1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Truyện và ký của NGUYỄN VĂN THỌ

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Odetta, 20/05/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Truyện và ký của NGUYỄN VĂN THỌ


    Vết sẹo



    Truyện ký của NGUYỄN VĂN THỌ
    Bạn hãy hình dung, có hai vòng tròn đặt bên nhau. Chỗ tiếp giáp chính là một lối thông cho khách đi chợ qua lại. Lối rộng chừng sáu chục mét, dài khoảng năm chục mét. Giữa lối có một vòm cây xòe tán. Mùa xuân, cây rộ hoa mầu tím. Hương đưa thơm mát.
    Chợ Teltow, thuộc Potsdam, một chợ phiên ngoài trời có hình dáng như vậy. Bãi rộng hình tròn lớn. Tới phiên, có hơn bảy chục quầy bán hàng rong các loại hàng hóa. Một siêu thị tổng hợp nhỏ ngoài trời. Trên vòng tròn nhỏ hơn, chủ chợ bố trí nhiều quầy ăn uống. Cái sân khấu rộng, nơi trình diễn văn nghệ dân tộc, lọt giữa vô số bụi hoa Forytchia vàng rực.
    Vợ chồng tôi hành nghề bán quần áo rong. Tiếng Đức gọi là Reisegewebe. Trước Tết một tháng, chợ mở phiên cả thứ bảy và chủ nhật. Chúng tôi được chủ chợ xếp chỗ đứng dưới tán cây nói trên. Vị trí ấy đón lõng khách đi lại giữa hai khu chợ, thuận lợi cho việc bán hàng. Nhưng vì cạnh đường đi lối lại, rất tấp nập, nên chủ chợ không cho chúng tôi đặt hai cái giá treo quần áo trước quầy hàng. Tôi phải ép chúng vào sát hai bên hông quầy hàng, rất khuất mắt.
    Buổi sáng ấy, như hằng năm, từ tơ mơ sáng tôi đánh xe vào vị trí triển khai quầy hàng. Bên phải tôi, năm trước có gã người Thổ chuyên đứng bán bóng bay. Những quả bóng to, nhỏ đủ mầu sắc được thổi căng khí trơ bay lơ lửng, vui mắt trên một cái bàn nhỏ. Và vì thế tôi được gã cho lấn sân. Tôi thường bày chiếc giá bán quần áo nghênh ngang sát quầy gã. Năm nay, chỗ ấy, một cái xe Rơ-mooc, có thùng mầu trắng toát đứng lù lù. Chiếc càng kéo xe sát phía phải quầy hàng tôi. Hãy hình dung, dưới cái tán cây đầy hoa báo xuân ấy, hai quầy hàng vuông góc với nhau.
    Nhìn quanh quất, tôi bảo vợ dựng hai cái giá quần áo ở vị trí cạnh càng xe.
    Trời sáng dần. Chúng tôi đã dựng xong cái ô 12 mét vuông. Hai cái bàn rộng, dài đã được bày đủ quần áo các loại. Vợ chồng tôi dỡ quần áo mẫu trên chiếc xe Bus, và bắt đầu ngoắc lên hai cái giá dài nói trên. Vừa khi đó cửa xe Mooc bật mở. Ánh sáng từ trong thùng xe òa ra chói mắt. Tôi nhìn ngược sáng, chỉ thấy một bóng người thấp đậm hiện ra trong ô cửa. Cái mũ cao bồi của gã làm tôi thoáng nghĩ tới những phim Mỹ.
    - Chào buổi sáng! - Tôi lên tiếng.
    Người đàn ông thoắt nhảy xuống mặt đất và đáp lại lời chào. Gã đi một vòng chung quang hai cái giá của tôi. Khi đó mặt trời hửng lên rất nhanh. Tôi nghĩ ngay đến việc gã không cho tôi để hai cái giá ở vị trí của gã. Tôi cảm thấy tiếc là đã không xin phép gã từ trước. Tôi im lặng chờ gã lên tiếng.
    Người chủ xe Mooc ấy không phản ứng ngay như tôi nghĩ. Gã lấy từ đâu ra hai lá cờ Mỹ cắm lên hai cái ống hàn sẵn bên thành xe. Một cái bạt rộng được tung ra, treo bên trái cửa xe Mooc. Tôi nhận ra, không rõ ràng lắm, vô khối những huy hiệu, kỷ niệm chương đính trên miếng bạt rộng.
    Bấy giờ gã đột ngột lên tiếng. Đại ý, gã không tán thành cho tôi để hai cái giá nơi càng xe, vị trí gã đã mua của chủ chợ.
    Sống ở châu Âu nhiều năm, nghe kiểu nói, tôi hiểu rằng, khó có thể xin xỏ điều gì, thay đổi ngay sự phản ứng của con người kia, dù cái giá của tôi không che lấp tấm bạt của gã. Với lại, mình trái lè. Tôi quay lại nói với vợ, di chuyển ngay hai cái giá ép sát bên quầy hàng chúng tôi.
    Công việc chuẩn bị bán hàng của chúng tôi và bao quầy hàng khác vẫn tiếp tục và đến khoảng bảy tám giờ gì đó đã loáng thoáng có người mua hàng vào chợ.
    Xong việc chuẩn bị hàng hóa, tôi đi mua hai ly cà-fê, về đã thấy chủ xe Mooc đứng trước quầy hàng của gã. Tôi cất giọng: "Anh đã dọn xong hàng rồi à?".
    - Ổn rồi! - Gã trả lời.
    Chúng tôi nói chuyện với nhau về thời tiết, về sự ế ẩm của vụ hè vừa qua v.v... Thì ra, gã cũng tỏ ra hay chuyện, không khó tính, lạnh lùng như một số người khác. Gã kể, gã thường bán hàng ở Tây Đức, đây là lần đầu tiên sang bên phía Đông bán hàng. Thực ra tôi nói tiếng Đức rất tồi. Nhưng cái tai tôi lại thính. Vả lại sống ở Đức mãi, tôi cũng phân biệt được giọng nói nào là giọng Đức chính cống. Gã nói tiếng Đức xuya. Nhưng âm ngữ chỏng chảnh của gã làm tôi ngờ ngợ, gã không phải là người Đức. Như vậy có thể thay đổi tình thế về việc cái giá. Vì những người lang bạt kỳ hồ thường dễ thông cảm với nhau lắm! Tôi nghĩ vậy và đánh bạo hỏi: "Hình như anh không phải là người Đức?".
    Gã dương đôi mắt mầu tro nhìn tôi hơi ngạc nhiên rồi bảo: "Phải rồi! Tôi là người Mỹ!".
    Tôi giật mình. Người Mỹ!
    - Anh ở đâu tới? Korea, China? - Gã hỏi.
    - Tôi là người Việt Nam.
    - Việt Nam! - Gã đột ngột nhắc lại từ ấy và tiến sát gần tôi. - "Hue? Danang? Hue? Hue!". - Gã nói nhanh mấy từ ngọng nghịu như vậy.
    Phải nói rằng , khi ấy tôi chưa kịp phản ứng. Vài giây sau, tôi chợt hiểu ra và nhắc lại tên mấy địa danh ấy một cách đúng âm ngữ. Đà Nẵng, Huế? - Ja ja! Huế, Đà Nẵng! - Gã cười thoải mái sau khi đọc đúng mấy từ định nói. "Tôi đã ở Việt Nam. Năm 1968. Bùng! Bùng! Chiến tranh! Mày hiểu không?". - Gã nói bằng tiếng Đức.
    Tôi hoàn toàn bị bất ngờ. Bất ngờ vì gặp lại một người ngày xưa là kẻ thù của tôi. Sự gặp nhau trên đất Mỹ thì dễ hiểu. Đằng này, chúng tôi gặp nhau trên đất Đức, trong cảnh huống xứ người, ở hoàn cảnh như thế!
    Chúng tôi nói chuyện với nhau hơn hai chục phút. Thì ra người lính cũ này nhập ngũ năm 1967. Anh ta sang đóng quân tại Hamburg. Năm 1968, anh bị điều thẳng từ đó qua Guam rồi sang Việt Nam. Anh đã từng ở Huế sáu, bảy tháng gì đó và sau đấy tham gia nhiều đợt tảo thanh, hành quân ở Đà Nẵng. Cuối 1968, đơn vị anh bị tập kích ở ngay trong căn cứ, trước giờ đi tiền đồn. Một mảnh pháo lớn làm anh trọng thương. Trở về Mỹ, sau khi thoát chết, anh giải ngũ và quay lại Hamburg tìm người bạn gái Đức anh yêu khi đóng quân tại đó. Họ nên vợ nên chồng và có một con gái.
    Tôi cũng làm anh ngạc nhiên khi tôi kể, tôi đã tham gia chống Mỹ từ năm 1965 tới tận khi chiến tranh kết thúc, 1976. Anh lắc đầu lè lưỡi khi tôi nói tới thời gian đằng đẵng trong chiến tranh của tôi. Ngay sau đó, anh tự kéo hai cái giá của vợ chồng tôi tới sát bên càng xe anh. Anh bảo: "Bọn Vici chúng mày khôn quá! Để cái giá ở đây ai cũng trông thấy!".
    Tôi có tật hay quên tên người nước ngoài. Tên của anh lại khó đọc; vì vậy từ nay, chúng ta gọi anh là John. Tôi tin là bây giờ, nếu biết, anh cũng không nỡ giận tôi; bởi từ chiều hôm ấy, tôi tự nghĩ ra một cái tên như thế để gọi nhau cho dễ. Lúc đầu anh cũng hơi ngạc nhiên. Sau, hiểu ra ý thích và sự đãng trí của tôi anh cũng chấp nhận.
    Tôi cũng kể cho bạn biết, chợ Noel là phiên chợ kiếm ăn rất khá. Số lượng bán hàng và tỷ lệ lãi cũng cao nên cả hai chúng tôi phải làm việc quần quật từ sớm tới tám chín giờ tối. Trong mùa Noel ấy, tuy vất vả, tôi vẫn rất vui. Vui vì có tiền. John cũng bán được nhiều hàng. Người đi vào hàng anh rồi quay ra với các thắt lưng to bản, cờ Mỹ, huy hiệu, bật lửa Zippo v.v? Và một điều vui nữa là chúng tôi mấy lần rủ nhau đi uống rượu vang khi vắng khách. John để người vợ gầy nhẳng, mỏng như cây tam cúc ở lại trông hàng. Tôi cười, dặn vợ ở lại quán. Chúng tôi có lần khoác tay nhau như hai người bạn cũ, trong muôn vàn bông tuyết bay lất phất, tới cái quán có con lợn quay vàng rợm trên dàn lửa phừng phừng reo, gọi hai cốc vang pha hương liệu nóng rẫy. Thứ rượu này chỉ có trong dịp Noel mới bán.
    Có một lần chúng tôi uống khá say. Đó là một ngày sau một tháng quen biết và là thời điểm sắp tàn chợ. Có lẽ đấy là lần duy nhất chúng tôi nhắc tới chiến tranh một cách nghiêm túc. Vài lần trước đó, chúng tôi hay cợt nhả với nhau. Thậm chí còn xưng hô sàm sỡ. Thí dụ, có lần John bảo bọn Vici chúng mày lỏi lắm, bắn đoàng một cái rồi mất hút trong rừng. Tôi trả miếng, bảo, chúng mày có kém gì. Chúng mày khoác áo mưa vào làng. Bọn tao từ xa đếm, thấy tám thằng. Thực ra, là tám đứa cõng trên lưng tám thằng vào làng; rồi tám đứa quay ra, để lại tám thằng nằm phục chúng tao vào làng lấy gạo. Lại có lần, bên bàn rượu, trong câu chuyện về chiến tranh, John kéo áo, vạch lưng cho tôi nhìn kỹ một vết sẹo hoắm sâu chạy suốt từ cổ tới tận thắt lưng anh. Tôi rùng mình. Tôi cũng chìa cổ tay trái của tôi nơi một vết sẹo đã chuyển thẫm mầu bảo, John, chính mày bắn tao ở Tây Nguyên!
    Lại nói về lần cuối cùng gặp ấy, chúng tôi đều tỏ ra buồn khi ý thức được rằng, chúng tôi sắp sửa chia tay nhau. Phải chờ đợi một năm! Đột nhiên, John bảo: "Đừng nghĩ về cuộc chiến nữa! Tôi và anh đều là những người không muốn chiến tranh. Hoàn cảnh bấy giờ nó thế!". Không hiểu sao tôi bật nhanh ra câu nói: "Nhưng khi ấy tôi chiến đấu cho Tổ quốc tôi!". John trố mắt nhìn. John ơi! Anh không biết rằng, từ khi nhìn rõ vết sẹo hoắm sâu trên lưng anh, tôi thêm một sự ám ảnh khủng khiếp nữa. Tôi muốn nói cho anh ấy, Tổ quốc tôi đã chịu bao đau khổ. Biết bao bạn bè của tôi đã chết. Biết bao bà mẹ đã mất những đứa con và chính bản thân tôi đây, các anh đã bao lần nhằm bắn, tìm, tận diệt. Bao lần tôi thoát hiểm và bao năm rồi, mỗi khi trở trời, trái gió, tôi luôn đau đớn khắp thân xác. Nhưng khi đó, tôi không sao nói ra điều ấy cho John nghe!
    Sau vụ chợ Noel năm ấy chúng tôi chia tay. Nhưng ấn tượng về cuộc gặp gỡ kia cứ làm tôi trăn trở. Tôi nhớ đến John, từ dáng điệu, khuôn mặt. Tôi nhớ bữa tuyết rơi trắng trời, John và người vợ gầy khô, đã chạy sang quầy tôi giúp vợ chồng tôi che chắn hàng hóa, chống ướt...
    Suốt cả năm trời trôi qua, tôi mong chợ phiên Noel mau tới để gặp John. Rồi Noel cũng về, nhưng không thấy John quay trở lại. Anh ấy giờ bán hàng ở đâu? Anh ấy giờ lang thang nơi nào? Tôi cứ băn khoăn mãi như vậy.
    Thời gian trôi đi bốn năm nữa. Tôi bắt đầu quay lại với văn chương, viết truyện và đột xuất trình làng tập thơ Mảnh vỡ. Khi công bố tập thơ ấy và truyện ngắn Một người Đức cho bạn bè ở Đức đọc, đạo diễn điện ảnh Đức, Stefan Schaefer tới, tìm hiểu và định làm phim về tôi. Trong câu  chuyện với Stefan tôi có kể những suy nghĩ của tôi về người lính Mỹ John cho anh ấy nghe.
    Tôi không ngờ rằng, Stefan kỹ tính thế. Anh đã đến chợ Teltow gặp chủ chợ để tìm tên thật và địa chỉ của John.
    Ngày 25 tháng 10 năm 1998, hôm đó trời rất lạnh. Tôi nghỉ chợ và ở nhà đang sửa lại một chương trong cuốn tiểu thuyết viết dở của tôi thì Stefan gọi điện tới. Bây giờ tôi không còn nhớ chi tiết những gì Stefan đã nói hôm ấy. Tai tôi ù đi khi bạn tôi đột ngột báo tin John đã chết. "Ông có biết là John của ông mất rồi không!... Mất rất đột ngột!... Tôi đến chợ? Anh ta chết trẻ, hình như? hình như,?".
    Tôi ngồi lặng hàng giờ trước bàn viết nghĩ về John. Hồi tưởng về người lính Mỹ năm xưa và người bạn hôm nay. Tôi khóc! Ở tuổi anh, John ơi! Ra đi vậy còn trẻ quá! Tôi hình dung khuôn mặt sàm sạm nắng gió của anh nhắc đến những cánh rừng nhiệt đới, những buổi hành quân, bom đạn, chết chóc... John đã ra đi rồi? Con bệnh ở anh bứt đi một cái lá còn xanh.
    Tôi đặt bút sửa lại bài thơ Vết sẹo viết cho anh.
    Ngoài trời tuyết càng về khuya càng dày. Dưới đèn, dãy phố dài trong đêm biến thành một dòng trắng xóa mênh mông lạnh, nhìn chẳng thấy đâu là khởi đầu, đâu là kết thúc.

    Hà Nội và Berlin
  2. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0

    Ngọn lửa



    Truyện ngắn của NGUYỄN VĂN THỌ

    Những câu chuyện về chiến tranh của Nguyễn Văn Thọ thường là lời kể từ ký ức, với những chi tiết sống động và đầy cảm xúc. Những chi tiết nhỏ khá bất ngờ được đặt trong một tình huống hiểm nghèo ở truyện ngắn này, tạo nên chiều sâu và sự hấp dẫn.

    Tôi nhóm một ngọn lửaTrời xanh đã bỏ tôiMột ngọn lửa để làm bạn nóMột ngọn lửa để dẫn tôi vào đêm đôngMột ngọn lửa để sống tốt hơn.


