1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tư vấn Du lịch Đà Lạt !!! sãn sàng giải đáp mọi thắc mắc về Đà Lạt!!!

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi huongdanvien_dalat, 06/12/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    lâu quá mình ko vào .. giờ lại tư vấn tiếp
  2. zorzo

    zorzo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/01/2006
    Bài viết:
    1.233
    Đã được thích:
    16
    Cảm ơn sự nhiệt tình của bạn.
  3. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    em lười cực.. cóa nhiệt tí nào đâu pác. chỉ là tiện tay chat thôi
  4. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    Alexandre John Émile Yersin (A-le-xăn-đrơ Giôn Ê-mi-lơ Y-e-xen) sinh ngày 22-9-1863 tại một vùng quê miền núi ở Lavaux (La-vô), thuộc tổng Vaud (Vô), nước Thụy Sĩ.
    Năm 1685, vua Louis (Lu-i) XIV huỷ bỏ chỉ dụ Nantes (Năng-tơ), không còn đối xử bình đẳng với những người theo giáo phái Calvin (Can-ven) như trước. Tổ tiên bên ngoại của Yersin bị khủng bố phải rời quê cha đất tổ vùng Languedoc (Lăng-gơ-đốc) (miền Nam nước Pháp), di cư sang Thụy Sĩ.
    Yersin là con út trong một gia đình có ba anh chị em. Cha của Yersin là giáo viên sinh học, thích nghiên cứu côn trùng học, từ trần ba tuần trước khi Yersin ra đời.
    Năm 20 tuổi (1883), Yersin học ngành y tại Lausanne (Lô-dan-nơ) (Thụy Sĩ), sau đó tiếp tục học tại Marbourg (Mạc-bua) (Đức) và tốt nghiệp đại học Pa-ri (Pháp) với luận án Tiến sĩ y khoa về bệnh lao của thỏ.
    Từ năm 1886, Yersin làm việc tại Viện Pasteur (Pa-xtơ) Pa-ri và cộng tác với bác sĩ Roux (Ru) tìm ra độc tố của vi khuẩn bệnh bạch hầu.
    Năm 1889, Yersin được trở lại quốc tịch Pháp.
    Yersin và mẹ năm 1868
    Nhà của gia đình Yersin ở Thuỵ Sĩ
    Nhà của Yersin ở Nha Trang
    Yersin năm 1935
    Mộ của Yersin ở Suối Dầu
    Trong những năm miệt mài nghiên cứu tại Viện Pasteur, Yersin đã chứng tỏ một thiên tài hiếm có, một con người giàu nghị lực, thông minh, ham tìm tòi, học hỏi. Tương lai tươi sáng mở ra trước mắt Yersin, nhưng Yersin lại hướng về những chân trời mới, muốn tìm ra lối thoát khỏi cuộc sống hiện tại: ?oTôi luôn luôn mơ ước thám hiểm, khám phá đất lạ; khi còn trẻ, ta luôn luôn tưởng tượng những điều kỳ lạ sẽ đến, không có gì là không thể không làm được?.
    Thế rồi, vào năm 1890, Yersin bất ngờ tạm rời bỏ ngành vi trùng học, sống đời thuỷ thủ và nhà thám hiểm, mở đầu một quãng đời khác thường kéo dài hơn 50 năm.
    Trước hết, Yersin nhận làm bác sĩ trên một con tàu của Hãng Vận tải đường biển đến Viễn Đông. Sau 6 tháng hoạt động trên tuyến đường Sài Gòn - Ma-ni-la (Phi-líp-pin), Yersin chuyển sang làm việc trên con tàu ?oSài Gòn? chạy từ Sài Gòn đến Hải Phòng và ngược lại.
    Những tháng đầu tiên trong nghề hàng hải đối với Yersin thật quyến rũ! Yersin chưa từng tiếp xúc với biển cả, nhưng trong thời thanh niên, Yersin đã quen với nước hồ Léman (Lê-măn). Khi thuyền lênh đênh trên đại dương, Yersin nhìn lên bầu trời và học cách xác định toạ độ; khi tàu cặp bến, Yersin tập sự dùng kính thiên văn. Trong những năm sau, Yersin say mê thiên văn học và về sau tìm hiểu cả điện khí quyển, quang phổ mặt trời.
    Tàu chạy trên tuyến đường Sài Gòn - Hải Phòng, khi tiến lại gần bờ biển, lúc vượt sóng ra ngoài khơi xa. Dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây hiện tra trước mắt Yersin gợi lại những kỷ niệm tuổi học trò. Ngày ấy, Yersin đã cùng các bạn leo lên sườn núi Valais (Va-le). Dãy Trường Sơn tuy không có những đường nét và màu sắc giống như dãy Alpes (An-pơ) nhưng có sức hấp dẫn kỳ lạ. Yersin muốn tìm lại những cảm giác thân thiết xa xưa khi khám phá được những điều bí ẩn, đặt chân lên miền đất lạ. [34, 71 - 78]
    TRÊN ĐƯỜNG THÁM HIỂM
    Ngay trong chuyến đầu tiên nhìn thấy Nha Trang, phong cảnh Nha Trang đã quyến rũ tâm hồn Yersin. Yersin dự định đi bằng đường bộ từ Nha Trang đến Sài Gòn bằng cách trước tiên đi về hướng Tây đến tận dãy Trường Sơn, sau đó đi theo hướng Tây Nam để đến Sài Gòn. Yersin tính sẽ thực hiện chuyến đi ngang qua vùng rừng núi hoàn toàn chưa được biết đến trong 10 ngày, đủ thời gian để lên tàu trước khi tàu nhổ neo về lại Hải Phòng.
    Vào một ngày tháng 7 năm 1891, tàu cặp bến Nha Trang. Yersin liền đến gặp ông Lenormand (Lơ-noọc-măn), sĩ quan hàng hải, công sứ tỉnh Khánh Hoà, đang ở trong một mái nhà tranh trên bờ biển, gần một làng chài. Lenormand rất quan tâm đến ý định của Yersin, sẵn sàng giúp đỡ Yersin và nhờ các viên quan của thành Khánh Hoà tìm cho Yersin một người dẫn đường. Nhưng không một người dân nào ở đây có gan mạo hiểm lên đến dãy Trường Sơn, một vùng rừng núi được coi như bất khả xâm phạm! Lenormand khuyên Yersin thay đổi ý định, nên tiếp tục đi theo con đường cái quan đến Phan Rang, nơi ấy có thể có những đường mòn dẫn đến Trường Sơn. Trước đây, để tránh đàn áp tôn giáo, một linh mục truyền giáo ở Phan Rang đã trốn lên miền Thượng trong vùng rừng núi phía Tây.
    Yersin cưỡi ngựa đi trên đường cái quan lúc đó chỉ là một con đường mòn và đến Phan Rang trong thời gian ngắn nhất. Linh mục truyền giáo chỉ nhớ mang máng về lần trốn lên xứ Thượng và khuyên Yersin tiếp tục cuộc hành trình đến Phan Rí, ở đó chắc chắn Yersin sẽ tìm được người dẫn đường lên vùng rừng núi.
    Yersin tiếp tục đi đến Phan Rí. Viên quan địa phương tìm ngay cho Yersin một người biết rõ những nẻo đường tiến sâu vào dãy Trường Sơn. Không đợi đến ngày hôm sau, Yersin cùng một người hướng đạo khởi hành ngay từ giữa trưa.
    Về đồ đạc, Yersin chỉ mang theo vài hộp thịt bò, bánh quy khô do người nấu bếp trên tàu tặng Yersin. Tháng 7 là tháng của gió mùa Tây Nam, những trận giông bão dữ dội giáng xuống núi rừng. Trước khi đến thung lũng, Yersin đã bị mắc mưa. Dưới cơn mưa tầm tã, Yersin và người hướng đạo lặn lội trên con đường mòn hiểm trở. Trời tối đen như mực, hai người gặp một túp lều tồi tàn của người Thượng cất trên lưng chừng đồi và rất sung sướng xin được ngủ qua đêm.
