1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Từ Báo Thiên Tự đến Nhà thờ lớn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 29/08/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Từ Báo Thiên Tự đến Nhà thờ lớn

    Hay câu chuyện về nguồn gốc đất đai do Công giáo đã đang và sẽ sở hữu.
    Đầu tiên là câu chuyện Thái Hà.
    Lý lịch Thái Hà
    Vào hai trang tiengnoigiaodan.net và vietcatholic.net chúng ta thấy rõ rằng những người đạo Chúa đang tham gia chính trị rất tích cực, họ chống đối kịch liệt và đòi lật đổ chính quyền hiện nay. Nếu đã tham gia chính trị ngày đêm moi móc người khác thì cũng phải nên chuẩn bị nghe người ta moi móc đạo của mình coi nó thơm tho như thế nào mà có tư cách đòi chống báng lật đổ người khác. Chúng ta muốn thay đổi thì phải thay đổi cho tốt hơn chứ không chỉ biết đập phá, cho một đám mê tín cuồng loạn ngoi lên chỉ là một hành động phá hoại.
    Trở lại vấn đề lý lịch Thái Hà, dưới đây là dữ liệu được đăng trên vietcatholic.net của ông Lữ Giang:

    VÀI NÉT LỊCH SỬ
    Nói đến Thái Hà ấp là phải nói đến Hoàng Cao Khải (1850?"1933). Ông là một đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái. Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương, rồi năm 1890 ông làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công. Thái Hà ấp ngày xưa là ấp riêng của ông. Ông đã về hưu và qua đời tại đây.
    Năm 1926, hai linh mục Hubert Cousineau và Eugène Larouche thuộc Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) ở Canada đã đến truyền giáo tại Việt Nam và năm 1928 hai ngài đã mua một khu đất thuộc ấp Thái Hà diện tích khoảng 6 héc-ta, nằm cạnh tuyến đường Hà Nội - Hà Đông, có nhà cửa đủ để một cộng đoàn sống mấy năm đầu.
    Khu của DCCT nói trên rộng khoảng 60.000 mét vuông. Ngày 7.5.1929, Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội được chính thức thành lập tại đây. Sau đó, nhà thờ, nhà đệ tử, bệnh viện, trường học và các cơ sở khác cứ được xây dần thêm. Vì giáo dân quy tụ quanh Dòng Chúa Cứu Thế quá đông, nên giáo xứ Thái Hà đã được thành lập. Địa chỉ hiện nay là 180/2 Nguyễn Lương Bằng, phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội.
    Năm 1954, khi + Sản tiếp thu miền Bắc theo Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội còn lại 5 thành viên. Năm 1960, hai linh mục bị trục xuất, hai tu sĩ bị tù và chết trong tù (Thầy Văn và Thầy Đạt), cả tu viện còn lại Linh mục Vũ Ngọc Bích.
    Sau đó, nhiều cơ quan và hàng ngàn cá nhân đã được chính quyền mới cho đến chiếm dụng gần hết khu đất của giáo xứ Thái Hà mà không có một giấy tờ nào. Nhà đệ tử giao cho xí nghiệp Dệt Thảm Đống Đa. Hiện nay, ngoài một số lớn nhà dân chiếm dụng, còn có các cơ sở của nhà nước như Trạm 4, Hội Chữ Thập Đỏ, Uỷ ban nhân dân phường Quang Trung cũ và mới, Kho Bạc Nhà Nước, Trường Học, v.v. Họ chỉ dành lại cho giáo xứ khoảng 2.700 mét vuông. Giáo xứ đã nhiều lần đòi lại một phần vì nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, nhưng không được chính quyền giải quyết. Sau này xí nghiệp Dệt Thảm Đống Đa tự động bán đất Nhà Dòng cho Công ty May Chiến Thắng mà không hề có ý kiến của Linh mục Vũ Ngọc Bích. Ngày 8.8.1996 Linh mục Vũ Ngọc Bích đã gửi lá đơn đầu tiên khiến nại về việc này.