    E'luard
    Một người đồng đội cũ, hơn năm chục tuổi tại Berlin, đã kể cho tôi nghe chuyện này. Tôi chép
    lại nguyên văn, không hư cấu thêm. Việc đặt tên cho chuyện làm tôi suy nghĩ mãi.
    **   *
    Năm 1972, trung đội chúng tôi đang hành quân thì bị rơi vào ổ phục kích của đối phương. Bấy giờ trời vừa sẩm. Sương mù ở thung sâu mới tràn ra đã quánh đặc đoạn dốc đối phương phục kích, nên tiểu đội tiên phong chẳng phát hiện ra địch. Ngay từ loạt đạn đầu, số anh em tiền quân đã bị tử thương gần hết. Chúng tôi bắn trả quyết liệt, nhưng hỏa lực địch rất mạnh và chủ động. Thoáng một cái, chúng lại gọi máy bay lên thẳng từ Plây Cu đến. Tình huống xấu, trung đội trưởng trước khi hy sinh ra lệnh rút lui.
    Tôi lia hai loạt ngắn A.K 47 vào bụi cây lúp xúp, nơi có ổ đại liên đang khạc lửa, rồi hô anh bạn trẻ: "Quý! Theo tôi!". Thoắt, tôi lăn mấy vòng rồi nhẩy sang trái, thoát khỏi trảng cỏ. Bên kia, nơi có cánh rừng! Quay lại nhìn, Quý vẫn bám sát. Anh là sinh viên năm thứ nhất Đại học Bách khoa vừa nhập ngũ, kinh nghiệm chiến đấu chẳng có là bao. Phải khom khom vọt tiến, dựa địa hình, địa vật thì chàng sinh viên cứ thẳng lưng chạy. Sắp thoát hiểm. Quý dính một vài mảnh cối
    cá nhân. Viên đạn trứng rơi phía chếch phải. Một vùng lửa da cam bùng lên cạnh bóng cậu. Đám khói vừa bốc lên trời thoáng thấy Quý khựng lại trong giây lát rồi chạy tiếp. Chúng tôi băng qua trảng cỏ và tiến vào rừng. Thế là chẳng biết ai còn, ai mất. Trên đầu, mấy chiếc trực thăng vẫn xăm xoi và khạc đạn xuống bên kia trảng rừng. Về sau tôi mới biết, chúng tôi đụng tiểu đoàn rằn ri Số Tám chuyên đánh rừng, địch vừa tăng cường từ Sài Gòn lên.
    Quý và tôi cuối cùng cũng tới một con suối nhỏ. Quý bị thương ở bụng và bắp đùi phải. Máu đã ra ướt đẫm ống quần. Hắn ôm gốc cây nhỏ, trợn trạo nhìn tôi cầu khẩn. Tôi động viên: "Không  trúng động mạch đâu! Đừng sợ!". Chúng tôi chỉ có bốn cuộn băng. Tôi băng cho Quý rồi định hướng tìm về chỉ huy sở tiểu đoàn.
    Khi muốn thoát chết thì người ta hăng lắm. Nhưng tới ngoài vòng hiểm thì mới biết sức đã kiệt. Quý đi rất chậm và luôn gọi: "Mẹ ơi!". Lại nói: "Anh ơi, em chết mất!".
    Tôi là lính cựu, ở cảnh huống này không lúng túng, nhưng cũng lo cho Quý. Thỉnh thoảng tôi dừng lại kiểm tra, vết thương ở ổ bụng vẫn nhớm rỉ máu. Trời tối rất nhanh. Không trăng sao, lại mây đen ào ào từ mấy triền núi thấp kéo tới. Rồi mưa. Bắt đầu nhẹ hạt, sau mưa như một thác trắng ngút ngàn: sầm sập xối xuống. Vâng, mưa rất lớn đến nỗi khi khát, tôi hứng nước mưa
    bằng mũ vải, loáng một cái được cả bát nước. Ai từng ở Trường Sơn, biết mưa rừng. Mưa lớn tới mức tạo thành dòng nước màn màn cuốn dưới chân. Khắp mặt đất như có trăm ngàn con suối nhỏ. Đoạn rừng nào có đất đỏ, đất nhão ra rất nhanh, thành thứ nhựa quánh, mút chặt lấy dép lốp. Quý luôn luôn vấp ngã. Mỗi lần như thế hắn ngóc cổ lên nhìn tôi. Mắt như mắt nai. Thương lắm. Tôi vẫn nghiêm khắc: "Đứng dậy"! Một giờ sau tôi cũng đuối sức. Tôi phải ném ba-lô hắn đi, giữ lại khẩu súng. Tất cả nặng chịch như cùm, dằn lên vai tôi. Giật đoạn dây rừng treo hai đôi dép lên cổ. May mắn sao, bên cạnh một cái nương trơ mấy gốc rạ, gốc sắn tơ hơ trên đất, tôi tìm thấy một hầm chữ A ung úng nước. "Gần về tới nhà rồi" - Tôi lại động viên hắn. "Mày nhìn đây!". Tôi chỉ hầm: "Cái này, chỉ có quân ta mới có. Sắp tới nhà rồi!". Tôi bảo.
    Đi dưới mưa, ngấm lạnh, Quý sẽ chết! Tôi nghĩ vậy và quyết định: "Ngủ! Mai đi tiếp!".
    Tôi dìu Quý, gần như ấn hắn chui vào hầm. Tôi lấy nylon trải xuống nền hầm. Lựa chiều cho Quý vào góc hầm và lấy dao găm rạch quần áo, tìm chỗ bị thương. Vết thương ở đùi nông, mảnh đạn hình như chỉ chém trượt. "May đấy, nhóc!". Tôi nói vậy nhưng vẫn ái ngại nhìn vết chém toác cái miệng đỏ lòm, dài nửa gang tay. Thế mà Quý chạy được hơn bốn, năm cây số đường rừng!
    - Khá lắm, thằng em ạ, hồi mới nhập ngũ tao không được như mày! Trận đầu, đánh ở Quảng Trị. Tao nằm dưới làn đạn mà cảm giác cả một thác đạn xanh đỏ chi chít, như viên nào cũng nhằm vào riêng tao. Đại đội khối thằng đái ra quần. Thế mà đâu vào đấy. - Tôi bảo Quý và cố ngoác cười cho hắn an lòng.
    Nhưng thật ra tôi bắt đầu lo. Vết thương ở bụng có thể nguy hiểm. Một lỗ nhỏ hút vào chậu bụng phải. Từ chỗ đó, máu nhểu ra qua mấy lượt băng, đọng thành vệt như tiết đọng. Tôi ấn ngón tay vào chỗ bụng hắn, hỏi, có đau không? Quý bảo, đau, nhưng không đau lắm!
    "Không đau lắm thì mừng rồi! Tao tin là chưa thủng ruột". Tôi nói. Quý nhăn mặt rồi cười méo mó.
    Tôi nghĩ là mảnh đạn không xé đứt ruột và nằm ở đâu đó. "Rồi người ta sẽ tìm thấy nó! Gắp nó ra và thằng em sẽ lại chạy như sáo!". Tôi vẫn đùa hắn! Tôi xé màn làm băng quấn chặt thêm cho Quý. Vừa làm vừa giảng giải: "Nếu có đoạn ruột lòi ra thì phải lấy cái bát úp vào rồi mới băng! Nhớ chưa?". Quý nhăn mặt. "Trời ơi!".
    Hắn chắc chết thôi, nếu máu cứ ra và lạnh cóng thế kia, tôi thoáng nghĩ. Trong ánh sáng bật lửa zippo của tôi, mặt Quý xám ngoét. Đôi mắt mọi hôm đen, đầy sinh khí thế mà giờ đây trắng nhờ. Hồn phách đi đâu rồi? Hắn rùng mình liên tục rồi run rẩy như con cheo (1) sũng nước.
    Quý hằng ngày là sơn ca của trung đội. Thích hát, giọng tàm tạm. Nhưng khi hát, cái mặt búng sữa, đôi môi mọng hồng vì chưa dính sốt rét, làm giọng hát khoái nghe lắm. Bây giờ hắn chả hát được nữa. Đôi chân choài ườn trên nền bùn lạnh. Cái đầu rũ ra ngửa vào vách hầm. Cổ mềm như cọng khoai nước đã hơ lửa và đôi mắt nhắm. Thở dốc. Phải sưởi cho hắn! Tôi tuốt dao găm, cầm súng trườn ra ngoài hầm. Bên ngoài mưa vẫn như thác. Gió sàn sạt táp từng cơn trên màn rừng. Lần mò trong đêm mãi vẫn không thấy một gốc săng lẻ nào để tước vỏ làm củi. Tôi văng tục, tôi chửi thề. Tôi căm giận nhìn lên bầu trời vẫn tàn nhẫn, lạnh lùng. Mưa vẫn đều đều rót xuống như không hề biết nơi đây có hai sinh mạng mong trời tạnh để sống. Tôi quay lại hầm. Cởi áo ướt của Quý ra. Lấy cái võng quấn thêm cho Quý khi hai hàm răng hắn bắt đầu gõ phách.
    - Mẹ ơi! - Quý lại gọi. Đôi khi hắn rên rỉ: "Anh ơi, em chết mất!".
    Tôi nhìn Quý. Đôi mắt Quý nhìn tôi lo âu, tràn ngập sự sợ hãi. Bị thương. Lạc đơn vị. Mưa lạnh và bóng tối, địch có thể vây quanh. Từng đấy với một tân binh là một thử thách lớn! Tôi hiểu!
    "Không, mày không chết. Đừng kêu như thế, tao sốt ruột!" - Tôi nói với hắn và chợt lóe lên ý định.
    Vốn là quản ca của đại đội, tôi thích văn chương từ thuở học trò. Chính trị viên cho tôi tùy nghi sử dụng báo chí ngay khi còn ở Quảng Bình. Tôi rất yêu thơ. Sưu tầm nhiều bài thơ chép vào cuốn sổ tay khá dày. Tạp chí Văn nghệ Quân đội bấy giờ in khá nhiều bài thơ hay của nhiều thi sĩ. Tôi thường tích cóp vốn liếng thơ hay, đọc thơ cho đồng đội nghe. Tôi cũng làm nhiều bài thơ con cóc, ghi lại cảnh đi gùi, nhớ mẹ, chuyện chúng tôi đánh nhau trên Boloven, Khuonsedon, chiến dịch Lam Sơn 719. Những bài thơ không vần của tôi và anh em cùng với nhiều bài thơ của các nhà thơ chuyên nghiệp, quả thực khi ấy giúp chúng tôi dễ sống hơn. Tất cả kho tàng thơ ấy theo tôi suốt bao năm hành quân, ngủ rừng, đánh trận và khi đã đầy ắp kỷ niệm trong ấy, nó bỗng nhiên trở thành những vật báu không chỉ của tôi mà là tài sản của cả đại đội. Những ngày hành quân xa, nặng, có vất đồ đạc nào thì vất, chứ tập thơ đầy nửa ba-lô ấy, tôi dành lấy, luôn mang theo bên mình. Bây giờ phải nhóm lửa lên sưởi cho Quý thôi.
    - Có đốt nó không? - Phải đốt! - Không! Cả tám năm trời? Gom cóp bao lâu! Bao nhiêu người trong đó! - Phải cho Quý sống! Đốt! Tôi cứ hỏi và đáp như vậy!
    Tôi ra ngoài hầm bẻ lá rừng tấp kín cửa hầm. Lại cào con chạch cho nước không thể chảy thêm vào hầm nữa. Tôi vơ đại được vài cành củi khô đẫm nước, bẻ vụn, rải làm nền bếp. Tôi lấy mũ tai bèo, cào bùn ướt trát dày làm thành cái lò đặt giữa hai đứa.
    Phải sống đã! Tôi lục ba-lô, lôi bọc nylon nặng thơ của đơn vị ra. Các thi sĩ ở trong đó! Cha tôi cũng ở trong đó. Những lá thơ của ông và những bài thơ Đường ông chép nắn nót cho tôi. Lại vài người đã hy sinh ở trong đó! Thằng Hòa Hàng Bột có bài thơ Nhớ Hà Nội tử trận ở đồi Sú. Nó chạy cạnh tôi. Viên đạn 12 ly 8 bắn thẳng vào ngực trái nó, phá ra sau một lỗ rõ lớn.
    Thằng Long Hàng Chai có tờ bích báo tôi giữ bao năm trong ba-lô, viết về chị. "Cha mẹ mất. Chị tôi làm ở xưởng than nuôi ba anh em chúng tôi. Hàng ngày, mãi năm sáu giờ tối chị mới về. Mặt chị đen xạm vì bụi than. Chị cười. Chỉ nhìn thấy hàm răng trắng xóa. Mặt chị tôi đen, hiền. Tôi ước mơ lớn lên đi làm đỡ chị. Chị già, nuôi chị vì chị tôi ba mươi chẳng lấy chồng, cho tụi tôi ăn học!". Đấy, nó viết như thế rồi dán lên báo tường. Nó bị hạ giữa sông Sêpôn rồi chìm mất xác. Tôi bơi cạnh nó. Nhìn thấy khi bị đạn, nghe rõ nó kêu lên, tiếng xé vọt lên trời, thé như tiếng chim non. Phút cuối cùng ấy, cặp mắt của nó ngước nhìn tôi hoảng hốt, rồi mất tiêu trong dòng nước trong vắt, cuồn cuộn, đỏ loang máu. Hơn ai hết, tôi biết.
    Tôi nhặt mấy viên đá ngoài hầm xếp quanh giữ nhiệt. Tôi rút tập thơ chép tay của tôi ra. Trong đêm tối, tôi sờ lên mặt giấy. Dưới ánh lửa zippo, những lá thư của cha tôi đã đổ mầu; thư của cô bạn gái Hà Nội gửi hồi còn an dưỡng ở Quảng Bình. Cắn một viên đạn, dốc thuốc cháy ra. Tôi mồi lửa. Ngọn lửa bùng lên. "Cháy nhanh lên, xua đi bóng tối và khí lạnh". Tôi thầm mong. Quý nhìn tôi, nhìn ngọn lửa. Khi ấy, mắt nó ánh lên chút ít, có gì tha thiết lắm, không thể tả được. "Thôi, tí nữa mày sẽ ấm lại và không sợ nữa. Bóng tối ai chả sợ, nhất là khi mày chưa thử thách nhiều như tao, hoàn cảnh thế này. Còn trẻ con lắm!". Tôi nghĩ thầm.
     
  3. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Những bài thơ, dòng chữ trên giấy hiện lên từng dòng rồi biến dạng, mất hút khi ngọn lửa vàng lém vào! Tôi có cảm giác, hình dung, nhìn kỹ, từng bài thơ, từng câu thơ, cả tên của các nhà thơ, lần lượt theo nhau nóng lên, biến thành hơi ấm, lên khói, màn màn bốc ra tan trong hầm. Khói chầm chậm, rất chậm quẩn trên nóc hầm, rồi tất cả theo lỗ thông hơi bay về trời.
    Trên đầu, máy bay C130 đôi khi vẫn ì ì bay qua. Tiếng bay rất nặng. Chếch phía trái, lại vọng vào lụp bụp một chùm pháo dù. Ánh sáng trắng bùng lên, qua kẽ lá cửa hầm, chém xéo vào. Tôi biết, trên không họ đang tìm chúng tôi. Không! Kệ mẹ chúng mày! Ông ngồi đây và đang đọc thơ cho bạn ông nghe đây! Tôi nghĩ vậy và đọc cho Quý nghe trọn vẹn cả bài Lá đỏ, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Lời mẹ, Dặn, Núi Đôi? Tôi đọc một lát thì xúc động lắm. Không hiểu sao như vậy. Nước mắt cứ tự động úa ra, đầm đìa má. Chùi đi! Không để Quý biết. Tôi cắn môi, nghiến răng. Không được khóc!
    Quý vừa mê vừa tỉnh. Đôi khi cậu ấy mở mắt ra nhìn tôi. Và môi run run khe khẽ, rất khẽ hé một dáng dấp nào đó của môi cười. Tôi cũng nhìn hắn. Trong mắt hắn, phản chiếu một ngọn lửa, lửa bập bùng, bập bùng. Tự nhiên tôi thấy đỡ lo và có cảm giác ấm áp, tin là nó sống. Người ta ở cảnh huống ấy, dường như không hiểu sức mạnh kỳ diệu nào, từ tiềm thức hay vô thức nữa. Tôi chỉ nhớ khi ấy tôi không nghĩ gì tới nguy hiểm, loạn lạc, bom đạn. Tôi hành động hoàn toàn theo bản năng của lứa chúng tôi, đồng đội với đồng đội. Tôi, một lính cựu với một người lính trẻ. Anh ta ước mơ như mình, ham học như mình, giờ cần phải sống để trở về giảng đường đại học!
    Cả tập giấy thơ dày đến gang tay theo tôi suốt bao trận chiến đấu, hành quân, vui, buồn, no, đói cứ như vậy vơi dần, vơi dần.
    - Rừng Trường Sơn ào ào lá đổ./ Em đứng; đứng bên đường./ Vai ba-lô áo bạc quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi lặng lẽ!
    Tôi đọc.
    Nhớ hôm đầu vào Trường Sơn vượt qua cái dốc ở binh trạm 32; hôm ấy đổi hai cái quần đùi lấy một tảng thịt nai. Mưa dầm suốt cả ngày đêm năm ấy.
    Này là Tiểu đội xe không kínhTiếng cười đồng chí coi kho.
    - Em ở Thạch Kim sao nỡ đùa anh Thạch Nhọn(2)!
    Tôi nhớ cô gái ở Kỳ Anh. Hai đứa trú trong cái hầm nhỏ. Tôi đụng vào vai cô mà lòng xốn xang, tim đánh trống loạn hồi. Phải rồi, hàm răng trắng muốt, mắt sáng như sao nhấp nhánh cười. Đôi vú chạm vào nhồn nhột lưng tôi, khi tôi chép bài thơ này vào sổ tay em! Ôi, bàn tay cô ấy mềm mại lắm, chẳng thô ráp như tay tôi. Mà hôm ấy sao mình chỉ dám nắm tay cô ấy thôi nhỉ?
    Tôi chưa có người yêu. Mười bảy tuổi yêu làm gì sớm! Đợt nhập ngũ 1965 ấy chúng tôi ra đi sau sự kiện bom Mỹ dội xuống miền Bắc. Còn Quý từng kể, nó có người yêu học ở Đại học Sư phạm. Tôi tưởng tượng, tóc con gái bao giờ chả thơm. Hình như có mùi thơm nào đó tỏa hương, lan ra? Không, mùi khói! Trong tập giấy cũ có lẫn vài tờ giấy thơm, tôi gìn giữ suốt bao năm. Cái con Hoan có vài sợi tóc bò liếm ở trán đã mua mấy tờ thơm ấy tại triển lãm Vân Hồ, giúi vào tay tôi hôm ra tiễn tôi lên đường. Tôi kẹp vào hai lá thư của nó nét chữ đã ố vàng, giờ cháy quăn queo. Tôi nhìn trân trân vào từng nét chữ mất hút, biến vào lửa. Bây giờ nó chắc đang dạy học ở nơi sơ tán!
    Ngọn lửa bập bùng soi trên khuôn mặt ma xám ngoét của chàng thanh niên măng tơ, Quý của tôi. Ngọn lửa của từng bài thơ với bao nhiêu kỷ niệm của tôi, của những bài thơ mà nhiều người lớp chúng tôi coi như một sức mạnh giúp chúng tôi đã từng sống trong suốt đã gần tám năm chiến tranh ác liệt, quên đi tất cả, quên đi gian khổ, nguy hiểm để sau đêm thơ đại đội lại lên đường.
    Hắn cựa mình, môi đen khi nãy mím lại, giờ dần có hồng bợt. Chắc đã bớt lạnh! Gian hầm ấm dần lên. Cứ như vậy, tôi vừa đọc những bài thơ đã thuộc lòng mỗi khi đốt nó cho Quý của tôi hy vọng qua cơn nguy biến. Đôi khi, ngọn lửa cháy sát mấy ngón tay mà tôi không biết cả nóng.
    Mái tóc bết máu mà Quý thoa lên khi nào bắt đầu khô. Hắn không rên nữa và nằm ngoan ngoãn như con mèo con vẫn thường nằm trong lòng mẹ tôi ngày nào. Tôi bắt đầu đốt dè xẻn từng bài thơ cho đến một giờ sau đó thì mấy cây tre còn tươi cạp vách hầm cũng cảm như có hơi ấm.
    Chúng tôi cùng thiếp đi, một giấc ngủ kỳ lạ chờ sáng. Tôi mơ thấy mình đọc thơ trong một quảng trường rất lớn và đọc chính những bài thơ con cóc tôi viết?
    Trời sáng hẳn. Tôi lay Quý dậy. Anh chàng tưởng chết đêm qua ấy, nhờ giấc ngủ và thân thể ấm lại qua một đêm được ủ ấm, giờ đã lóe một nụ cười gượng gạo.
    Chúng tôi ra khỏi hầm. Ngó lên cao, trời xanh thẳm và có đám mây trắng lạ lùng.
    Tôi chặt một khúc cây cho hắn và dìu nhau lên đường tìm về đơn vị. Khi ra khỏi hầm, tôi rũ cái mũ. Lớp tro mầu trắng xám lả tả rơi xuống. Đập cho hết đất bùn đã khô trắng. Không tiếc nuối, đã đốt tất cả thơ rồi mà sao buồn ghê!
    Chiều hôm ấy, chúng tôi tìm được một đơn vị bạn. Quý theo cáng ra Bắc. Tôi quay lại đơn vị chiến đấu tới ngày chiến tranh chấm dứt.
    Năm 1978, tôi mới biết tin Quý. Lần ấy, anh điều trị hai tháng và quay lại một đơn vị khác chiến đấu. Hết chiến tranh Quý trở về trường học tiếp, sau ra công tác tại một tổng công ty ở Hà Nội.
    Hôm tới ăn bữa cơm thân mật với vợ chồng cậu chiến binh xưa, Quý vẫn nhớ và nhắc lại cái đêm của chúng tôi năm nào và bảo: "Bây giờ người ta làm thơ không hay bằng dạo xưa anh nhỉ! Em nhớ lắm, lúc mê lúc tỉnh mà vẫn nghe anh đọc thơ, tưởng ở cõi nào vọng về. Bao năm sau chiến tranh, thỉnh thoảng vẫn mơ thấy như vậy. Tỉnh giấc nghĩ lại mà phát khóc". Vâng, Quý khóc thật. Hắn ngồi trước vợ con, đưa ly rượu trắng cho tôi mà thấy rõ hai hàng lệ trong suốt từ đôi mắt, hôm nay chẳng còn đen nháy, chầm chậm chảy ra.
    Tôi uống cạn ly rượu Quý rót tràn. Rượu nặng như bỏng họng, cay xè xông lên mũi. Tự nhiên mắt nhòa đi. Bỗng như có ngọn lửa bập bùng, bập bùng trên Trường Sơn năm xưa cháy trong họng, trong từng thớ thịt, mạch máu.
    **   *
    Người kể chuyện bỗng nhào ra cửa. Có mùi thoáng bén nồi của nồi cháo gạo, theo cánh cửa thông sang gian bếp hé mở, lùa vào phòng. Tôi, người chép lại chuyện này đang đắm chìm trong cảm giác, cảm giác có tiếng va đập, tiếng reo xa thẳm nơi đâu chợt giật mình khi người kể chuyện quay lại oang oang nói, cắt ngang sự suy nghĩ của tôi:
    - Đấy, thơ phú văn chương nhiều khi nó dớ dẩn lắm. Tý nữa thì cháy mất nồi cháo của chúng ta.
    Nồi cháo gà trên tay anh bạn già nghi ngút khói, tỏa mùi thơm trong lành hấp dẫn một cách dễ chịu. Tôi cười: "Dẫu sao khi ấy cũng cứu được một mạng người".
    "Vâng, phải rồi. Một mạng người!". Anh bạn già vừa múc cháo vừa nói tiếp: "Không biết những thi sĩ ngày nào bây giờ ở đâu nhỉ? Ai còn, ai mất? Ai vẫn viết và dám sống kiêu hãnh như xưa, như với lớp chúng tôi một thời?"?