    Ngày hôm sau, từ lúc bình minh, hai người lại tiếp tục đi trên con đường mòn thẳng đứng, trơn trợt, đầy vắt, leo lên một ngọn đèo cao khoảng 1.200m. Từ trên đỉnh đèo, Yersin nhìn thấy một thung lũng trồng lúa nước có nhiều buôn Thượng. Do trời mưa liên tục, cả vùng ngập nước, Yersin phải đi trên những chiếc cầu khỉ bắc cách mặt nước gần 1 mét.
    Cuối cùng, hai người đi đến vùng Djiring (Di Linh ngày nay), có thể Yersin là một trong những người Pháp đầu tiên tiến sâu vào vùng này, vì thế sự hiện diện của Yersin đã gây cho dân làng không ít ngạc nhiên. Dân làng cho biết có thể tiếp tục cuộc hành trình đến Sài Gòn nhưng cần ít nhất từ 9 đến 10 ngày đường. Ngày kia, tàu lại nhổ neo ra miền Bắc, Yersin không thể đi tiếp nữa, phải ra bờ biển ngay. Yersin được biết Phan Thiết là một địa điểm gần nhất, chỉ cách một ngày đường.
    Tối hôm sau, Yersin đến Phan Thiết. Tại trạm thu thuế, Yersin được tiếp đãi chân tình. Người trạm trưởng cho Yersin một đôi giày ống thay thế cho đôi giày cũ đã bị rách tả tơi từ khi lên đến đỉnh đèo. Yersin lên một chiếc thuyền buồm ra Nha Trang và đến trạm thu thuế Nha Trang ở Chụt.
    Đêm hôm đó, tàu ?oSài Gòn? cũng đến Nha Trang, Yersin kịp lên tàu đúng lúc tàu sắp nhổ neo lên đường đi Quy Nhơn.
    Về đến Hải Phòng, Yersin phải chịu một trận sốt rét ngã nước kéo dài suốt thời gian tàu dừng lại ở cảng này.
    Năm 1892, khởi hành từ Ninh Hoà, Yersin lên Đắc Lắc. Đến buôn M?T Goi, Yersin do dự trước hai nẻo đường: lên thung lũng sông Krong Kadoung rồi xuyên qua rừng núi đến thượng nguồn sông Đồng Nai hay xuôi dòng Krong Bung đến hợp lưu với sông Mê Công? Nếu trời không mưa sớm, Yersin sẽ chọn nẻo đường thứ nhất, nhưng trời mưa suốt ngày đêm, Yersin sợ hư máy kinh vĩ, áp kế, máy ảnh, vì thế Yersin quyết định xuôi dòng sông Krong Bung (còn gọi là Xrê Pốc (Sré Poc) hay Xê Băng Can (Sé Bang Kane) tuỳ địa phương).
    Ngày 9-6-1892, Yersin đến Xtưng Treng (Stung Treng) trên bờ sông Mê Công. [50, 2 - 34]
    Sau một thời gian ở Pa-ri, Yersin lại mong muốn tiếp tục thám hiểm, ông viết trong hồi ký:
    ?oKhi ta trở về với đời sống văn minh, ta vội quên nhanh nỗi mệt nhọc, gian lao, thiếu thốn trong chuyến thám hiểm. Nhưng rồi ta lại nuối tiếc cuộc sống mạo hiểm đầy những trường hợp bất ngờ, và ít nhà thám hiểm nào lại bằng lòng với chuyến thám hiểm đầu tiên. Tôi không bị loại khỏi quy luật này. Vừa mới khỏi bệnh kiết lỵ mắc phải trong chuyến đi năm 1892, tôi tìm mọi cách xin được tiến hành một chuyến đi mới với nhiệm vụ khoa học.
    Nhờ sự giúp đỡ của người thầy lỗi lạc của tôi là Pasteur (Pa-xtơ) và ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ngày 24-12-1892, tôi rời bến Marseille (Mạc-xây) đi Sài Gòn. Chuyến đi khảo sát chủ yếu thám hiểm một vùng ở Nam Trung Kỳ nằm giữa bờ biển và sông Mê Công, đầu nguồn của sông Đồng Nai và Xê Băng Can.
    Vừa mới tới Sài Gòn, tôi đến trình diện với ông toàn quyền. Ông De Lanessan (Đơ La-nét-xăn) muốn chuyến đi của tôi đạt được kết quả thiết thực. Ông muốn tiếp tục ở Trung Kỳ những công việc ông đã bắt đầu thực hiện ở Bắc Kỳ và ông dự định xây dựng nhiều đường sá giúp cho giao thông được dễ dàng, cho phép tiến sâu vào nội địa, thương mại được thuận tiện và mở rộng phạm vi ảnh hưởng.
    Ông giao cho tôi nghiên cứu một dự án đường sá đi từ Sài Gòn tiến vào xứ Thượng; con đường này sẽ đi về phía Bắc để tới một địa điểm thuận tiện nhất trên bờ biển Trung Kỳ.
    Tôi phải trình bày lại hiện trạng tài nguyên của xứ sở này, khả năng chăn nuôi, nghiên cứu lâm sản, tìm kiếm những khoáng sản có thể khai thác trong núi rừng.
    Tôi chọn điểm xuất phát từ Biên Hoà. Từ đây, tôi ngược sông Đồng Nai để tiến sâu vào xứ Thượng. Vài kiều dân đã lập nghiệp gần thác Trị An, rất có lợi nếu con đường đi gần đồn điền hay xí nghiệp khai thác lâm sản.
    Ông toàn quyền chỉ dẫn Trà Cú (Tra Cou) hay Tánh Linh (Tan Line) là một trong những điểm con đường phải đi ngang qua. Công việc đầu tiên phải làm là nghiên cứu một con đường nối liền Trị An với Trà Cú. Ông De Lanessan muốn đoạn đường này sẽ được thi công nhanh chóng. Để đi đến Trà Cú, ông cử thêm Vetzel (Vê-den), một trong những người kiểm lâm giỏi nhất ở Nam Kỳ và hơn nữa còn là một tay thợ săn voi và tê giác rất gan dạ.
    Khi chúng tôi cùng nghiên cứu xong đoạn đường này, ông Vetzel sẽ bắt đầu tích cực thi công. Tôi cần nói rằng ông Vetzel còn là một người bạn đường khả ái, chúng tôi rất tâm đầu ý hợp. Chính vì thế tôi thực sự buồn khi phải xa Vetzel ở Trà Cú để một mình tiếp tục cuộc hành trình.
    Về nhân viên người Việt, tôi có 4 người quê ở Sài Gòn: Bảy đã đi cùng tôi năm ngoái và 3 người phụ bếp.
    Đồ dùng của tôi đựng trong khá nhiều thùng nhỏ. Tôi phải tự hạn chế, chỉ mang theo những gì thật cần thiết, bỏ các dụng cụ cồng kềnh vì tôi sẽ đi đến xứ sở không dùng tiền, chỉ trao đổi hàng hoá.
    Máy kinh vĩ và 3 áp kế nhỏ loại bỏ túi giúp tôi xác định toạ độ địa điểm.
    I. TỪ SÀI GÒN ĐẾN PHAN THIẾT
    Ngày 24 tháng 2, tôi đi xe từ Sài Gòn đến Biên Hoà, còn những người Việt dùng thuyền tam bản chở hành lý ngược dòng sông.
    Đến Biên Hoà, tôi gặp Vetzel đang chờ tôi. Chiếc thuyền máy của Ban Thanh tra giúp tôi vượt nhanh đoạn đường đến Trị An. Chúng tôi đến tận Tân Uyên, tiếp nhận hành lý rồi thuê một chiếc thuyền độc mộc nhỏ chở đến Trị An. Chúng tôi đến nơi vào buổi chiều ngày 26.