    Cuối năm 2006, vì làm ăn thua lỗ, Công ty May Chiến Thắng đã bán một phần khu này cho công ty Phước Điền có trụ sở tại Miền Nam. Phần còn lại cũng đã được bán cho một cán bộ thuộc ngành công an.
    Đầu năm 2007, toàn bộ các khu xưởng may đã bị phá bỏ, chỉ còn chừa lại hai căn nhà vốn là nhà của DCCT. Do đó, Dòng và giáo xứ Thái Hà đã làm đơn yêu cần chính quyền trao trả lại khu đất. Từ đó tới nay, DCCT và giáo xứ Thái Hà đã nhiều lần gởi đơn lên các cấp chính quyền xin giải quyết, nhưng chính quyền không trả lời dứt khoát.
    Ngày 25.7.2007, Linh mục Vũ Khởi Phụng thuộc DCCT và là Chánh xứ Thái Hà, có làm một báo cáo trình Đức ************* Hà Nội và Linh mục Bề trên Giám Tỉnh DCCT Việt Nam về vụ tranh chấp đất nói trên, trong đó có cho biết giáo dân đang cảnh giác việc Công ty May Chiến Thắng có thể bán đất của giáo xứ và đang tìm cách ngăn chận.
    Như vậy đất này xưa nhất được biết đến theo ông Lữ Giang là của một quan đại thần triều Nguyễn đã từng cộng tác với Pháp đàn áp những cuộc khởi nghĩa chống Pháp của người Việt.
    Những người "Công giáo" hay dùng đến hai chữ "công lý" khi "đòi" đất của họ nên chúng ta thử phân tích xem trong câu chuyện này "công lý" đó là ở đâu.
    Đất Việt Nam là do tổ tiên người Việt Nam đổ biết bao nhiêu xương máu giành giựt cả mấy ngàn năm mới có mà để lại, triều đình nhà Nguyễn sau khi đầu hàng và cắt đất cho Pháp thì không còn tư cách và chính nghĩa đại diện cho người Việt Nam nữa, do đó những vua quan nhà Nguyễn đầu hàng Pháp cũng không có tư cách ban phát, chia chác, sang nhượng đất đai Việt Nam làm của riêng cho bất kỳ ai, nói gì có quyền đem bán cho những linh mục ở Canada (mà thực ra cũng là người Pháp) để tạo ra những lò sản xuất con chiên chống lại dân tộc.
    Một bên là lấy đất rộng 6 héc-ta làm của riêng nhà thờ để sản xuất con chiên cho nhu cầu chống lại dân tộc và một bên lấy lại đất ăn cướp để chia cho đủ thứ loại người và làm đất công, nhà máy công sản xuất hàng hóa thì cái nào có "công lý"?
    Tiếm danh là cái tật lớn của người "Công giáo" vì họ được tẩy não từ nhỏ rằng Chúa của họ là trên hết, bất cứ cái gì họ đòi, họ muốn cũng là "công lý", bao gồm cướp giựt đất đai của nguyên cả một quốc gia. Họ không hề biết rằng họ chỉ là một thiểu số to mồm dữ dằn ở Việt Nam, trên cả thế giới cũng vậy, nhưng họ không hề biết mắc cỡ mà luôn tự gọi mình là "Công giáo" và những việc mình làm, mình đòi hỏi là "công lý".
    Khi thực dân Pháp xâm lược, chiếm hữu, khai thác toàn bộ Việt Nam thì không thấy giáo hội "Công giáo" Việt Nam lãnh đạo giáo dân đòi hỏi "công lý" gì cả! Tại sao? Tại vì thực dân Pháp lúc đó đang thực hành cái thứ "công lý" của "Công giáo". Họ đập bỏ chùa chiền, xây dựng nhà thờ chình ình ngay giữa những thành phố lớn nhất Việt Nam là "công lý". Họ chiếm hữu, cướp đoạt, chia chác, sang nhượng với nhau toàn bộ nước Việt Nam với người Pháp là có "công lý". Khi người Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản nổi lên giành lại tất cả đất đai chia lại cho người Việt Nam thì họ lại nói là không có "công lý".