    Nước Đức, 8-2001NGUYỄN VĂN THỌ

    --------------
    (1) Cheo: một loại thú nhỏ như con thỏ ở Trường Sơn, giống như con hoẵng rất xinh nhưng dát và thường run rẩy.
    (2) Những câu thơ của Nguyễn Đình Thi, Phạm Tiến Duật.
  4. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Cõi Ảo
    Nguyễn Văn Thọ​
    Câu chuyện này bắt đầu trên một trang Web(1).
    Rất nhiều người đọc mục ?oTự truyện?T?T, nhưng không một câu hỏi nào của người đọc làm tác giả bài viết, một cô gái trẻ quan tâm cả. Chuyện cô kể về một người mẹ, người đàn bà dũng cảm, kiên nhẫn đi suốt cuộc chiến tranh và lại hy sinh tất cả cho con bà ăn học nên người.
    Người viết vào mục cảm tưởng là một nhà văn: ?oThật là một người mẹ rất đáng kính trọng, không tầm thường!?T?T Ông xúc động ghi lại cảm tưởng và xin người viết cốt chuyện để viết một truyện ngắn
    Giọng kể của cô gái rất vô tư và mộc mạc, nhân vật đứa con của người mà người kia do ghi tên cũng không có dấu nên ông tưởng lầm là con trai. Cô viết Trần Phượng thành Tran Phuong, vì vậy trong lá thư ông dùng đại từ anh để gọi tác giả.
    Cô gái trả lời thư người bạn không biết mặt, đồng ý cho ông lấy chuyện cô đã kể làm tư liệu. Trong hai lá thư tiếp đó, hỏi thêm những chi tiết về người mẹ, nhà văn vẫn đinh ninh người viết cho mình là một cậu con trai. Thư nào ông cũng cẩn thận đề dòng cuối: ?oTôi thực lòng cám ơn cậu đã trả lời thư tôi?T?T.
    Tình bạn của họ bắt đầu như vậy.
    Truyện ngắn hoàn thành rất nhanh và trước khi gửi đăng, ông tri ơn người cung cấp tài liệu cho ông bằng cách gửi cho cô gái đọc trước khi đưa in.
    Cô gái đọc xong truyện, gửi thư vội cho nhà văn, đính chính rằng, nhân vật trong truyện phải là một cô gái!
    Tất cả tình tiết truyện đã được nhà văn cấu tứ rất nhịp nhàng, vì thế việc thay đổi giới tính của nhân vật tạo nên sự phức tạp không cần thiết. Thế là giữa họ có một cuộc cãi vã chừng hai, ba lá thư. Cuối cùng thì cô gái đành chấp nhận sự giải thích có tình có lý của nhà văn.
    Vài tuần sau, nhà văn lĩnh nhuận bút, ông muốn gửi cô báo biếu và khao cô một chầu café. Thực khó lòng từ chối một lần hẹn êm đềm như vậy. Cô gái nhận lời.
    Từ khi biết Phượng là một cô gái, nhà văn vẫn nghĩ về cô với hình ảnh một cô gái bình thường, khuôn mặt luôn có cặp kính cận như cô tả. Đối với ông, qua sự tan vỡ ở mối tình đầu thì hình thức là một khía cạnh quan trọng nhưng không phải là tất cả để nói lên bản chất của cái đẹp, dù hình thức có thể giữ vai trò hệ trọng để gợi cảm, nhưng chỉ là khởi đầu. Đấy thật đặc trưng cho tư duy của một người từng trải lại đam mê, nắm được mẹo luật sáng tác. Ông đi về phía có quán ca fê thanh lịch: ?oQuán Phố?
    Trời xuân lây phây mưa bụi. Ông dựng cổ áo măng tô dạ xám lên che ấm ***g ngực. Cái mũ nồi Basque hơi sụp xuống Chọn bàn trống ngay lối vào, lơ đãng nhìn ra đường phố. Quán Phố hôm nay không nhiều khách lắm. Nhưng cũng tới bốn năm cặp bạn tới ngồi trước khi ông tới. Vài người đi lẻ, dường như không chờ đợi ai. Họ tới đây, có lẽ chỉ thưởng thức li ca fe dưới trời lạnh.. Ông chả vội vàng gì, bình nhiên châm một điếu thuốc và lấy tập bản thảo truyện ngắn của một người bạn ra tranh thủ đọc.
    Cô gái vừa ở một hội nghị khoa học bàn về quản lý y tế ra. Hôm nay cô là diễn giả. Báo cáo của cô thực xúc tích và gây bất ngờ cho nhiều người. Người ta tặng cô những bó hoa thật đẹp. Cô gái ra khỏi hội trường của viện nhớ tới cuộc hẹn với nhà văn quen trên thư điện tử. Chỉ còn ba phút! Cô vội vã ra chỗ để xe và thực sự lúng túng với số hoa bồng bênh, bất tiện trên cái làn trước tay lái.
    Nhà văn xem đồng hồ. Đã đến giờ hẹn mà cô gái không tới. Ông quan sát toàn tiệm. Không có cô gái nào đi một mình, có hình dáng như ông tưởng tượng cả. Mấy cô gái trẻ có hình thức bình thường thì đi với bạn trai và không mang kính cận. Có hai cô gái rất xinh bên kia bàn đang ríu rít nói về ca sỹ X. Theo ông, X rất ?osến?. Như vậy không phải là Phượng. Phượng hiểu biết, bình dị và nhỏ nhắn. Phượng đi một mình. Cô có kính cận. Đấy là vài đặc tính để nhận biết, do ông suy tưởng qua mấy lá thư của cô.
    Cô gái thực ra đã tới gần điểm hẹn. Nhưng cô đã thấm mệt và bệnh tim bẩm sinh của cô làm cô bất chợt cảm thấy choáng váng. Phượng dừng xe lại bên đường vài phút và vô tình làm rớt cặp kính xuống đất khi cô xếp lại bó hoa sắp rơi vì gió. Một mắt kính vỡ tan trên hè đường. Cô gái trẻ sững sờ, bởi vì không có nó, cô nhìn mọi vật đều huyền ảo.
    Phượng dắt xe phải tới 15 phút mới tới quán Phố. Như vậy người đợi chờ cô quá 30 phút. Ông trả tiền và đứng dậy ?oCó thể do lý do gì đấy, cô gái bận, lỡ hẹn!? Ông bước ra khỏi quán cafe Phố, nghĩ ngay đến ý kiến góp ý với truyện ngắn của bạn, không hề để ý tới Phượng và đống hoa trên tay đã đến, lướt qua sát người ông để bước vào tiệm.
    Phượng đã tất tưởi gửi xe. Cô bước nhanh và đảo mắt .Không có người nào lớn tuổi ra dáng đợi chờ. Cô không biết rằng người vừa đi sát mình là nhà văn Nguyễn Thụ.Ông già ấy đâu rồi? Phượng thoáng nghĩ về hai truyện ngắn của nhà văn vừa được đọc (Có thể chính vì thế ở những lá thư đầu cô luôn gọi ông là bác). Cô quan sát một vòng nữa bằng đôi mắt hơi nâu, trong sáng nhưng thiếu kính. Có, cô có ngoái nhìn lướt qua ông, nhưng lại nghĩ ?ongười ấy không thể có phong độ nhanh nhẹn như vậy´.
    Gió xuân thốc mưa bụi làm ướt tái đi khuôn mặt mà làn da rất đỗi mịn màng chẳng khi nào cần đánh phấn của cô. Quán đã vắng dần, Phượng trả tiền tách trà, lấy xe, đi rất chậm, sát bên hè trái đường quán Phố
    Nhà văn về tới nhà. Ông chậm rãi nấu một bát mì và ăn ngay cạnh bàn máy tính. Viết đến mười một giờ đêm, ông chợt nhớ tới chiều hẹn vừa lỡ. Tại sao cô bé không đến? Ông bật Email(2). Lá thư xanh biếc, với dòng chữ quen thuộc hiện ra, from: Phượng.
    Thư ngắn. Cô hỏi, sao ông không tới. Cô than phiền về chuyện vỡ kính; về trái tim đột ngột trở chứng của cô. Cô bảo, hôm nay cô có nhiều hoa mà không gặp ông để chia cho ông một bó. Thế đấy! Chỉ thế đấy mà ông chợt nhói lên. Có phải chăng, ông nhớ tới con gái ông ở tận Sài Gòn. Nó cũng bị tim như thế. Vì nó mà ông và vợ cũ của ông tuy tan vỡ vẫn còn duyên nợ với nhau bao năm mới chia tay. Ông hiểu, quên ngay việc lỡ hẹn để trách cứ cô gái. Ông viết, kể lại việc mình chờ đợi thế nào và an ủi cô vài lời. ?oHẹn một dịp nào đó sẽ gặp nhau vậy!? Cuối thư ông hỏi địa chỉ cô, ngỏ ý muốn gửi cô tờ báo có in truyện, cái truyện ngắn dựa vào cốt chuyện về người mẹ của cô. Xong, ông nhấn nút Thư bay đi.
    Chỉ sau vài phút thì ông nhận thư trả lời. Thực đáng tiếc, chiều mai cô sẽ bay đi Úc, bắt đầu một khóa học lấy bằng Master theo kế hoạch tài trợ của nước bạn. ?oXin bác hãy gửi báo về địa chỉ dưới đây của cháu, mẹ cháu sẽ chuyển sau cho cháu vậy!? Cô gái viết.... Nhà văn lắc đầu. Mình thực là vô duyên! Ông nghĩ và không hề biết là Phượng cũng đang nghĩ về ông khi cô sắp xếp mấy cuốn sách vào va li: ?oMình nhìn thấy ông ta rồi. Cũng chưa già ốăm. Cái dáng lướt sát mình khi ấy. Giá mà khi đó còn cặp kính nhỉ!?T?T Phượng tủm tỉm cười một mình.
    Nửa tháng sau, trên hộp thư điện tử của Thụ xuất hiện lá thư đầu tiên của Phượng. Thư nhẹ nhàng kể về cuộc sống tại Úc, kèm theo là bức ảnh, một cô gái dáng thanh tú quay lưng lại như khoe bộ tóc dầy đen buông xõa ngang vai. Cô đang ngắm dòng sông nhỏ và cánh rừng vàng thu phía trước; lại có vài bức ảnh màu chụp những con vật lạ, ngộ nghĩnh mà theo Thụ, cô gái cắt cúp khá đẹp Ông tự hỏi, sao tóc như vậy lại cắt ngắn đi nhỉ? Ơ, thời đại mới mà! Thời đại mà việc lấy nét, tốc độ, cửa mở đã có máy tự động giải quyết! Nhưng cô biết chụp ảnh lắm đấy. Ông viết, khen cô cắt cúp, bố cục các mảng tối sáng rất đẹp Cô gái lập tức trả lời rằng, cô có học chụp ảnh và máy của cô là máy cơ, không phải máy tự động. Chỉ có vậy mà ông vẫn cặm cụi trả lời những lá thư chẳng có gì quan trọng như thế của Phượng Không hiểu do lý do nào đó, Phượng gọi ông bằng chú thay ?obác?. Từ ấy, thư thường có dòng đầu: Chú Thụ ơi!
    Nguyễn Thụ thực ra không có nhiều thời gian. Để kiếm sống, ông phải lăn lưng làm việc tại một nhà xuất bản. Ngoài ra công việc của cá nhân ông là sáng tác. Ông thuộc số ít văn sỹ không thích quan hệ rộng Sự viết của ông thực sự là đam mê, dẫu mệt nhọc. Thích thú như thế, nhưng ông không coi trọng nó hơn các công việc khác, như việc việc đọc morat* cho các cây bút trẻ chẳng hạn. Ông thường nghĩ, viết văn cùng như kiếm sống, để mình sống; không có việc nào trên đời cao quý hơn việc nào. Cao quý là do tấm lòng với công việc Việc viết của ông cũng chẳng mong cái danh như người khác. Ông viết cho Phượng: ?otôi viết văn để trả nợ và giải tỏa, tâm sự với bè bạn.? Có thể thế thật, bởi vì ông luôn cảm thấy cô đơn, khổ tâm, nhất là khi ông không viết được gì.
    Những lá thư bay đi, bay lại trên không gian; khi thì đậu xuống nơi Phượng, cái phòng nhỏ trông ra một cánh rừng đầy lá vàng và con suối vòng vo, róc rách chảy bên một lối mòn về tít khoảng rừng bao la còn hoang dại; khi thì sa xuống mái nhà luôn ẩm thấp, dưới bóng một cây lan lớn, tỏa hương thấm dịu Từng ngày một, từng tuần một, nó như một thứ men, vô tình ủ thứ nhựa tiềm ẩn trong hai người Với Phượng, ông là người chăm chỉ nhất phúc đáp thư cô. (Đấy là ý kiến của Phượng ở lá thư sau này thật thà kể). Sự chăm chỉ của ông cũng có nguyên do của nó. Khởi đầu là lòng ưu ái với lớp người trẻ, sau là sự tưởng tượng về Phượng qua những lá thư của cô. Sự tưởng tượng về Phượng khi động cả tới phần sâu kín nhất trong ông, hình ảnh của một người con gái đã xa lắm, hồi ông mới ra trận và tình cảm ấy bị thời cuộc, thời gian phủ lên một lớp tro kín Tự nhiên, dần dần ông mong đợi các lá thư của Phượng. Ông thoảng buồn khi bấm vào máy không có lá thư xanh với ký tự From: Phượng. Là một người nhậy cảm, ông chắp nối những tình cảm xưa và hôm nay của ông làm mấy bài thơ. Những bài thơ tình, thứ thơ mà đã lâu quá rồi ông không dám viết. Thơ tình khó lắm! Làm sao mà có thể lột tả, gợi mở tâm hồn người ta với ngôn ngữ bình dị, ý tứ chân thành Thực là, Phượng, với những câu chuyện thông minh, vô tư và dí dỏm đã đánh thức từ trong xa xôi của ông những tình cảm trong sáng và tốt đẹp.
  5. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Tại Úc, cô Phượng cũng rất vui khi nhận thư ông Với cô, quan hệ trên mạng như một trò đùa. Một trò đùa dai vô hại. Họ vẫn xưng hô bằng chú, cháu, nhưng những câu chuyện của họ, biểu hiện tình cảm của họ dường như vượt qua mọi khách sáo. Theo năm tháng, dù từ những quan niệm khác nhau bởi thế hệ, nó vẫn làm ấm lòng cả hai người trong hai hoàn cảnh khác nhau. Với Phượng, trò đùa vô hại làm cô bớt đi khoang trống hoang hoác nơi đất khách của một người con gái đang độ rừng rực thanh xuân.
    Sáu tháng sau đó, ông bỗng bặt tin Phượng. Tự nhiên ông cảm thấy trống vắng điều gì đấy rất khó cắt nghĩa. Nhất là những khi ông không tìm thấy một đoạn viết mới, tiếp tục cuộc hành trình văn chương của ông; nhất là khi hàng ngày ông phải đụng chạm với trăm ngàn điều dung tục mà ông phải sống chung, không thể lẩn tránh. Ông làm nhiều thơ hơn, cảm giác buồn mơ hồ, tự nhiên buồn, không rõ từ đâu luôn tới, xâm chiếm tâm hồn ông và cũng tự nhiên, nó nằm ngoài ý đồ của chính tác gỉa.
    Tháng sáu, một tuần liền, thời tiết Hà Nội đỏng đảnh. Những cơn mưa bất chợt ào về xối xả. Nước phố dềnh lên lênh láng ngập đầy cửa nhà và sau đó là nắng vỗ lửa xuống mặt phố. Ông ốm, phải nghỉ việc, ngủ mê mệt trong mơ sảng lạ lùng. Ông thấy mình đi với mấy người lính trẻ năm nào. Ông thấy cả khu rừng già chìm trong tiếng mưa, nghe rõ tiếng ào ào; tưởng như ở trên cao thăm thẳm có một người khổng lồ gầm gừ, hăm dọa đe nẹt những con người nhỏ bé đang đồn trú dưới thm rừng nhiệt đới. Ông lại mơ thấy ông bị thương, bàn chân đẫm máu và thấy một cô gái rất trẻ, không rõ mặt tới nhẹ nhàng nâng đầu ông lên, cho ông gối vào cánh tay mềm mại của cô. Ông muốn mà không sao cất lên lời. Đôi môi ông nóng rát. Ông mơ thấy cô gái hôn ông và ông ghì chặt tới thảm thương tấm thân nóng rát. Cô gái hơi mỉm cười và đáp lại đôi mắt khẩn cầu của ông bằng bàn tay ấm, mềm. Nhè nhẹ, cô vuốt ve, vỗ về mái tóc còn xanh mướt của người lính Cảnh cuối cùng ông thấy cô bước vào một dòng sông cuồn cuộn đầy khói và khuất mờ trong đó. Ông thét lên, tỉnh giấc. Người ông đẫm mồ hôi. Ông ngồi dậy trong đêm, lần sờ hai viên thuốc hạ nhiệt trong túi áo nhàu nát treo trên thành ghế viết.
    Dựa vào những suy cảm từ giấc mơ ấy, ông viết thành một bài thơ 21 câu. Đặt cho nó một tựa đề: Tình Yêu Của Tôi. Nhưng đọc cả bài, người ta không thể biết, đấy là tình cảm lý tưởng hay tình yêu cụ thể của một con người đã hơn 50 tuổi.
    Mấy tuần sau đó, ông liên tục nhận và gửi thư cho Phượng Họ nói chuyện về con Koala ngộ nghĩnh. Nó hay nghịch như cháu, song nó ngủ nhiều lắm, cô gái viết vậy. Ông hỏi cô ngủ một ngày bao tiếng. Phượng trả lời rằng, cô rất ghét ngủ. Mỗi ngày cô chỉ ngủ năm tiếng là nhiều lắm rồi. Ông trách cô không biết gìn giữ sức khoẻ. Cô lại thanh minh là cô phải đọc rất nhiều và còn bướng bỉnh bảo: ?oCháu sống được bao lâu mà ngủ hết cả quỹ thời gian ngắn ngủi? Ông liền viết dọa: ?ocô bé ơi, nước da sẽ xỉn đi, khô lại vì phụ nữ cần ngủ cho khí huyết lưu thông. Nhất là cháu bị tim nữa! Việc ấy không thể coi thường!? Cô gái trêu chọc ông rằng, chú lo bò trắng răng. Cháu viết văn thì kém chú, nhưng chuyên môn của cháu là chăm sóc sức khỏe con người co mà! Như thế đấy, họ lại tranh luận những chuyện liên quan tới nghề nghiệp của Phượng, rồi cả vài bài tiểu luận văn chương ông mới viết. Xem ra, cô gái kiến thức cũng không vừa, lại tỏ ra chẳng dễ khuất phục Nhưng bao giờ cũng vậy, ông nhường nhịn, nhận phần thua về minh Cô gái không muốn vậy. Có lần cô viết, cháu không cần cái lối thua trận giả vờ ấy, chú phải nói đến cùng với cháu! Ngô hay khoai.? Khoa học không có nhượng bộ! Cô viết vậy. Ông cười tha lượng trong đêm. Thư trả lời, ông viết, vâng Phượng ạ, khoa học không có nhượng bộ, nhưng cuộc sống đôi khi cần tính nhượng bộ, và nó cũng thuộc về khoa học!
    Họ cứ thư từ suốt đãhơnmột năm trôi đi. Nếu cộng lại thư họ dài tới vài cây số. Có lần ông mở hộp thư lưu của Phượng ra giật mình; vì nếu in ra, ông có một cuốn sách dầy tới 400 trang không kém. Thế mà cách đây không lâu, người ta đã vội vàng dự đoán, khi thế giới tràn ngập máy tính thì không còn ai muốn viết thư nữa. Ồ, thư bút, giấy mực thì có thể như vậy! Ông nghĩ.
    Một bữa, cô gái từ trường về bị mưa. Thời tiết bên Úc trái ngược với Việt Nam. Khi ở ta là mùa đông thì nơi ấy là hè và ngược lại. Cô gái bị cảm lạnh và rất khó ở vì ?obệnh tim chết tiệt nó hành hạ cháu!´. Chuyện ấy, Phượng vô tình cho ông biết khi trả lời chậm trễ một lá thư ông. Thế là ông cuống lên, ông điện vào Sài Gòn, hỏi tên thuốc mà con ông rành hơn. Ông điện hỏi cả bè bạn, cả giáo sư chuyên khoa, cách ngừa phòng giữ gìn của người bệnh tim và những phản ứng phụ của thuốc trị liệu. Ông viết một thư dài cho Phượng, gửi cả thuốc sang tận Úc, để nhận thư cám ơn và lời trách đùa: ?oSau, cháu tự lo được, vì chú đã chở củi về rừng rồi!? Đêm đó, không hiểu sao ông lại nghĩ tới cảnh ngày xưa nằm một mình canh một kho đạn trong rừng. Thế là ông chép vài chuyện cười gửi cho cô, lại tiện tay bấm nút cho tập thơ mới viết của ông bay đi. Gần hai chục bài thơ tình như di mây trôi tới Úc. Thơ thì khó lắm Ngôn ngữ lại bảng lảng, chả cụ thể gì. Vì vậy Phượng đọc nó với tâm trạng vừa tò mò vừa hứng thú và sau là một tâm trạng đề phòng. Cô gửi về ông những nhận xét rất dè dặt nhưng chính xác về tình cảm và ý tưởng của tác giả Cuối thư cô còn viết: ?oSao chú buồn thế hở chú?T?T
    Đấy là điều hiếm, nhất là khi bây giờ nhiều người làm thơ nên nhiều người đọc thơ hời hợt. Với ông, thơ rất khó. Trước khi quen Phượng, ông chỉ làm thơ khi không viết văn xuôi được. Những cảm giác lãng đãng khi không thể biểu đạt trong văn xuôi; những suy cảm mà nếu lưu giữ, đè nén, không viết ra, trở thành sự hành hạ, buộc ông phải viết. Ông tự nhận, so với văn xuôi, thơ ông còn non trẻ, lẫm chẫm, nhưng hồn hậu. Điều ấy, một thi sỹ bạn ông cũng từng nhận xét để khuyên ông nên tập trung cho văn xuôi đi Nhưng ông cho là, việc gì phải từ bỏ nó. Bên cạnh văn xuôi, thơ như cái nạng nhỏ, giúp các truyện ngắn của ông có sức gái Sức gợi mở, đó là điều cần của thể loại văn xuôi hiện đại chăng? Ông nghĩ vậy.
    Thế mà Phượng lại nhận xét khác. Cô cho là thơ ông hay hơn truyện! Ông cười trong đêm. Không vặn lại Phượng. Văn chương, sự thẩm ngấm nó, đôi khi cần cả vốn sống để nhận ra một cách sâu sắc những điều chìm đắm, ẩn dấu dưới con chữ, sự kiện.
    Phượng dạo này khá rỗi. Cô viết vậy. Thế là ông có sáng kiến nhờ cô đọc những tiểu luận và truyện ông mới viết, cả những bài báo, trước khi ông đưa in. Thực kỳ lạ, ông viết rất hăng sau các thư của Phượng. Những cảm nhận của cô nhiều khi chưa đúng hẳn, nhưng giúp ông điều chỉnh những chi tiết và hành văn giản dị, trong sáng hơn. Cứ như thế, ông làm cho Phượng cũng vui, dù là cô không ý thức rằng, trong các tác phẩm của ông đã có cô, một chút thôi, hơi thở của Phượng.
    Tết năm ấy chậm chạp trôi qua. Ông viết gửi Phượng lá thư ngắn chúc tết. Cô gái đáp lại bằng tấm thiệp tràn ngập màu xanh với mẫu chữ rất điệu Cái con Koala mắt tròn xoe cứ nhấp nhánh mà cô cài lên tấm thiếp làm ông bất chợt tủm tỉm cười. Đêm ấy, ông uống rượu tới khuya, hơi nhiều tại nhà một người bạn. Khi bước khỏi ngôi nhà ấm cúng, đầy phong vị tết của hai vợ chồng kia, ông bắt chợt cái lạnh leo seo vuốt ve khuôn mặt. Ngửng lên trời thăm thẳm, ông chợt nhớ tới Phượng. Giá bây giờ có mưa nhò? Ông khát Ông chợt nảy ra một tứ thơ và đi như chạy về nhà để viết. Bài thơ nhan đề chờ mưa viết nhanh như dòng thác, chẩy ào ra từ con tim ông, trong căn nhà nghe rõ tiếng những giọt khuya lộp độp rớt xuống từ tàn lá, mang theo cả hương của cây lan già. Bài thơ có mấy câu rất tha thiết, nói tới tâm trạng hanh hao của một con người luôn thèm yêu, bàng bạc cảm giác cô đơn. Thực tâm, ông không có ý tán tỉnh ai cả và có thể nghĩ vậy nên ông bắn bài thơ lên trời, gửi cho cô bạn gái kênh tuổi ở xa kia, mong cầu chia sẻ, an ủi cả hai phía.
    Phượng đọc bài thơ ấy của ông khi mà cô đang nhớ nhà nhất. Thật vậy, nhiều bài thơ của ông làm cô xúc động Nhưng bài thơ vừa nhận làm cô bàng hoàng. Cái đoạn:?Tôi từng đêm đợi mưa như rừng khô tháng hạ/ như suối trơ sỏi đá/ Mưa có biết tôi chờ???, thực sự làm cô hoang mang về tình cảm của ông nhà văn kỳ quặc này. Cô lập tức viết lá thư ngắn. Phải ngăn chặn những ý nghĩ ấy từ xa! Thế là sau vài lời bình, cô nói rằng cô khó hiểu tình cảm của ông, cô hoàn toàn không chờ đợi điều đấy, cô hỏi: ?oTừ trước đấy chú sống thế nào, viết thế nào, khi chưa có Mưa? Chữ mưa cô viết rõ to và trong ngoặc. Viết xong, cô bấm máy. Lá thư vút đi.