    Gần Trị An, ông Bénédeck (Bê-nê-đéc) có lập một đồn điền cà phê, cà phê sắp đến thời kỳ thu hoạch.
    Ngày 28 tháng 2, chúng tôi đi xe trâu từ Trị An đến Trà Cú. Chiếc xe toàn bằng gỗ, bánh xe có đường kính hơn 1,5 mét. Một chiếc mui nhỏ che hành khách và thùng hàng. Bánh xe cọ vào trục tạo ra một âm thanh đinh tai và đều đều vang đi rất xa. Điệu nhạc kinh khủng này không làm thú rừng hoảng sợ. Từ xe trâu, chúng tôi có thể bắn trúng nai, trâu rừng.
    Con đường chỉ là một khoảng trống trong rừng. Xe lên dốc, xuống suối, leo lên trên rễ cây. Khoảng cách được tính theo trạm. Một trạm khoảng một giờ xe trâu đi (3-4km). Khi đến mỗi trạm, chúng tôi tháo ách và cho trâu uống nước.
    Từ Trị An đến làng Thượng đầu tiên Vio-yang mất một ngày đường. Rừng bằng lăng rất đẹp. Người Việt đẽo thân cây dầu để cho dầu chảy ra rồi thỉnh thoảng dùng thìa gỗ múc dầu. Ở đây còn tìm thấy cây sao, vênh vênh,...
    Cũng như các làng Thượng ở Nam Kỳ, Vio-yang có một nhà chính dài và nhiều căn nhà nhỏ khác nằm rải rác trên một khoảng đất rất rộng. Chủ làng - gọi là Tổng Man - ở trong căn nhà chính. Một nhà dài được dùng làm nơi ở chung cho nhiều gia đình.
    Người Thượng ở Nam Kỳ có thân hình rất cân đối, nước da màu nâu đậm, tính tình hiền lành, nhút nhát, không thích sống xa quê hương. Họ trồng lúa rẫy, bắp và một ít thuốc lá. Khi thiếu gạo, họ ăn các loại củ tìm thấy trong rừng. Họ dùng cung tên săn mồi. Trên trần nhà, chúng tôi nhìn thấy nhiều hàm răng dưới của con nai được giữ gìn như chiến lợi phẩm trong những chuyến đi săn.
    Từ Vio-yang đến Trà Cú, chúng tôi đi ngang qua các làng Túc Trưng (Tiouk Trem), Thao Vieuk và Võ Đắt. Từ làng này đến làng khác, đường đi không thẳng tắp mà quanh co. Gần Trà Cú, chúng tôi ra khỏi rừng và vượt qua một cánh đồng rộng ngập lụt vào mùa mưa. Dòng sông La Ngà chảy ngang qua cánh đồng.
    Từ Trà Cú đến Tánh Linh, chúng tôi đi trong rừng mất 3 giờ. Tánh Linh là một làng Chăm gồm có một chục thôn nhỏ nằm giữa ruộng lúa. Cánh đồng Tánh Linh được giới hạn như sau: núi Ông về hướng Đông, núi Cà Tong về hướng Tây; sông La Ngà và dãy núi La Ngà về hướng Bắc, rừng ở hướng Nam. Một dòng suối lớn- suối Lạc - làm ngập cánh đồng vào mùa mưa.
    Nguời Chăm ở Tánh Linh không nhiều, khoảng hơn một trăm người.
    Cánh đồng Tánh Linh đầy thú rừng: nai, hươu, trâu, heo rừng. Đêm đêm chúng tôi nghe tiếng voi hú quanh trại. Một hôm, khi đi săn, chúng tôi gặp hai con voi cái chạy trốn ngang qua một vùng đầm lầy.
    Tôi đề nghị với người chủ làng được chích thuốc cho toàn dân trong làng. Ông chấp nhận ngay và dân nhiều buôn Thượng quanh vùng đến xin được chích thuốc.
    Ngày 18 tháng 3, Vetzel trở lại đường cũ về Sài Gòn, còn tôi tiếp tục đi đến Phan Thiết.
    Đường mòn từ Tánh Linh đến Phan Thiết không đi ngang qua một làng mạc nào, phải mất một ngày rưỡi; những người khuân vác đi mất hai ngày. Chúng tôi ngủ trong rừng tại một vùng có nhiều cọp, phải đốt một vòng lửa chung quanh trại để cọp hoảng sợ tránh xa. Trên con đường vòng phía Nam núi Ông, chúng tôi chỉ cần lên một dốc cao 100m để đến một trong những hoành sơn của dãy núi. Sau đó, chúng tôi đến vùng bằng phẳng trong rừng thưa. Cách Phan Thiết 6 giờ đi bộ, người Việt khai thác gỗ để làm cột nhà.
    Trước khi đến Phan Thiết, chúng tôi đi ngang qua làng Pu-la ít hiếu khách, rồi đến làng Pu-huê theo đạo Phật. Ở đây, chúng tôi được tiếp đãi rất ân cần. Cách nhà làng 5 phút, con sông Phan Thiết tạo nên một vũng nước khá sâu, dài khoảng 500m, trong đó sinh sống một loài cá sấu khổng lồ. Hình như nó đã ăn thịt nhiều người tắm nơi đây.
    Phan Thiết là một cảng thương mại lớn nhất trên bờ biển Trung Kỳ, giữa Sài Gòn và Quy Nhơn. Phan Thiết sản xuất muối, nước mắm và cá khô. Người Thượng khắp vùng đến đây trao đổi hàng hoá. Điều chứng tỏ Phan Thiết là một trung tâm thương mại quan trọng là ở đây có 500 người Hoa đến lập nghiệp. Ở Phan Thiết có một phó công sứ, một nhà bưu điện và một trạm thu thuế.
  5. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    II. TỪ PHAN RÍ ĐẾN TÁNH LINH
    Từ Phan Thiết, tôi đi trên con đường cái quan đến Nha Trang để trình diện với công sứ Lenormand rồi trở về Phan Rí. Tôi dự định lại đi từ Phan Rí vào xứ Thượng để tìm con đường tốt nhất nối liền Phan Rí với Tánh Linh. Tôi dẫn theo một con voi của thành Khánh Hoà để chuyên chở đồ đạc và nhiều con ngựa.
    Ở Phan Rí, các ông quan biết tôi có chích thuốc ngừa (1) xin tôi chích cho trẻ con trong vùng. Trong hai ngày, người Kinh và Chăm dẫn 1.200 em bé đến cho tôi chích thuốc.
    Ngày 8 tháng 4, từ sáng sớm, chúng tôi khởi hành lên miền núi. Đoàn lữ hành của chúng tôi khiến cho dân chúng ven đường rất ngạc nhiên. Họ chưa bao giờ thấy một đoàn nào như vậy: 80 người khuân vác, 6 con ngựa, và nhất là voi!
    Từ Phan Rí, tôi đến Ca-long Ma-đai (Kalon-Madai) ở chân núi. Đây là một làng Chăm ở Bình Thuận mà người Kinh và người Thượng thường lui tới để buôn bán và trao đổi hàng hoá.
    Ở Ca-long có rất nhiều công. Vào lúc hoàng hôn, một khúc nhạc lạc điệu vang lên. Đây là thời điểm tốt nhất để bắn vài con công.
    Có 2 nẻo đường từ Ca-long lên cao nguyên: một nẻo đi ngang qua Ta-ly đến Ta-la (2 ngày đường) và một nẻo khác đến Lao Gu-an (Lao-Gouan) (1 ngày đường). Tôi đã biết con đường thứ nhất. Hai năm về trước, tôi đã đi trên con đường này trong chuyến lên miền Thượng đầu tiên. Lúc bấy giờ, thời tiết rất xấu. Tôi còn nhớ mãi tôi đã vượt hai ngọn đèo cao 900 và 1.200m trong một cơn mưa tầm tã.
