1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TỰ HÀO TA LÀ NGƯỜI CON XỨ NGHỆ (Lịch sử _ địa lý _ văn hóa _ con người Nghệ Tĩnh và những bài viết v

Chủ đề trong 'Nghệ Tĩnh' bởi LUMBER, 13/05/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. LUMBER

    LUMBER Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/01/2002
    Bài viết:
    596
    Đã được thích:
    0
    Các bạn thân mến ! Vừa qua tôi có nhận được 1 số ý kiến đóng góp về chủ đề của tôi đưa ra .Nay tôi muốn nói rõ hơn về mục đích tôi đưa ra chủ đề này . Đây là nơi để mọi người cùng nhau đưa ra và thảo luân những điều mình biết hoặc sưu tầm từ sách báo về lịch sử ,văn hóa cũng như con người xứ Nghệ .Mong chúng ta cùng đóng góp .
    Thân ái

    Mãi bước trên đường đời !!!
  2. Nhocconvuitinh

    Nhocconvuitinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    Re hi all, re hi LUMBER!
    Cám ơn LUMBER đã có một chủ đề rất hay. Hy vọng mọi người tích cực tham gia,
    đóng góp nhiều bài hơn nữa.
    Hôm nay tôi có tham khảo cuốn "Tục ngữ - ca dao - dân ca việt nam"
    của Giáo sư Vũ Ngọc Phan,(Nhà Xuất bản Văn học) trong đó có một
    phần viết về"TỤC NGỮ - CA DAO - DÂN CA NGHỆ TĨNH, tôi viết
    lại lên đây để mọi người cùng tham khảo.
    A. Khái niệm về Tục ngữ - Ca dao - Dân ca:
    1. Tục ngữ và Thành ngữ:
    - Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,
    một luân lý, có khi là một sự phê phán.
    - Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều người
    đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn
    Về hình thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh.
    Còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
    Có thể nói một cách hình ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là anh, từ đơn độc là em.
    Vì thành ngữ qua thời gian đã được tập hợp thành cụm. VD: "Áo rách, quần manh",
    "Ăn trắng, mặc trơn", "Ăn trên, ngồi trốc", "Dốt đặc cán mai", "Cá bể, chim ngàn" "Bụng đói, cật rét"....

    đều là thành ngữ. Còn "Chó cắn áo rách", "Bệnh quỷ thuốc tiên", "Người chửa, cửa mả"...
    đều là tục ngữ.
    Hầu hết những câu thành ngữ, tục ngữ đầu do nhân dân sáng tác, nhưng cũng có những câu
    rút ra từ các thi phẩm phổ biến, hoặc rút từ ca dao, dân ca ra. Có người nói tục ngữ là ngạn ngữ
    (nghĩa là lời nói đã lưu hành từ xưa) (Chữ ngạn có nghĩa là lời nói của người xưa).
    Như vậy, tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở những kinh nghiệm về sinh hoạt, sản xuất... Nó là những
    câu đúc kết những nhận xét đã được nhiều ngwời thừa nhận, để hướng dẫn con người ta trong sự
    nhìn nhận mọi khía cạnh của cuộc đời. Tục ngữ là những câu thông tục, thiên về diễn ý, đúc kết một
    số ý kiến dựa theo kinh nghiệm, dựa theo luân lý và công lý để nhận xét về con người và xã hội,
    hay dựa theo trí thức để nhận xét về con người và vũ trụ. Trong tục ngữ có cả thành ngữ :
    "Chồng yêu, xỏ chân lox mũi", thì "xỏ chân lỗ mũi" là thành ngữ.
    2. Ca dao và dân ca:
    - Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta
    tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta
    thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao và
    dân ca không rõ.
    Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài
    ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm.
    Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác
    và có thể xây dựng thành các điệu ca dao.
    Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định,
    nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng.
    Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn
    cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương,
    còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào,
    thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi
    VD:
    "Đồng đăng có phố Kỳ Lừa
    Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"​
    Hay:
    Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
    non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

    thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga.
    Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được..
    Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện
    cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh.
    Cũng như tục ngữ, ca dao - dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể,
    được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả
    những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ - ca dao - dân ca) :
    tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh,
    tính truyền miệng, tính tập thể ....thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất.
    -------------------
    (Còn nữa)
    Được sửa chữa bởi - nhocconvuitinh vào 25/05/2002 01:36
  3. d.an1

    d.an1 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/11/2001
    Bài viết:
    558
    Đã được thích:
    0

    Có xa ngái chi mô mà nỏ sang đây nhởi
    Đêm ngày ngồi đợi,tháng tháng đứng trông
    Thật rõ là ghin mà thành xa ngái.( vè )

    PDA

  4. d.an1

    d.an1 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/11/2001
    Bài viết:
    558
    Đã được thích:
    0
    Hình như ở quê choa cà chua là cà chua mà cà kiu là cà kiu.
    Kích thước quả cà chua lớn hơn của cà kiu.Cà kiu có trồng 1000 năm thì vẫn không thể lớn bằng cà chua.Cà chua ăn ngon hơn càkiu.
    Nói túm lại là cà kiu cà kheo hơn cà chua.
    Càchua mà nấu canh với tép tươi thì nhất luôn.
    Con tép ngoài Bắc gọi là con khác chứ không phải là con tép.

