàng xuống đất để bắt đầu leo qua thành giếng, với tay chụp vào bậc thang. Tất cả đều xảy ra thật nhanh, vì tôi sợ sự can đảm sẽ rời bỏ tôi đi. Weena nhìn tôi sửng sốt rồi kêu lên một tiếng vô cùng tội nghiệp. Nàng chạy đến, cốt kéo tôi lại bằng đôi tay nhỏ bé. Nghĩ lại, có lẽ chính phản ứng của nàng đã đẩy tôi vào hoàn cảnh phải tiếp tục. Tôi đẩy nàng ra, hình như bằng một thái độ hơi tàn nhẫn, và chỉ trong giây lát đã vào phía trong thành giếng. Nhìn lên thấy khuôn mặt Weena đầy nét đau khổ, tôi cười để trấn an nàng. Rồi tôi nhìn xuống, định vị trí những thanh ngang không chắc chắn mà tôi đang bám vào.
    "Tôi leo xuống có đến hơn 60 thước tây. Những thanh kim loại cắm vào thành giếng rõ ràng được chế tạo cho những cơ thể nhỏ và nhẹ hơn tôi. Leo chẳng được mấy chốc tôi đã thấy bắp thịt cứng lại và vô cùng mệt mỏi. Mà chẳng phải chỉ mệt thôi! Một thanh kim loại đột ngột cong lại dưới sức nặng của tôi, làm tôi suýt nữa rớt xuống vùng tối đen phía dưới. Trong một thoáng giây, cả người tôi chỉ được giữ lại bằng một bàn taỵ Không dám ngừng lại nữa, dù tay và lưng hết sức đau, tôi tiếp tục leo xuống bằng tốc độ nhanh nhất có thể đạt được. Nhìn lên, tôi thấy miệng giếng, một hình tròn màu xanh giữa có một ngôi sao hiện rõ, mặt của Weena chỉ còn là một bóng màu đen. Tiếng ầm ầm của máy móc phía dưới càng rõ hơn và khó chịu hơn. Tất cả mọi vật, trừ chiếc đĩa trên cao, đều đen kịt, và khi nhìn lên lần nữa, tôi không còn thấy Weena.
    .

Chia sẻ trang này