1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tư liệu về các Fighter Aces nổi tiếng của Việt Nam và thế giới

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Patriotxx, 11/07/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    ......Cũng giây phút đó Lê Minh Huân và Trần Nguyên Năm theo phương án đã hiệp đồng liền nhanh chóng chuyển luôn đội hình vào thế công kích.Hai chiếc máy bay địch (số 3 và số 4) hoảng sợ vội trút nốt bom cho nhẹ và ngơặt trái để thoát thân .
    -Mày có chạy đằng trời! - Huân quát to với tên giặc bay phía trước và hét lên trong máy vô tuyến điện cho Năm nghe:
    -Yểm hộ , tôi công kích!
    Chiếc phản lực siêu âm của Mỹ choán kín trong máy ngắm.Huân bấm cò , những luồng đạn đỏ lừ thẳng căng.Ngay từ loạt đạn đầu hết sức chính xác, anh đã quật trúng vào ngan sườn chiếc thần sấm.Tên đại úy giặc lái Jame Makrson không kịp nhảy dù , chết ngay trên ghế .
    Năn cảnh giới phía sau , thấy Huân bắn trúng , sướng quá vừa cười vừa nói rất to:
    -Rơi rồi! rất tốt , cứ thế!
    Tiếng reo ấy vang vào cáp nghe của Hanh và Giấy , càng làm cho các anh thêm phấn chấn."Thế là cả biên đội đều đã lập công "anh sung sướng cổ vũ Huân và Năm.
    Đang yểm hộ cho Hanh , Giấy phát hiện một tốp máy bay địch vòng lại phía sau biên đội .Bọn này xảo quyệt thật.Giấy báo cho Hanh biết , ròi lập tức ngơặt lại, tăng cửa dầu với tốc độ lớn nhất , lao thẳng vào tên bay số 1.Máy bay rung nhẹ .Ba nòng pháo cùng bắn .Tên số 1 bị trúng đạn hốt hoảng lao ngay ra biển , tên số 2 liều lĩnh xông tới.Phạm Giấy lại ngơặt máy bay lao vào , quyết không cho nó bám được biên đội trưởng của mình .Tình bạn chiến đấu ấy càng tăng thêm sức mạnh cho Hanh .Anh biết Giấy sẵn sàng không tiếc thân mình yểm hộ cho anh diệt địch .Hanh chợt thấy phía sau mình và bên trái có mấy chấm nhỏ đang lách giữa 2 dải mây vẩy cá.
    Thì ra lũ tiêm kích đã vội vã đến cứu nguy cho lũ cường kích .Tên thiếu tá Jame Eminit chỉ huy bọn máy bay liền tổ chức ngay 1 đợt phản kích quyết liệt .Phát hiện thấy máy bay của Trần Hanh , nó ra sức bám đuôi.Khoảng cách giữa chiếc F-100"thanh đoản kiếm "với chiếc MIG mỗi lúc 1 gần .Tín hiệu rada báo liên tục .Eminit đặt sẵn tay lên nút phóng tên lửa .Tiếng ro ro báo hiệu , những quả tên lửa "Rắn đuôi chuông " đã bắt được mục tiêu .Nhưng Eminit chưa vội ấn nút.Hắn quyết định khi đã phóng ra là "đối phương chỉ còn có việc cầu Chúa " như bọn chỉ huy của hắn thường tuyên bố .Đây lại là lần đầu gặp MIG,hắn quyét phải ra tay đích đáng để giành lấy sự kính nể đối với bọn phi công.Cái máu "anh hùng " ấy càng thúc giuc Eminit quyết để cho chiếc MIG thật gần .Đúng tới cự ly tối thiểu ,Eminit mới ấn tay vào nút phóng .Hai quả tên lửa cùng lúc lao tới chiếc MIG.Tên thiếu tá giặc lái hí hửng .Nhưng hỡi ôi!Vừa lúc 2 quả tên lửa phóng ra thì bỗng dưng như có phép thần thông kì lạ , chiếc Mig lật ngửa và nhào ngay xuống!..
    Thì ra Trần Hanh phán đoán địch đã bám được đuôi mình, một tình huống mà đối với bọn phi công Mỹ là hoàn toàn tuyệt vọng , anh không hè nao núng và nhớ lại rất nhanh những biện pháp chống tên lửa mà tập thể đơn vị đã đề ra.Ước lượng khoảng cách, khi biết địch đã đến vị trí phóng tên lửa , lập tức anh làm 1 động tác kĩ thuật vô cùng táo bạo.Chiếc MIG của anh lật ngửa nhào xuống thấp .Do máy bay hạ độ cao đột ngột , gia tốc và áp suất quá lớn , mắt anh hoa lên, ngực như bị nén chặt , tức thở .Thật là nguy hiểm .Trần Hanh xử lý rất nhanh , anh lấy lai thăng bằng , tăng tốc cho máy bay vọt lên , phải tranh thủ chiếm độ cao, tạo thế chủ động tiếp tục tiến công địch.Hanh kéo cần lái sát vào lòng , máy bay vọt lên cao.Tiếng Phạm Giấy reo to:
    -Một chiếc nữa cháy rồi !
    Phạm Giấy đã đánh vào sườn địch yểm hộ cho anh , 1 tốp 4 chiếc nữa xuất hiện khá gần phía sau Trần Hanh ,nhưng không để chúng lợi thế , bất thần Giấy ngơặt gấp về bên phải rồi nhanh chóng xông thẳng vào giữa đội hình địch với tốc độ khủng khiếp.Đã tới gần tầm bắn có hiệu quả ,bỗng bọn địch bay tõe ra phía dưới, chúng nó chuồn.Hơn lúc nào hết , Trần Hanh càng hiểu thé nào là yếu tố tinh thần.
    Đó cũng là giây phút cuối cùng kết thúc trận đọ cánh quyết liệt của biên đội anh . Thế là chỉ trong vòng 4 phút , bằng cuộc tiến công chớp nhoáng và hét sức táo bạo của không quân ta đã làm cho đội hình không quân địch đông hơn gấp nhiều lần vỡ tung tóe .Hai chiếc "Thần sấm "hiện đại của bọn không lực Hoa Kỳ mà chúng đã hết lời quảng cáo đã bị bắn gục trước mũi súng của biên đội Trần Hanh.Những chiếc khác phải vứt bom vung vãi chạy thóat thân.......
  2. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Trận đọ cánh vẫn còn tiếp tục , cho đến dịp này , thiếu tướng Trần Hanh mới kể lại đầy đủ các phần sau đó:
    "Khi kết thúc trận đánh, tôi định hạ thấp độ cao bay về.Vì làm nhiều động tác quyết liệt trong chiến đấu, nhất là lúc tránh tên lửa địch nên la bàn vô tuyến điện bị hỏng.Nhìn ngọn núi cao phía xa, tôi tưởng đó là điểm kiểm tra, tới gần mới biết mình nhầm.Tôi đã lạc đường .Chiếc máy bay của tôi chẳng khác nào con tàu giữa đại dương mênh mông sóng nước mà trong tay ngườ thuyền trưởng không có la bàn hàng hải.Biết đi hướng nào đây?
    Tôi lo lắng tự hỏi -Nhìn vào các đồng hồ trước mặt thì đèn đỏ báo hết dầu .Thêm một mối nguy cơ mới! Tôi càng bay càng đi sâu vào những dải núi trùng điệp .
    Nhảy dù!Ý nghĩ này vụt xuất hiện trong óc tôi.
    Lúc ấy tôi chỉ cần thu nhỏ đôi vai lại , giơ cao tay giật chiếc khóa dù là sẽ bật ra khỏi máy bay và chiếc dù sẽ đưa tôi trở vê mặt đất.Bằng cách ấy tôi sẽ trở về an toàn hơn.Nhưng nghĩ đến việc phải phá hủy chiếc Mig thân yêu mà nó vừa cung mình bắn rơi máy bay địch , phá hủy phương tiện chiến đấu vô cùng quý giá khi cuộc chiến đang bước vào thời kì quyết liệt, khi nhân dân đang phải chắt chiu từng đồng để đánh giặc , mà về lấy 1 mình , tim tôi như có bbanf tay bóp thắt lại .Ngày hôm qua , khi máy bay hết dầu , Phạm Ngọc Lan cũng đã bình tĩnh, dũng cảm hạ cánh trên bãi cát sông Đuống thành công .Hình ảnh ấy thoáng hiện nhanh trong óc tôi .Sau mấy giây cân nhắc tôi quyết định không nhảy dù ,mặc dù trên địa hình rừng núi , sẽ nguy hiểm hơn nhiều .Tôi vẫn bám lấy ý định giữ máy bay, giữ lấy phương tiện chiến đấu lúc này cũng là đọ cánh,một cuộc đọ cánh quyết liệt nữa là khác.Và tôi cũng rất tin vào tay lái của mình.
    tôi cho máy bay lượn 1 vòng , tìm 1 thung lũng gần nhất , kia rồi ! trước mặt tôi hiện ra 1 khoảng trống nhỏ ở sâu dưới dốc núi và cây rừng .Tôi liền cho máy bay lướt xuống ! Nhưng tốc độ máy bay còn lớn , dưới đó lại có nhiều vật chướng ngại, tôi vội kéo cần lái cho máy bay vượt qua tìm cách hạ xuồn thung lũng thứ 2 nằm ở triền núi phía sau.Khoảng trời nhỏ bỗng rung lên như giông bão .Dưới mắt tôi , mặt đất ập đến rất nhanh .Tâm trí tôi tập trung cao độ về phía trước .Mọi sinh lực dồn cả vào tay lái điều khiển cho máy bay vượt qua được khoảng trống nhỏ.Vừa được 1 quãng, lại thấy con suối nhỏ chắn ngang , tôi liền kéo mạnh cần lái sát vào bụng .như con ngựa chiến bất thình lình tung vó ,chiếc Mig ngóc cao đầu lên lướt sang bên kia suối.Vẫn chưa hết nguy hiểm .Lại thêm một lùm cây nữa sừng sững.Tuy tốc độ chỉ còn dưới 100km/giờ, nhưng máy bay xông vào đấy thì có khác gì chiếc ô tô đang phóng nhanh đâm đầu vào lô cốt.Lần nữa, tôi lấy hết sức đạp chân phải điều khiển bánh lái hướng cho máy bay ngơạt sang ngang.Rất may có thêm 1 bụi tre ngà đã níu một bên cánh phải lại , nên tuy bánh lái hướng đã hết tác dụng vì tốc độ máy bay còn lại quá nhỏ, do đó đã vượt qua được nguy hiểm cuối cùng....