    PDA

  5. Nhocconvuitinh

    Nhocconvuitinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    (Tiếp theo bài: TỤC NGỮ - CA DAO - DÂN CA NGHỆ TĨNH)
    --------------------
    B. Thời kỳ xuất hiện:
    So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như "Dô ta", như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người.
    Xét nội dung những câu "Năm cha, ba mẹ", hay "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông", "Con dại, cái mang", "con mống, sống mang".. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ...
    Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.
    C. Nội dung và hình thức của tục ngữ - ca dao - dân ca:
    1. Nội dung của tục ngữ:
    Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả.
    Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người.
    VD:
    Quá mù ra mưa
    Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa
    Vỏ quýt dày có móng tay nhọn
    Cái sảy nảy cái ung
    Cõng rắn cắn gà nhà
    ...​
    2. Hình thức của tục ngữ:
    Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn
    Làm phúc phải tội
    Gà què ăn quẩn cối xay
    Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận
    Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm
    ...​
    Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối
    No nên bụt, đói nên ma
    Bút sa, gà chết
    Có tật giật mình​
    Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ
    May tay hơn hay thuốc
    Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con​
    Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
    Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm​
    Hoặc thể lục bát
    Cá tươi thì xem lấy mang
    Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai​
    Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người...nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.
    3. Nội dung của ca dao:
    Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào...thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.
    Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.
    Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình...
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
    Nhớ ai dãi nắng dầm sương
    Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao​
    Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
    Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
    Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương
    Tuyệt mù khói toả ngàn sương
    Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ...​
    Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội.
    Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.
    -----------------
    (Còn nữa)
    Được sửa chữa bởi - nhocconvuitinh vào 24/05/2002 13:46
  6. Nhocconvuitinh

    Nhocconvuitinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    (Tiếp theo bài Tục ngữ - ca dao - Dân ca Nghệ Tĩnh)
    4. Hình thức nghệ thuật của ca dao:
    Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú.
    Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao.
    Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc.
    Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:
    Thân em như hạt mưa rào
    Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa​
    Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:
    Đôi ta như lửa mới nhen
    Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu​
    Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:
    Mặt nạc đóm dày
    Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn[/cente]
    Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.
    Thuyền ơi có nhớ bến chăng
    Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền​
    Một số thể cổ điển của ca dao:
    Thể phú:
    Là trình bày, diễn tả...
    Đường lên xứ lạng bao xa
    Cách một trái núi với ba quãng đồng
    Ai ơi đứng lại mà trông
    Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ
    Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ
    Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong...​
    Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:
    Gối mền, gối chiếu không êm
    Gối lụa không mềm bằng gối tay em​
    Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:
    Trăm năm đành lỗi hẹn hò
    Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa​
    ....
    Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
    - Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
    - Đan sàng thiếp cũng xin vâng
    Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
    ..........
    Thể hứng: Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn
    Cơm trắng ăn với chả chim
    Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no
    Trên trời có đám mây vàng
    Bên sông nước chảy có nàng quay tơ
    Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
    Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

    MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH
    1. Hát giặm
    Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm.
    Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến.
    Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời:
    vd:
    Tôi lấy chân khoả lại
    Tôi lấy bàn khoả lại

    hay:
    Thấy những lời kêu trách
    Nghe những lời kêu trách

    Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài.
    Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt.
    Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi
    VD:
    Trai:
    Tiết thanh nhàn thong thả
    Muốn thăm hỏi vài câu
    Cuốc thánh thót kêu sầu
    Gió phảng phất mùa sâu
    Nhớ trong sách đã lâu:
    Chuyện "Tư mã phượng cầu"
    Thương thì mũi tìm trâu
    Trâu đâu tìm chạc mũi
    Gái:
    Trời mở rộng phong quang
    Giã ơn trời mở rộng phong quang
    Em đánh tiếng đua sang
    Đêm tàn canh vò võ
    Tay em cầm con bấc đỏ
    Mong bỏ đĩa dầu đầy
    Mời bạn ở lại đây
    Đôi ta giở lời rày
    Tình đó với nghĩa đây
    Trai:
    Giống như đọi nác đầy
    Bưng nhẩn nhẩn trên tay
    Không khuy sơ một hột
    Gió nỏ triềng một hột
    Công đôi ta thề thốt
    Kể đã mấy niên rồi
    Lòng đã quyết lứa đôi
    Ngãi đã quyết thề bồi
    Nhất ngôn nói hẳn lời
    Đừng bốn chốn ba nơi
    Đừng trăn gió chào mời
    Trăng nhiều trăng rạng rỡ
    Trăn nhiều đèn rạng rỡ
    Gái:
    Em đã có chồng rồi
    Em đã có lứa rồi
    Vung úp đã vừa nồi
    Đũa ghép đã thành đôi
    Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
    Tôi lấy chân khoả lại
    Tôi lấy bàn khoả lại
    Trai:
    Têm một quả trầu không
    Bỏ vô hộp con rồng
    Đi băng nội băng đồng
    Qua năm bảy khúc sông
    Qua chín mười đỗi đồng
    Nghe tin em đã có chồng
    Anh quăng lắc vô bụi
    Bạn gạt tùa vô bụi.