    Nguyễn Thụ nhận được thư thì đã khuya lắm. Ông nhấn cái nút, lá thư hiện ra. Ông hoàn toàn bất ngờ với câu hỏi của Phượng Những câu hỏi ngắn, thực ra cũng không có tâm địa nặng nề gì, nhưng vẫn như làn roi quất mạnh vào con tim ông. Nhất là khi ông đang buồn và khó ở. Ông cho là Phượng không còn tri kỷ nữa. Cô ấy trẻ quá! Rồi, ông lại tự trách mình đã thả nổi tình cảm, không lường hết khả năng sinh thành một đời sống tình cảm khác của người đọc. Sáng tác của ông, mỗi đứa con vừa ra đi, vừa thoát khỏi ngòi bút, đã không phụ thuộc vào ông nữa. Nó có một thân phận ngoài ý muốn của ông rồi. Điều ấy ông biết, nhưng thói tự ái của một người đầy nhậy cảm, trái tim rất dễ tổn thưng lại xúi ông viết một lá thư phản hồi trách móc. Ông suy nghĩ một lát và hạ chữ vĩnh biệt ở cuối thư. Khi ấy, ông vừa có cảm giác xấu hổ vừa tự thương mình.
    Gửi thư xong, ông ngồi lặng trong đêm Hôm nay là một ngày không may. Vừa chưa hết sự tức bực do mấy chữ đã bị biên tập cắt đi trong một truyện ngắn của ông in số tết thì lại bị công an phạt khi ông đi ngược chiều ở sát đại sứ Pháp; giờ là lá thư đáng buồn này. Đêm lặng, hương lan già luồn vào nhà, lặng lẽ ngấm theo hơi thở của ông, làm ông dần bình tâm lại. Cô gái trẻ có quyền như vậy. Chính ông là người có lỗi. Ông nhớ lại chuyện với Phượng từ ngày đầu tiên để ân hận về sự nóng nảy của mình. Ông giật mình, chợt nhận ra từ đâu thăm thẳm, hình như, hình như?
    Nhắm mắt lại, ông không dám nghĩ tiếp. Ông nhỏm dậy, lặng lẽ bật máy, xếp những lá thư của ông và Phượng vào một ngăn lưu trữ. Mái đầu chớm bạc của ông rung nhẹ. Một lát, ông nhấn nút, những lá thơ vụt nằm vào kho lưu trữ..
    Ngoài trời, mưa xuân về, thưa và nhẹ.
    Trong khi đó, Phượng đọc đi đọc lại thư ông tới cả chục lần. Hơn năm nay, ông là người duy nhất liên lạc thường xuyên với cô. Thi thoảng lắm, cô mới gọi điện về Hà Nội cho một Người bạn trai của cô, mối tình đầu của cô cũng lười viết thư. Cô có cảm giác tủi thân khi chợt nghĩ, hình như khi cô đã thuộc về người ta rồi, thì người ta bỏ mặc cô ở đây và thi thoảng mới ngó tới. Tại sao cô nỡ trách cứ thô bạo tình cảm của ông già ấy để ông nổi giận và hạ lời vĩnh biệt? Phượng ngồi một mình trong gian nhà có thể nghe thấy tiếng tim cô đập. Cô hoàn toàn không có ai để đủ tin cậy mà trao đổi việc này. Có thể nguyên do đẩy tình cảm của ông tới trạng thái ấy vì lỗi ở cả cô nữa. Cô chẳng thường mong những lá thư của ông kia mà. Cô chẳng thường ngủ rất ngon với những bài thơ của ông. Tại sao cô, một người tuy còn trẻ, có học thức, lại không còn lời nào tế nhị hơn để đẩy xa, tạo được khoảng an toàn với tình cảm của ông. Hay là, hay là chính sự đề phòng của cô cũng là sự dối lòng mình. Phượng khóc.
    Ông ấy vĩnh biệt rồi. Lúc ấy, lòng tự ái làm cô không viết thư trả lời ông. Nhưng khi vừa ở trường về, cô vẫn bật máy rất nhanh không kịp cởi áo khoác. Màn hình chạy nhanh vệt tín hiệu rà sát thư từ như mọi khi mà cô cảm thấy hôm nay sao chậm thế! Chẳng có lá thư quen thuộc! Cô chợt nghĩ, chia tay nhau cũng phải rõ ràng, khoai ra khoai chứ! Thế là cô viết thư cho ông sau ba ngày im lặng. Thư cô viết mở đầu bằng lời xin lỗi. Lời xin lỗi của một ít tuổỉ, đã làm ông buồn. Xin ông bỏ qua điều gì, nếu không phải.Cô nói, cô rất tôn trọng ông và giữ lại sự tôn trọng ấy. Cô mong ông hiểu, và tin là ông sẽ hiểu. Việc cô từ chối không cho ông số điện thoại cũng không phải sự coi thường ông. Cuối thư cô nhắc lại ông không nên vội vã tức giận, cô vẫn là một đứa trẻ với ông và luôn cầu mong ông sống hạnh phúc. Làm xong việc đó Phượng như vơi đi gánh nặng. Cô thấy thanh thản và đọc hết toàn bộ hai chương của cuốn sách bàn về vai trò của ngân hàng thế giới với sự phát triển của hệ thống y tế trong các nước chậm tiến. Cô lấy bút ghi lại những thông tin cần thiết và sau đó tha thẩn ra bờ suối. Dòng suối trong vắt, nhìn thấy cả những viên sỏi mầu hồng và những con cá có cái bụng trong suốt, vun vút lao vào đớp những mẩu bánh vụn của cô tung ra. Như thế là mình đã thanh minh về việc trót vô tình làm tổn thưng con người ấy. Chắc ông ấy không trả lời mình đâu. Nhưng tại sao mình cứ quan tâm tới thư của ông ấy nhỉ? Cô cười nhạo cái bóng cô dưới con suối vì tự biết vì sao cô đã làm như vậy. Không, rồi cả tuần sẽ không bật máy. Có thư sẽ không trả lời. Cô nghĩ thế và quay về nhà yên tâm ngủ ngon trên chiếc đi văng mầu vàng nhạt.
    Lá thư của Phượng tới Hà nội sau đó vài chục giây. Đó chính là lúc ông buồn nhất. Mấy ngày qua, ông nhận ra tình cảm của ông. Bởi thế nên khi lý trí buộc ông gửi lá thư giã từ đi thì con tim ông đau đớn.Không muốn nghĩ đến Phượng nữa mà sao cứ nghĩ hoài. Tựa hệt như ông mất đi một điều gì đó vô cùng quý hiếm trong thời gian vừa qua. Cuộc hành trình của ông với Phượng hoàn toàn không vụ lợi về mặt thể chất. Ngay cả khuôn mặt cụ thể của cô, ông còn không tường nữa là.. Một bức tranh tự họa của cô gửi về, bằng mầu sáp, cũng bảng lảng như thơ ông! Trong ông, từ khi khởi đầu đến hôm qua, bao nhiêu là bao nhiêu câu chuyện, không chỉ gợi cho ông về một tình yêu mà ông mơ ước. Cô gái thông minh đến thế, cô gái có dáng mảnh mai và mang một tâm hồn phong phú, đẹp, chinh phục ông bắt nguồn từ lòng biết ơn rất sâu sắc của cô với người mẹ, rồi những quan niệm, tâm từ, tình cảm của cô với công việc, con người, xã hội, từng ngày một cho ông nhận ra: ?oCon người ấy phải đẹp, nhưng cô còn trẻ quá!? Bấy nay, nó thực sự như điều gì đến, làm ông nối tiếp những suy cảm về cái đẹp, điều tốt đẹp, mặc cho là cuộc đời ông nhiều cay đắng và mất mát; mặc cho cuộc sống hàng ngày quanh ông còn quá nhiều điều bất cập và dung tục. Thư cô gái, sự giao lưu của họ, như một làn gió ấm trong đêm, làm tan hết sự trống trải không cùng của ông hôm nào. Trong cơn điên khùng của mình, ông lập tức phúc đáp và trình bầy, phân tích tất cả những diễn biến tình cảm tự nhiên của ông Ông nói cả nỗi buồn và sợ hãi trong mấy ngày qua. Ông viết ra cả mấy câu thơ trong bài thơ vừa viết. Để cuối cùng ông xuống dòng kết thúc bằng ba chữ: Anh yêu em!
  6. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Nhấn nút.
    Lá thư vèo bay như một tia chớp xanh rơi vào hộp thư của Phượng rồi nằm đó được hai ngày. Phượng nhất quyết không mở máy đã hai ngày. Nhưng buổi tối hôm đó cô không thể không ấn vào cái nút gọi Email trên màn hình, ánh chớp vút xuống làm cô choáng váng.
    Bốn câu thơ của người ấy, cái người tên là Nguyễn Thụ ấy, thực sự làm cô bàng hoàng:
    -Anh yêu em,
    sợ chậm buổi chiều
    lỡ câu hẹn, gió mang lời trăng trối
    sợ?đứt một ngọn cỏ, trên đường em bước vội
    sợ, làn hơi dứt quãng nụ hôn...
    Phượng đọc đi đọc lại lá thư của ông. Cô nhớ lại suốt thời gian gần hai năm vừa qua. Cũng giống như ông, cô đã nhiều khi hờn giận, nhiều lần trông đợi. Bấy lâu nay, ở đâu cái biên giới giữa trò đùa vô hại và những tình cảm có tính tích tụ rồi trở nên khắc khoải, trạng thái yêu rất thực tâm xuất hiện trong con người cô. Sự chân thành của ông ư? Những quan tâm và lo lắng rất chi tiết của ông suốt gần hai năm ư? Cô không sao tự rạch ròi phân định ở đâu, điều gì đã đẩy tình cảm của cô dần phát triển, không lường hết, xóa bỏ cái trò đùa ban đầu của cô.
    Nhưng cô có người yêu rồi. Cô không có lý do gì để cắt bỏ người ta, mặc cho là nếu so sánh thì cô cảm thấy cái người tên Nguyễn Thụ kia yêu cô đắm say và mạnh mẽ hơn, biểu hiện chăm lo kỹ càng và chi tiết hơn. Ông ta sâu sắc hơn cái người cô từng yêu trước Mặc cho là ông hơn cô nhiều tuổi, không trẻ bằng cái hoàn cảnh có sẵn của cô. Sao con người ông lại bất hạnh thế? Sao cuộc sống lại trớ trêu vậy? Nếu như ông ấy tỏ ra, một chút thôi, dùng vật chất để mua chuộc cô thì thực dễ hiểu, dễ giải quyết; đằng này, toàn bộ hành trình quen biết giữa cô và ông chỉ có mối quan hệ tinh thần thuần túy và luôn đặt nó lên trên các trị giá vật chất. Có lẽ cô cũng yêu ông rồi, và như thế thì thực đáng trách dù cô không hề lợi dụng ông. Thậm chí tình cảm của ông, của cô giờ đây chỉ đầy dày vò, đau khổ
    Cô phải nói rõ mọi chuyện cho ông ấy, trực tiếp bằng điện thoại. Nói rõ rằng, cô có bạn trai rồi. Phải rõ ràng! Nghĩ vậy, Phượng lục tìm số máy của ông và ấn phím.
    Đầu giây bên kia im ắng tới ba bốn giây gì đó rồi vọng ra một giọng rất ấm áp. Ông ta! Tự nhiên Phượng run lên. Cô không đủ sức để nói lời dự kiến. Cái giọng bên kia càng ấm áp bao nhiêu, dồn dập bao nhiêu thì cô càng lúng túng bấy nhiêu. Đột nhiên, không hiểu vì sao, cô rơi thỏm vào trạng thái hoàn toàn bất lức. Phượng bật khóc.
    Ông hoàn toàn bất ngờ khi đã nửa đêm rồi. Ông bột phát nói lên những lời âu yếm nhất để khuyên giải cô gái nín đi. Ông nói rất chậm rồi nhanh như sợ đường dây vụt đứt giống hệt hồi nào trong một trận chiến đấu. Cả hai đều nghe rất rõ hơi thở của nhau, sắc thái của giọng nói, tiếng khóc và tiếng đồng hồ tích tắc trên bàn vọng vào.
    Phượng sợ hãi tắt máy. Cô lăn ra đi văng bưng mặt. Nước mắt phương xa thấm ướt cả cái gối mềm. Trời ơi, tưởng gỡ ra lại buộc vào!
    Sau đó là thời gian đẹp nhất của hai người. Họ trao đổi thư dầy đặc hơn. Cô gái nhận những bài viết của ông đọc và trao đổi rất thành tâm những chi tiết sai sót trong tầm nhận thức của cô Thậm chí, nhà văn nào chả có câu viết vội, cô mạnh dạn sửa chữa như một người thư ký cần mẫn và bôi hồng những đoạn ấy cho ông đỡ mất công tìm kiếm. Có lần hứng khởi, cô còn dịch ra tiếng anh mấy đoạn thơ của ông viết tặng. Rồi cô còn làm ông lúng túng khi viết cho ông lời một bài hát: as long as love you me (*)! Phượng cũng không gọi cô với từ chú nữa. Mở đầu những lá thư bây giờ, cô đề: Anh Thụ ơ! Chữ viết bằng máy, mà đôi khi ông cảm giác, hình như cô nắn nót lắm thì phải.
    Mùa ấy có một hội thơ văn chưng ở Úc. Như duyên trời đã định, do mối giao tiếp, người ta đích danh mời ông tham dự với tư cách một nhà văn viết về chiến tranh. Nguyễn Thụ chuẩn bị hành trang nhanh và gọn nhẹ. Ông báo cho nhà xuất bản, cơ quan ông, sẽ ở lại Úc thêm một tuần vì lý do riông Ông sẽ dành bất ngờ cho Phượng, không báo trước cho cô Ông dò hỏi kinh nghiệm vào Úc của bè bạn, lên phố trên mua một vài thứ quà Việt Nam cho Phượng và bạn văn. Dự tính như thế, nhưng ông không kiềm lòng được, để ngày đầu tiên đến Úc, ông tới phòng máy tính của khách sạn viết thư báo cho Phượng, tin ông sẽ tới thăm cô. Buổi tối ấy, cũng không thể kìm lòng, ông lại gọi điện thoại cho Phượng
    -Anh ở cách em cóhơn ba trăm cây thôi! Anh sẽ tới. Anh yêu em.
    Đầu máy bên kia có giọng Phượng. Cô không dấu nổi ngạc nhiên về tin bất ngờ này và ngồi phịch xuống ghế sau cú điện ngắn, thở mạnh.
    Suốt đêm ấy Phượng không ngủ. Cô không thể tưởng tượng ông lại có mặt tại xứ sở này. Cô giật mình khi nghĩ tới việc, chỉ một tháng nữa thôi cô sẽ kết thúc khóa học trở về Việt Nam. Cô sẽ gặp lại người yêu năm xưa của cô. Bây giờ ông đến đây, trong căn phòng chỉ có một chỗ ngủ này, cô xử lý thế nào.
    Phượng đã yêu ông, nhưng cô chưa rứt khoát rõ ràng với người yêu cũ, mà theo kế hoạch trước khi đi thì chuyến về này cô và anh ấy sẽ thành hôn. Bây giờ đối mặt với thực tế, Phượng thấy hoàn toàn khó xử. Cô còn trẻ. Vâng, còn trẻ, nhưng vốn kiến thức nghề nghiệp của cô, những nhận thức của cô về phân tâm học, về sức mạnh của bản năng để cô hoàn toàn ý thức được những điều có thể xảy ra ở gian phòng này, mà cô thì chưa muốn, không muốn như vậy. Liệu cô có đủ bản lĩnh để chế ngự được những tình cảm mãnh liệt của ông không? Nếu như cuộc tình cũ của cô rõ ràng rồi, thì việc để ông ở tới đây, khi người ta yêu nhau hết mình, tất cả sẽ không còn là vấn đề. Suốt đêm Phượng tự đối thoại, đôi co với chính cô như vậy. Rõ ràng, cô đang đứng trước một bờ vực mà người ta phải nhẩy qua nó để tới nơi phải đến.
    Phượng suy nghĩ một lát và nhấc máy.
    Đầu bên kia là cô nhân viên khách sạn nơi ông ở. ?oVâng, chúng tôi sẽ báo cho khách của chúng tôi. Cám ơn bà. Xin bà vui lòng để lại địa chỉ và tên họ?T?T
    Ông trở về sau bữa tiệc chiêu đãi ăm ắp men say. Người ta báo với ông có điện thoại, có thư gửi cho ông trên hộp Email của ông. Đã hai giờ đêm rồi. Ông tới phòng máy tính dùng chung cho khách để lấy thư, in ra bằng chiếc máy lade rất xịn. Thì ra Phượng đã tự lượng sức mình mà có lá thư này. Cô viết: ?oEm không dám gọi điện cho anh. Hãy bình tĩnh nghe em nói. Em biểt rằng anh rất yêu em, em cũng yêu anh, nhưng thực tệ bạc và xấu xa nếu che dấu anh những điều mà em nói ra hôm nay..?
    Ông nằm vật ra giường. Cái đệm khách sạn thơm dịu và êm ái đến thế mà ông không sao chợp mắt. Phượng đã kể tất cả. Cô đề nghị ông nên suy nghĩ kỹ nếu như tới chỗ cô ở. Lời lẽ trong thư mộc mạc và lộn sộn nhưng đủ hiểu. Cái bức màn kéo toang cả ra, trước mặt ông là sự thực. Sự thật thực phù phàng, nhưng ?ocô ấy là một người trung thực!? Suốt đêm ông suy nghĩ, miên man đau đớn và sớm sau quyết định.
    Ông trở về ngay Việt Nam ngay chiều hôm sau khi đã gửi lá thư viết cho Phượng cùng gói quà mà ông cất công mang từ Việt Nam . Không, em chưa hiểu hết tôi! Ông nhận xét như vậy và cố gắng viết những dòng thư vắt từ con người của ông.
    Ngày hôm sau khi ông có mặt tại Hà Nội thì cô Phượng cũng nhận được thư và quà của ông. Phượng mở lá thư viết trên tờ giấy A4 trắng muốt. Đây là lần đầu tiên cô đọc thư ông với nét chữ rất khoáng đạt. Thư viết:
    Phượng yêu dấu,
    Thực là đau lòng trước sự thật mà em đã kể. Nhưng một lần nữa tôi hiểu, em là người con gái rất đẹp trong tâm tưởng bấy nay tôi hằng ao ước. Có lẽ chúng ta phải chấm dứt mối quan hệ này vì cuộc sống không thể sống với thế giới ảo. Dù là cái ảo bao giờ cũng đẹp, thậm chí rất đẹp, đi xa hơn nhiều cõi thực. Tôi đã yêu em. Tôi vẫn yêu em, nghĩ về em mãi mãi. Nhưng người ta không thể cùng một lúc uống hai loại trà hương khác nhau, và tôi sẽ ra đi, vì tôi hiểu được những đau khổ và hạnh phúc của cuộc đời. Sự mất mát lần này làm tôi cảm giác, coi là không có gì sánh nổi, nhất là khi tôi, con người ta khó có cơ hội, cơ duyên để kiếm tìm một người như em. Tôi phải ra đi thôi, vì dù sao tôi còn có đủ nghị lực và kinh nghiệm để vượt qua nó. Đồng thời, có thể, sự chịu đựng của một người đã trải qua nhiều mất mát dễ dàng hơn anh bạn trẻ của em. Tôi mong cầu em hạnh phúc. Đủ thời gian để nhìn rõ tình yêu của mình. Hãy tự hỏi trái tim, chờ khi nó thật yên tĩnh trong thanh vắng nhất! Thực là đáng tiếc, nhưng có lẽ phải như vậy, bởi vì tôi yêu em. Tôi yêu em và tôi vẫn sợ ?~?~đứt một ngọn cỏ., sợ làn hơi dứt quãng??T?T như ngày nào tôi viết. Vĩnh biệt !.
    Phượng đã ngẩn ngơ cả một tuần sau đó. Nhưng công việc bảo vệ luận án ngập đầu cuốn cô đi và nghị lực của cô đã giúp cô vượt qua tất cả. Ngày cô nhận bằng tốt nghiệp Master xuất sắc, bao nhiêu lời chúc và hoa của giáo sư và bè bạn, thế mà chiều xuống cô vẫn bâng khuâng như thiếu vắng điều gì.
    ***
    Phượng quay về Việt Nam. Tại Hà Nội cô gửi cho ông dăm lá thư nữa nhưng hoàn toàn không có hồi âm.
    Nhưng hình như mọi sự đều tương đối.
    Kế hoạch, dự kiến của bạn trai cô và gia đình về lễ cưới dây dưa tới đầu năm sau. Mùa xuân năm nay Phượng đã 28 tuổi. ?oCon đã đến lứa rồi đấy! Còn kén cá chọn canh gì nữa.. Nó hiền như đất ấy mà?. Đã bao lần mẹ cô giục giã với đôi mắt gần như van lơn. Và, Phượng chấp nhận.
    Trước lễ cưới một tuần, Phượng bỗng nghĩ đến ông. Ông ấy thực là một người tốt. Cô luôn luôn có ý nghĩ ấy trong đầu. Hôm cô đi chọn cà vạt cho chú rể cô còn nghĩ: ?oGiá mà mình chọn cái này cho ông ấy nhỉ? Bây giờ ông ấy sống ra sao? Hay là viết thư hỏi tòa soạn địa chỉ của ông ấy? Người ta cười chết! Những bài thơcủa ông ấy vừa in mà mình mới đọc, sao càng buồn thế! Hay là mình có lỗi. Có lẽ phải viết cho ông ấy lá thư cuối cùng?
    Phượng ngồi vào bàn máy. Cô gọi trong chớp mắt ra địa chỉ ông. Cô ngồi im lặng một lát rồi cô viết, vừa khóc vừa viết. Thư của cô kể bao nhiêu chuyện từ ngày bặt tin ông. Cô kể rằng, cô yêu ông, vẫn nhớ đến ông mà không biết bây giờ ông ở đâu và ai là người thay thế cô sửa chữa những câu viết vội? Cô kể cho ông hay, nếu ông tới hôm ấy, chắc chắn bây giờ chúng ta đã thuộc về nhau rồi! Đã ba bốn lần Phượng phải dừng lại để lau nước mắt. Lá thư cô như một dòng suối từ nguồn vô tận chảy ra, tưởng như không biết dừng ở chỗ nào.
    Phượng lấy giấy thấm nước mắt/ Cô kể về ngày cưới của cô sắp tới
    Không! Như thế thì ông ấy đau đớn lắm! Cô dừng lại.
    Cô tin là như vậy. Con người ấy chịu bao nhiêu mất mát của cuộc đời rồi, sao cô lại làm trái tim ông ấy bầm rát lần nữa.. Hay là ông ấy đủ sức vượt qua tất cả? Như ông ấy từng viết cho cô: ?oCuộc sống này, tự thân nó chẳng có ý nghĩa gì cả, ngoài việc sinh con đẻ cái, nối dài cái phần xác của mình; ý nghĩa của cuộc sống có được là nằm trong tay mỗi đứa chúng ta!? Ông ấy làm bao nhiêu điều cho cô, không chỉ cho cô, thực trung thành với điều ông tâm nguyện, nói cho cô ngày nào: ?oTrước khi viết một điều nhân ái, phải biết tập sống nhân ái. Khó lắm, nhưng phải thế!?
    Ông ấy như vậy. Như vậy thì ông ấy sẽ nghĩ gì về cô nhỉ?
    Phượng dừng lại. Cắn chặt môi mà nước mắt cứ lặng lẽ rơi. Không, cô tin là ông ấy sẽ tha thứ cho cô tất cả. Mọi điều cô viết chỉ làm ông ấy đau lòng nữa mà thôi.
    Phượng lấy giấy lau nước mắt. Ngửa đầu ra ghế, nhắm mắt vài phút!
    Cô tháo cặp kính ra. Bình tĩnh lại!
    Cô ngồi bất động tới nửa giơ` như hóa đá trước bàn máy. Rồi cô thong thả lau rất kỹ cặp kính của cô, cặp kính đã hai năm nay, từ sau buổi hẹn đầu tiên ấy, cô đã mua nó, mang nó để viết cho ông bao nhiêu là lá thư.
    Phượng lấy giấy lau sạch những vết mờ trên cặp kính cận lần nữa.
    Cô mở tất c thư của ông trong lưu trữ ra. Cô lấy con chuột kéo những lá thư đi rất chậm, nhìn lại một lần cuối cùng những dòng chữ thương vô bờ của ông.
    Xong, cô nhấn nút, nhấn nút.
    Toàn bộ thư từ, cả thư cô mới viết, tất cả, bị dòng tín hiệu chạy nhằng nhằng liên tục, xanh lét nhấn chìm, vụt biến.
    Một vài giây sau trời sang chiều. Ngoài trời bỗng mưa như thác và từ nhà thờ lớn đột ngột vang lên hồi chuông dài. Chuông ngân nga, lan xa, trong vắt hòa vào thác mưa trắng xóa ngút ngàn trùm lên thành phố, lên đường phố, cuốn theo tất cả bụi bậm sinh ra sau một ngày mệt nhoài, một ngày với bao loại người cùng phương tiện chuyển động với tốc độ của thời kỳ điện tử digital. Thản nhiên, mưa cũng trùm xuống nơi có ngôi nhà nhỏ, nơi cây lan già nghiêng nghiêng, đang đứng giữa trời. Và, mưa làm nhòa ướt đẫm khuôn mặt thanh tú của một cô gái đang đứng giữa trời. Khuôn mặt chẳng vui, chẳng buồn, mơ hồ lắm của một người con gái tên Phượng...
    NVT
    1-Web-Trang tin mạng Internet, nơi có thể mọi người cùng viết lên đó những vấn đề cùng trao đổi
    2-Email: Thư điện tử
    3-Đọc morat: Đọc bản thảo trước khi in ấn.Công việc kỹ thuật tìm lỗi so với bản gốc.
    4- As long as love you me: khi nào anh còn yêu em
  7. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Nhà Ba Hộ
    Nguyễn Văn Thọ​