    Sau phút giây đó tôi bị ngất xỉu đi trong khoang lái .Tôi đã phải trải qua thử thách quyết liệt, căng thẳng nhất từ trước đến nay .Phần nữa , do máy bay bị chấn động mạnh , khi tỉnh dậy tôi mới thấy rõ hơn : máy bay của mình đang nằm trên 1 thửa ruộng xanh rờn , và xung quanh là 1 rừng hia trẩu .Ôi mặt đất , mặt đất thân yêu!Biết là mình còn sống, tôi yên tâm ấn mạnh tay vào nấc mở nắp khoang lái .Không khí mát dịu ùa vào .Trên đầu tôi lúc này là cả 1 khoảng không thoáng đãng , yên bình.Tôi với tay bám chặt lấy cửa khoang lái cố gắng trườn xuống đất.Đến bây giờ tôi mới hoàn toàn tỉnh táo.
    Nghĩ lại những phút giây vừa rồi , tôi thấy lạ cả với chính mình.Một việc làm ngoài sách vở .khi học ở trường . đó là chuyện nghiêm cấm.Bình thường tôi cũng không nghĩ rằng mình có thể làm được .Thì ra ở lĩnh vực nào cũng có điều ngoại lệ .Và chính trong hiểm nguy , ý chí, trí tuệ của con người lại bổ xung cho lý thuyết .
    Trước khi tạm xa chiếc Mig thân yêu của mình, tôi không quên tháo cuộn phim ghi lại kết quả trận đánh ở chiếc máy ảnh tự động trong cảm giác say say mùi hoa trẩu .Từ giây phút đó, hương vị mùi hoa trẩu đã in sâu vào kỉ niẹm đẹp của tôi.
    Tôi thận trọng bước đi giữa những hàng hoa trẩu , lòng cồn cào với bao ý nghĩ:" các đồng chí Giấy , Huân , những người anh em thân thiết trong biên đội bây giờ ra sao?Các đồng chí đó đều đã chiến đấu rất dũng cảm và chắc chắn bắn rơi được máy bay Mỹ.Nhưng đã về được đến sân bay chưa ? ai còn ai mất? Còn bây giờ ở sở chỉ huy và các đơn vị chắc các đồng chí đang lo lắng cho tôi vô cùng.những gương mặt thân yêu đang đăm chiêu chờ đợi .Bao lời gọi thắm thiết đã phát lên không trung với hy vọng cuối cùng là tôi còn trở về được với đồng đội .Tôi ước ao lúc này có phép thần thông để báo về cho các đồng chí ở nhà.Cả Xuyến , bé Hà yêu quý của tôi nữa.Hẳn Xuyến không biết hôm nay tôi đã ra trận .nhưng tôi tin là vợ 1 người lái , Xuyến đã chờ từ lâu những trận đọ cánh của chúng tôi... và Xuyến thấp thỏm lo cho tôi cả trong giấc ngủ.Xuyến bảo: mỗi khi nghĩ đến tôi ,cô lại thơm lên đôi má bé Hà và ôm chặt con vào lòng ,ngắm mãi khuân mặt và đôi mắt mà ai cũng bảo giống tôi.Tuy Xuyến không nói ra , nhưng tôi biết , đôi lúc tim Xuyến thắt lại khi chợt nghĩ tới 1 lúc nào đó chỉ còn được thấy tôi qua gương mặt bé Hà .Tôi thầm mong Xuyến xua đuổi ngay ý nghĩ dại dột ấy đi ....
    Trần Hanh không biết rằng từ nãy đến giờ đã có tới 10 đôi mắt tinh tường cùng5 họng súng đang bám sát anh , bất thần 5 bóng người ập đến hô lớn:
    -Giơ tay lên!
    Anh giật mình , nhưng lại trấn tĩnh ngay .Với khẩu hiệu "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!" vừa nhìn thấy , anh đã đoán biết những nòng súng chĩa về phía mình là của ai. Anh vừa làm theo lệnh vừa ôn tồn trình bày.Tấm biển đỏ dính trên ngực anh với dòng chữ "Không quân nhân dân Việt Nam" và ngôi sao vàng bắt đầu có sức thuyết phục ,những đôi mắt xung quanh đang bốc lửa , bỗng dịu xuống.Càng thay đổi hơn khi nghe theo lời đề nghị của anh là" xin cho ngụy trang máy bay ngay".Tuy vậy , đồng chí chỉ huy dân quân cảnh giác vẫn tiếp tục hỏi.Giữa lúc đó, huyện đội phó , quần xắn đến đàu gối , chân đầy bùn, rẽ đám đông đi vào.Đồng chí đó ôm chầm lấy anh rồi quay ra báo cho mọi người biết :Đây là chiến sĩ lái máy bay của Bác Hồ.Lập tức không khí thay đổi hẳn .Anh bị xiết chặt trong vòng tay mọi người.
    Tin về "Khăm -cô-lơi" (người nhà trời) của Bác Hồ bắn rơi máy bay Mỹ hạ xuống bản mình truyền nhanh đi khắp núi rừng .Một ông ké có chòm râu bạc vượt 2 quả núi cao đem đến 1 cái gùi đựng toàn trứng gà , gạo nếp, chuối tiêu bắt anh phải nhận bằng được.Khác với trí tưởng tượng của cụ lúc ra đi;"Người nhà trời " diện mạo cũng không có gì phi thừơng , trái lại cũng hiền lành như trai bản.Trên chiếc nhà sàn nơi anh tạm nghỉ , dân bản kéo đến mỗi lúc 1 đông .Nhiều mế nắn tay , vuốt áo anh cảm động rưng rưng nước mắt , bắt anh phải nhận bằng được những món ăn ngon nhất của nhà mình .Các cô gái ,có cô từ tít tận cuối bản cũng hối gả chạy tới lấp ló hồi lâu rồi sung sướng cười vui khi đã nhìn rõ được "con trai nhà trời"....
    Ở cơ quan huyện đội , niềm hân hoan cũng không kém.Cán bộ , chiến sĩ đón anh như đón ngừơi thân đi xa trở về .Bỗng 1 người dáng vóccao to, nước da nâu sáng chạy tới reo lên:
    - Trần Hanh 48 phải không?? mình ở 64 đây!
    -Chao! anh Hà Quế!
    anh nhận ra ngay và 2 chiến sĩ ở đại đoàn Đồng Bằng trước đây ôm chặt lấy nhau .Cả 2 cùng hết sức xúc động .Không ngờ trung đoàn trưởng trung đoàn 64 cũ nay lại là tỉnh độ trưởng tỉnh đội Nghệ an .Anh cũng không ngờ rằng đồng chí phi công mình đang đi đón lại là Trần Hanh -bạn chiến đấu cũ .Mấy phút sau chừng như nhớ ra , anh mới giật mình gọi đồng chí cán bộ đi cùng lại bảo:
    -Điện về báo cáo ngay lên Bộ:Trần Hanh đã vè tới đây an toàn, mạnh khỏe!
    Không lâu , dòng điện tín vắn tắt ấy đã làm dấy lên niềm vui truyền nhanh đi khắp đoàn không quân Sao Đỏ.
    Trong 1 bài viết của tên Tướng không quân Mỹ thú nhận chua chát:" Ngày 4 tháng 4 là ngày đen tối của không lực Hoa kỳ"
    -Dẫu sao ,đó mới chỉ là trận đọ cánh mở đầu thôi, chứ sau này , anh em hơn chúng tôi nhiều.
    Để chứng minh , anh dẫn ra 1 loạt các trận đánh hay,các phi công đánh giỏi như Nguyễn Văn Cốc , Nguyễn Hồng Nhị , Nguyễn Tiến Sâm, Nguyễn Văn Bảy, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Đức Soát....nhưng rồi câu chuyện lại quay về trận đọ cánh đầu tiên khi đọc lời thú nhận của tướng Mo-ơ tại buổi họp báo ở Sài Gòn tối 4-4-1965:
    "các máy bay MIG gắn phù hiệu Bắc Việt đã dùng súng Canong hạ tại chỗ 2 phi cơ phản lực siêu âm của Hoa kỳ ngày chủ nhật 4-4 .Chúng tôi không bắn rơi được chiếc nào vì....."
    Vì gì? Khi bị các nhà báo hỏi dồn, MO-ơ đã đổ lỗi cho thiên nhiên , nói rằng"tại thời tiết xấu"
    Chính Black Bius viên đô đốc hải quân Mỹ , kẻ đã cùng có công trong việc để 4 chiếc máy bay của cả hải quân và không quân Mỹ bị mất tích trong 2 ngày 3 và 4 tháng 4 ghi lại chuyện đó.Trong hồi kí Bius còn viết "Sự lỡ lời của tướng Mo-ơ (vì thời tiết xấu đâu chỉ có 1 bên phải chịu?) cùng với sự kiện đó là đề tài hấp dẫn đối với giới báo chí.Hôm sau , nhiều tờ báo ở phương Tây kể cả 1 số báo ở Hoa Kỳ đã trương lên những hàng tít lớn: SỨC MẠNH KHÔNG THỂ TƯỞNG TƯỢNG ĐƯỢC CỦA KHÔNG LỰC HOA KỲ BỊ KHÔNG QUÂN BẮC VIỆT CHỌC TIẾT!" ... Cũng qua những kí giả thóc mách ấy mà sau đó , chúng tôi đã được biết, Đêm 4-4 hôm ấy , nhiều Việt kiều ta ở Pháp , ở Nhật đã đến gõ cửa nhà nhau báo tin :"Bà con ơi !Biết tin chưa ? Ta có không quân rồi.Không quân ta bắn rơi được máy bay Mỹ rồi!....."
  3. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Phi công Đinh Tôn
    Đinh Tôn là phi công Việt Nam đầu tiên bay trên bầu trời Tổ quốc với lá cờ đỏ sao vàng vào giữa năm1958. Là một phi công xuất sắc, loại máy bay nào cũng bay giỏi. Tháng 12-1973, đại tá Đinh Tôn được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12), xin giới thiệu truyện ký ?oNgười phi công tài hoa? của nhà văn Lê Thành Chơn.