    Họ tuyên bố trước mặt vua Việt Nam rằng họ là thần dân của Chúa Trời, ông vua đứng sang một bên. Dân chống Pháp thì họ giúp Pháp chống dân. ********* lãnh đạo dân chống Pháp có kết quả thì họ chống *********, Pháp cướp nguyên cả nước Việt Nam thì họ im re. ********* lấy đất lại chia cho bần cố nông có ruộng cày thì họ hô hoán lên là ăn cướp. Thời Pháp có một loại địa chủ gọi là địa chủ nhà thờ. Ai không biết xin mời tìm lịch sử Việt Nam mà đọc.
    Rõ ràng chúng ta thấy rằng "công lý" của người "Công giáo" là ngược lại 180 độ so với đại đa số người Việt Nam, nhưng người "Công giáo" vẫn không hề mắc cỡ mà gọi cái lý của họ là "công lý".
    Trong bài của ông Lữ Giang ở trên có phần nói rằng:

    Năm 1954, khi + Sản tiếp thu miền Bắc theo Hiệp Định Genève ngày 20.7.1954, Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội còn lại 5 thành viên. Năm 1960, hai linh mục bị trục xuất, hai tu sĩ bị tù và chết trong tù (Thầy Văn và Thầy Đạt), cả tu viện còn lại Linh mục Vũ Ngọc Bích.
    Có điều kỳ lạ thú vị tôi thấy ở đây là, sau khi + Sản tiếp thu miền Bắc năm 1954 thì "Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội" chỉ còn lại có 5 thành viên. Tại sao vậy? Một khu đất rộng 6 héc-ta chỉ còn 5 thành viên ở đó? Như vậy các thành viên khác đi đâu hết rồi? Có phải họ "theo Chúa vào Nam"? Đây cũng là một đặc điểm tiêu biểu của người "Công giáo", đó là đụng đâu nói đó, vì họ có cái loại "đức tin" không cần lý lẽ nên những điều họ nói cũng lộn xả ngầu không có lý lẽ logic chút nào cả.
    Một đằng thì họ nói "Chúa ở khắp mọi nơi", "Chúa ở cùng anh chị em", nhưng khi cha đạo nói "Chúa di cư vào Nam" thì họ cũng bỏ xứ sở nơi chôn rau cắt rốn đi theo Chúa vào Nam! Chúa có khả năng tạo ra nguyên cả cái vũ trụ theo lời họ nhưng lại phải chạy làng một dúm ********* ốm yếu như vậy? Chuyện buồn cười như vậy mà cũng có thể xảy ra được trên 800.000 người thì đủ biết trình độ mê tín trong cái đạo thờ tây này nó kinh khủng như thế nào!
    Ngày xưa họ bỏ xứ đạo theo Chúa vào Nam, mấy chục năm sau lại có người "đòi" đất đó để làm nhà thờ. Chẳng lẽ Chúa đã trở lại đất Bắc sống với + Sản? Không biết họ trả lời thế nào đây? Họ đòi "Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền" mà không thấy website của họ có diễn đàn để người ngoại đạo thể hiện quyền tự do ngôn luận.
    Sau khi cả một nước Việt Nam rơi vào tay + Sản, lại không thấy linh mục đồn "Chúa" tản cư đi đâu đó để cái đám cừu này đi theo cho yên ổn, mà hình như "Chúa" đã di cư ra Bắc lại nên họ lại phải cần đất làm nhà thờ.
    Rõ ràng cái đám dân "Chúa" ngoan ngoãn với tây mà dữ dằn với người Việt này là công cụ của một số người thờ tây giựt dây kiếm chuyện nhằm làm lợi cho mưu đồ bắt nô lệ tâm linh trên khắp thế giới của Vatican. Họ không được theo "Chúa" di tản khỏi Việt Nam vì họ có nhiệm vụ thiêng liêng là quậy phá Việt Nam cho ngoại bang.