    Ngôi nhà không số. Con đường không tên. Nguyên xưa là đất vật bùn ven hồ của một xưởng than quả bàng, sau bỏ hoang, đầy bụi gai, cỏ, rác, phân, xác súc vật thối. Con đường lồi lõm hiện ra từ các vệt bánh ô tô chở hải sản sơ tán đến cái nhà kho tạm một thời. Người quanh vùng lần theo, đi bộ tắt sang khu bên kia hồ, nơi có đường lớn gần hơn vào trung tâm thành phố.
    Lối nhỏ luôn lép nhép bùn. Nước đọng. Những đám cỏ bánh chè. Đôi khi lác đác mấy con cuốc mỏ hồng, chân đỏ, thân đen, ăn lẫn với đám gà nhà. Đường cong như cánh tay ôm dải cúc tần sát cái hồ. Hồ cũng không tên, ba mẫu. Bên cùi chỏ cánh tay là khu tập thể của công ty thủy sản : tám ngôi nhà hai tầng. Xuân và đông nồm, nom như tám con tầu cũ rẽ sương, khói bếp mù mịt. Dải cúc tần lắm dây tơ nguyệt, mùa xuân nhả mớ tóc vàng óng phủ trên mầu xanh đông đã già.
    Ngôi nhà quay lưng vào đầu hồi một nhà tầng, mặt ngoảnh đón gió hồ. Nhà rộng bẩy chục mét vuông, lợp lá gồi, xưa là kho tạm chứa cá khô, nước mắm từ ga Giáp Bát về. Hết chiến tranh, kho không cần tới. Cỏ dại mọc xoá vệt ô tô, chỉ còn vệt đi bộ. Rồi người quay lại Hà Nội như kiến, công ty nhớ tới cái kho bỏ quên hai năm, cải tạo lại, lợp tấm phi-bờ-rô-xi-măng, quét vôi vàng, ngăn thành ba phần không đều cho ba hộ.
    Thật bất ngờ, ba chủ dọn đến đều là vợ chồng mới cưới. Một tuần, đám phụ nữ đã tường gần hết lý lịch của nhau. Tôi, thương binh phục viên, cán sự ba, phòng bảo vệ công ty, ở gian giữa. Vợ chồng anh Phạn bán lòng lợn tiết canh, cô vợ tên Xuân, con gái lớn của bà phó phòng tổ chức ở chái hữu. Vợ chồng anh Thủ, chị Huyền, cán bộ kiểm nghiệm công ty ở chái tả. Hộ cô Huyền rộng gấp rưỡi hộ của tôi và Phạn. Lý do giản đơn là nó có sẵn bức ngăn gỗ, xưa là nơi thủ kho làm việc.
    Được chia nhà là diễm phúc rồi. Mè nheo hơn kém vài thước vuông làm gì !
    Sự giống nhau của ba hộ là ba cái cửa vào đều loại gỗ tạp, bản lề sắt luôn kin kít và hở toác trên, dưới, đón gió hồ ***g lộng thổi. Không có gió hồ thì thật không thể nằm trong cái nhà trần thấp lợp xi măng tấm bắt nhiệt như hun ấy. Lại mùa đông, khi gió heo may về, những ống tre hu hú đón gió và bụi đất lả tả bay từ vách tre trộn bùn rơm ngăn giữa hộ tôi và hộ Phạn. Trời nồm, tường sau và trước nhiễm mặn cá khô, tưa nước đọng thành hột, toả mùi khăm khẳm, khó thở. Trần bưng bằng cót, kín mà hở. Mùi của ba nhà, tiếng động cứ thông thống từ hộ này sang hộ kia.
    Chủ nhật, vợ chồng tôi hì hục dán giấy báo lên biên giới phía trái để che bụi. Phía phải vang lên tiếng đóng đinh cồng cộc, chan chát. Tôi đoán, anh chàng rể của công ty mới đi tây về xẩm chiều qua, da trắng nhễ nhãi phá hòm gỗ, sớm nay chắc làm xong gác xép, thừa gỗ gia cố biên giới giữa hộ tôi và anh cho vững chắc.
    Buổi sáng tuần thứ hai đi xếp hàng lấy nước máy ở đầu nhà A3, gặp ngay Phạn. Hắn đang rửa cái thùng to còn dính cáu mỡ lòng và tiết lợn.
    _ Chào ông bác ! Gớm làm gì mà chèn chắn ghê thế. Để hổng ra một tẹo cho thoáng. Đã bó rì rì các bố lại thi nhau bưng thêm. Đứa đếch nào nghe tiếng phì phò ! Em cũng như bác, lúc mải cái ấy thì để ý đến ai.
    Phạn bán tiết canh lòng lợn chợ cóc (1). Gã vừa nói vừa đổ ào thùng nước đầy bọt mầu hồng lênh láng khắp mặt đất. Mắt nháy với tôi nom vừa trải vừa bất cần.
    _ Ấy, mình che chắn gì đâu. Bụi quá !
    _ Nói là nói thế thôi, chứ ông bác có đổ tường xi măng em cũng kệ. Phía em căng cái nilon xanh vừa dịu vừa cách âm hết xảy ! Ông bác đi tây hôm qua mới lấy hòm về. Bốn năm cái Kích (2), một đống hàng như núi. Tiên sư ! Các bác sướng thật ! Chả đầu tắt mặt tối như cánh em !
    Tôi không dám trả lời câu chửi đổng bất ngờ ấy. Tủm tỉm cười và lấy thùng nước quẩy nhanh về : " Tớ cũng như ông thôi ! ". Phạn có thể nhìn dáng cà nhắc của tôi mà đoán ra điều gì, chắc thế, ái ngại mời với : " Em nói cái bác Thủ thôi ! Bác xá cho ! Chủ nhật này rỗi, tối, ông anh sang em làm chầu tiết canh nhé. Đừng khách khí ông bác ạ. Trước lạ sau quen ! "
    Điều mà Phạn vạch ra trần trụi ấy là có thực, nhưng mà không đáng lo. Bởi vốn hay e thẹn nên vợ tôi nhất quyết bất động trong thời gian khi mấy nhà mới đi nằm. Chúng tôi thường rón rén yêu nhau lúc gần sáng. Khi ấy chỉ có tiếng chuột chạy, tiếng gió đu đưa sáo trên các lỗ tre, tiếng thở, ngáy đều đều của bốn đứa người ở hai hộ bên.
    Mọi sự hoạt động của ba hộ, sau ba tuần chúng tôi đã thuộc làu lịch ăn uống, khẩu vị từng bữa, sinh hoạt, yêu nhau. Tất cả như một mùi hỗn tạp song vẫn phân biệt được, nhất là mỗi chiều chủ nhật, ba nhà cùng nổi lửa. Mùi tỏi xào thịt bò của anh Thủ, mùi rau muống xào tóp mỡ của vợ tôi hoà trong mùi rượu đế thơm nức với tiếng mỡ sôi lép bép, béo tanh khi nhà Phạn rán cá.
    Mùa hè năm ấy, gió quật từ hồ đem theo cả mùi ngai ngái và hơi tanh của bèo tây và bọt khí lòng hồ. Tôi thường đọc sách tới khuya bên vách đất. Vợ tôi đã lăn ra ngủ, thở đều, đôi chân trắng nõn của nàng gác lên bức ngăn gỗ.
    Tất cả quen dần như vậy. Nó cũng giống như ta thở hít thứ không khí làng quê. Hương làng sống ăn đời ở kiếp bao đời với đa số người Việt Nam, nhưng chẳng ai để ý. Khi ra thành phố, vẫn nhơ nhớ một cái gì đó, thiêu thiếu cái gì đó, xưa ẩn giấu trong vô thức, nay có dịp, hong hanh nhớ ra, gợi về cái làng xa kia mà chẳng nhớ rõ mùi gì.
    Tuần thứ tư từ khi lấy nhau, vợ tôi ghi một dấu thập to vật trên tờ lịch. Mới chín giờ tối, mà hai nhà bên đã tắt đèn. Tôi đành tắt đèn trần và bật cái đèn ắc quy vẫn dùng khi mất điện.
    _ Trời nhiều mây, gió nhẹ, nhiệt độ từ 18 tới 25 độ. _ Tôi tắt vội đài.
    _ Tiên sư mấy con phò bán trứng (3). Bảo mấy lần rồi mà nó cứ chèn ngang vào đầu hàng nhà mình.
    _ Ngày mai anh sẽ bảo nó. Thôi, lại đây ! Anh chúa ghét cái thứ khuy cài. Mai anh lên Hàng Đào mua cho em cái loại mới về của Thái ! Mềm và đẹp lắm. Sờ vào, mát cả tay !
    _ Rõ dơ ! Tay gì như hòn than thế !
    _ Gớm _ có tiếng khúc khích rồi yên một lát.
    Tôi cố tập trung cúi xuống đọc tiếp giáo trình thương phẩm để khỏi mang tiếng là nghe trộm.
    _ Anh yêu em như thế nào ? Có tiếng rất nhẹ từ chái phải vọng sang._ Tiếng Huyền !
    Tôi bịt tai lại. Đầu ong ong mà vẫn nghe tiếng rinh rích của bầy chuột đùa chơi trên trần nhà. Bịt tai mới được muơi phút phải bỏ hai ngón tay ra. Khó chịu quá !
    _ Mùa đông bên kia lạnh lắm. Tuyết trắng xoá. Anh ở nhà một mình ngồi nghĩ tới em !
    _ Nói dối !
    _ Thật đấy, đoá hồng của anh !
    _ Ai tin ma ăn cỗ ?
    _ Nhìn trăng kia kìa. Có nó chứng giám cho anh !
    _ Bây giờ của anh rồi, ván đã đóng thuyền. Còn yêu thế không ?
    _ Hơn chứ, Cưng ơi ! Anh yêu em bằng cả trái tim chỉ dành cho em !
    Tôi chợt nhận ra, trăng lên thật. Tia sáng loang loáng như lưỡi kiếm màu vàng chém xéo qua khe cửa xuống vạt chiếu vợ tôi nằm.
    Có tiếng gì chun chút như tiếng mở cái giác chữa cảm khỏi da thịt, như mút bóng từ miếng bóng bay vỡ, vọng từ chái phải. Lại nghe : " Anh thích trai hay gái ? "
    _ Trai gái đều được tuốt ! Gì cũng thích.
    _ Em thích con trai !
    _ Anh cũng thích con trai !
    _ Em thích con gái !
    _ Thôi, gái trai như vậy cả. Đấy ! Con gái nhe... ! _ Có tiếng thở. Tiếng cựa mình. Rồi tất cả chìm trong im ắng như tuyệt đối. Một lát lại nghe tiếng sột soạt của áo quần. " Ngày mai anh còn đi lên viện, có cuộc họp rất quan trọng ! Thôi, ngủ đi cưng ! "
    Gió đêm nổi lên. Đập vào chỗ trần nào kẹp không kỹ, dập lên dập xuống. Hình như có tiếng thổn thức. Hay là gió ?