    Năm 1998 J.Pual tướng hai sao, từng chỉ huy một trong những hàng không mẫu hạm của Mỹ tham chiến ở Việt Nam gởi cho tôi một bức thư, nội dung của thư muốn tôi giới thiệu cho ông ta một số phi công Bắc Việt Nam đã hạ nhiều máy bay Mỹ để ông ta trực tiếp gặp gỡ, phỏng vấn cho cuốn sách của ông dự định viết về những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam. Trong những phi công nổi tiếng ấy có một tên ở dòng số 7 ?oĐinh Tôn, phi công Mig 21?. Ông ta đặc biệt lưu ý trận chiến đấu ngày 16-6-1968 tại Đô Lương hồi 11 giờ trưa. Trận đó phía Mỹ bố trí một lực lượng máy bay A4 đánh khu vực ?ocán soong? thuộc vùng Bắc Hà Tĩnh, ở đó có nhiều con đường dẫn tới đường 12, thâm nhập vào tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Lực lượng Mỹ cùng cất cánh trên tàu sân bay Enterprise gồm 6 chiếc A4 và 4 chiếc F4 hộ tống. Theo người Mỹ, vùng Nam Nghệ An và Bắc Hà Tĩnh là vùng trời do người Mỹ kiểm soát, nghĩa là quyền làm chủ bầu trời thuộc về người Mỹ. Từ khu vực Nam Thanh Hóa trở vào thường xuyên có hai chiếc máy bay tiêm kích tuần tiễu, phát hiện có xe trên đường họ báo về hạm. Lập tức có máy bay mang bom đến đánh. Gần như ban ngày không có xe chở hàng và chở quân vận chuyển trên tuyến đường thuộc vùng ?ocổ chai? này. Còn Không quân Bắc Việt, tuy người Mỹ không dám coi thường nhưng do ít xuất hiện nên các chiến đấu cơ thường chỉ nghe thông báo của máy bay trinh sát điện tử EC121 lúc nào cũng có mặt ở ven biển Việt Nam. Máy bay này có những máy móc định vị đài radar, tần số phát sóng và đặc biệt là hệ thống nghe trộm đến độ tinh vi, bộ máy thu chuyển đổi từ tiếng Việt sang tiếng Anh trên dải băng tần rất rộng. Người Mỹ thu được tất cả các cuộc đàm thoại của tất cả các loại máy bay và ghi âm lại, báo động cho phi công Mỹ rất chính xác về vị trí và cự ly của Mig đến tất cả các máy bay có ?ođăng ký? theo dõi.
    Hôm đó, như thường lệ, sau khi cất cánh từng chiếc trên băng chuyền động của tàu sân bay Enterprise, toàn bộ đội hình A4 và F4B đã chỉnh tề tiến vào mục tiêu... 6 chiếc A4 ném bom xong quay ra đến mép bờ biển thì có lệnh báo động. Ngay lúc đó, phi đội F4 báo bị bắn rơi một chiếc... Người Mỹ bị bất ngờ và thua đau.
    Về phía chúng ta - hôm đó, Sở chỉ huy tiền phương của không quân ở Bắc Nghệ An phát hiện bọn Mỹ tập hợp đội hình khá lớn ở phía Tây hàng không mẫu hạm. Người chỉ huy trận chiến đấu, thượng tá Trần Mạnh, phán đoán và chỉ thị: ?oĐịch sẽ đánh khu vực Đồng Lộc, thời gian này đó là khu vực bọn Mỹ quyết băm nát tuyến đường. Bọn tiêm kích sẽ khống chế tuyến từ sân bay Anh Sơn đến núi Đại Huệ. Biên đội Mig 21 sẽ đánh theo lối tiếp tuyến không quần nhau với địch...?.
    10 giờ 20 phút từ sân bay Thọ Xuân, Đinh Tôn và Nguyễn Tiến Sâm (nay là Cục trưởng Hàng không dân dụng VN) được lệnh chuyển cấp ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Sau khi rời đất, biên đội được lệnh bay dọc theo đường 15, qua Nghĩa Đàn, đại đội radar dẫn đường đặt ở đồi Minh Sơn phát hiện biên đội Đinh Tôn tiến vào rất nhanh. Bọn A4 vừa vào đến khu vực mục tiêu, đang triển khai đội hình ném bom. Thượng tá Trần Mạnh lệnh chúng tôi dẫn đường cho biên đội tiếp cận và công kích. Vượt qua Nghĩa Đàn, biên đội Đinh Tôn đã tích lũy đủ tốc độ. Sở chỉ huy lập tức thông báo địch và điều chỉnh hướng bay. Lúc này tốp A4 đã ném bom xong chuẩn bị rời khỏi mục tiêu, còn tốp tiêm kích không biết có không quân ta xuất hiện. Chúng tôi quyết định cho biên đội tấn công tốp tiêm kích ở phía Bắc Đô Lương khi bọn F4B đang lượn vòng. Thời cơ xuất hiện, Lê Thiết Hùng sĩ quan dẫn đường ở mặt hiện sóng bóp micrô:
    - 40, vứt thùng dầu phụ, tăng lực, địch bên phải 30 độ, 30 kilômét.
    Đinh Tôn biết, sẽ tiếp cận mục tiêu từ bên trong. Anh triển khai biên đội thành đội hình không chiến ở độ cao thấp, Nguyễn Tiến Sâm bật công tắc quân giới, nối điện với tên lửa. Hùng thông báo:
    - Địch đi từ phải qua trái, 20 kilômét.
    Đinh Tôn đảo mắt quan sát, anh reo lên:
    - 40 phát hiện 4 chiếc F4, xin phép công kích.
    Chúng tôi trả lời ngay:
    - Đồng ý, công kích nhanh, bay về hướng Bắc.
    Chúng tôi và biên đội thống nhất đánh ở chiến trường A2 (biệt danh vùng trời khu Bốn), phi công chỉ nghe và hành động, sĩ quan dẫn đường căn cứ vào trạng thái máy bay, biết phi công đã nhận được lệnh. Cho đến khi phát hiện được địch hoặc tình huống ngoài dự kiến mới phát sóng. Chính vì vậy, cho tới khi biên đội Đinh Tôn báo cáo đã phát hiện địch, bọn Mỹ mới biết có không quân ta. Bọn chúng hoảng loạn tháo chạy nhưng không còn kịp, một chiếc F4B bị Đinh Tôn bám quyết liệt, nó cố thoát bằng kỹ thuật bay lắt léo. Nhưng Đinh Tôn khôn khéo phản lắt léo, chớp thời cơ, ấn cò, chiếc F4B nổ bùng cắm đầu xuống đất tan xác. Bọn F4B còn lại ba chiếc phản kích, biên đội Tôn - Sâm bám nhau rất sát, giữ biên đội tấn công áp đảo bọn Mỹ. Với kỹ thuật bay điêu luyện, Tôn và Sâm đã nhiều lần tạo được thế nhưng không xạ kích được. Còn bọn Mỹ dù hơn số lượng nhưng kỹ thuật không chiến ở vào thế yếu, luôn bị động, bọn chúng phải dùng kỹ thuật mới thoát ra khỏi thế bị động, tháo chạy...
    Có lẽ, J.Pual có ấn tượng rất mạnh bởi một trận không chiến ở đỉnh cao về kỹ thuật bay và chiến thuật, dù có số lượng gấp đôi nhưng vẫn ở vào thế bị động. Một trận không chiến bị thua về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen làm cho người Mỹ vừa khó chịu vừa thán phục.
    Còn chúng ta, khi rút kinh nghiệm trận chiến đấu, Phó Tư lệnh Trần Mạnh sau khi nêu rõ những điểm mạnh và yếu của công tác chỉ huy chiến đấu, của phi công, ông kết luận: ?oMột trận không chiến sòng phẳng, phần thắng nghiêng về phía chúng ta do tinh thần chiến đấu dũng cảm của Tôn và Sâm. Một yếu tố cực kỳ quan trọng là kỹ thuật bay giỏi, kỹ thuật và chiến thuật không chiến thành thạo làm nên chiến công hôm nay?. Ông cũng biểu dương kỹ thuật bay bám đội tuyệt đẹp của phi công trẻ Nguyễn Tiến Sâm đã góp phần làm nên chiến thắng...
  4. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    (tiếp)
    Cuối năm 1999 thiếu tá không quân Ralp Wetterhahn gặp tôi để tìm hiểu về những trận không chiến mà anh ta khi đó là phi công Phantom F4 đã 180 lần vào vùng trời Bắc Việt Nam lãnh sứ mạng hộ tống các phi công mang bom đánh vào Hà Nội. Trong câu chuyện giữa tôi và Ralp, anh ta nhắc đến trận không chiến ngày 3-2-1968 tại Mai Châu. Hôm đó, vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 3-2-1968 tôi biết anh ta đã gặp biên đội của Đinh Tôn tại phía Tây thị xã Hòa Bình.
    Ralp kể rằng lần đầu tiên anh ta nhìn thấy Mig 21 trên bầu trời. Trước đã nhiều lần, thậm chí anh ta đã từng không chiến với Mig 17.
    Ralp tặng cho tôi tấm bản đồ bay ghi đường bay anh ta đã bay vào vùng trời miền Bắc, đặc biệt trên đó có một tam giác màu đỏ, ba góc là Yên Bái - Hòn Gai - cửa sông Mã. Trong tam giác đó được đánh số VI kèm theo chữ A.
    Ralp giải thích:
    - Đó là khu nguy hiểm. Đặc biệt nguy hiểm.
    Tôi hỏi:
    - Có phải số VI đặt cho cỗ quan tài có sáu tấm?
    Ralp cười lớn:
    - Đúng, chúng tôi tự đặt, nói lóng, nói lén với nhau, để nhắc cẩn thận, mà cũng sợ nữa, con số VI là do cấp trên đặt.
    Tôi hỏi:
    - Vì sao đặt số VI nằm trong khu tam giác như vậy?
    Ralp giải thích:
    - Thường đường bay của phi đoàn tôi từ căn cứ UBon làm nhiệm vụ hộ tống máy bay mang bom đều cất cánh từ Uđon. Nếu là đánh ở phía Đông Hà Nội chúng tôi bay ra biển qua đảo Cồn Cỏ rồi lên đảo Bạch Long Vĩ tiến vào.
    Đánh phía Tây thường chúng tôi bay qua Vientian (Lào). Tránh xa khu vực từ I đến V. Buộc vào khu VI phải đi đoạn ngắn nhất.
    Tôi hiểu, trong những năm đánh phá miền Bắc, chúng tôi phát hiện một quy luật gần đúng như Ralp đã nói. Bọn Mỹ rất sợ hỏa lực tầm trung và tầm thấp của các lực lượng vũ trang nhân dân ta.