    Thêm nữa, trong cả hai trang web trên, tôi không thấy họ trưng ra những văn bản mua bán nguyên gốc giữa ông Hoàng Cao Khải và hai linh mục người Canada. Nếu họ không có giấy tờ thì làm sao "đòi" đất? Cái này không phải là tôi nói mà chính là người "Công giáo" nói. Trong vụ "đòi" "Tòa Khâm", khi có người trưng ra những dữ kiện lịch sử cho rằng "Tòa Khâm" và cả một vùng rộng lớn xung quanh đó ngày xưa là nền của khu Tháp Báo Thiên, thì có linh mục nói rằng đó chỉ là chuyện lịch sử, không dùng làm bằng chứng pháp lý được, nếu có giấy tờ thì họ sẽ trả đất cho nhà chùa ngay. Tôi mong rằng họ làm được cái mà họ bảo người khác, tức là phải trưng ra giấy tờ sở hữu của khu đất Thái Hà trước khi nói chuyện.
  2. Liv

    Liv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2003
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Thằng cha viết bài này đần độn đến mức không phân biệt được giữa "lãnh thổ quốc gia" và "quyền tư hữu đất đai". Tớ không biết IQ của người post bài này - mà không có một lời bình luận - nếu so sánh với y thì sao...
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Hoàng Cao Khải (1850 - 1933),[​IMG] Vài dòng trích yếu:
    Tay chân thực dân Pháp, tác giả, hiệu Thái Xuyên. Quê làng Đông Thái, tỉnh Hà Tĩnh. Thi đỗ Cử nhân đời Tự Đức. Trước tên là Hoàng Văn Khải.Làm huấn đạo huyện Thọ Xương, Giáo thọ phủ Hoài Đức, Tri huyện Thọ Xương (đều thuộc về Hà Nội), rồi thăng quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hưng Yên, quyền Tổng đốc Hải Dương.
    Quân Pháp sang cướp nước ta, triều đình ký hòa ước đầu hàng Pháp, nhưng nhân dân đứng lên khởi nghĩa nhiều nơi, Hoàng Cao Khải lúc ấy danh giữ chức quyền Tổng đốc Hải Dương, được Kinh lược Nguyễn Trọng Hợp cử làm Tiễu phủ sứ đi đánh dẹp quân khởi nghĩa. Do có công đàn áp nghĩa quân, Hoàng được sung chức Khâm sai kinh lược Bắc Kỳ. Chính trong giai đoạn này, Hoàng theo lệnh Pháp viết thư chiêu dụ nhà ái quốc Phan Đình Phùng, bị Phan Đình Phùng sỉ vả.
    Từ đó, Hoàng hoàn toàn trở thành tay sai đắc lực của Pháp, càng lúc càng cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp.
    Các con là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu (người này là rể Tổng đốc Đỗ Hữu Phương cũng là tay chân Pháp) đều làm Tổng đốc, Hoàng Gia Mô làm Tri huyện.
    Năm 1897, bãi nha Kinh lược, đặt phủ Thống sứ, Hoàng Cao Khải được quan thầy điều về Huế lãnh chức Thượng thư bộ Binh; rồi làm phụ chánh đại thần triều Thành Thái và làm Thái tử Thái phó, Văn minh điện đại học sĩ, tước Duyên Mậu Quận Công. Đến sau, Hoàng bị Nguyễn Thân lấn áp bèn về hưu trí ở ấp Thái Hà (Hà Nội).
    Đời Hoàng, khi đắc thời nghiễm nhiên như một phó vương. Khi về hưu cũng hay soạn sách.
    Về chữ Hán, Hoàng có 3 tác phẩm:- Việt Nam sử yếu.- Việt Nam nhân thần giám.- Việt sử kính.rồi tự dịch cả 3 bộ ra quốc văn.
    Về chữ Nôm có soạn:- Vịnh Nam sử.- Làm con phải hiếu.- Đàn bà nước Nam.
    và hai vở tuồng:- Tây Nam đắc bằng.- Tượng kỳ khí xa.
    Sĩ phu Hưng Yên có đôi câu đối chửi khéo Hoàng Cao Khải:
    ?oÔng ra Bắc là may, chức Kinh lược, tước Quận Công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ;Cụ về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài chính phủ, một lòng với nước có hại đâu??.
    Hầu hết sĩ phu đương thời đều xem khinh Hoàng Cao Khải dù Hoàng có tài văn học.
    Về nhân vật này gần đây có 1 số tác giả muốn minh oan cho vị "Đại Việt gian" này, dưới đây là 1 ý kiến về việc đó.