    Chúng tôi thử đi trên nẻo đường khác.
    Đường mòn từ Ca-long đến Lao Gu-an lúc nào cũng lên dốc, trong khi trên nẻo đường Ta-ly - Ta-la có nhiều đoạn lên xuống liên tục.
    Đường dốc rất đứng. Người quản tượng không bao giờ thấy cảnh tượng như vậy bèn giao cho những người khuân vác mang hộ cả bành voi. Trong thực tế, đoạn đường dốc chỉ kéo dài 2 giờ rưỡi, nhưng rất đứng vì chúng tôi leo từ 50m lên 950m. Từ độ cao 600m, chúng tôi đi vào rừng thông.
    Từ đỉnh núi, chúng tôi nhìn thấy chân trời bao la. Ở phía Đông Nam, một cánh đồng đầy bụi rậm giới hạn bởi những cồn cát trắng xoá, rồi Biển Đông một màu xanh nhạt hoà với màu xanh của bầu trời ở chân trời xa. Về phía Tây Bắc là cao nguyên miền Thượng với những rừng thông và bãi cỏ. Xa hơn nữa là dãy núi mờ nhạt.
    Từ đỉnh đèo đến làng Lao Gu-an đi mất 5 phút. Làng có một loạt xóm nhỏ nằm giữa ruộng lúa. Mỗi gia đình sống trong một nhà sàn nhỏ.
    Nhờ tiếp xúc thường xuyên với người Chăm ở chân núi, dân làng Lao Gu-an cũng như các làng nằm trên đỉnh núi giữa Phan Rí và Phan Rang (Lao Gu-an, K?TDòn, R?TLôm, Bô-kran, M?TLọn, Đi-ôm) không còn mang tính chất thuần tuý miền Thượng, nói cả hai thứ tiếng Mạ và Chăm.
    Khách không được tiếp trong nhà của chủ làng mà trong nhà làng cất tại một nơi hơi cách xa làng. Dân làng mang đến cho chúng tôi nước, lửa, chiếu và quà tặng cho khách. Đặc biệt, quà gồm có gà, trứng, chuối và một ché rượu. Cũng như tại các nơi khác trên miền Thượng, chủ làng cử hành một nghi lễ tôn giáo trong khi khách uống rượu cần. Người Thượng không thờ Phật, thần linh chính của họ hình như là Yàng. Chủ làng đưa cho tôi một cái cần trúc để tôi cắm vào ché rượu. Trong thời gian tôi uống rượu, chủ làng quỳ cạnh tôi cầu nguyện Yàng phù hộ cho tôi. Người uống càng lâu thì những lời cầu nguyện càng dài. Sau đó, rượu được hút ra tách và chuyền cho nhau uống xoay vòng.
    Nơi đây không có giàn cồng chiêng như ở phía Bắc. Tuy nhiên, trong những ngày trọng đại, hai người Thượng đeo mỗi người một cái chiêng trên vai trái, bàn tay trái giữ lấy chiêng và dùng bàn tay mặt đánh vào chiêng, nghiêng người về phía trước và lần lượt quay đầu sang hai bên. Một người Thượng ngồi trước một cái trống nhỏ hoà âm theo.
    Ở Lao Gu-an, ông Tong Vit Ca đi theo tôi. Đây là một người Kinh có nhiệm vụ thu thuế người Thượng trong các tổng thuộc Phan Rí. Ông ta khuyên tôi đi vòng sang hướng Bắc thay vì đi thẳng theo con đường Tánh Linh và ông đi cùng tôi đến Ta-la.
    Ngày 14 tháng 4, chúng tôi lên đường theo hướng Bắc, đi xuyên qua những khu rừng thông rất đẹp trong vài giờ. Gần làng Ya, chúng tôi phải vượt sông Đạ Đờng (Da Dong), một dòng sông rất rộng và là một trong hai nhánh sông thượng nguồn sông Đồng Nai. Chúng tôi dừng lại ở Ri-ông nằm sát bên sông Đạ Đờng. Giữa Lao Gu-an và Ri-ông phải mất một ngày đường. Chúng tôi đi qua các làng Ya, Con Ta-ét, Đa Huynh (Du-u-in) trên dòng Cam Ly (Da Kem-lê) và Ê-a.
    Người Thượng ở Ri-ông thuần thục hơn người Thượng ở Lao Gu-an và chỉ nói tiếng Mạ. Kiến trúc cũng khác: không còn là nhà sàn, mái rơm thấp sát mặt đất, cửa không đặt ở hai bên hông mà bên cạnh nhà. Người Thượng làm nghề rèn; hầu như cả làng khai thác và rèn sắt, sản xuất được dao, rìu và các đồ dùng gia đình.
    Khi uống rượu, người Thượng bắt đầu lấy một ít gạo lên men trong ché rượu rồi chà lên cột nhà khẩn cầu Yàng. Tiếng Thượng gọi nghi lễ này là kép-ca.
    Người Thượng mê tín rất kỳ lạ: nếu trong cơn giông bão, người ta đặt cạnh quả xoài một miếng thịt bò hay heo, những thực phẩm này chắc chắn sẽ kéo sấm sét đến! Một ngày kia, tôi muốn thử nghiệm xem sao. Người Thượng sợ hãi chạy trốn. Tôi phải trấn an họ và hứa không làm như vậy nữa!
    Cao nguyên chung quanh Ri-ông trơ trọi có vô số đàn nai. Tôi săn được rất nhiều thú rừng và chia thịt cho dân làng.
    Từ Ri-ông, nếu chúng tôi tiếp tục đi về hướng Bắc, địa hình rất dốc, cao dần đến tận Lang Bi-an. Hai ông Néis (Nê-ítx) và Umann (Uy-man) đã biết đến ngọn núi này cao hơn 2.000m. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ đây. Tôi dời chuyến thám sát Lang Bi-an sang thời gian sau, và hiện nay, Tong Vit Ca hướng dẫn tôi đi về hướng Tây Nam. Trên đường đi, tôi dừng lại vài ngày ở ba làng lớn: Kla Ka, Con Tan, La-ra nằm giữa cao nguyên trơ trụi đầy cỏ cao. Ở Kla Ka, dân làng đốt cháy đồng cỏ, tổ chức săn bắn để chào mừng tôi. Đây là một trong những cảnh tượng đẹp nhất tôi được xem.
    Người Thượng đốt lửa tạo thành một vòng tròn lớn dài hàng kilômét. Lửa cháy dần vào bên trong, dồn thú rừng lại. Thỉnh thoảng, một chú nai, một con bò rừng, một con cọp nhảy qua bức tường lửa tìm cách trốn chạy, nhưng không thoát khỏi những viên đạn của tôi. Những con chó càng làm cho cuộc săn bắn thêm hăng say kỳ lạ.
    Ở Con Tan, cả đoàn đều bị sốt rét mặc dầu đã uống thuốc phòng bệnh. Những người Việt đều mắc bệnh nặng nhưng tôi chỉ bị sốt nhẹ. Tôi chỉ bị sốt rét một lần trong suốt chuyến đi này.
    Từ Con Tan đến La-ra, chúng tôi phải vượt sông Đồng Nai chảy trong một thung lũng hẹp và rất sâu. Cao nguyên ở độ cao 950m, sông Đồng Nai chảy ở độ cao 650m.
    Ở La-ra, trong đêm tối, một con cọp lẻn vào trong trại cố mang đi một người. Nhờ báo động kịp thời, người Thượng thoát nạn nhưng sợ quá nên bị câm trong vài tiếng đồng hồ.