    Tôi trở lại trận không chiến ngày 3-2-1968 trên vùng trời Hồi Xuân. Ralp kể:
    - Hôm đó, chúng tôi có 8 chiếc F4C, tôi lái chiếc F4C số hiệu 683 F.G trên đường từ UBon vượt qua Vientian đến Mườn Sén, chúng tôi có nhiệm vụ hộ tống cho 12 chiếc F4D mang bom cất cánh sân bay Cò Rạt (Thái Lan) đánh vào một mục tiêu ở Hà Nội.
    Vừa qua khỏi Mường Sén tiến vào vùng Hồi Xuân... tôi nghe thông báo có Mig hướng 12 giờ (tức là ở trước mặt) 60 dặm (khoảng 100km). Tôi nghĩ là còn quá xa. Phi công điều khiển radar của tôi bật công tắc cảnh giới, chưa phát hiện được Mig trong radar. Tôi liếc qua bên phải trên tai tôi lại nghe thông báo Mig ở hướng 4 giờ (ở bên phải, phía sau). Chúng tôi vứt khẩn cấp thùng dầu phụ để dễ cơ động, vừa lượn vòng sang phải tôi đã thấy hai chiếc Mig 21 lướt qua, hôm đó trong biên đội thứ hai sau tôi chừng ba dặm, một chiếc F4C bị bắn rơi.
    Đó là lời thuật của Ralp. Còn về phía chúng ta, trận đó diễn ra như sau:
    10 giờ ngày 3-2-1968, lệnh báo động khẩn cấp. Sở chỉ huy Không quân chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Tư lệnh Không quân Nguyễn Văn Tiên ra lệnh mở ba đài radar dẫn đường. Sau khi tất cả công tác chuẩn bị chiến đấu đã xong, ông nói rõ ý đồ của địch và ý định chiến đấu của ông:
    - Theo tin chúng ta nhận được, bọn Mỹ sẽ huy động một lực lượng lớn không quân cất cánh từ Thái Lan đánh vào một mục tiêu quan trọng trong nội thành Hà Nội. Đường bay từ phía Tây. Chủ trương của Bộ tư lệnh sử dụng hai biên đội Mig 21, một tốp nghi binh, một tốp tấn công theo phơng án 1A đã thông qua Quân chủng đêm qua.
    Ông dừng lại, nhìn vào tấm bản đồ chiến đấu được đặt trên chiếc bàn tròn, phủ bên trên là tấm mica trắng. Chúng tôi vừa dán lên phía trên nó một tờ giấy bóng mờ có vẽ các vòng hỏa lực của tên lửa và cao xạ bảo vệ thủ đô. Ở hướng Tây-Nam các vị trí tên lửa có các vành đai đỏ, vùng phóng của những con rồng lửa trùm lên nhau dày đặc. Còn những vòng nhỏ, hỏa lực của pháo cao xạ không sao đếm hết. Chúng tôi chỉ đánh dấu cấp trung đoàn với những con số thôi đã gần trùm lên nhau... Tư lệnh chống hai tay lên bàn, ông tập trung nhìn vào một vật gì đó, bàn tay ông xê dịch cây thước màu trắng trong suốt kẻ cự ly tỷ lệ 1/500.000 nghĩa là một centimét trên bản đồ ứng với thực địa tới 5km, nó được cắm trên một cái lỗ ở cuối cây thước, đó là vị trí của đài radar dẫn đường riêng của Sở chỉ huy chún tôi. Ông lấy những ngón tay vốn rất to, bàn tay của một người thợ, đè tờ giấy bóng mờ xuống sát mặt bàn để nhìn rõ một tên đất trên bản đồ. Tôi ghé mắt nhận ra khu vực ông quan tâm ở phía Tây Hà Nội, ông nói:
    - Bọn Mỹ sẽ đánh vào đây. Đường bay vào từ phía Tây. Như vậy các điểm kiểm tra cụ thể sẽ như thế nào?
    Tôi báo cáo:
    - Bọn Mỹ sẽ bám vào những điểm kiểm tra rất rõ ràng ở mặt đất. Theo tôi chính là Mường Sén, Bá Thước, tiến thẳng lên phía Bắc rồi vào đánh mục tiêu. Đánh xong bay thẳng ra hoặc nếu có lượn thì chỉ vòng một góc nhỏ. Như vậy thời gian ở trên mục tiêu ngắn nhất.
    Ông gật đầu:
    - Đúng như vậy, bọn Mỹ rất sợ tên lửa nhưng sợ nhất là súng phòng không và súng bộ binh, có thể nói lửa đạn của chúng ta dày đặc, đến mức chưa có nơi nào phòng thủ bảo vệ mục tiêu cao như thế. Vì vậy, chúng ta phải đánh ngoài hỏa lực phòng không, để phát huy cao nhất tất cả sức mạnh của các lực lượng vũ trang.
  5. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Nói rồi, ông lấy cây thước trên bàn vạch một hướng về phía Đông, ông chỉ thị:
    - Dẫn biên đội bay dọc theo đường số 1, đánh từ hướng Đông tới, như vậy... ?" ông dừng lại suy nghĩ, ông hỏi chúng tôi ?" Ý kiến các cậu thế nào?
    - Thưa tư lệnh - Tôi báo cáo - Ở hướng Hòa Bình lúc nào cũng có lực lượng tiêm kích lập khu chờ, phục Mig. Chúng ta nên cất cánh ra hướng sông Hồng, đi xa một chút tránh khu chờ Mig của bọn F4, và đánh thuận hướng mặt trời. Lấy mặt trời để làm vật ngụy trang trên không rất tốt.
    Ông gật đầu:
    - Đồng ý.
    Biên đội Mig 21 nghi binh do Đinh Tôn và Nguyễn Văn Minh lái, Sở chỉ huy Quân chủng chỉ huy biên đội tấn công bay dọc sông Hồng do phi công Mig 21 Phạm Thanh Ngân và Nguyên Văn Cốc điều khiển, đánh vào bọn cường kích mang bom do Sở chỉ huy Trung đoàn Sao Đỏ chỉ huy đã đánh rất giỏi, bắn rơi một chiếc F4D trên vùng trời Hòa Bình. Tôi muốn kể về biên đội nghi binh. Hôm đó, sau khi cất cánh chúng tôi cho biên đội bay ra hướng Thanh Sơn, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, tiến ra Mộc Châu. Lúc này bọn F105 săn radar (bọn F105 được trang bị máy có tần số đài radar và phóng tên lửa có bộ nhớ tần số radar bay thẳng vào phá hủy trạm radar) đã lảng vảng ở khu vực cầu Giẽ. Theo lệnh của tư lệnh tôi cho biên đội với tốc độ lớn lao đến bọn F105... có lẽ thấy tốp nghi binh rầm rộ... Chúng tôi được tự do truyền đạt hướng bay, độ cao và tốc độ cho phi công mà không cần giữ bí mật. Ở trên trời, Đinh Tôn biết rõ nhiệm vụ của mình, anh cũng rất thoải mái nhắc lại những khẩu lệnh của chúng tôi. Từ Sầm Nưa, chiếc EB66 loại máy bay trinh sát gây nhiễu điện tử khẩn cấp thông báo và bọn F105 quay đầu ra hướng biên giới chạy thẳng.
    Trên bản đồ chiến đấu, tốp tấn công đã được lệnh tiếp cận tốp F4D mang bom, tốc độ tăng rất nhanh. Lúc này, bất ngờ từ hướng Hòa Bình bọn lập khu chờ Mig vừa đến, bọn chúng vội vã kéo lên cao nghênh chiến với Đinh Tôn... và bọn F4 đã phải lên cao, ló đầu ra cho radar chộp. Bọn địch đã bộc lộ toàn bộ. Tư lệnh cho Đinh Tôn bay về. Tôi vừa phát khẩu lệnh bay về sân bay Nội Bài:
    - 40, về đài Phong Lưu.
    Đinh Tôn trả lời:
    - 40 nghe rõ.
    Ngay lúc đó anh báo cáo:
    - 40 phát hiện bên trái phía trước có bốn chiếc F4 xin phép công kích.
    Tôi trả lời:
    - Đồng ý.
    Anh vứt thùng dầu phụ, bật công tắc phóng tên lửa, sửa góc tiến vào công kích thì bị phát hiện, bọn F4 có bốn chiếc tách đôi đội hình, hình thành thế trận không chiến. Sau khi đè đầu chiếc F4C, anh thấy hai tên giặc lái, đầu đội mũ trắng, cựa quậy rất dữ. Bọn chúng hoảng sợ. Còn anh, góc vào lớn, bọn Mỹ cơ động, khả năng công kích không còn... tốc độ đang rất lớn anh kéo lên cao rất mạnh, Minh theo sát bên, anh nhìn thấy hai mút cánh chiếc Mig 21 kẻ hai làn khói thẳng tắp, bay về...
    Bức thư của J.Paul, tướng hai sao của Mỹ, ông chỉ muốn biết trận ngày 16-7-1968. Tôi muốn ông biết thêm một trận chiến đấu nữa của Đinh Tôn cũng tại vùng ?ocán soong?. Tôi nghĩ rằng, trong thời gian đó ông vẫn là người chỉ huy hàng không mẫu hạm và trận không chiến ngày 17-8-1968 không thể nào người Mỹ quên nổi, chỉ cách trận trước một tháng một ngày và chiếc F4B này bị Đinh Tôn bắn rơi cắm đầu xuống vùng rừng núi huyện Đô Lương, Nghệ An. Khi còn ở trên trời, nó bị tên lửa của anh tiện mất khúc đuôi. Chiếc F4 rơi, như tờ giấy xếp hình con chim không có đuôi của các cháu thiếu nhi tự tay mình phóng lên và lao xuống đất ngập ngừng lúc qua bên trái, lúc qua bên phải trước khi cắm đầu xuống đất...
  6. trieuthien

    trieuthien Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    846
    Đã được thích:
    19
    Phía Mỹ đổ thừa là Mỹ thua thiệt vì Mỹ "không dám" đánh phá radar dưới đất của ta "sợ" giết chuyên gia Nga và TQ ?
    Sự thật ra sao các bác ?
  7. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Phi công Vũ Đình Rạng, người đấu tiên hạ B-52
    ( Đọc cái này mới thấy chính các phi công Mỹ cũng thừa nhận B-52 bị MiG bắn rơi, không như mấy chú nhược tiểu với mấy chiến sĩ RC cãi cùn)
    Người đầu tiên đánh gục B52..