    [​IMG]
    "Thực tế thì ta thấy, so với nhiều quan lại khác đương thời, Hoàng Cao Khải dù bị quy là tay sai đắc lực cỡ chóp bu của thực dân, nhưng người ta chỉ nghi ngờ ông, chứ ông không bị bất bình, không bị vạch tội ác... Còn như nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh khi sống ở Pháp (1920) được tin cựu Toàn quyền A.Sarraut qua thăm Đông Dương, cụ Phan đã viết thư riêng báo cho "Tân ấp tướng công Hoàng Đại nhân" (lúc này đã về hưu sống ở ấp Thái Hà), trong thư có những đoạn biểu thị tình cảm đối với Hoàng Cao Khải như sau: "Năm 1910, khi Trinh ở Nam Kỳ từng được ngài Tham biện tỉnh Mỹ Tho đem cho xem cuốn Việt sử kính (tức cuốn Gương sử Nam) của ngài soạn. Đọc xong dấy lên nhiều điều cảm xúc. Tuy việc lập ý dùng từ gãy gọn nhẹ nhàng, không thể khiến cho người tuổi trẻ tân tiến hoan nghênh hết được, nhưng trong đó với sự nhìn nay nhớ xưa, xét việc đã qua biết điều sắp tới về tiền đồ thành bại mất còn của Tổ quốc của chúng ta, một lời ca thán ba lần thở dài, trước sự chỉ dẫn ra con đường mê lộ của người nước ta, chưa từng không lưu ý đến nhiều lần vậy. Qua đó, Trinh biết là Tướng công tuy cấp lưu dũng thoái (chảy gấp lui mau), vui thú điền viên, mắt thờ ơ nhưng lòng nóng hổi chưa từng có một ngày quên Tổ quốc"
    Chương Thâu (trích bài giới thiệu in kèm Việt sử yếu)
    Bạn nào muốn đọc thêm về vấn đề này, xin xem tại đây "Đánh giá lại" Hoàng Cao Khải.
    Trong cuốn "Phan Đình Phùng" của Đào Trinh Nhất, chương 15 "Hoàng Cao Khải" có đăng bức thư chiêu hàng của HCK gửi cụ Phan Đình Phùng và thư trả lời của cụ cho HCK:
    Bức thư của Hoàng Cao Khải "Đồng ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ. Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào? Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người cùng thanh khí với nhau mới có vậy. Ngày kinh thành thất thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ông nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song le, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi được. Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngày chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có. Nay nhân quan Toàn quyền trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói? Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu như ngài cứ không không làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hương điêu đứng xiêu tàn, tưởng chắc bậc người quân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải. Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không? Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao! Nếu như tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ (tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước Bảo hộ khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy. Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu. Hoàng Cao Khải đốn thư"
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bức thư cụ Phan trả lời: "Hoàng quý đài các hạ, Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy. Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi. Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng nước được, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu. Năm Ất Dậu, xe giá thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn. Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng giáng chiếu vời ra; không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng được. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó việc lớn, uỷ thác cho quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không? Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều ta vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không? Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa trôi giạt đi sao được? Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư? Phan Đình Phùng phúc thư" Các bạn có thể đọc thêm tại tác phẩm Pham Đình Phùng
    Về Hoàng Cao Khải, mời xem thêm http://www9.ttvnol.com/forum/f_533/972618/trang-4.ttvn
     
     
  5. ngay14thangsau

    ngay14thangsau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    0
    " Thêm nữa, trong cả hai trang web trên, tôi không thấy họ trưng ra những văn bản mua bán nguyên gốc giữa ông Hoàng Cao Khải và hai linh mục người Canada. Nếu họ không có giấy tờ thì làm sao "đòi" đất? Cái này không phải là tôi nói mà chính là người "Công giáo" nói. Trong vụ "đòi" "Tòa Khâm", khi có người trưng ra những dữ kiện lịch sử cho rằng "Tòa Khâm" và cả một vùng rộng lớn xung quanh đó ngày xưa là nền của khu Tháp Báo Thiên, thì có linh mục nói rằng đó chỉ là chuyện lịch sử, không dùng làm bằng chứng pháp lý được, nếu có giấy tờ thì họ sẽ trả đất cho nhà chùa ngay. Tôi mong rằng họ làm được cái mà họ bảo người khác, tức là phải trưng ra giấy tờ sở hữu của khu đất Thái Hà trước khi nói chuyện."