    Được Odetta sửa chữa / chuyển vào 09:23 ngày 01/06/2003
  8. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Buổi sớm hôm sau tôi ra chợ. Đám hàng rong bán rau và trứng bầy lấn ra hết cả lối đi. Mới sớm mà trời oi lạ. Những người ở ngoại thành kéo ra bán rau tự sản từ tinh mơ, những người buôn từ chợ rau Mơ cũng đã qua nhà tôi rình rịch từ khi trời còn tối. Cái chợ bé mà chẳng thiếu gì. Tôm cá từ mạn Đuôi Cá tươi đành đạch trong các thùng sơn hay trên mẹt. Rau, dưa, hành, thơm, đủ cả. Quầy bán tiết canh lòng lợn ngay đầu chợ. Họ không trông thấy tôi. Tôi nhìn thấy Phạn thoăn thoắt thái lòng cho vợ anh xếp lên đĩa. Mùi cháo dăm hành phả ra thơm ngậy. Tôi nín thở. Tôi quay mặt đi vòng nhanh trốn chạy cái mùi hấp đẫn. Cồn cào ! Tới chỗ bán đậu phụ còn nghe tiếng Xuân lanh lảnh : " Nhà em hãm tiết bảo đảm, nước luộc lòng sôi trăm phần trăm. Các bác có chén tới ễnh bụng cũng vô tư đi ! "
    " ***** con kia, ông đã bảo không quang thúng chềnh ểnh chỗ đấy cơ mà. Đổ xe của khách ông bảo ". Tôi quay mặt đi. Giọng Phạn ! Có tiếng cười nồng khùng khục của ai đó. Tiếng ai : " Em đi đây, em đi đây ! "
    v
    Tháng sau, phòng quản trị công ty cho người tới chuẩn bị mắc nước cho ba hộ chúng tôi. Người ta đo đạc sau nhà và quyết định đào phía sau một cái hố, xây bể nước. Công việc chẳng cần sự có mặt của tôi nên tối về mới biết công trình ngày mai khởi công. Phạn chạy sang nhà Huyền rồi quay sang nhà tôi : " Anh em ta mỗi người bỏ ra năm ngàn bồi dưỡng thợ. Chúng em tính giá lòng mua, đắt là hai lít chính hiệu Con Nai Vàng (4) nếp lủi. Thôi thì cho bọn nó nhờn mép một tí, không mai bể nước lại rò rỉ thì chết cả nút." Vợ tôi lấy tiền đưa Phạn. Gã cầm tiền xỉa vèo vèo. Xong ! Phạn cười, mùi rượu phả vào tôi : " Giầu mà kiết, anh ạ. Nó tưởng em lợi dụng chém nó, hỏi đi hỏi lại mấy đồng bọ, như thanh tra không bằng. Em cần đếch gì mấy cắc đểu (5) của nó ".
    Nửa tháng sau bể nước xong. Cái bữa xả nước hồi hộp như đào vàng. Dòng nước trong vắt lừ đừ dâng lên trong bể. Cô Xuân, cô Huyền chốc chốc lại ra ngó xuống. Phạn và tôi xúc đất, than xỉ làm một cái nền quanh bể. Từ nay chúng tôi đỡ chen chúc tranh nước quanh cái vòi công cộng. Cám ơn công ty. Công ty muôn năm ! Phạn tự nhiên hô to như vậy, gã nằm lăn ra đất, sau khi dội ào ào liền mấy xô nước lên cái thân hình khi nào cũng ám lòng lợn và mùi rượu.
    Vợ tôi dọn một mâm cơm đậu phụ và đĩa thịt vịt ra chiếc chõng kê ngay đầu hồi nhà Phạn. Dù đã mời gia đình cô Huyền trước, nhưng cô Huyền cười cười từ chối : " Các bác cứ tự nhiên xơi, chứ nhà em hôm nay có hội nghị đã ăn cơm rồi ". " Cán bộ có khác, suốt ngày đi họp, lại đỡ cơm nhà ! " _ Xuân nói.
    _ Gớm ! Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì ***. Ấy, em xin lỗi bác ! _ Phạn nhìn theo cặp mông căng lẳn của cô Huyền tấm tắc cái quần hồng cô đang mặc để nhận một cái véo rứt thịt của vợ.
    Đêm ấy thực là dễ chịu hiếm có. Gió phe phẩy, nhiệt độ chỉ 18 độ. Tôi nằm xuống cứ thao thức mãi, có thể vì quá chén chăng ? Trăng mười bẩy và ánh sáng của muôn ngàn tinh tú loang loáng qua các khe hở phía trước nhà. Tiếng đồng hồ rí rách, chậm và thong thả thế !
    _ Lần này thì trúng thật rồi anh ạ.
    _ Nói thật chứ !
    _ Tiên sư đứa nào lừa anh !
    Tôi giật mình nghe tiếng ré lên ngẹt trong họng của Phạn sau đó. Tôi trả vờ ho đánh tiếng. Có tiếng đấm bùm bụp vào da thịt chắc nịch. Yên ắng một lúc, lại nghe :
    _ Anh yêu em không ?
    _ Yêu !
    _ Yêu thế nào?
    _ Yêu *** chịu được !
    _ Thật không ?
    _ Đ... mẹ thằng nào nói dối !
    Tôi thiếp đi sau tiếng rúc rích, tiếng chân chuột vẫn chạy trên tấm trần cót.
    Tôi không hề biết rằng gần sáng hôm đó vợ tôi cũng trúng, bắt đầu có trong người một mầm sinh linh. Sự kiện phải hai tháng sau mới xác định được. Ba tháng sau, vợ cho biết tin ấy, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì mình sẽ có con. Lo vì cuộc sống thế này, hai miệng ăn với lương lậu chỉ đủ chi hạt tiện, nay mai thêm trẻ, nuôi nấng ra sao ? Tôi không dám nói điều băn khoăn ấy cho vợ biết. Còn vợ tôi thì hớn hở khi thấy nụ cười của tôi trong đêm. Chưa gì nàng đã dự kiến tương lai của cái hoa mới vừa hong noãn. Nào là đi học trường y, trường nhạc, nào là sẽ may cho nó đồ màu xanh ; nào là đi học bách khoa hay trở thành nhạc sĩ ? Đàn bà trẻ bao giờ cũng lãng mạn như bọn thi sĩ ấy, còn khi đã có con, trăm công ngàn việc, họ có còn vậy không ? Tôi không dám cười, lặng kéo vợ vào lòng, nhìn nước mắt vợ cũng lặng ứa và chợt nhớ bao nhiêu mộng ước trước chiến tranh tôi từng có.
    Câu chuyện của chúng tôi nói nhỏ thế mà sớm ấy Phạn nghe thấy. Phạn chả hay dậy sớm uống trà rồi đi lấy lòng và tiết từ ba giờ. Vài tháng sau, khi thau bể nước vì con chuột nào ngu ngơ sểnh chân, chết nổi lềnh bềnh, Phạn khoe : " Vợ em cũng có rồi. Ba tháng ! Mẹ em sờ bụng, xem tóc gáy bảo : con trai ! Vợ chồng anh thì mong cháu đi học này, học nọ chứ con em chả cần học gì hết. Chỉ cần biết đếm là đủ ! Đếm không nhầm là đủ. Con trai cho học hết lớp năm, biết đọc báo. Con gái thì ở nhà giúp mẹ thái lòng, đếm tiền ! Hết ! "
    Phạn nhoẻn miệng cười rồi vỗ vai tôi. Nụ cười của gã ngoắc tận tai, nom vô tư và rất thiện cảm. Nụ cười ấy xoá hết những nét rất sắc cạnh ở khuôn mặt phong trần của gã. Người ta, khi cười rõ hình thiện và ác, có phải thế chăng mà tôi quên đi hết nét mặt vốn dĩ chờn chợn của gã, giữ lại nụ cười ấy suốt bao nhiêu năm phiêu lạc sau này của mình. Bàn tay gã nặng và ấm đặt lên vai tôi. Tôi nghĩ, Phạn không đùa.
    Mùa thu năm ấy đến sớm hơn mọi năm. Không gian trước nhà chúng tôi như rộng ra khi gió trở mình đùn hết bèo từ mặt hồ bên này sang bờ bên kia. Vợ chồng tôi cuốc đất, dọn bụi trồng rau ven hồ từ đầu hè. Thu tới, rau muống vừa cằn thì cải lên xanh. Nom rất mát mắt. Thấy vậy, vợ chồng Phạn cũng xí một khoanh. Cô Huyền cũng xí một manh, chạy dọc tới năm chục mét, rào kỹ mà chẳng trồng xới. Vợ chồng Phạn không mát tay, rau cải của họ chưa kín luống đã vàng. Bù lại, mấy hàng ớt của họ rất tốt. Xanh mướt và cho trái ngay. Phạn bảo, gã bứng cả gốc từ nhà bạn nên lạ đất và lắm phân gà mà như vậy, chứ chả giỏi giang quái gì ! Con người em như ớt ấy, càng lạ càng tốt, nhiều phân rác càng hay ! Lạ là cái gì nhỉ ? Tôi chẳng biết gã muốn nói gì. Hắn lại bảo, hơn ba chục tuổi mới biết cái sở trường của hắn là chọc tiết và hãm tiết ! Ông anh biết không, thọc con dao vào cái cổ mũm mĩm trắng toát để máu phun ra chói loà ấy mà, chuyện ấy đâu có giản đơn. Phải biết ! Phải xử chính xác lưỡi dao. Không run tay, chệch hướng. Chọc một cái, đứt màng trên. Dí cái thứ hai, trúng tim. Tiết chảy hết, không đổ màu tím, không còn một tiếng kêu. Đấy là nghề ! Nghe gã nói mà rởn người.
    Những khi rau rộ, chúng tôi tỉa vài cây tươi roi rói chia cho hai nhà. Đúng là chúng tôi bắt đầu già trước tuổi, hay là khó khăn mà thấy vui vui bên luống rau. Những câu chuyện bên cái vườn ấy lan man đủ thứ. Tôi biết thêm việc Phạn cũng từng ở lính. " Ông đừng nhìn tôi bây giờ mà đánh giá nhé ! Tôi từng là học sinh giỏi, chẳng khi nào chịu tổng kết các môn tự nhiên dưới điểm 9 đâu ! " Phạn mở màn với câu như vậy.
    Phạn vào Bình Trị Thiên hai năm, đánh dăm trận rồi bị thương, ra Bắc điều dưỡng. Cả năm, anh đi xin việc khắp nơi mà không có công sở nào nhận. Sau nhờ bạn đồng ngũ, làm ở lò mổ dạy cho nghề tiết canh lòng lợn, lại tìm cả mối bỏ hàng. Phạn kể : " Gia đình tôi gốc ở Nam Hà. Hai đời các cụ kỵ đều đỗ đạt, làm quan cho triều Nguyễn. Đời ông cũng bằng tây, chữ ta đủ cả. Tới đời bố tôi thì ruộng nương cũng chẳng còn mà cái sở học, tiếng tây, những sự biết của ông về Hắc Sơn, Man, Chu Chi, Hê Min Uê (7), đại loại như vậy, trở nên thừa thãi. Chẳng kiếm đủ cơm ở Hà Nội, bố mẹ tôi lên Tuyên Quang khai hoang rồi lại xuôi Hà Nội. Xoay đủ thứ, sau chuyển làm hộp giấy gia công, rang xay café. Khi sinh tôi, mẹ tôi chỉ muốn tôi sau này đủ ăn nên đặt tên tôi là Phạn. Phạn là cơm. Mẹ tôi nói vậy. Người ta đói thì cần cơm. Cha mẹ tôi trong loạn lạc triền miên, nên giản đơn mong tôi có ăn là đủ. Các anh chị tôi tên đẹp lắm, nào Hùng, nào Lan, Ngọc. Chuyện tôi lấy vợ là duyên số. Tôi quen cô ấy trong một lần đi xem phim ở Tháng Tám. Gặp người ta gây gổ với nó. Tôi can thiệp. Sau đó nên vợ nên chồng. Vợ tôi như miếng mỡ gầu, ngu hơn tôi một chút. Cô học chỉ hết cấp hai. Cái thời sơ tán, đạn bom, đi theo mẹ lang thang suốt trên những chuyến giao hàng. Nồi lành úp vung lành, méo úp méo. Chúng tôi hợp nhau. Trời cho lộc thì chả mấy chốc tay dao tay thớt mà có của ăn của để ! ".
  9. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    Đêm ấy tôi nằm nghĩ lại chuyện Phạn. Cái tên là lạ của anh ấy cũng có cả một lịch sử dằng dặc của mấy đời. Đời phức tạp quá hay con người ta trót mơ mộng nhiều nên khi vỡ mộng thì quay lại thực tế với những điều giản đơn nhất ? Lạ thật, có còn xứ nào cái tên cũng cõng theo thân phận, ước mơ của một kiếp đời không ?
    Vài lần, khi cả bọn đang làm vườn, tôi thoắt trong thấy bóng anh Thủ nhìn chúng tôi qua cửa sổ. Cái nhìn rất khó hiểu, gật đầu chào nhau mà tôi vẫn thấy có gì đó không cắt nghĩa. Sao anh ấy không trồng hái gì nhỉ ? Tôi tự hỏi khi cô Xuân và vợ tôi vừa nhổ cỏ vừa thì thào. Họ thương cùng kiếp đàn bà mà sao chị Huyền vợ Thủ chưa có gì. Phạn cười phá lên : " Các bà lo bò trắng răng. Tại giống đấy. Bọn tôi lực điền, giống xịn. Còn nó giống phò. Không tin để tôi thử một phát. Lách trái con gái, lách phải con trai. Trúng ngay ! ". Xuân đứng bật dậy, tát liền vào má chồng : " Tiên sư cái thằng dê ! "
    Tát rõ mạnh. Ten tét hai ba cái liền, thế mà Phạn chẳng né tránh, còn cười như phá. Tiếng cười thia lia trên mặt hồ có làn sóng lao xao.
    Chúng tôi cứ như thế, như thế sống.
    Tôi bước vào năm cuối cùng tại chức nên rất bận. Tuy nhiên vẫn phải chuẩn bị vật chất cho đứa con sắp chào đời. Tôi đi làm thợ hồ, thợ chụp ảnh đám tang, đám cưới, làm điện trong tất cả các ngày chủ nhật, cả ngày lễ, tết. Vợ tôi năng lên bà ngoại lấy tóp mỡ, dưa, thịt kho, cá kho. Vợ chồng Phạn thì xoay ra mua lợn tự mổ, bán kèm thịt. Có hôm, không mổ ở nhà chủ lợn, Phạn đèo lợn bằng xe đạp về chọc tiết ngay đầu hồi. Hắn làm thế nào mà không có một tiếng kêu. Sáng ra, thấy vệt máu mới biết đêm qua hắn làm lợn ở đó. Tôi bảo, ông khéo thế ! Gã hiểu ý tôi cười : " Sợ làng xóm mất ngủ thôi, còn mấy ông bác thuế vụ, có phần cả rồi ! ".
    Vợ chồng anh Thủ vẫn đều đều đi làm. Mỗi sớm, anh dắt xe máy qua cửa nhà thấy tôi gật đầu chào. Bây giờ anh để bộ ria đen nhẫy, cặp kính râm vừa khuôn mặt màu xám nom rất hợp. Mắt luôn nhìn thẳng như chưa bao giờ trông thấy chúng tôi. Tôi nghĩ, mỗi người có một cá tính và sống bên Tây rồi nên như thế. Nhưng Phạn thì phản ứng ra mặt. Một lần đụng nhau ở chỗ bể nước, Thủ vụng về để rơi thùng múc nước xuống mà không sao lấy lên. Phạn nhổ nước bọt ra dáng khinh bỉ, đu xuống lấy hai chân khều cái dây lập lờ lôi lên. Thủ không nói gì, mặt hơi tái, xách xô nước đi về nhà không ra nữa. Cô Huyền ra kín nuớc thay chồng. Phạn múc nước giúp Huyền, lại xách cả hai thùng về để ở đầu hồi nhà Thủ. Không hiểu sao Phạn hay ác cảm với Thủ như vậy ?