    Tong Vit Ca nói với tôi có thể xem mộ của một vua Chăm gần làng. Tôi yêu cầu ông ta dẫn tôi đến nơi. Chúng tôi đi cùng với 20 người Thượng. Mộ nằm ở một nơi nào đó trên một ngọn đồi nhỏ đầy cây cối cách làng 1 giờ đi bộ. Chúng tôi khảo sát ngọn đồi đủ mọi phía. Công việc thật không đơn giản vì dây leo chằng chịt và vắt lúc nhúc trong khu rừng ẩm ướt. Sau 2 giờ tìm kiếm, người Thượng nói với tôi có lẽ ngôi mộ đã chìm vào lòng đất và tôi phải làm phù phép để ra lệnh cho ngôi mộ xuất hiện. Vì tôi không tin chắc lắm vào tài nghệ phù thuỷ của mình, tôi ra lệnh trở về làng cũ. Rất có thể ngôi mộ nổi tiếng này chỉ là một tảng đá có hình dạng kỳ lạ nhưng trí tưởng tượng của Tong Vit Ca đã biến hoá nó thành mộ của vua Chăm.
    Ngày 25 tháng 4, tôi đến Ta-la, cảnh quan cao nguyên đã thay đổi. Rất nhiều ngọn đồi chia cắt cao nguyên thành những thung lũng nhỏ với ruộng nương hay thảm cỏ mịn, rậm rạp và rất tươi mặc dầu vào cuối mùa khô.
    Đồi núi đầy thông cao từ 30 đến 50m trên cao nguyên ở độ cao 900m.
    Làng mạc rất nhiều, bố trí thật ngoạn mục trên sườn đồi. Chánh tổng ở tại Ta-la. Nơi đây cũng có nhà chung cho khách. Dòng suối lớn Đa Rê-am (Da Ri-am) - một nhánh của sông La Ngà - chảy rất gần Ta-la, quanh đồi núi, cung cấp nước và giúp cho ruộng nương thêm màu mỡ.
    Người Thượng ở vùng này rất giàu. Họ sở hữu những đàn trâu rất đông có hàng trăm con. Vào những dịp lễ lớn, người Thượng giết một số trâu. Đối với mỗi con trâu bị hạ, họ dựng cạnh lều một cây nêu bằng tre, cao 20m có những vật trang trí bằng mây kết thành băng dài. Trong vài làng, tôi đếm được 30 cây nêu. Từ xa, người ta tưởng như nhìn thấy một đoàn tàu bỏ neo trong hải cảng.
    Tôi dừng lại vài ngày ở Ta-la. Nhân dịp này, tôi cưỡi ngựa chạy khắp vùng.
    Trong một chuyến dạo chơi, người Thượng chỉ cho tôi một mỏ thiếc đẹp ở gần làng Ia Lone. Mỏ thiếc ở ngay dưới dòng thác, nước chảy làm cho thiếc lộ ra. Tôi lấy vài mẫu thiếc.
    Tôi để Tong Vit Ca ở lại Ta-la rồi tiếp tục lên đường đi Phan Thiết. Yan là một làng quan trọng cuối cùng trên cao nguyên. Chúng tôi phải xuống thung lũng La Ngà và xuôi dòng đến gần Tánh Linh. Thung lũng La Ngà rất sâu. Đường đi chạy ngang qua một vùng rất mấp mô có một tộc người Mạ khác sinh sống. Làng mạc cũng khác, không còn nhìn thấy những căn nhà dài dùng cho cả làng ở chung. Mỗi gia đình có một nhà sàn vuông ngăn vách ở bên trong. Đây đó chúng tôi nhìn thấy các chuồng bồ câu cất trên một cây trụ, trên lớp mái nhỏ là những hình hoa văn bằng sắt. Tôi tưởng như đang đi vào một làng người Gia-va vì người dân ở đây cũng thuộc chủng tộc Mã Lai, họ quấn xà-rông và khăn đóng trong khi người Thượng quấn khố ngang thắt lưng. Màu da của họ trắng hơn người Thượng, nét mặt cũng hoàn toàn khác. Đây là một bộ tộc sống lẻ loi, không hoà đồng với các bộ tộc lân cận.
    Thung lũng La Ngà là xứ sở của voi. Tôi bận quan sát thiên văn không thể đi săn được nên giao cho Bếp - một người Việt - đi săn hộ tôi với khẩu súng ca-líp 8, vũ khí đặc biệt dành cho loài thú to lớn này mà ông Vetzel đã ân cần cho tôi mượn.
    Con Rum (Droum) là buôn Thượng - Mã Lai đầu tiên chúng tôi gặp từ cao nguyên xuống. Buôn ở trên độ cao 650m.
    Một ngày trước khi tôi đến, vào giữa trưa, cọp đã vồ mất hai người đang trên đường đi làm rẫy. Cọp ăn thịt và mang một tử thi vào rừng xé xác. Tôi đến tận nơi cách làng chỉ 10 phút. Xác tử thi còn nằm cạnh đường mòn có vài cành cây phủ lên. Không thể nào đuổi theo cọp trong một khu rừng dày đặc, tôi ít khi thấy nơi nào thảo mộc lại rậm rạp như ở đây.
    Từ Con Rum đến Tố La phải vượt sông La Ngà. Người Thượng bắc một chiếc cầu tre dài 90m cho tôi cưỡi ngựa đi qua.
    Vài năm trước, trong chuyến đi thám hiểm thượng nguồn sông La Ngà, ông Umann đã viếng Tố La. Có khoảng hơn một chục buôn Tố La cách nhau khá xa.
    Ở La-ya tôi gặp lại Bếp. Tối hôm qua, anh ta bắn bị thương vào đầu hai con voi, nhưng những con vật này sau khi ngã xuống lại chồm dậy rồi lẩn trốn vào trong lùm tre. Tôi nghĩ rằng tốt hơn hết nên nhắm bắn vào vai voi, chắc chắn voi sẽ bị thương nặng và chết.
    Pè Ton là làng Thượng - Mã Lai cuối cùng trong thung lũng La Ngà. Thung lũng mở rộng ra thành cánh đồng La Ngà. Tôi lại đi ngang qua khúc sông này gần Bác Nui (Barth-Nui), và sau 3 giờ đi bộ, tôi trở về Tánh Linh với những người dân hiếu khách.
  6. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    III. TỪ TÁNH LINH ĐẾN PHAN RANG
    Trước khi đến Phan Rang bằng một con đường khác con đường vừa đi qua, tôi có ý định xuống thung lũng La Ngà, men theo hữu ngạn dòng sông để thử tìm xem con đường qua ngả này có tiện hơn không?
    Tôi khởi hành vào ngày 22 tháng 5. Chuyến thám hiểm này có thể khó khăn vì mùa mưa đã đến. Chúng tôi qua sông ở Bác Nui, rồi theo con đường đi về hướng Tây. Đường mòn dẫn đến Blu rất tốt, nhưng từ làng này, hay nói đúng hơn từ Đạ Cai (Ba Kai) (gần Blu) đến Cao Cang không có con đường nào khác hơn là La Ngà. Cả cánh đồng đều bị ngập lụt. Tuy nhiên, dân làng cam đoan với tôi nếu đi vòng lên hướng Bắc sẽ qua khỏi cánh đồng và đến Cao Cang.
    Tôi đi theo lộ trình của ông Néis và Umann đi ngang qua các làng Mê Pu (Mé P?Thou), B?T Sar (Bassar), Gu Mo (Goumor) trên sông Đạ Hu-oai (Da Oui), một trong những nhánh sông lớn của sông Đồng Nai.
    Từ Gu Mo, tôi đi theo một con đường khác tiến về hướng Tây, rồi về hướng Nam. Tôi gặp những bộ tộc độc lập không đóng thuế cho ai cả. Khắp nơi, họ tiếp đãi tôi rất ân cần nhưng hành trình cực kỳ vất vả vì đường dốc và mới mở, vắt lại rất nhiều. Ở vài nơi, đi được 20 bước phải dừng lại một lần để bắt cả một tá con vắt. Thật đúng là một cực hình! Tôi đi ngang qua các làng: Mouur, Pron, Cone Hô, M?TSrang, v.v...