    => Hoàn toàn có lý. Khi không chứng minh cái gì là của mình thi không la làng là mất được. Mà bây giờ NN có cấp đất cho TH thì TH phải đi xin, chứ trước đây đất đai đó đã được vị linh mục giao lại cho Chính quyền, có giấy tờ hẳn hoi.
  6. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    Thằng cha viết bài này đần độn đến mức không phân biệt được giữa "lãnh thổ quốc gia" và "quyền tư hữu đất đai". Tớ không biết IQ của người post bài này - mà không có một lời bình luận - nếu so sánh với y thì sao...
    [/QUOTE]
    Hiến pháp VN qui định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân". Việc giao dịch về đất đai k phải là mua bán mà là chuyển quyền sử dụng đất. Lấy đâu ra cái quyền tư hữu đất đai vậy
  7. dhlv

    dhlv Guest

    Thời cuộc nào cho dù là Trịnh Nguyễn phân tranh, Quang Trung <> Gia Long....các nhà lãnh đạo trong thâm tâm đều đề phòng các cán bộ Công giáo.
    Lý do rất đơn giản vì người theo đạo này không coi Tổ quốc là trên hết. Cho dù khái niệm Tổ quốc cũng mù mờ, nhiều khi chỉ là tranh giành giữa các đảng phái, , thế lực, vùng miền, nông dân khởi nghĩa vì bị áp bức...
    Nhưng ngược lại các các bộ Công giáo nếu có tham gia triều chính, làm cách mạng mục đích tối hậu của họ cũng chỉ là "mở mang nước chúa" mà thôi. Đây là một điểm then chốt!
    Chỉ duy cái việc đặt bàn thờ cha mẹ thấp hơn bàn thờ Chúa cũng đã phản ánh điều này , còn thời trước thì đừng có hòng .
    Với những người VN bình dân theo đạo Công giáo cũng như là người dân VN bình thường mà thôi . Niềm tin cũng tốt nhưng bị lợi dụng bởi các các bộ Công giáo cao cấp có mưu đồ xấu.
    Muốn làm cho Công giáo không còn đáng sợ ở VN cứ tuyên truyền về lịch sử loài người , khoa học tự nhiên, đặc biệt là lịch sử VN ở các cấp học phổ thông.
    Công giáo ở VN có phát triển nhưng tình trạng KHÔ ĐẠONHẠT ĐẠO đang diễn ra mạnh mẽ .
  8. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Góp 1 tấm hình sưu tậm trên Net:
    [​IMG]
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Cám ơn bác Ionesome, chúng ta sẽ quay lại Thái Hà sau, còn bây giờ chúng ta hãy đi xem Báo Thiên Tự trước.
    [​IMG]Đất bị thực dân Pháp và tay sai Ki-tô giáo cưỡng đoạt xây nhà thờ lớn.
    Cập nhật 20h31 17/01/2008. Xét một cách chính danh nhất thì Phật giáo mới đủ tư cách để đòi lại đất bị nhà thờ và thế lực tay sai xâm chiếm. Và cứ nếu xét theo sự thật lịch sử thì không chỉ có nhà thờ Lớn tại Hà Hội mà nhà thờ Lớn tại TP. HCM cho đến cái gọi là thánh địa La Vang cũng phải trả về cho Phật giáo.
    Trong khi gần đây cả nước đang đặc biệt quan tâm tới vụ Trung Quốc ?ođòi? quản lý Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thì ngay tại thủ đô Hà Nội, ************* Ngô Quang Kiệt đã cố tình ?ocùng với? giáo dân (cũng bắt chước) ?ođòi? lại Tòa Khâm sứ.