    Sau tết, qua xuân, sang hè, cái bụng vợ tôi cao lên bao nhiêu thì công việc chuyền sang tôi bấy nhiêu. Vợ tôi yếu, người vàng nhớt. Cô ấy chẳng chịu ăn, hơi trở trời là kêu mỏi, đau. Vợ Phạn thì không như vậy. Chị quần quật từ sáng tới tối mịt như chưa từng có chửa. Cái bụng ưỡn ra phía trưóc, bước chân khuỳnh khoàng nhưng vẫn thoăn thoắt đi trước gánh lòng, thịt chồng gánh. Đúng là trời sinh ra mỗi người một phận. Chúng tôi thường an ủi nhau rằng có con thì hạnh phúc phải trả giá, thêm vất vả, neo bấn. Cô Xuân đôi khi e ngại nhìn vợ tôi rồi lại bảo : " Sướng chán, nom con Huyền kia kìa, có cái *** gì để sướng như tụi mình đâu ! ". Lời thì thế, nhưng mặt ngó không có ý ác. Vợ tôi nhăn nhó cười.
    Tháng tám vợ Phạn sinh trước. Một thằng con trai rõ to khoẻ, bốn cân hai, chân tay mũm mĩm, mắt đen nhìn lơ láo, miệng đỏ tươi như múi quýt hồng. Tôi hỏi Phạn, đặt tên con là gì ? Phạn bảo : " Tiến ! Tiến lên ông ạ ! ".
    Hồi ấy, Hà Nội chưa chơi Tá Lả, mới có trò Tiến Lên. Giá có Tá Lả thì chắc Phạn đã đặt tên con là Tá.
    Vợ tôi vật vã hai ngày hai đêm trong bệnh viện Bà Mẹ Trẻ Em. Mụn gái chưa đầy ký rưỡi, ủ trong ***g kính, chân tay đầy lông như con chuột con, nom rất thương. Phạn chắc cũng như tôi chỉ mong mọi việc xong là về nhà với con. Khuôn mặt người ta có hạnh phúc là biết ngay, lúc nào Phạn cũng tơn tớn. Không biết nom mặt tôi có thế không ?
    Sự thật là như vậy ! Nhưng bên niềm vui dễ cảm nhận ấy thì Phạn rất vất vả trong mỗi phiên chợ mà chỉ có mình anh. Tôi thì khỏi phải kể. Ai đã từng có con ở cái thời bấy giờ, cái thời mà mua một hộp sữa, một lạng sườn nấu cháo cho trẻ cũng phải cân nhắc, đắn đo mãi, phải nhịn ăn, nhịn tất cả mọi sở cầu vật chất, tinh thần của người lớn như thịt tươi, xi nê. Sự ấy, cho tận tới khi con gái tôi biết đi, biết chạy và đến lúc bẩy tám tuổi, chúng tôi chưa hết vất vả vì cháu luôn đau ốm. Tim dị tật, bẩm sinh, phản kháng rất nhậy với đủ mọi thời tiết. Sau, do tiêm gì đó động huyệt, chân cứng nhắc, đại tiện đứng rất tội ! Không khí trong nhà luôn căng thẳng, nhất là những ngày nóng bức mà con khóc ngặt nghẽo, mềm lả trong tay người vợ tôi.
    Có thể tất cả những điều ấy đã làm cho một thằng tôi, một người quen với cuộc sống 12 năm ở lính, chỉ quen chấp hành mệnh lệnh, nay trở nên một người hết sức lúng túng chăng ? Đi bộ xuyên rừng tốt, kiếm rau rừng tốt, kinh nghiệm tìm nơi ẩn giấu, giữ cái mạng mình tốt, nhưng chả biết gì ở cuộc sống một cặp vợ chồng phải mềm mại giải quyết những khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh mà tôi kể trên. Tôi trở nên thường xuyên cáu bẳn vô cớ. Vợ tôi cũng hết cả sự dịu dàng của cô kỹ sư trẻ vừa ra trường. Cả hai kẻ chẳng đứa nào xấu, nhưng ngô nghê trước cuộc sống gia đình vốn chả giản đơn. Sau này nghĩ lại, tôi vừa xa xót vừa ân hận. Nhất là nghĩ tới vợ tôi, người suốt cả thời gian ấy phải chịu đựng quá nhiều, việc cơ quan, việc nhà, việc con cái ốm đau. Song thường là, người ta có gục xuống, thì mới nhận ra điều đã mất. Đã mất đi thì cái gì chứ tình cảm như con chim sổ ***g đã vụt bay mất rồi.
    Chúng tôi cãi nhau về những điều rất lặt vặt trong đêm. Từ chuyện tôi hút thuốc nhiều ; chuyện đi hôm về tối chẳng buồn nhắn một câu ; chuyện sao nhà bừa bộn thế, đến cái đầu tôi luôn hôi, bốc mùi trong căn buồng hẹp ! Tất tần tật ! Mọi sự cứ sinh sôi, chất đầy, nèn chặt trong cái hộ vốn hẹp tí của chúng tôi. Tháng, năm, những giọt nước mắt khô đi để lại khuôn mặt lầm lì và nặng chình chịnh của vợ cả mỗi khi cơm nước dọn ra ; có khi bất ngờ không duyên cớ, những tiếng bát vỡ tan tôi ném vào cái cửa đầy những khe hở. Trong khi đó, cuộc sống của vợ chồng Phạn, Xuân vẫn hùng hục như ngày nào, vất vả hơn, nhưng thực là thứ cây hoang dã bất chấp mọi thời khí, để những khi Phạn dậy muộn, chúng tôi phải nghe một câu chửi rất chói tai của Xuân :
    _ Trời ơi, *** mẹ nó chứ, bảnh mắt rồi mà bố con nó còn ôm nhau ngủ như chó thế kia ?
    v
    Khi đứa trẻ đầu mới chập chững biết đi thì vợ Phạn lại chửa. Công việc đòi hỏi cần có người giúp đỡ. Lúc sinh con đầu lòng, mẹ Xuân tới, hai tháng quần quật giặt tã đỡ đần Phạn. Lần này Phạn dứt khoát không muốn mẹ vợ vất vả. Sáng xuống nhà, chiều ngược vào phố. Bà ngoại già rồi, phải ngơi chút xíu chứ ! Phạn bảo vậy.
    Một cô gái thôn Linh Cầu, đang tuổi xuân thì, em họ Xuân, tên Phượng. Tóc dài mượt đến ngang lưng. Hai tháng trời ra Hà Nội ở nhà trông cháu, không mưa đồng, gió bãi, trắng ra, mắt luôn lấp lánh, đôi má mơn mởn như rắc phấn.
    Có người giúp việc, quán xuyến, tháo vát từ trông cháu tới cơm nước, vợ chồng Phạn rảnh rang đan tay làm ăn. Mà đúng khi ấy, Hà Nội đang rộ cao trào nhà nhà nuôi lợn, nên công việc giết mổ, tiết canh rất thuận. Phạn bận bịu lắm, quần quật suốt tháng, suốt năm, nhưng vẫn phởn ra hơn cả hồi mới lập gia đình, lại bớt say ngất ngư. Một bữa Phạn sang tôi bảo, sao vợ chồng tôi không thêm một nhau. Cho có lứa ! Cho chó có đànấ! Tre ấm bụi ! Như cách nói của Phạn. Hắn cười hoắc cái miệng khi ghé tai tôi : " Hay máy ông anh tịt rồi ? ".
    Phạn thừa sức biết gia đình tôi khó khăn ra sao, nhưng điều hắn không thể biết là tôi đã rất nhiều lần phải tự dày vò với mình khi công ty mở chiến dịch giải toả hàng, điều cán bộ bảo vệ đi áp tải. Chỉ cần phẩy tay một cái, trút ngay vài can nước mắm là có mấy tháng lương. Sự hao hụt vài chục lít nước mắm sẽ được bù trừ dễ dàng bằng nước ruộng. Nhưng tôi không sao làm được cái điều giản đơn ấy. Can nước mắm trở nên nặng như buộc đá mỗi khi định xách nó xuống xe dọc đường. Hay, vì công việc chuyên môn, những lần lập biên bản, giáo dục những người ăn cắp hàng hoá níu tay tôi lại ; hay từ điều xa xôi nào, ẩn tàng một cái nhìn như quở trách con người thực tại của tôi khi ấy. Ai nhìn tôi ? Mắt vô hình ! Ở đâu, từ đâu nhỉ ? Tôi cũng không tự lý giải ngọn ngành mà chắc Phạn càng không biết. Hay là hắn biết mà không thèm nói, vì có lần thấy tôi đăm chiêu, hắn bảo : " Các ông là hay phức tạp lắm. Đời rắc rối quá rồi, cứ để nó thiên nhiên ! (8) Nghĩ nhiều là tổn thọ ! ".
    Vợ chồng Thủ, Huyền vẫn chưa có con. Tôi ngửi thấy mùi thuốc bắc đủ loại thơm phức bay sang nhà tôi. Tôi luôn nhìn thấy khuôn mặt đã buồn buồn lại buồn hơn theo năm tháng của Huyền. Anh Thủ vẫn qua cửa nhà tôi mỗi sớm. Cái Mu Kích đã thay bằng chiếc xe Hon Đa đầu bằng máy cộc, long lanh giọt lệ (9), nhưng khuôn mặt thì chẳng đổi, vẫn là cái gật chào rất lịch sự, bộ ria nhẵn nhụi và kính nâu nhạt.
    Năm ấy hay mất điện. Mất điện thì ngày cũng như đêm. Ngôi nhà của chúng tôi biến thành lò thiêu. Riêng chái nhà Thủ ở hướng Nam, lại có bóng cây lớn phủ lên và Thủ trổ thêm cửa rộng đằng hồi, nên rất mát. Buổi chiều, bên hồi ấy trẻ con hai nhà hay làm sân chơi. Phượng cũng bế cháu ra đó cho uống sữa, ăn bột, hóng gió.
    Tháng bẩy, cô Huyền đi dưỡng bệnh trên Tam Đảo một tháng theo tiêu chuẩn công đoàn. Chắc ở nhà buồn, chiều nào anh Thủ cũng ra chơi với trẻ con. Nom người vậy mà dỗ trẻ còn tài hơn cô Phượng. Anh bế con Phạn rung rinh trên tay, cười nắc nẻ. Tôi nhìn ra chợt thấy thương anh. Căn hộ chật ních tiện nghi, lương lậu đủ chi, lại thấy anh luôn có khách tới mua bán đồ phim giấy, chắc kiếm ăn được. Thế mà anh chưa có một đứa trẻ ! Nom đôi mắt và cái miệng có ria xanh kia nựng trẻ tươi ron rón, chắc cũng thèm một mụn con ?
    Cuối tháng bẩy, trời chợt đổ cơn mưa chiều bất ngờ. Cô Xuân từ chợ đội mưa về lấy thêm nước mắm, thấy dãy quần áo chưa kịp rút, ướt sũng trên giây phơi. Xuân ngó vào nhà chẳng thấy cô em đâu. Linh tính thế nào, cô đạp mưa, chạy xô cửa nhà Thủ. " Con em tớ còn ôm cháu. Mặt gục xuống. Thằng khốn nạn đã cởi hết khuy áo của con bé dại dột. Thền lễn vú vê, hêu hếu cả rồi. Tớ điên hết cả người, chả kịp nói gì, lao vào giật con và tát ngay một cái lệch mặt thằng khốn nạn ". Hai tuần sau Xuân vẫn kể hệt như vậy với vợ tôi.
    Đêm ấy tôi tưởng tượng lại câu chuyện qua lời thuật của vợ. Tôi thấy Thủ mặt tái với vệt tát đỏ, cúi mặt xuống. Thấy tiên nữ làng quê của tôi hới hải ôm áo đội mưa chạy về nhà. Thấy Xuân chạy ngược ra chợ báo tin dữ với chồng mà Phạn mặt tím lại nhưng vẫn bình thản thái thịt xếp lòng. Tôi nghĩ Phạn sẽ vác dao xông vào băm cho Thủ mấy nhát. Nhất là vợ anh cứ sấn sổ quát : " Bỏ dao thớt đấy cho tôi, về cho nó biết thế nào là mỡ chài với mỡ khổ ! ".
    Vậy mà im như thóc. Tối ấy, Phạn vẫn sang tôi uống trà nhưng lầm lì, không hé răng về chuyện đã xảy ra.
    Mưa chiều làm nhẹ không khí cho vợ chồng tôi ngủ thiếp từ chín giờ. Có lẽ hai giờ sáng, tôi chợt tỉnh vì tiếng thì thào từ nhà Phạn vọng sang : " Tôi nói như thế đủ rồi. Đàn bà như cô biết *** gì ! ".
    Có tiếng thút thít. Không biết Xuân khóc hay cô Phượng khóc. Lại nghe.
    _ Em cô vú vê nòn nõn như thế, làm đếch gì không có đứa thích. Nó chưa tụt quần em cô là may rồi. Xử như cô chả ra sao, lại tan nát hết ! Lỗi ở con mả mẹ kia nữa. Con gái phải biết giữ mình. Các bà, cái gì chả đổ tội dâm ô trụy lạc cho đàn ông ! Đàn ông, đàn bà đều là đàn. Còn thằng Thủ, tôi có cách của tôi. Sao cho nó sợ mà lại biết rõ bộ mặt nó, cho nó biết rõ cái mặt mình. Khóc gì nữa. Ngủ đi, mai còn chợ. Con Phượng muốn lên thành phố thì thiếu gì chỗ. Bạn bè tôi, dân giang hồ, tứ chiếng, đủ cả ! Không thiếu thằng chồng ra chồng. Các bà thời này cứ tưởng, mới một tí là chu lên như chó, khóc thảm như thiên hạ khóc Kiều ấy ! Bà biết Kiều không ? Hay đếch biết nốt ? Cũng như cô em cô thôi. Đẹp mà, thời nào chả chết ! Không đẹp thì chó nó dòm, một quan cũng chả đắt, tiền đâu chuộc ông via. Nín ngay cho tôi nhờ ! Thế đấy ! Chán quá ! Đời ơi là đời ! Đời cứ là đời. Lý thuyết lằng nhằng với cô chán bỏ mẹ. Ngủ đi cho nhanh để mai còn chợ búa !
    Tôi bàng hoàng. Thì tôi cũng là thứ chẳng ra gì. Tay đây, vai đây, sức vóc đây mà như bị vòng kim cô thít chặt. Xoay xoả như thế nào, kiểu nào cho vợ con mát mặt ? Tôi nín thở, cắn răng để khỏi đấm mạnh xuống giường.
    Buổi chiều hôm sau. Biết Thủ có nhà, Phạn sang rủ tôi sang. Tôi từ chối. Nhưng Phạn quyết kéo tôi đi. Anh không lo ! Phạn này chả dẫn ai vào thế cùng đâu, gã nói vậy và kéo tôi xềnh xệch ra cửa.
    Cái bàn gỗ lát có tấm kính và bộ uống trà men sứ tây long lanh trước khuôn mặt tái nhợt của Thủ. Tay anh run run nhưng còn chút bản lĩnh để mở cửa, lịch sự mời chúng tôi vào nhà. Đôi mắt Thủ vốn vô hồn, giờ đây nhớt nhát, khó tả quá. Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác, nín thở. Không khí căng, im như khi tôi lên dây mí đàn ghi ta.
    Phạn vào đề ngay. Tiếng anh nhỏ, nhưng gằn :
    _ Nói cho ông biết ! Vuốt mặt phải nể mũi ! Đánh đĩ thiếu *** gì nơi. Nó là em tôi ! Chúng tôi không phải là chó ! Cho ông một nhát thì dễ hơn chọc con lợn. Nhưng như thế thì tiệt cái thứ giềng tỏi xóm gừng. Ông định lợi dụng nó thì phải dứt khoát sang xin lỗi vợ tôi, xin lỗi con Phượng. Còn muốn có con vì vợ thiếu trứng, hoặc yêu thực nó thì báo vợ. Có gan ! Tôi cho ông quan hệ thoải mái. Đ...mẹ ! Đừng có lập lờ ! Hẹn cho ông ba ngày ! Nếu không làm thì nói một câu cho nhanh ! Nhắc lại, chúng tôi quyết không phải giống chó ! Nhưng... !
    Phạn chợt dừng nói. Anh đứng phắt dậy. Tôi giật thột nguời.
    _ Thôi ! Đủ rồi ! Phạn kéo tôi đứng dậy, đi luôn.
    Suốt vài hôm, tôi không thấy bóng Thủ. Hắn biệt đi hai hôm, lại về. Tôi không rõ việc Thủ có gặp Phạn không và nếu gặp thì gặp ở đâu, nhưng thấy Phạn trở lại vẻ tơn tởn xưa. Thậm chí còn tỉnh bơ huýt sáo như chưa hề có chuyện gì. Mãi nửa năm sau Phạn mới bảo, nó thực hèn, đạo đức giả, cố làm sang, tách ra khỏi hàng xóm láng giềng. Đi mẹ đâu cho khuất chứ còn gầm trời này, phải thở khói bụi này ! Nhưng may là nó còn biết thương vợ một chút. Còn không thì em bảo, Phạn này không thích đùa dai.
    Chuyện chỉ biết đến vậy. Mắt gã khi ấy kinh thật ! Quắc sáng như điện, chớp lạnh cả sống lưng tôi.
  10. Odetta