    Người Thượng dệt vải làm mền, khố, áo ngắn. Họ chỉ trồng lúa rẫy. Chủ làng tiếp khách, mời khách uống rượu và nghe nhạc cồng chiêng. Bảy người Thượng mỗi người cầm một cái cồng xếp hàng theo kiểu Ấn Độ rồi đi chậm chậm trong lều, dùng nắm tay phải đánh theo nhịp điệu. Hoà âm rất khéo và cảm động!
    Ngày 20 tháng 5, dân làng cam đoan với tôi chiều nay sẽ đến Cao Cang. Chúng tôi còn đi qua các làng Chang Muong, Con Hine. Trong vài giờ, dưới cơn mưa, chúng tôi đi trong một khu rừng đầy vắt, và cuối cùng chúng tôi đến... Đạ Cai, nơi tôi đã khởi hành cách đây 4 ngày! Rõ ràng không có con đường nào khác con đường sông nối liền Đạ Cai với Cao Cang.
    Tôi đành phải đi theo lối này.
    Đạ Cai cách La Ngà khá xa, nhưng cánh đồng đã bị ngập lụt, chúng tôi có thể rời bến ở một địa điểm gần buôn và chèo thuyền đi giữa những đám cỏ cao trong vài giờ. Dòng sông uốn khúc quá nhiều nên phải mất một ngày chèo thuyền từ buôn này đến buôn khác.
    Ông Néis đã thăm Cao Cang và mô tả tỉ mỉ Da Bakua, một tảng đá khổng lồ mà dân trong vùng tôn sùng như Thượng đế.
    Ở Cao Cang, người Thượng không nói tiếng Mạ mà dùng một thổ ngữ rất gần với tiếng Khơ-me. Tôi nhận xét thấy từ Đạ Cai đến Cao Cang có những bộ tộc khác nhau.
    Cao Cang nối liền với Dong Ly - một làng nằm gần hợp lưu sông La Ngà và Đồng Nai - bằng một con đường có thể đi xe trâu vào mùa khô, vào mùa này đường bị ngập nước.
    Ngày 23 tháng 5, trong một ngày, tôi đi từ Cao Cang trở về Tánh Linh. Tôi chèo thuyền từ Cao Cang đến Võ Đắt (Vio Deuk), rồi đi bộ từ Võ Đắt đến Tánh Linh.
    Từ chuyến thám hiểm này, tôi rút ra một kết luận là đi theo hữu ngạn sông La Ngà không có lợi, cả vùng là một cánh đồng ngập nước từ những trận mưa đầu mùa và có rất ít dân cư sinh sống.
    Ngày 30 tháng 5, tôi trả về Phan Thiết con voi, các quản tượng và một người Việt, tất cả đều bị sốt rét nặng không còn giúp tôi được nữa. Tôi lại lên đường, tính men theo tả ngạn sông La Ngà lên tận Con Rum. Tôi muốn con đường đi qua đây thay vì vượt sông La Ngà hai lần ở Bác Nui và Con Rum như tôi đã đi đến Tánh Linh theo hữu ngạn.
    Từ Tánh Linh đến Ja Con phải mất nguyên một ngày đường. Chúng tôi đi vòng núi Ông, leo lên những hoành sơn cuối cùng ở hướng Bắc rồi đi vào vùng đồng bằng.
    Ja Con nằm trong một thung lũng có núi Snoung bao bọc ở ba phía. Dòng suối chảy qua thung lũng là một nhánh sông Phan Thiết.
    Từ Ja Con, chúng tôi vượt đèo đến Cà Dòn (Ca Yon). Trong vùng có rất nhiều voi. Một anh thợ săn người Việt bắn chết vài con voi rất đẹp.
    Line Yan ở độ cao 430m. Đây là một trong nhiều làng kiểu Thượng - Mã Lai nằm trong thung lũng tuyệt đẹp Da Ross, một dòng sông nhỏ nước chảy mạnh như thác nhập vào sông La Ngà cách đó khá xa.
    Từ Line Yan đến Con Rum, đoạn đường đi thật vất vả. Chúng tôi phải vượt qua vô số đồi núi hiểm trở, không ngừng lên xuống dốc.
    Tôi không dừng lại ở Con Rum, nơi tôi đã biết. Dân làng nói rằng từ hôm tôi đi cọp còn vồ mất hai người Thượng! Như vậy tất cả là năm người!
    Từ Con Rum, tôi qua bên hữu ngạn sông La Ngà trên một chiếc cầu còn tốt mặc dầu nước sông dâng cao. Ý định của tôi là men theo hữu ngạn dòng sông lên thung lũng La Ngà. Tôi đi ngang qua nhiều làng mang tên Tố La, lên dốc xuống đèo, rồi lại xuống đèo lên dốc, cuối cùng đến Tia Lao có ghi trên bản đồ của Umann.
    Tia Lao cao 300m là một điểm ngoạn mục. Tôi có thể ghi chính xác hình dáng toàn vùng và đánh dấu nhiều điểm quan trọng. Tôi đặc biệt chú ý một ngọn núi cao hình như hoàn toàn lẻ loi ở hướng Bắc. Đó là núi Tà Đung (Ta Doum). Dưới chân núi, sông Đồng Nai chảy theo hướng Đông Tây; xa hơn, dòng sông uốn khúc chuyển xuống hướng Nam. Vì thế tôi quyết định đến Tà Đung.
    Ngày 9 tháng 6, tôi ngủ ở B?T Sar (Bassar), một làng trên cao nguyên gần Yane, chỉ cách Yane bằng một thung lũng nhỏ của sông Đa Rê-am (nhánh sông lớn của La Ngà). Cả vùng rất đông dân và giàu có. Đi trong một giờ, tôi gặp rất nhiều buôn làng. Đất đai thật thích hợp cho chăn nuôi!
    Từ B?T Sar (Bassar) đến Bross, chúng tôi đi mất hai ngày đường trong một vùng tuyệt đẹp. Khắp nơi chúng tôi đều thấy buôn làng và nương rẫy. Bross nằm trong một thung lũng sâu có núi Tà Đung hùng vĩ án ngữ về hướng Bắc. Dòng sông Đồng Nai chảy qua thung lũng này.
    Tôi có ý định leo núi Tà Đung. Nhìn từ xa, ngọn núi giống như một cái nón lá lớn chụp trên cao nguyên. Khi đến gần, chúng tôi nhìn thấy rất nhiều đỉnh núi cao và thung lũng sâu, phía dưới những thác nước lạnh ngắt gầm vang. Chúng tôi có cảm tưởng như đang ở trong vùng núi Alpes (An-pơ).
    Tôi bảo người Thượng ở Yane dẫn tôi lên đỉnh núi cao nhất. Chuyến leo núi mất 2 ngày. Không có đường, chúng tôi phải ngủ lại đêm trên núi, gần đỉnh núi ở độ cao 2.000m. Những con vắt nhỏ nhung nhúc ở chân núi không còn xuất hiện ở đây nữa. Lúc nào chúng tôi cũng thật khổ cực vì phải ở trong mây và mưa. Tôi lợi dụng ánh sáng của tia chớp để leo lên đỉnh núi cao nhất (2.100m). Nơi đây rừng rậm rạp đến nỗi để nhìn cho rõ tôi phải leo lên cây. Chân trời bao la nhưng khắp nơi màn mưa dày đặc ngăn cản không cho tôi xác định vị trí chính xác được.
    Tôi xuống núi nhanh, trong cùng ngày tôi đến Con Tan, nơi tôi đã qua khi đi từ Phan Rí đến Tánh Linh.
    Từ Con Tan đến Ri-ông, tôi đi theo một con đường khác con đường tôi đã đi tháng trước. Việc này giúp tôi ghi được nhiều làng mới trên bản đồ.