    Dù được khích động dưới hình thức cầu nguyện và ký tên chung quanh khu vực nhà thờ Chính Tòa và khu vực Tòa Giám Mục thì hành động của những người giáo dân trong vụ việc trên trong những ngày vừa qua tại Hà Nội chẳng khác nào thái độ ?obiểu tình?, ?oyêu sách?, ?ođòi? một cách dại dột, thiếu nhận thức lịch sử, quay lưng lại với lợi ích dân tộc?
    Khi nhắc đến từ ?ođòi?, chúng ta buộc phải nhắc đến ?oquyền sở hữu? mà ở đây là là quyền sở hữu đất đai: thuộc về ai?
    Để tôn trọng lịch sử và sự thật, chúng ta nên nhắc lại chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn năm 1010 và việc mở mang, xây dựng kinh đô Thăng Long (bây giờ là thủ đô Hà Nội). Sau bao nhiêu năm gian khổ đối kháng với sự xâm lăng của giặc phương Bắc, chúng ta đã có một nhà nước độc lập tự chủ với một không gian rộng lớn đủ để tổ tiên ta ?oxưng đế một phương? đem lại niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước sâu xa.
    Khi danh xưng ?ohoàng đế? được xác lập cũng là lúc cương thổ được xác lập, quyền vương hữu được xác lập. Quyền vương hữu được xác lập từ cọng cỏ lá rau đến đất đai, sông núi, mây trời. Từ quyền hành ấy nhà vua mới phân phong cho các giai tầng trong xã hội quản lý và thu về bất cứ khi nào cần đến trong nguyên tắc vì lợi ích của vương triều và đời sống của nhân dân.
    Chúng ta không thể quên câu nói: ?oSông núi nước Nam vua Nam ở? (tất cả mọi sự xâm lăng của ngoại bang, đế quốc đều vĩnh viễn không thể nằm trong quyền sở hữu này cho dù lúc này lúc khác chúng có thể giày xéo, đô hộ dân tộc ta). Thời thế dù thịnh suy đắp đổi thì những triều đại sau đó cũng áp dụng nguyên tắc độc lập, tự chủ ấy.
    Cũng từ nhận thức về sự thật lịch sử ấy, chúng ta thấy trước năm 1883, khu vực Nhà thờ Lớn và Tòa Khâm sứ là đất của chùa Báo Thiên được vua Lý cho xây dựng lần đầu tiên vào năm 1057 (Tháp Báo Thiên là một trong An Nam Tứ Khí nổi tiếng của đất nước ta).
    Năm 1883 chính quyền thực dân đã âm mưu, cấu kết với Giám mục Puginier chiếm chùa Báo Thiên để xây nhà thờ Lớn. Tòa Khâm là trụ sở của Khâm mạng John Dooley (đại sứ của Vatican) vốn là một tên tay sai khét tiếng chống Cộng, đàn áp khởi nghĩa. John Dooley người Ireland được Giáo hoàng Pio XII ?" mệnh danh là ?ogiáo hoàng bạn của nazis? bổ nhiệm năm 1950.
    Như vậy, xét một cách chính danh nhất thì Phật giáo mới đủ tư cách để đòi lại đất bị nhà thờ và thế lực tay sai xâm chiếm. Và cứ nếu xét theo sự thật lịch sử thì không chỉ có nhà thờ Lớn tại Hà Hội mà nhà thờ Lớn tại TP. HCM cho đến cái gọi là thánh địa La Vang cũng phải trả về cho Phật giáo.
    Nhưng bằng tinh thần khoan dung và vì lợi ích đoàn kết dân tộc, người Phật tử Việt Nam đã gác lại lịch sử đau thương để hướng về tương lai tốt đẹp. Trái với tinh thần đó, vụ việc trên của những người Công giáo bị khích động đã một lần nữa cắt vào nỗi đau chung của dân tộc và Phật giáo.
    Người dân cày ruộng hàng năm thu hoạch mùa màng còn biết dâng cúng vật phẩm để nhớ ơn tiền hiền khai hoang, hậu hiền khai khẩn. Thế mà vẫn có nhiều kẻ coi mảnh đất mà tiền nhân đã đổ mồ hôi, nước mắt, xương máu gây dựng là nơi để xà xẻo, tranh đoạt, thật đáng buồn lòng.