    Cuối năm 1999, thiếu tá không quân Mỹ, nhà văn F. Watter trong lần gặp tôi để tìm hiểu về những trận không chiến cho cuốn sách của ông viết về những trận đánh có ông tham gia (như một loại sách hồi ký), khi đó Watterhahn là phi công Phantom F-4, đã 180 lần bay vào vùng trời Bắc Việt Nam với sứ mạng hộ tống các phi cơ mang bom đánh vào Hà Nội.
    Trong câu chuyện giữa tôi và F.Watterhahn, ông ta nói:
    - Người Mỹ tuyên bố đã hạ 103 chiếc Mig-17 và Mig-21 trong khoảng thời gian từ 17 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973.
    Tôi nói ngay:
    - Còn không quân chúng tôi bắn rơi 320 chiếc máy bay Mỹ, trong đó có hai chiếc B52.
    Ông ta nói rất nghiêm chỉnh:
    - Ba chiếc B52 chứ không phải hai.
    Tôi khẳng định:
    - Chỉ có hai chiếc B52 do hai phi công Mig-21 bắn rơi ngày 27 và ngày 28 -12-1972.
    F.Watterhahn cười :
    - Còn một chiếc B52 bị không quân Bắc Việt Nam bắn bị thương rất nặng, nó lết về đến Thái Lan mới tiêu... Nó hoàn toàn không sử dụng được nữa mặc dù còn nguyên vẹn.
    Tôi hỏi:
    - Vì sao vậy?
    Watterhahn nói :
    - Nó bị thủng thùng dầu bên trái, cháy nhưng dập được; hết dầu, một động cơ bị phá, nó phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Nakhom-Phanom.
    Tôi mừng quá, hỏi:
    - Năm nào?
    Ông ta nói :
    - Cuối năm 1971, tháng 11. Chuyện B52 bị Mig bắn hỏng, đơn vị tôi ai cũng biết.
    F.Watterhahn nói thêm :
    - Chiếc B52 sau đó được tháo ra, chở về Utapao rồi... bỏ đó!
    Chuyện đêm 20 tháng 11 năm 1971 chẳng ai trong sở chỉ huy không quân quên nổi. Đêm đó, B52 xuất hiện ở Thái Lan, phi công Đinh Tôn được lệnh cất cánh từ sân bay Đồng Hới - một sân bay đất, bằng đèn dầu hỏa. Một cuộc cất cánh có một không hai. Đinh Tôn lên đến độ cao sáu ngàn mét thì bị lộ, không đánh được, phải bay về hạ cánh ở sân bay Nội Bài. Mười lăm phút sau, Vũ Đình Rạng từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An) cất cánh rất bí mật, tiếp cận được B52, anh bắn một quả tên lửa trúng chiếc B52. Sau đó ba giờ, tức là lúc hai giờ mười bảy phút ngày 21 tháng 11 năm 1971, người Mỹ tổ chức giải thoát tù binh ở Sơn Tây nhưng thất bại, để lại chiếc HH-53 rơi do quẹt cành cây.
    Người phi công bắn chiếc B52 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam là đại tá Vũ Đình Rạng. Anh quê ở Nam Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Năm anh bắn chiếc B52 trên tuyến đường Trường Sơn, khi đó anh vừa tròn 26 tuổi. Câu chuyện bắn gục chiếc B52 đầu tiên ngày 20 tháng 11 năm 1971 lại bắt đầu từ một ngày cuối thu năm 1969.
    Đó là ngày 15 tháng 10 năm 1969, một tổ chiến đấu của không quân lần đầu tiên vào khu vực trọng điểm thả bom của B52 trên tuyến đường Trường Sơn ở đèo Mụ Giạ, do thiếu tá Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Nhật Chiêu dẫn đầu. Nguyễn Nhật Chiêu, phi công Mig-21 đã từng bắn rơi sáu máy bay Mỹ. Ngay hôm đầu tiên, vừa đến một cái hang lớn nhìn sang hướng tây, trên một ngọn núi có tên là núi 940, chúng tôi bị ngay trận bom của ba chiếc B52 đánh đường 12, khu vực ném bom từ cổng trời đến khe Ve, hang chúng tôi nằm ngay giữa tuyến bom rơi. Bếp củi vừa bắc lên, ngoài cửa hang khói, lửa chưa kịp nóng nồi cơm thì bom nổ. Tôi ngồi ở vách đá cửa hang, tiếng đầu tiên tôi nghe thấy như một chiếc búa tạ nện thật mạnh lên cái đe bằng sắt ?ochát?, sau đó một làn hơi rất mạnh hất tung nồi cơm cùng với lửa văng đi khá xa, chúng tôi bị hất mạnh vào bên trong hang, lửa táp vào miệng hang, tiếp sau là tiếng nổ vang rền gần ba phút. Khói bay mù mịt, hơi thuốc súng cuồn cuộn tràn vào hang. Chúng tôi gần như một lúc la lớn: ?oBom B52!?. Tiếng nổ chát chúa, lửa khói chồng lên nhau... Ngày hôm sau, buổi chiều, trên đỉnh núi, chúng tôi căng mắt nhìn về hướng tây... Lần này, chúng tôi thấy B52 bằng mắt thường. Thoạt đầu, bọn F-105 cường kích ném bom, cùng với những chiếc F-4 bay bảo vệ gầm rú trên đoạn đường trọng điểm là đèo Mụ Giạ. B52 xuất hiện ở cuối chân trời, chẳng còn chiếc cường kích nào tại khu vực của chúng tôi. Từ xa lắm, nhờ làn khói mây xuất hiện lên trên bầu trời, tôi thấy rất rõ ba chiếc bay đội hình bậc thang lệch bên phải, mỗi chiếc cách nhau chừng hai ki-lô-mét; nhiều ngày sau, những hôm ở tầng độ cao B52 bay không có độ ẩm cao, không có vạch trắng trên bầu trời, dù bom rơi, chúng tôi không thấy B52, nó bay cao lắm, cỡ trên mười ki-lô-mét. Hơn mười ngày ở trọng điểm này, ngày nào cũng bị vài trận bom B52, nhưng chúng tôi chỉ nhìn thấy tổng cộng bốn lần đội hình bay của B52. Đó là cơ sở đầu tiên cho việc nghiên cứu đánh pháo đài bay B52 sau này. Thời đó, chấp hành mệnh lệnh của bộ, việc chuẩn bị lập ra phương án và tổ chức bay huấn luyện thực hành chiến thuật đánh B52 của Không quân nhân dân Việt Nam bắt đầu từ tổ nghiên cứu của thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu vào đèo Mụ Giạ ngày 15 tháng 10 năm 1969.
    Binh chủng Không quân có rất nhiều cán bộ có tài, việc nghiên cứu đánh B52 đầu tiên binh chủng giao cho đại úy Nguyễn Văn Chuyên (nay là đại tá) cùng với thiếu tá Lê Liên (nay là đại tá) - Trưởng phòng dẫn đường, thiếu tá Lê Kỳ Mỹ (nay là đại tá) - Trưởng phòng quân báo và thiếu tá Nguyễn Đức Thịnh (nay là đại tá) - Trưởng phòng tác chiến - phụ trách. Về sau, tổ 940 về tham gia tích cực... Đến cuối năm 1969, về cơ bản đã hình thành cách đánh B52. Trong khi bộ phận cán bộ tham mưu tập trung lập phương án tác chiến đánh B52, một bộ phận phi công có trình độ bay khá được bổ sung, chuyển sang bay đêm. Trong số phi công mới chuyển có Đinh Tôn, Vũ Đình Rạng v.v... Thời đó, việc chuyển sang bay đêm là một thử thách rất lớn đối với phi công, sinh hoạt bị đảo lộn, toàn bộ thói quen của con người như tập thể dục, ăn, ngủ đều thay đổi. Nhưng từ trong sâu thẳm, hầu hết số phi công chiến đấu ban ngày liên tiếp lập công, bắn rơi máy bay Mỹ; trong số phi công chiến đấu ban đêm, thi thoảng cất cánh rồi lại hạ cánh, chưa được tiếp cận địch, chưa ai được xạ kích. Không khí buồn, cô đơn, đêm đêm nằm trên tuyến trực ban ngoài sân bay ... trong khi mọi sinh hoạt bình thường nhộn nhịp, sống động thì những phi công bay đêm phải đi ngủ. Thời gian kéo dài, chẳng ai muốn trở thành người lái ban đêm. Rạng và các chiến sĩ lái máy bay phải đấu tranh với chính mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
    Ngày 4 tháng 10 năm 1971, sau hội nghị chuyên đề về cách đánh B52 do Binh chủng Không quân chủ trì, hai sở chỉ huy của không quân được triển khai rất khẩn trương, đã sẵn sàng chiến đấu. Sở chỉ huy tiền phương có tên là B8 đặt tại Đông Dương, Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, do Phó tư lệnh binh chủng Trần Mạnh chỉ huy (Trần Mạnh sau này là thiếu tướng Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng Việt Nam), cùng với thượng tá Trần Mạnh còn có trung tá Trần Hanh (nay là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) phụ tá. Kíp sĩ quan đẫn đường rất mạnh, gồm đại úy Nguyễn Văn Chuyên, trung úy Tạ Quốc Hưng, trung úy Trần Hồng Hà... cùng với đại đội radar dẫn đường số 41 đặt ở Pháp Kệ, do sĩ quan dẫn đường ở mặt hiện sóng, thượng úy Lê Thiết Hùng điều khiển. Một sở chỉ huy trung tâm có tên là B3 đặt ở Yên Thành, tỉnh Nghệ An do Tư lệnh binh chủng, đại tá Đào Đình Luyện chỉ huy (sau này là thượng tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam). Kíp sĩ quan dẫn đường có tác giả bài viết này ở sở chỉ huy, cùng với Hoàng Kế Thiện - trung úy trực ở Đại đội 45 radar dẫn đường, đặt tại đồi Minh Sơn, Đô Lương.