    Cuối cùng, tôi để đồ đạc lại ở Ri-ông và cùng với bốn người khuân vác thám sát Lang Bi-an, ngọn núi cao ở thượng nguồn sông Đồng Nai.
    Lang Bi-an ở phía Bắc Ri-ông cách hai ngày đường. Cao nguyên nhấp nhô và cao dần từ 900m đến 1.200m. Từ 15 đến 20km trước khi đến chân núi, tôi ra khỏi rừng và đứng trên một vùng hoàn toàn trơ trụi và đầy cỏ. Núi đồi nhấp nhô khiến tôi có ấn tượng như đang đi trên một đại dương xao động vì những ngọn sóng khổng lồ. Núi Lang Bi-an đứng sừng sững ở giữa như một hòn đảo và hình như càng xa dần khi tôi đến gần. Người ta dễ tính sai khoảng cách trên những cánh đồng bao la này. Dưới chỗ trũng, đất màu đen và đầy than bùn. Những đàn nai lớn để yên cho tôi đến gần vài trăm mét, rồi vụt chạy ra xa, ngoái cổ lại tò mò nhìn chúng tôi.
    Dân cư trong vùng thưa thớt, vài làng người Lạch (M?T Lates) tập trung ở chân núi. Họ trồng lúa nước rất tốt. Chúng tôi qua sông Đồng Nai, chỉ là một con suối rộng 3 mét, và đến Đăng Gia (Lang Ya hay Dan Ya) có chánh tổng trú ngụ.
    Người Lạch nói cả tiếng Chăm và tiếng Mạ. Phụ nữ có vành tai khoét một lỗ lớn và đặt vào đó những chiếc vòng to treo lủng lẳng những sợi dây thiếc hình xoắn ốc rất nặng.
    Tôi được tiếp trong nhà chung. Mỗi chức sắc trong làng mang đến một ché rượu. Trước mặt tôi có cả thảy 6 dãy ché. Rất may, họ không đòi hỏi tôi uống lần đầu hết tất cả.
    Tôi chỉ ngủ lại đêm ở Đăng Kia, rồi trở về Ri-ông dưới một cơn mưa tầm tã. Trời mưa khiến cho sườn dốc rất trơn trợt và biến những dòng suối nhỏ thành những dòng sông thật sự, rất nguy hiểm khi vượt qua.
    Trong thời gian tôi đi vắng, một con cọp cố vồ lấy một trong những con ngựa của tôi đứng ngay trong hàng rào của trại. Anh thợ săn người Việt mà tôi để lại ở Ri-ông tổ chức chiến đấu. Anh ta chỉ bắn bị thương con cọp. Con thú dữ này trong khi chạy trốn đã vồ hai người Thượng bị thương nặng...?
    *
    Rời Ri-ông, Yersin men theo thung lũng sông Đa Nhim và vượt sông Phan Rang.
    Từ ngày 19 tháng 7, Yersin lên miền núi tỉnh Khánh Hoà và Đắc Lắc để hoà giải những vụ xung đột giữa các bộ tộc người Thượng.
    Thống đốc Nam Kỳ mong muốn Yersin thực hiện một chuyến đi trong mùa mưa trên con đường Yersin đã đi qua trong mùa khô, nhân tiện nhận xét thêm về phần đất bị ngập lụt và tầm quan trọng của các dòng sông.
    Ngày 8 tháng 9, Yersin rời Nha Trang và đi theo con đường cái quan đến Phan Rang. Một lần nữa, Yersin từ Phan Rang lên cao nguyên.
    Yersin đi ngang qua các làng Đi-ôm, Bô Kran, K?T Dòn, Lao Gu-an, Ta-la, v.v...
    Khắp nơi Yersin được tiếp đãi ân cần như trong chuyến đi vừa qua. Đồng lúa tươi tốt hứa hẹn được mùa lớn.
    Đến Tánh Linh, Yersin thấy cả vùng bị ngập lụt. Nếu xây dựng một con đường từ Tánh Linh phải nâng mặt đường cao hơn mặt ruộng, rất tốn kém. Về sau, con đường từ Sài Gòn qua Tánh Linh đến bờ biển miền Trung không thực hiện được. Thay vào đó là con đường Sài Gòn - Phan Thiết đi ngang qua Túc Trưng - Long Khánh - Hàm Tân như hiện nay. [47, 166 - 205]
  7. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    KHẢO SÁT ĐẦU TIÊN CAO NGUYÊN LANG BI-AN
    Trong hai năm 1942 - 1943, tạp chí Đông Dương (Indochine) đã dành 9 số để đăng hồi ký của bác sĩ Yersin viết về những chuyến đi lên Tây Nguyên, Căm-pu-chia và Hạ Lào từ năm 1891 đến năm 1894: Nha Trang - Phan Rang - Phan Rí - Djiring - Phan Thiết (1891); Ninh Hoà - Đắc Lắc - Xtưng Treng (1892); Biên Hoà - Lang Bi-an - Phan Rang; Ninh Hoà - Đắc Lắc - Nha Trang- Tánh Linh - Biên Hoà (1893); Ninh Hoà - Đắc Lắc- Công Tum - Gia Lai - A-tôpơ - Đà Nẵng (1894).
    Sau đây là bản dịch chương Khảo sát đầu tiên cao nguyên Lang Bi-an:
    ?oNăm 1893, tôi thám hiểm miền Thượng ở phía Đông dãy Trường Sơn giữa hai vĩ tuyến của Phan Thiết và Nha Trang và cố gắng thiết lập một bản đồ.
    Tôi mang theo một máy kinh vĩ và một áp kế giúp tôi tính toán các toạ độ địa lý để xác định các điểm đáng chú ý. Tôi lặn lội khắp vùng trong 5 tháng (từ tháng 3 đến tháng 7), ghi các dòng sông, vị trí những nơi có dân cư sinh sống, hình dáng những ngọn núi.
    Chính trong lần khảo sát này, ngày 21-6-1893, tôi tiếp xúc lần đầu với cao nguyên Lang Bi-an. Lộ trình đi gần giống như lộ trình về sau được chọn để thiết lập một trong những con đường lên cao nguyên đi ngang qua Phi Nôm, Pren để đến Đà Lạt.
    Vừa ra khỏi rừng thông, ấn tượng của tôi thật sâu sắc khi đứng trước một vùng cao nguyên mênh mông, hoang vắng và trơ trụi, gợi nhớ lại cảnh biển động vì một đợt sóng khổng lồ màu xanh dâng lên. Núi Lang Bi-an sừng sững ở chân trời phía Tây Bắc cao nguyên, làm tăng thêm vẻ đẹp của cảnh quan và tạo nên một hậu cảnh tuyệt mỹ.
  8. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    Cao Nguyên LangBiAng
    Ở chân trời hướng Bắc, dãy núi Lang Bi-an sừng sững hiện ra, tạo hậu cảnh cho thành phố Đà Lạt với hai đỉnh núi cao 2.167m và 2.154m. Dưới chân núi là xã Lát và huyện lỵ huyện Lạc Dương.
    Năm 1899, bác sĩ Étienne Tardif (Ê-chiên-nơ Tạc-đíp) đã leo lên dãy núi Lang Bi-an và viết về cao nguyên Lang Bi-an:
    ?oCao nguyên Lang Bi-an là một vùng rộng lớn trải ra xung quanh giao điểm của 106o kinh Đông và 12o vĩ Bắc, có hình dáng một hình en-líp mà đường trục lớn Bắc - Nam dài 18km và đường trục nhỏ Đông - Tây dài từ 10 đến 12km.
    Độ cao thay đổi từ 1.300 đến 1.550 và 1.600m.
    Đỉnh núi cao nhất của dãy Lang Bi-an án ngữ cao nguyên Lang Bi-an về hướng Bắc. Về các hướng khác, những chỏm núi dài và cao bao bọc cao nguyên Lang Bi-an.