    *************
    Được lumber sửa chữa / chuyển vào 14:31 ngày 31/07/2002​
  7. LUMBER

    LUMBER Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/01/2002
    Bài viết:
    596
    Đã được thích:
    0
    Tớ kiếm được 2 cái bản đồ Nghệ An _Hà Tĩnh ,nhưng tiếc là không được chi tiết cho lắm ,chỉ là bản đồ vị trí địa lý thui ,bác nào có cái nào hay hơn thì đưa lên cho bà con thưởng thức nhé !
    NGHỆ AN​
    [​IMG]
    HÀ TĩNH​
    [​IMG]
    Nói không với ma túy nói có với ... rượu bia ,never quay lưng với tiền bạc !!!
  8. d.an1

    d.an1 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/11/2001
    Bài viết:
    558
    Đã được thích:
    0

    Tuyệt vời, hoan hô o nhoccon và chú cà LUM. Chú có cái bản đồ quy hoạch chi tiết mô không thì post lên giùm em cái nhá.Em tính mua đất trên Con Cuông để xây cái Villa an dưỡng tuổi già mờ.

    PDA

  9. Nhocconvuitinh

    Nhocconvuitinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    65
    Đã được thích:
    0
    (Tiếp theo bài: Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Nghệ Tĩnh)
    Anh thương em một tháng hai kỳ
    Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày
    Năm rộn mà chầy
    Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ)
    Xuân qua rồi hè /đến
    Thu đã muộn, đông rồi
    Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
    Sang lập xuân vũ thuỷ
    Đêm em nằm em nghĩ
    Nghĩ kinh trập, xuân phân,
    Lòng tưởng sự ái ân
    Sang thanh minh, cốc vũ
    Đêm dêm nằm nỏ ngủ
    Nhớ bạn mãi thường thường
    Tiết lập hạ nhớ thương
    Bước sang tuần tiểu mãn
    Trông ra ngoài chán chán
    Tiết mang hiện lại gần
    Người đập đất, gánh phân
    Để mùa màng gặt hái
    Anh thương em mãi mãi
    Sang hạ chí tiết hè
    Em nghe tiếng sầu ve
    Em buồn trong gia sự
    Bạn buồn trong gia sự
    ***
    Tiết tiểu thử, đại thử
    Trời nắng sốt lắm thay!
    Ra ngồi tựa cột cây
    Anh với em than thở
    Bạn với mình than thở
    ***
    Tiết lập thu, xử thử
    Ai diều sáo mặc ai
    Vàng lác đác giếng tây
    Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ)
    Nhớ mãi người bạn cộ
    ***
    Vừa đến tiết bạch lộ
    Bầy chim trắng bay sang
    Cây heo hắt lá vàng
    Sang thu phân hàn lộ.
    ***
    Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy)
    Tiết sương giáng lại kề
    Trông bạn cũ ta về
    Sang lập đông giá rét
    Tiết tiểu tuyết, đại tuyết
    Trời giá rét lắm thay
    Sang đông chí cấy cày
    Dạ bồi hồi nhớ bạn
    Tiết tiểu hàn chưa dạn
    Đã bước sang đại hàn
    Dạ tưởng nhớ người ngoan
    Vừa năm cùng tháng tận
    Vừa cuối mùa cuối tận.
    ***
    Phận lại ngồi trách phận
    Phận nỏ giám trách phận
    Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp

    ---------
    (Còn nữa)
    nhocconvuitinh@ttvnonline.com. Yêu ANH đến chết. Riêng TIỀN, chết vẫn còn yêu
  10. LUMBER

    LUMBER Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/01/2002
    Bài viết:
    596
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Nhà thơ Hoàng Trung Thông (5/5/1925 -4/1/1993 )xã Quỳnh Đôi ,Quỳnh Lưu ,Nghệ An .

    Nói không với ma túy nói có với ... rượu bia ,never quay lưng với tiền bạc !!!

Chia sẻ trang này