    Mười lăm giờ ngày 10 tháng 10 năm 1971, Đại đội 41 như thường lệ mở radar theo dõi B52. Chiếc ăng-ten hai tầng radar P35 hình cánh buồm phát sóng quay liên tục, cứ 10 giây nó quay được một vòng cùng với chiếc radar PRV11 gật gù, đo cao đang hướng về phía tây. Kíp trắc thủ căng mắt quan sát trên hiện sóng. Lê Thiết Hùng bỗng phát hiện một vật lạ đang lao rất nhanh vào tâm đài. Không chần chừ, Hùng ra lệnh tắt sóng P35, gạt ăng-ten đo cao PRV11 sang một hướng khác... Góc quay ăng-ten chưa chuyển được bao nhiêu, một tiếng nổ rất lớn, cách đài chừng vài chục mét, chiếc ăng-ten máy đo cao bị mảnh tên lửa Mỹ cắm vào nhiều lỗ, hư hỏng khá nặng (lúc đó chúng tôi chưa có kinh nghiệm chống tên lửa sơ-rai là loại tên lửa có gắn một bộ phận nhớ tần số) đài radar phát sóng bộ
    nhớ ghi nhận và điều khiển cánh của tên lửa hướng vào đài).
    Mười chín giờ mười phút ngày 20 tháng 11 năm 1971, trên mạng tình báo xa xuất hiện tốp B52 từ hồ Lan Pao (Thái Lan) chuyển hướng tiến qua đất Lào. Từ sở chỉ huy B8, trung tá Trần Hanh lệnh cho Đinh Tôn chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất... Lúc này, tại Đại đội 41, việc sửa radar đo cao đang tiến hành. Không thể chần chừ, thời cơ xuất hiện, sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên cho C41 mở máy P35, anh quyết định tham khảo độ cao ở máy radar khác và sẽ dẫn đường chỉ trên chiếc đo phương vị, cự ly... Mười chín giờ hai lăm phút, phi công Đinh Tôn cất cánh từ sân bay Đồng Hới bay về hướng tây, đón đánh tốp B52 khi đó sắp vượt qua Nakhon Phanom bên bờ sông Cửu Long, đang tiến vào khu vực phía tây tỉnh Quảng Bình.
    Mười chín giờ bốn mươi lăm phút, Đinh Tôn bị lộ, bọn B52 vòng trở lại Thái Lan. Trực chỉ huy ở sở chỉ huy tiền phương, trung tá Trần Hanh xin ý kiến của Phó tư lệnh Trần Mạnh, lệnh cho dẫn đường giữ nguyên độ cao 8.000 mét từ đất Lào bay thẳng ra Hà Nội. Bọn Mỹ theo dõi không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào, chúng yên chí rằng mối đe dọa cho B52 đã hết, bèn vòng trở lại. Tại sở chỉ huy ?oB3?, Tư lệnh Đào Đình Luyện trao đổi trực tiếp với Phó tư lệnh Trần Mạnh về tình hình địch, về Rạng và hai ông thống nhất cho Rạng xuất kích. Từ sở chỉ huy trung tâm, chúng tôi hiểu rất rõ ý đồ của tư lệnh. Cần phải giữ bất ngờ và tuyệt đối bí mật cho trận đánh. Không quân ta hết sức khó nhọc mới đưa được hai chiếc Mig-21 vào phục ở sân bay dã chiến, bây giờ chỉ còn Rạng. Cần phải tạo bất ngờ cho Rạng công kích... Vũ Đình Rạng là phi công giỏi, ý chí chiến đấu rất cao. Anh đã từng là phi công chiến đấu ban ngày, từng giáp mặt với bọn Mỹ, từng không chiến với bọn không quân, với không quân của hải quân trên hàng không mẫu hạm. Rạng vốn hiền lành, chân thật, chẳng bao giờ bon chen; nhiệm vụ nào được phân công, anh đều hoàn thành xuất sắc.
    Sở chỉ huy B8 rất khẩn trương, thượng tá Trần Mạnh đã đứng lên từ lâu, ngón trỏ trên bàn tay trái đẩy tới đẩy lui sau cổ, rồi ngón cái và ngón trỏ tóm một cục gì đó vo tròn ném xuống đất, có khi đó là một cục ghét, nhưng nhiều khi chẳng có gì - một thói quen của ông khi cần phải tập trung cao, suy nghĩ và phán đoán. Ông trao đổi liên tục với sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lúc này đã vạch một đường chì trên bản đồ, theo mũi tên thể hiện tốp B52 sẽ bay vào. Đó là khu vực Tà-lê-phu-la-nhích, một trọng điểm B52 thường xuyên đánh. Ở đó có ngã ba đường và là trọng điểm xe ra vào tiền phương. Đường chì đỏ của Vũ Đình Rạng chưa xuất hiện. Trung tá Trần Hanh cầm chiếc micro màu đen, ông theo dõi diễn biến của tốp B52, những tốp tiêm kích địch và lệnh cho trực tác chiến chuẩn bị điều kiện, thông báo cho hỏa lực phòng không, chuẩn bị đón Mig trở về. Bên cạnh ông, sĩ quan dẫn đường Tạ Quốc Hưng theo dõi, phụ tá cho đại úy Nguyễn Văn Chuyên, bên trái là Trần Hồng Hà đang ghi chép khẩu lệnh và những ý kiến trao đổi cho quyết tâm của trận đánh tại sở chỉ huy; trong khi đó tại sở chỉ huy trung tâm B3, không khí trở nên náo nhiệt khi biết Đinh Tôn hạ cánh an toàn và đã ra lệnh cho Rạng cất cánh. Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện biết thời cơ để có một trận đánh B52 đang đến gần, ông biết nén lòng và luôn giữ bình tĩnh, chỉ đạo cho chúng tôi không được để sơ hở, bảo đảm chỉ huy chiếc Mig-21 của Rạng cho đến khi sở chỉ huy B8 nhìn thấy. Và Rạng đã cất cánh, tín hiệu từ trạm radar ở Minh Sơn chuyển đến sở chỉ huy trung tâm một chấm đỏ. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ. Rạng bay rất đúng phương án đã chuẩn bị, đường bay thẳng tắp, anh hoàn toàn tự tin bay dọc trên đỉnh Trường Sơn theo hướng đông nam (160 độ) vượt qua đồi Keo-nưa. Lúc này bọn B52 chuẩn bị vượt sông Cửu Long. Trên bàn chỉ huy của chúng tôi, rõ ràng tốp B52 vẫn tiến vào, chiếc Mig-21 của Rạng sừng sững tiến ra phía tây tỉnh Hà Tĩnh, gián cách rất tốt. Tại sở chỉ huy B8 ở Đông Dương nhận được tín hiệu từ chiếc P12 đường bay của Rạng, tốp B52 nằm trong tầm phát hiện của radar dẫn đường. Thời cơ chuyển hướng cho Mig đã đến. Đại úy Nguyễn Văn Chuyên bóp micro lệnh cho Mig-21 sửa hướng, bay ra hướng tây (hướng 250 độ). Rạng chuyển động cần lái và bàn đạp, chiếc Mig chuyển trạng thái theo mệnh lệnh từ sở chỉ huy.Theo quy ước, việc chuyển phương hướng, phi công thực hiện, nhưng vẫn không được thông thoại với mặt đất. Rạng thực hiện rất tốt. Anh bay qua đất Lào, ngược chiều với tốp B52, đã vượt qua sông Cửu Long, trên đường bay thẳng vào mục tiêu ném bom. Ba chiếc B52 đã vượt qua nửa đất Lào, lúc này Lê Thiết Hùng đang thao tác cánh sóng trên ăng-ten P35 hợp lý, anh đã nhìn thấy rõ cả B52 và Mig-21.
    Sở chỉ huy tiền phương vô cùng hồi hộp, thượng tá Trần Mạnh hai tay nắm thắt lưng kéo lên cao hơn. Chiếc quần của ông không bao giờ chịu nằm ở dưới bụng, dù đã cho nó nằm yên một chỗ nhưng ông có thói quen khi tình huống càng căng thẳng, ông càng kéo quần lên nhiều lần. Tình huống trên bản đồ chỉ huy đã bộc lộ, đại úy Nguyễn Văn Chuyên tay trái cầm cây thước hình tam giác, trên đó có vòng phương vị và vạch cự ly, anh đo khoảng cách từ chiếc Mig-21 của Rạng đến tốp B52, mắt vẫn theo dõi chặt các diễn biến trên bàn chỉ huy, anh báo cáo: ?oĐề nghị cho tiếp địch?. Trung tá Trần Hanh liếc nhìn đường bay của ta và địch, ông xắn tay áo quyết tâm ?ođồng ý?. Đại úy sĩ quan dẫn đường Nguyễn Văn Chuyên lệnh cho Rạng vứt bỏ thùng dầu phụ. Rạng phấn chấn trả lời. Đó cũng là tín hiệu, lập tức Lê Thiết Hùng bóp micro trực tiếp dẫn trên hiện sóng, anh cho Rạng vòng trái rồi áp vệt bay trùng với vệt bay ba chiếc B52.
    Từ sở chỉ huy trung tâm, chúng tôi nghe tiếng của Rạng trả lời dõng dạc, dù không nghe được từ mặt đất, tôi biết Lê Thiết Hùng đang phát huy ưu thế nhìn thấy tương quan vị trí của Rạng và B52, anh liên tục thông báo địch, đường bay của Rạng đang áp dần vào gần trùng với tốp B52. Như vậy, điều kiện cần thiết để tên lửa phóng ra sẽ có hiệu quả. Tôi thấy Tư lệnh Đào Đình Luyện hai tay chống lên bàn, ông nhìn lên tấm bản đồ chiến đấu của không quân, đường chì xanh phía trước, đường chì đỏ phía sau, xung quanh không có tốp tiêm kích nào của Mỹ, ông nheo mắt cảnh giác, hai hàm răng ở phía trước cắn vào nhau - thói quen khi cần có một quyết định quan trọng. Ông rời bàn, gọi điện thoại cho thượng tá Trần Mạnh. Tư lệnh nhắc nhở cần tập trung radar bảo vệ đuôi cho Rạng công kích. Ông trở lại bàn khi chiếc Mig-21 chỉ còn cách tốp B52 hai mươi ki-lô-mét, ra lệnh cho sĩ quan tác chiến chuẩn bị sân bay Anh Sơn và Thọ Xuân để Rạng hạ cánh. Guồng máy của sở chỉ huy trung tâm thật sôi nổi. Tôi liên tục đo cự ly tiếp cận giữa Rạng và tốp B52. Hướng xuất kích rất tốt, Rạng đang tập trung điều khiển máy bay. Bảng đồng hồ trước mặt ánh lên những dòng số màu xanh; tất cả các thông số của sở chỉ huy, anh thực hiện rất chính xác. Anh đưa mắt quan sát bên ngoài, bầu trời đầy những ngôi sao nhấp nháy, anh căng mắt tìm ánh đèn B52 nhưng không thấy. Rạng lại tập trung điều khiển máy bay. Lúc này, tại trạm radar ở Pháp Kệ, Đại đội 41 đã sửa xong chiếc đo cao, bây giờ theo lệnh của thượng tá Trần Mạnh, nó chỉ bám quanh chiếc Mig-21, nó được lệnh bảo vệ đuôi cho Rạng.