    Khi người Công giáo viện cớ ?oTòa Khâm? là sỡ hữu của Giáo hội ?ohơn một trăm năm?, họ có nghĩ tới chủ sở hữu của khu vực này từ ?ogần một nghìn năm? không?
    Nhẽ ra, bằng đạo đức phổ thông, từ lâu, người Công giáo nên học theo Giáo hoàng Joan Phao-lô II, nhìn nhận vào những nhận thức và hành động sai lầm của mình trong quá khứ để có một lời xin lỗi chân thành đối với dân tộc và Phật giáo và biết xấu hổ không lặp lại hành động tượng tự mà ?ocha?, ?oông? họ đã làm khi cấu kết với tay sai nô dịch văn hóa, tàn phá quê hương, giết hại đồng bào. Bởi dưới thời thực dân, Giáo hội là ?ođịa chủ? lớn nhất tại Việt Nam, có biết bao nhiêu người vì mảnh đất sinh nhai mà buộc phải cải đạo để đổi lấy một sự sinh tồn.
    Nếu cứ luận suy tùy tiện mà ?ođòi? như vậy thì nông dân Việt Nam sẽ còn bao nhiêu đất để cấy cày khi trước đó phần lớn đất đai là của địa chủ thực dân, phong kiến bị tịch thu đưa vào đất công.
    Người Công giáo sẽ nghĩ gì, nếu những người Phật tử cũng thắp hương cầu nguyện, ký tên đứng bao quanh nhà thờ Lớn Hà Nội và những nơi người Công giáo đã chiếm đoạt để đòi lại những danh thắng nổi tiếng của dân tộc và Phật giáo đã bị chính nhà thờ và tay sai tàn phá? Nhưng người Phật tử sẽ không bao giờ làm thế nếu người Công giáo không tiếp tục có những hành động quá đáng như vậy.
    Sau vụ việc ?ođòi? Tòa Khâm, Thủ tướng *************** đã đến thăm tòa *************. Mọi người đang đồn nhau về sự ?othỏa hiệp? giữa Chính quyền và Giáo hội. Nếu có sự ?othỏa hiệp? thì chính phủ nên ?oban? cho họ một phần đất ở một nơi nào đó để sinh hoạt, bởi không có lý do chính đáng nào để gọi là ?otrả lại? Tòa Khâm.
    Nếu hành động ?otrả lại? Tòa Khâm xảy ra, tin chắc sẽ gặp phải những phản ứng quyết liệt của người Phật tử trong nước và nước ngoài. Và nếu điều đó xảy ra sẽ là tiền lệ nguy hiểm cho những hành vi học ?ođòi? một cách lố bịch như Trung Quốc và là một cách hành xử không công bằng đối với Phật giáo.
    Trung Ngôn (Theo Blog Sen Việt) http://www.phattuvietnam.net
  10. dhlv

    dhlv Guest

    Người Công Giáo ở đây theo Tôi nghĩ là những cán bộ Công Giáo cao cấp mà thôi. Chứ còn người theo đạo này nhìn chung là dân đen chẳng khác những người dân lành khác đâu . Chỉ mỗi tội niềm tin không suy xét nên Cán bộ bảo sao cứ thế mà làm theo thôi .
    Còn như Đạo Phật không bảo tin, cũng không bảo theo, theo hay không là tuỳ ở tâm. Chẳng thế mà có câu:
    "Thứ nhất là tu tại gia
    Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
    "
    Tôi gọi những vị Cha cố và cao hơn là những cán bộ Công giáo. Vì nếu là người Việt Nam dù có theo Công Giáo hay không hãy gọi cha mẹ đẻ của mình là Đức Cha- Đức Mẹ, không những có công sinh thành dưỡng dục mà CHA-MẸ là những người Thầy đầu tiên và vĩ đại nhất đối với mỗi người .
    Tình trạng khô Đạo và nhạt Đạo đã đang và tiếp tục diễn ra, điều này chính một người đang học trở thành cán bộ Công Giáo đã từng nói với Tôi cách đây khoảng 2 năm. Anh này người miền Bắc nhưng sống trong Nam!
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này