    Odetta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/08/2001
    Bài viết:
    195
    Đã được thích:
    0
    v
    Hết đợt nghỉ, Huyền về và sự việc Thủ với Phượng chìm trong lãng quên. Cũng còn do sau đó hai tháng Phượng về quê, thế chỗ là một chị cứng tuổi, cũng em Xuân. Đùng một cái có tin vợ Thủ có mang. Một năm sau sinh một cháu gái rất kháu khỉnh. Con Thủ đầy tháng, cô Huyền tổ chức đầy tháng cho con, xe pháo chật cả dẫy bên hồ.
    Chúng tôi, hàng xóm láng giềng cũng sang mừng vợ chồng Thủ. Vợ tôi và Xuân bàn nhau đi mua quà mừng. Họ mang về một cân đường, hai chục trứng gà, một bộ quần áo lọt lòng rất đẹp trên hàng Đào làm quà mừng đẫy tháng. Từ nhà Thủ, xong việc, Phạn vào tôi uống nước. Hết tuần trà thứ hai, gã ghé vào tai tôi nói : " Ông có thấy con bé giống ai không ? ". Tôi trừng mắt lên ngạc nhiên. Phạn cười bảo : " Nó chẳng giống ai cả. Thụ tinh nhân tạo đấy ! Như lợn ấy mà. Ông không biết chuyện này đâu. Nhưng tôi thì biết rõ ! ". Tôi có cảm giác bất nhẫn, nhưng lại nhớ lại việc gặp vợ chồng Thủ ở viện bữa nào mà họ cứ né mặt. Có thể như vậy thật. Trầm ngâm một lúc, Phạn lại nói : " Cái hôm nó gặp tôi để nói chuyện con Phượng, có lúc điên tiết, tôi đã tính đạp mẹ nó xuống hồ, thí cho một nhát. Đến lúc nó cúi mặt xuống, kể chuyện rằng vợ chồng phải thụ tinh nhân tạo thì mình lại thấy giận dữ, căm thù cái bộ mặt đểu giả của nó biến đi đâu hết cả. "
    Từ ngày có con, Thủ chẳng thay đổi gì, vẫn khuôn mặt như hôm nào, nổ máy xe nhè nhẹ qua cửa nhà tôi.
    Gia đình Phạn cũng thêm đứa nữa là ba mống, hai trai một gái. Vợ chồng tôi vẫn ở với nhau. Chúng tôi hoàn toàn tan vỡ về mặt tình cảm nhưng bệnh tật của đứa con gái vẫn níu chân nhau lại. Có bận, tôi bỏ nhà một đêm sau lần tôi thư từ với một bạn gái cũ tận Huế, bị vợ nghi ngờ trai gái, vặn vẹo rồi ném thẳng vào mặt một câu nói khinh bỉ : " Anh là đứa phản bội. Từ bộ đội về, thực khố rách áo ôm ! Bây giờ no xôi chán chè lại định mèo mả gà đồng hả. Muốn bỏ mẹ con tôi thì nói cho rõ ràng rồi chia tay ! ".
    Tôi không muốn thanh minh cho sự hèn hạ và kém trải đời của tôi khi ấy. Tôi không đủ sức chịu đựng và hiểu ra nguồn cội câu nói nặng nề của vợ. Tôi cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Tình cảm của cả hai như con chim sẻ già bị bẫy vào ***g, cố vùng vẫy càng xơ xác. Chỉ còn nước chim tự cắn lưỡi chết hay vụt bay đi khi cửa ***g vô ý hé mở. Như thế, vợ tôi và tôi là hai bóng ma buộc vào đứa con tật nguyền.
    Năm 1988, con gái tôi đã hơn mười tuổi. Cơ quan có đợt đi Đức. Tôi quyết định ra đi mong : " Có tiền mà tay vẫn ". " Cũng nên biết ở xứ khác, người ta sống thế nào " vợ tôi nói vậy. Chúng tôi quyết định, nếu tôi đi thì bán căn hộ ấy để vợ tôi có cái mà chi tiêu chữa chạy cho con. Vợ tôi cũng muốn đi chỗ khác. Cô ấy bảo, đất ấy xúi quá nên con cái không ra gì. Nếu bán hộ ấy, tính cả đất chúng tôi chiếm được trước, sau nhà làm vườn, chái bếp công ty mới làm cho ba hộ sau nhà, vị chi khoảng hai cây rưỡi. Tôi hoả hồng một phòng nhỏ ở khu tập thể gần nhà mẹ vợ bên Tương Mai còn dư ra vài chỉ. Thế là quyết !
    Vợ tôi đánh tiếng cho cô Huyền vì biết cô dóng tiếng mua nhà. Dây dưa hai tuần, ông Thủ dứt khoát chỉ trả cây tám. Chuyện bán chác nhà tập thể khi ấy chẳng phải che giấu như xưa nên đến tai Phạn. Tối chủ nhật Phạn sang hỏi giá và không bớt một cắc, hẹn tuần sau chồng đủ hai cây rưỡi. Vợ tôi mừng rỡ, sớm sau vay tiền mẹ đặt cọc cái phòng nhỏ nói trên. Đùng một cái, thứ tối thứ hai vợ tôi lại nhận tiền đặt cọc của cô Huyền. Ba cây ! căn hộ này ba cây ! Vợ tôi báo với tôi giọng mãn nguyện.
    Tôi không biết xử lý ra sao. Trời ơi, nửa cây với chúng tôi là cả gia tài lớn. Bảo vợ giữ lời với Phạn thì mất toi nửa cây. Tôi trằn trọc tới nửa đêm nhưng không sang nói lại với Thủ hoặc là thưa lại chuyện với Phạn. Đêm tối, tôi quay về nhà Phạn lầm rầm : " Phạn ơi tha thứ cho vợ chồng tôi ! "
    Ngày giờ tôi đi Đức được quyết định chính xác. Ngày giờ chúng tôi chuyển đi, bứt khỏi nơi chúng tôi sinh sống, chung đụng mười hai năm trời trong cái nhà ba hộ, đã xác định. Vợ chồng tôi vào đêm trước ngày chuyển nhà không sao ngủ được. Con gái đã ngủ, chúng tôi ngồi yên lặng nhìn nhau không nói một lời. Cô ấy đang nghĩ gì nhỉ ? Bao lần tôi tự hỏi.
    Đêm ấy, tôi linh tính cảm thấy cuộc đi của tôi là cuộc chạy trốn vô vọng hay cô ấy cũng cảm thấy điều ấy mà mọi sự nói chuyện phút chia tay đều trở nên vô nghĩa và dối trá ?
    Cuộc dọn nhà diễn ra trước khi tôi đi Đức hai ngày, rất nhanh và không kèn trống. Tôi và vợ sang chào Phạn. Vợ Phạn vẫn cười chúc chúng tôi may mắn. Phạn thì chẳng nói nửa lời. Mắt hắn lơ lơ nhìn đi đâu. Mãi lúc ra cửa gã mới hạ một lời gọn lỏn : " Thôi, ông đi ! "
    Gã giận là phải ! Tôi nghĩ.
    Tôi ngoái lại mảnh đất. Con đường. Cái hồ. Ba căn hộ !
    Khi ấy bất chợt xuất hiện bẩy sắc huyền ảo của chiếc cầu vồng dẫn từ bên bờ bên này sang bờ bên kia hồ. Tôi dụi mắt. Không ! Cầu vồng ! Cái hồ nửa nắng, nửa mưa tạo thành cầu vồng, bắt đầu từ cái dải đất bên này vắt sang bờ bên kia.
    v
    Thực ra câu chuyện chỉ nên kể đến vậy. Nhưng thực bất công nếu quên nhắc tới việc vợ tôi đã hết sức kiên trì theo đuổi chữa bệnh cho con gái tôi. Qua bàn tay của giáo sư X, với hai lần phẫu, mổ tim và mổ chữa xơ cứng cơ tứ đầu đùi, con tôi hoàn toàn đi lại bình thường. Tất nhiên cũng phải tốn kém. Con gái chúng tôi học xong đại học và ra trường, nay công tác tại một viện khoa học. Nửa năm, sau khi nó khỏi bệnh, tôi nhận được thư và đơn ly hôn của vợ tôi gửi sang. Thư khá dài, nhắc lại thêm đau buồn. Nhưng không bao giờ tôi quên được đoạn thư sau : " Em biết, anh không yêu em. Sự cầu mong một gia đình, sau lần anh cãi nhau với chị dâu anh, dẫn đến việc chúng ta đột ngột quyết định từ mới quen biết thành vợ thành chồng. Đốt cháy giai đoạn, cả em và anh đều ngộ nhận. Tuy mỗi người ngộ nhận một dạng khác biệt. Chia tay, em cầu mong cho anh sẽ chẳng khi nào mắc lại khuyết điểm ấy. Không thể có một gia đình thiếu một tình yêu đích thực..."
    Tôi về phép. Chúng tôi ly dị. Tôi thề chẳng bao giờ quay lại nhà ba hộ. Nó không có tội gì, nhưng tôi không muốn nhìn lại quá khứ, kỷ niệm một thời chật chội ! Vì thế, mấy năm liền, dù vẫn về Việt Nam ăn tết với anh chị tôi nhưng không khi nào tôi ghé qua nơi đó.
    Sự đời chẳng giản đơn giữ một câu thề.
    Tết vừa rồi, tôi lại về thì gặp con cả của Phạn đi cùng chuyến, ngồi cạnh ghế. Vô tình hỏi chuyện, mới nhận ra cậu bé mũi xanh lét, ngày nào cha cậu định quyết số phận cậu chỉ học hết lớp năm, biết đếm là đủ. Thằng mũi xanh ấy, vừa đỗ đại học kiến trúc tại Đức với số điểm cao tuyệt đối và được ở lại để làm tiếp bằng tiến sĩ. Vậy là tôi quay lại nhà ba hộ với sự háo hức qua những lời kể của con Phạn : " Bố mẹ cháu vẫn nhắc tới bác. Mẹ cháu vẫn hay tới thăm vợ bác. Mà sao cả hai bác không đi bước nữa hở bác ? Chú Thủ sinh thêm con gái nữa. Vẫn ở đấy, nhưng bây giờ nổi tiếng lắm. Chú ấy lên ti vi, viết cả thơ, mới đỗ tiến sĩ mĩ học gì đó ! Cô Huyền lên Hồ Tây xây một biệt thự, sống hẳn trên đó với con. Bố mẹ cháu dạo này bỏ bán lòng lợn tiết canh, chuyển sang mở hai cửa hàng bia hơi. Người làm thuê bây giờ ở quê ra đầy nên bố mẹ cháu không phải đầu tắt mặt tối như trước nữa."
    Tôi bàng hoàng không nhận ra con đường cũ. Một dãy phố dù lộn nhổn nhưng đúng là phố, hiện ra bên hồ không tên xưa. Mặt hồ vẫn nhiều bèo tây và tôi cảm thấy hẹp lại. Tôi chẳng còn trẻ để xúc động, dù nhận ra cái mùi tanh tanh của nước hồ ngày nào. Ngôi nhà của Thủ và Huyền rộng tới hơn bẩy chục mét, cao vót lên với cái tháp tròn Ba Tư. Tháp muốn nghiêng chùm lên ngôi nhà ba tầng của Phạn. Được báo trước, Xuân ăn mặc rõ nuột nà, còn Phạn thì nghiêm chỉnh trong bộ com lê màu xám rất điệu. Họ đã bốn cháu, nom cũng khác truớc, đẫy ra và tóc đều đổ muối tiêu cả lượt.
    Chẳng đứa nào chịu chỉ biết đếm cả ! Gã cười toắc tận mang tai khi tôi nhắc chuyện cũ và chỉ sang nhà bên : " Xem kìa ! Ông tiến sĩ mĩ học xây cái nhà nửa tây, nửa ta cứ chực nuốt tôi. Tôi thu xếp xong cửa hàng bia hơi nữa cho ổn, sẽ bán đây đi, nhường khu này cho lão và chuyển hẳn đi anh ạ. Con cái đều muốn vậy. Chúng nó bảo, bố mẹ lưu luyến gì đây ? Sau này người ta sẽ chẳng phá tất đi để xây lại hết cho mà xem ! Bây giờ chả đứa nào nó nghe mình, nên mình khéo phải theo chúng lên khu mới làm nhà mới, cho đời chúng chuyển hẳn sang cái đất khác đi. Ông anh và tôi cố sống chờ xem bọn trẻ chúng nó có cơm cháo gì không rồi nhắm mắt. Mà đếch ai biết được con tạo nó vần thế nào ông anh nhỉ ? ".
    Phạn đặt tay lên vai tôi. Mắt ấy, môi ấy, hơi rượu thơm nức phả vào tôi để tôi nhận ra hắn đã rũ sạch nỗi bực xưa.
    Mưa xuân lắc rắc lẫn trong nắng nhạt. Bụi cúc tần sót bên kia đường mới nhả đám tơ hồng vuơn lên chua chúa những sợi lua rua vàng óng, cố bứt lên, trong ảo huyền mưa nắng, khỏi màu xanh đông già cũ.
    Nước Đức, 2001
    Nguyễn Văn Thọ
    (1) Chợ Cóc : chợ họp do nhu cầu tự phát. Lúc nơi này khi mọc lên nơi kia. Không có tên, không nằm trong quy hoạch.Hà Nội rất nhiều chợ như vậy.
    (2) Xe máy Simson của Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Những người đi du học khi ấy thường được tiêu chuẩn mang về hai chiếc trong bốn, năm năm tại Đức. Rất được giá thời kỳ Đông Đức chưa thống nhứt.
    (3) Đồ phò, trứng phò, có ý loại trứng không ra gì.
    (4) Nhãn hiệu Con Nai Vàng. Cách nói của đường phố, ý đây là đồ xịn.
    (5) Đồng bọ, Cắc đểu. Tiếng lóng đường phố. Chỉ tiền không đáng mấy.
    (6) Knut Hamson, Thomas Mann, Winston Churchill, Ernest Hemingway, bốn nhà văn giải Nobel trước 1954 của Nauy, Đức, Anh, Mỹ.
    (7) Thiên nhiên- Tự nhiên , cũng từ biến dạng của đường phố, ý nói hợp tự nhiên.
    (8) Một kiểu xe được ưa chuộng thời kỳ ấy của Nhật. Trên bảng đồng hồ có đèn xanh, kim vàng nên người ta gọi vậy để phân biệt với xe Honda Sài Gòn trước bẩy nhăm.

Chia sẻ trang này