  8. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Những người có nhiệm vụ và rất đông cán bộ, chiến sĩ vây quanh căn nhà lợp nứa, ánh sáng đèn yếu ớt, từng cái chấm của chiến sĩ tiêu đồ gần làm cho mọi người thấy rõ chiếc Mig của ta đang bám sát chiếc B52. Đại úy Nguyễn Văn Chuyên áp sát cặp ống nghe trên tai, ngón cái trên bàn tay trái đặt vào chiếc nút bấm, tay phải cầm cây bút chì vót nhọn, anh tính toán rồi bóp micro báo cho Lê Thiết Hùng chú ý cự ly mở radar cho Rạng. Lê Thiết Hùng căng mắt vào máy hiện sóng, anh sửa lần cuối hướng bay cho Mig. Bây giờ hai vệt bay chập vào nhau, khoảng cách giữa chiếc Mig và tốp B52 khoảng mười lăm ki-lô-mét. Lê Thiết Hùng lệnh cho Vũ Đình Rạng mở máy radar trên máy bay. Rạng bật công tắc reo lên: ?oPhát hiện B52, cự ly mười một ki-lô-mét, xin phép công kích?. Trung tá Trần Hanh phấn chấn cầm micro, lệnh rất to: ?oCho phép công kích?. Rạng không ngờ trên chiếc radar của anh không có một vệt nhiễu, màn sóng trong veo, ?orâu trên và râu dưới? đều xuất hiện (trên hiện sóng radar, Mig-21 chỉ xuất hiện những chấm như râu, chỉ có râu trên địch cao hơn và râu dưới địch thấp hơn. Xuất hiện cả râu trên và râu dưới có nghĩa là độ cao ta và địch bằng nhau). Rạng tăng lực toàn phần, tốc độ tiếp cận nhanh chóng rút ngắn, anh đưa chiếc B52 vào vòng ngắm. Trong khi Rạng ngắm và tiếp cận, Lê Thiết Hùng với tài nghệ ước lượng, anh thông báo chính xác vị trí của Rạng, cự ly rút ngắn dần. Trên radar Mig-21 vùng phóng đã xuất hiện, cự ly dưới hai ki-lô-mét. Rạng muốn đến gần hơn, anh nhẩm đếm: ?oMột, hai, ba, bốn, năm?, nghĩa là sau năm giây, cự ly bây giờ dưới một ki-lô-mét rưỡi. Rạng bóp cò, quả tên lửa rời bệ phóng, nó lao vút về phía trước, một chớp nổ lóe lên, lửa bùng ra một bên cánh rồi tắt ngấm. Chiếc Mig-21 của Rạng ào ào lướt qua trên lưng chiếc B52 vừa bị anh bắn, nó nghiêng cánh, có vẻ như một động tác trượt cạnh, anh bỗng thấy phía trước một chiếc B52 nữa nhưng gần quá, không đủ thời gian để ngắm bắn, Rạng vòng trở lại, anh lại nhìn thấy chiếc B52 dẫn đầu nhưng do tốc độ quá lớn, chiếc Mig-21 có góc vào lớn so với chiếc B52, không có cách nào khắc phục, Rạng đón đầu phóng quả tên lửa còn lại, nó bay vút ra phía trước gần chiếc B52...
    Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện không rời mắt khỏi tốp B52, ông thấy nó lượn vòng gấp, bay trở về Thái Lan; còn Rạng, anh được chúng tôi dẫn về hạ cánh.
    Từ trận đánh ngày 20 tháng 11 năm 1971, ba tháng sau đó B52 hoạt động lùi sâu vào phía nam đường số 9, tỉnh Quảng Trị. Về sau, B52 lấp ló ra phía bắc đường số 9 với lực lượng tiêm kích đông đảo, bọn chúng phải đề phòng...
    Tôi viết những dòng cuối cùng này vào năm 2002, ba mươi năm sau trận đánh B52 đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam. Nhờ có những tù binh B52 bị bắt cuối năm 1972, chúng ta biết được chiếc B52 do Vũ Đình Rạng bắn ngày 20 tháng 11 năm 1971 đã hạ cánh bắt buộc và hư hỏng hoàn toàn. Cuối năm 1999, thiếu tá không quân F. Watterhahn cho tôi biết rõ hơn về trường hợp chiếc B52 hạ cánh ở Nakhon-Phanom, không bao giờ nó bay lên trời được nữa.
    Tiếp tục về Đinh Tôn
    Thời gian đó, Mig 21 liên tục xuất hiện trên vùng trời khu Bốn. Một lần, buổi chiều khi bay xuất kích trở về, chúng tôi dẫn biên đội bay ở độ cao 1.000 mét, cao hơn đỉnh núi cao nhất chỉ 150 mét, ngang đảo Hòn Mê, một quả tên lửa từ hạm bắn lên. Lê Thiết Hùng trực ở trạm radar phát hiện được quả tên lửa bay rất nhanh về phía biên đội. Tôi chỉ kịp nghe ?ocơ động gấp xuống đất, tên lửa hạm? quả tên lửa đã nổ ở phía trước hướng bay tới của phi công khoảng 50 mét. Ngày hôm sau lặp lại như ngày hôm trước, cũng một quả tên lửa nổ phía bên trên, cao hơn chiếc Mig 21 gần 100 mét. Như vậy, chúng tôi nghiệm ra Mig bay trên đỉnh núi từ 100 mét trở lên, hạm đội Mỹ hoàn toàn có thể phát hiện. Chúng tôi cũng nghiệm ra rằng, ở vùng khu Bốn bề ngang đất nước ta rất hẹp, có nơi chỉ trên dưới 50 kilômét. Như vậy cơ động nghi binh ở vùng ?ocán soong? quả là phải thật tài nghệ mới có thể che mắt nổi bọn Mỹ. Và,... trận chiến đấu ngày 17-8-1968 chúng tôi đã bịt mắt hoàn toàn bọn Mỹ, không những bịt mắt, chúng tôi còn bịt tai, không cho bọn nghe trộm có thể nghe bất kỳ tin tức nào của không quân ta. Trận đó như sau:
    Chắc chắn rằng quân Mỹ từ hàng không mẫu hạm cất cánh đã có phương án đề phòng lực lượng súng phòng không ở mặt đất. Còn không quân ta, chỉ nhìn lực lượng tiêm kích bảo vệ cho bọn cường kích, chúng ta có thể biết họ đề phòng cẩn thận như thế nào.
    Hôm đó lực lượng ném bom chỉ có sáu chiếc A4, còn lực lượng tiêm kích yểm hộ tới sáu chiếc F4B nghĩa là tỷ lệ yểm hộ so với máy bay mang bom là 1/1. Ở một vùng đất rất xa căn cứ của Mỹ, tỷ lệ đó ẩn chứa một sự đề phòng rất cao.
    15 giờ những chiếc A4 và F4 tập hợp xong. Hàng không mẫu hạm cách bờ biển Nghệ An khoảng 80 kilômét. Đội hình hàng ngang, bọn tiêm kích bay nghiêng về phía Bắc lập thành ba bậc thang, hình thành rào chắn Mig xâm nhập... Ngay từ khi bọn Mỹ còn đang tập hợp trên tàu sân bay, Tư lệnh Không quân ra lệnh cho Sở chỉ huy chuyển cấp biên đội Đinh Tôn và Nguyễn Văn Minh vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
    Theo kế hoạch, biên đội bay rất thấp dọc theo tuyến đường số 1 chỉ cao hơn địa hình 50m, biên đội sẽ không liên lạc với Sở chỉ huy nếu không có gì bất trắc xảy ra... Chúng tôi coi bất trắc chính là bất ngờ gặp địch hoặc lạc đường. Biên đội sẽ liên lạc với Sở chỉ huy để được hướng dẫn... Còn... bình thường biên đội sẽ bay đến Diễn Châu, nếu chưa có lệnh, biên đội tự động vòng phải bay ngược lên Yên Thành, nếu vẫn chưa có lệnh tiếp tục vòng phải bay ngược trở lại 180 độ.
    Chúng tôi theo dõi bọn Mỹ rất chặt, tính toán sao cho tốp A4 mang bom vừa vào đến đất liền thì Mig21 sẽ từ phía sau công kích trước khi A4 đến mục tiêu ném bom. Hôm ấy, chúng tôi phán đoán Mỹ sẽ ném bom đến phà Vinh.
    Có lẽ, điều cần nói chính là do độ chính xác rất cao của cả hai bên không chiến nên đã xuất hiện tình huống, sau khi khẩu lệnh ?olượn vòng tiếp địch? cuối cùng vừa phát, bọn Mỹ nghe được nhưng chưa biết quân ta ở đâu, bọn F4 bèn cơ động và trong khi cơ động hai chiếc đã ở phía trước chiếc Mig21 của Đinh Tôn. Anh không bỏ lỡ cơ hội, bật tăng lực toàn phần. Biên đội Mig21 đạt tốc độ không chiến lý tưởng. Bọn Mỹ dù biết có Mig xuất hiện nhưng chưa biết ở đâu, bọn F4 chếch mũi máy bay lên trên, hy vọng tìm Mig ở hướng Bắc và trên cao thì biên đội Đinh Tôn - Nguyễn Văn Minh đang ở dưới thấp hơn đến hơn 1.000m. Hai chiếc F4 sau khi thực hiện động tác cơ động đã bay bằng trên vùng trời phía Tây huyện Đô Lương. Đinh Tôn nhanh chóng tiếp cận và quả tên lửa của anh bay ra cắm ngay vào ống xả chiếc F4 số 2. Quả tên lửa nổ, chiếc F4 khựng lại, đuôi bị tiện mất, nó lắc ngang vài cái rồi cắm đầu xuống đất, khi đó Minh mới hét lên:
    - Cháy rồi!
    (còn tiếp)
    Được Patriotxx sửa chữa / chuyển vào 09:12 ngày 12/07/2008
  9. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Trận đánh gọn đến mức, dù ở vùng trời được coi là nằm trong tầm kiểm soát của không quân Mỹ, mỗi khi quân ta có mặt làm cho bọn Mỹ hết sức căng thẳng, đối phó rất khó khăn và lúng túng. Còn hai phi công của ta lại tề chỉnh, tập hợp biên đội theo đội hình triển khai không chiến, ở độ cao 50m bay về sân bay Thọ Xuân hạ cánh.
    Năm 1968 Đinh Tôn còn bắn rơi tại chỗ hai chiếc máy bay không người lái tại Phủ Quỳ và Hồi Xuân. Năm 1971 anh bắn rơi chiếc OV10 tại huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh trong trường hợp kỳ lạ...
    OV10 là loại máy bay cánh quạt, sử dụng động cơ đốt trong, nhiên liệu chạy bằng xăng, ống xả rất nhỏ. Đó là một dạng của máy bay trinh sát tốc độ chậm, chuyên bay dòm ngó các tuyến đường trên đường Trường Sơn. Vào cuối năm 1970, đầu năm 1971, người Mỹ thấy rõ việc trinh sát bằng những chiếc RF hoặc những chiếc C130, C119 đều nguy hiểm và tốn kém, hiệu quả lại rất thấp. OV10 đáp ứng được ba yếu tố: quan sát kỹ lưỡng, thẩm định mục tiêu chính xác và chỉ điểm rất cụ thể. OV10 còn có lợi điểm do ống xả nhỏ, lượng hơi nóng bốc ra ở đuôi rất thấp.
    Cho nên, tia hồng ngoại từ động cơ thoát ra theo đường ống xả nhỏ, có thể nói rất nhỏ, tránh được tên lửa K13 tức là tên lửa nhiệt trên những chiếc Mig21 và cả tên lửa vác vai. Nó chỉ sợ cao xạ, nhưng cao xạ lại bố trí ở khu vực tương đối bằng. Như vậy, nếu bay trên đỉnh núi thì sẽ an toàn.
    Chiều tối ngày 13-4-1971, từ sân bay Anh Sơn, Đinh Tôn được lệnh của Sở chỉ huy cất cánh đánh máy bay cường kích Mỹ ở khu vực đèo Mụ Giạ. Chúng tôi dẫn Tôn vào đến nơi, cũng là lúc bọn ném bom bị pháo cao xạ bắn rơi một chiếc ở khu vực phía Tây Hà Tĩnh, toàn bộ bọn cường kích đã rút ra ngoài biển. Chỉ còn một chiếc OV10 có nhiệm vụ tìm tên giặc lái Mỹ vừa bị bắn rơi... Trên hiện sóng radar xuất hiện một mục tiêu nhỏ có tốc độ chậm, lượn nhiều vòng, có lúc vòng lượn lên đến đèo Keo Nưa, thuộc đường số 8 từ Hồng Lĩnh đi Thà Khẹt, rồi vòng xuống đến phía Bắc đèo Mụ Giạ thuộc đường 12.
    Ngay lúc chiếc Mig 21 của Đinh Tôn vòng trái, chúng tôi đã cho hướng 350 độ trở về để hạ cánh xuống sân bay Anh Sơn (Nghệ An), tự nhiên trên tai tôi nghe tiếng báo cáo của Đinh Tôn:
    - 40 phát hiện một chiếc, tốc độ rất chậm.
    Tôi hỏi lại:
    - 40 phát hiện cái gì, đừng để mất mục tiêu.
    Tôn báo cáo:
    - Một chiếc máy bay, không rõ của ai, có đèn.
    Tôi báo cáo những điều Đinh Tôn báo cáo cho tư lệnh và thêm ý kiến của tôi.
    - Đinh Tôn báo cáo, đó là một chiếc máy bay. Theo tôi đó là một chiếc trinh sát tốc độ nhỏ đi tìm giặc lái. Đề nghị cho đánh. Giờ này khu vực đó không có máy bay ta.
    Tư lệnh gật đầu nói:
    - Đánh, chú ý tốc độ chênh lệch, phải an toàn.
    - Rõ.
    Tôi bóp micrô:
    - 40 bám sát, được phép công kích, chú ý an toàn, ngắm chính xác, có thể không có tín hiệu của tên lửa.
    Tôn phấn chấn:
    - 40 nghe rõ.
    Anh điều khiển chiếc Mig 21 có tốc độ trên 850 kilômét/giờ xuống còn tốc độ nhỏ nhất có thể sử dụng tên lửa hiệu quả và an toàn. Dù vậy, tốc độ chênh lệch rất lớn, chiếc OV10 tốc độ lúc đó chưa tới 200 kilômét/giờ. Còn tốc độ của chiếc Mig 21 lúc đó Đinh Tôn đã giảm còn 650 kilômét/giờ, tốc độ chênh lệch hơn 450 kilômét/giờ. Như vậy, cự ly tiếp cận là 7,5 kilômét/giờ. Để bắn tên lửa như một viên đạn, cự ly bắn không quá 700 mét, thời gian để thoát ly an toàn chỉ có 6 giây, nếu phản ứng điều khiển chậm chiếc Mig sẽ đâm vào OV10.
    Đinh Tôn rất thông minh, anh chọn phương án tấn công theo góc cắt của hình vành khăn phía trong. Lúc đó chiếc OV10 vẫn không biết có chiếc Mig 21 xuất hiện ở bên cạnh, nó vẫn bật đèn và lượn vòng theo dạng hình trái bí đao. Đinh Tôn ở vòng ngoài chờ chiếc OV10 bay thẳng, anh cắt chéo nó một góc có diện tích ở thân lớn nhất, góc vào 40 độ cùng chiều. Đến cự ly 1.000 mét tín hiệu của tên lửa xuất hiện rất nhỏ... Anh điều khiển chiếc Mig 21 tiếp cận có góc đón bằng đúng một thân chiếc OV10, rất thận trọng, ngắm chính xác. Đinh Tôn ấn cò, quả tên lửa tung ra rất căng, chiếc Mig 21 vừa lách một góc nhỏ, ánh chớp đỏ bên trái, quả tên lửa như một viên đạn súng trường cắm vào thân chiếc OV10, không kịp cháy ở trên trời, nó lật ngang cắm đầu xuống vách núi trên dãy Trường Sơn cháy bùng. Tôn sung sướng reo vang:
    - 40 bắn rơi chiếc OV10.
    (C.Tiếp)
  10. Patriotxx

    Patriotxx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/02/2008
    Bài viết:
    425
    Đã được thích:
    0
    Có thể nói, quả tên lửa của Đinh Tôn bắn ra chính xác đến mức lập một kỳ tích có một không hai, bắn rơi bằng quả tên lửa K13 nhưng không có tín hiệu tên lửa, không có máy ngắm, không có ánh sáng mặt trời. Anh như một xạ thủ... bộ binh.
    Tại sân bay Gia Lâm, người Pháp cuối cùng rút khỏi sân bay trên chiếc Jeep đi ra bằng cổng Sài Đồng xuôi về Hải Phòng. Người đi ngược lại con đường của tên Pháp khi đó là Lê Quỳ, một sĩ quan thạo tiếng Pháp và tiếng Hoa. Anh được giao nhiệm vụ chỉ huy máy bay cất cánh và hạ cánh tại sân bay Gia Lâm. Thời kỳ đầu năm 1954, mỗi tuần hai chuyến bay từ Sài Gòn ra Hà Nội do phi công Pháp lái trên chiếc máy bay bốn động cơ cánh quạt có tên B307. Lê Quỳ chỉ huy bay bằng tiếng Pháp. Tháng 10 năm 1958, hai chiếc Trener khởi động máy, Đinh Tôn sau khi kiểm tra, tất cả đã hoàn chỉnh, anh bấm micrô:
    - 21 gọi Đông Đô.
    - Đông Đô nghe.
    Lê Quỳ nghe tiếp một câu tiếng Việt, lòng trào dâng, tai nghe rất rõ:
    - 21 xin phép lăn ra.
    Nhưng, cơn xúc động chợt đến, anh không cầm được nước mắt. Ôi, hàng ngàn năm nay, hơn hai năm anh trực trên tháp chỉ huy này, chưa lần nào anh nghe một phi công Việt Nam phát ra một câu tiếng Việt từ chiếc loa gắn trên chòi này, Lê Quỳ bật khóc, tai anh vẫn nghe:
    - 21 gọi Đông Đô.
    Đinh Tôn hết sức ngạc nhiên. Đài chỉ huy không trả lời, anh tiếp tục gọi và xin lăn ra đường lăn.
    - 21 xin phép lăn ra.
    Bây giờ Lê Quỳ chộp micrô, anh nói trong nước mắt nghẹn ngào:
    - Đồng ý.
    Sau Đinh Tôn, phi công Hoàng Liên cất cánh. Hai anh là những phi công đầu tiên cất cánh trên bầu trời Tổ quốc, bay lượn trên dòng sông Hồng, lướt qua cầu Long Biên, bay trên đồng ruộng xanh mướt Trâu Quỳ, Sài Đồng, Bần Yên Nhân, lượn vòng về Gia Lâm và hạ cánh.
    Nhiều người cùng thời với chúng tôi sống trong dạt dào sung sướng khi phi công ta xuất hiện trên bầu trời. Lê Quỳ ràn rụa nước mắt, dụi mắt ngắm hai chiếc máy bay nhỏ xíu cất cánh trên trời. Lê Quỳ trào dâng niềm tự hào về những phi công đầu tiên của Tổ quốc... Có một câu chuyện đến bây giờ trong không quân ít có người biết. Đó là vào đầu năm 1959 Câu lạc bộ Hàng không được thành lập tại sân bay Cát Bi có năm chiếc máy bay huấn luyện của Tiệp Khắc do đồng chí Khiếu Anh Lân (nay là trung tướng) làm hiệu trưởng và thiếu tá Hồ Luật làm chính trị viên. Khóa 1 có 30 học viên. Tôi là một học viên, thầy trực tiếp của chúng tôi là bảy phi công: Lê Công Uẩn, Đinh Tôn, Hoàng Liên, Nguyễn Ngộ, Trịnh Hồng Thuận, Nguyễn Phong Tùng và Trần Minh Khuê. Về sau đến cuối năm 1959 đoàn YAK18 từ Trung Quốc về hợp thành Trường Hàng không cho đến ngày nay. Đinh Tôn từ ngôi trường này ra đi, anh đã bay trên rất nhiều loại máy bay.

Chia sẻ trang này