    Khi nhìn thấy cao nguyên Lang Bi-an, điều đập mạnh vào mắt tôi trước tiên là địa hình. Cả một vùng rộng lớn gồm nhiều ngọn đồi nằm kề bên nhau, nối tiếp nhau, chế ngự lẫn nhau, sườn đồi này dốc thẳng đứng, sườn đồi kia nằm thoai thoải trên mặt đất. Những thung lũng rộng và sâu nhiều hay ít chia cắt núi đồi dợn sóng, len vào giữa là con đường nối liền Đăng Kia (Dankir, Dankia) với Đà Lạt.
    Cả vùng đồi núi này đều phủ một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, cao và dày vào mùa mưa.
    Trong thung lũng mọc nhiều loài thực vật khác nhau, lau sậy và trên vài sườn đồi có những đám thông và tùng.
    Dòng nước chảy theo nhiều lối, có khi là những dòng suối nước chảy xiết, có khi là những ao hồ sâu ẩn mình dưới một lớp thảo mộc rậm rạp.
    Hình dáng mấp mô của cao nguyên thật là lạ lùng! Tôi leo lên một trong năm đỉnh núi. Một cảnh quan kỳ diệu hiện ra trước mắt tôi. 150 đồi núi xanh rờn giống như một thúng cam khổng lồ.
    ... Tôi nhận thấy gió trên cao nguyên thổi vào tháng 6 từ Bắc sang Đông và thổi dữ dội từ Đông sang Tây vào tháng 11, trong mùa lạnh.
    Cuối cùng, không thể nào quên một nét đẹp thật mê hồn trên cao nguyên bao la này: Ăn Krô-ét (Ankroët) với rừng thông mênh mông và thác nước kỳ lạ cao 15m, nước tuôn xối xả. Rất tiếc, vị trí nơi đây quá hẹp không cho phép xây dựng những công trình quan trọng.?
    Theo các nhà địa chất, núi Lang Bi-an hình thành do vận động tạo sơn nhưng theo truyền thuyết của người Lạch (Lat, Lạt, Làc, M?T Lates,...) và người Srê (Xrê, Sré), núi Lang Bi-an do một con heo rừng tạo nên. Truyện cổ kể rằng:
    Khởi thủy có địa ngục (Bờ-rạ Ting, Brating hay Brah Ting). Ở địa ngục, K?TBùng tạo ra tất cả: đất, đá, động vật, con người, những nhân vật đầu tiên được tôn là thần thánh.
    Thế rồi K?TBùng và những nhân vật do K?TBùng tạo nên đi ra khỏi địa ngục để làm nên trời và đất.
    K?TBùng lấy một cái búa nhỏ rèn thành trái đất, lấy một cái búa ngắn rèn thành trời. Trời đất cưới nhau sinh ra con đàn cháu đống về sau.
    K?TBùng lấy từ địa ngục lên một trái bầu đựng đất màu mỡ và bảy gùi lớn đựng đất khô khan, đất màu mỡ cho lúa, đất khô khan chỉ là đất. K?TBùng và cộng sự không những tạo ra mặt trời, trăng, sao mà còn làm ra lục lạc cho ngựa, chuông cho trâu,...
    K?TBùng tạo ra con kiến, con rắn, con chim sẻ trắng. K?TBùng cột một sợi chỉ vào chân con chim rồi cho bay đi khắp nơi để đánh dấu đất. Chim dừng lại trên một ngọn núi K?TBùng muốn tạo ra. K?TBùng đánh dấu nơi này và tạo ra đỉnh núi Lang Bi-an. K?TBùng tạo ra con heo rừng giúp K?TBùng đắp đất. Heo rừng dùng mõm ủi đất nhiều và khéo đến nỗi Lang Bi-an trở thành một ngọn núi lớn. K?TBùng tạo nên người khổng lồ ép đất núi tạo ra thác và rắn nước.
    K?TBùng mang từ địa ngục một gùi nhỏ đựng hạt chuối rừng, một gùi có nắp đựng hạt tre, một gùi có quai đựng hạt cỏ tranh. Ông cũng mang cả hạt của cây mây, cây dứa, các loài thực vật khác.
    K?TBùng tạo ra con nai. Trở về mặt đất, ông mang đất sét đỏ tạo ra những con chim sẻ, con ó từ đất đá, con cọp từ bùn lầy, con heo từ lúa khô, con thỏ từ lúa đông lạnh.
    K?TBùng tạo ra tất cả, tạo cả con người (K?TBung mon jo?Th, mon chau sól).
    Ngày xưa, cây tre không có mắt và chân tay con người chỉ là một khối cứng đơ, không cử động được, không khom lưng được. Con của K?TBùng rất mạnh đã điều chỉnh lại chân tay giúp con người đi lại được. [30, 21 - 22]
    Người Chin (Chil, Cil, Cill) cũng có một truyền thuyết về công trình đắp núi Lang Bi-an và nguồn gốc của các dân tộc ở Việt Nam:
    Thuở xưa, hai vị thần N?TThup -Thưr và Lãn Dữn đã rèn nên trái đất và dùng phép mầu tạo ra mặt trời, mặt trăng cùng những ngôi sao soi sáng trái đất cả ngày đêm.
    Lúc đầu trái đất còn mềm, sau khô cứng thành đất và đá. Ông bà N?TThup - Thưr và Lãn Dữn lấy đất nặn ra một người đàn ông và một người đàn bà, đặt tên là Ha Nghê và K?TNghe để cai quản trái đất. Hai người này kết duyên với nhau, sinh được một đôi trai gái, con trai đặt tên là Ha Đỏ, con gái tên là K?TDong. Lớn lên, hai người lấy nhau và sinh rất nhiều con cháu.
    Ban đầu, tổ tiên loài người chưa biết làm nhà và sống trong hang đá. Cây cỏ, đất cát, nước nôi chưa xuất hiện, họ sống bằng một thứ thuốc đặc biệt và uống nước của con vẹt.
    Một hôm, nghe thấy có những tiếng động lạ dưới một hòn đá, họ hè nhau lăn hòn đá sang một bên. Một con cua từ dưới hòn đá bò lên, theo sau là một dòng nước trong suốt chảy ra. Sau đó có rất nhiều vật lạ như lươn, cá, tôm,... cùng theo dòng nước bơi ra. Dòng nước ấy chảy suốt ngày đêm, năm này sang năm khác, không bao giờ ngừng. Nước chảy đến đâu đều xoi mòn đá tạo nên đất cát, đồng bằng và sông ngòi, hồ ao, biển cả. Từ ấy có mưa, cây cối mọc lên xanh tốt và muôn loài khác tự nhiên sinh ra.
    Loài người rất sung sướng, họp nhau ca hát, nhảy múa bên dòng nước lạ. Về sau, họ biết trồng tỉa để có lương thực và biết nuôi súc vật để cúng tế thần linh.
    Thời gian sau, loài người quá đông đúc, đất đai trồng tỉa không còn đủ nuôi sống tất cả, họ phải phân tán đi kiếm các vùng đất mới. Trước khi chia tay đi bốn phương trời, họ họp bàn cùng nhau làm một cái gì thật cao để con cháu dù đi xa đến đâu cũng trông thấy và có thể tìm đường về quê hương cũ. Mọi người đồng ý bắt chước loài mối tha đất đắp ụ để đắp một quả núi thật cao. Công trình đắp núi vô cùng vất vả, đất mềm càng lên cao càng bị lở, họ phải làm giàn giữ đất và đặt ra tục lệ mỗi khi người con gái đi lấy chồng phải nộp cho nhà trai một số chiêng. Chiêng này úp vào quả núi cho thêm vững chắc. Đắp núi xong, họ đặt tên là Lang Bi-an rồi phiêu bạt khắp bốn phương trời.
    Trong số những gia đình phân tán đi các nơi có sáu chị em gia đình nọ tên là K?TGrup, K?TGrum, K?TGrăm, K?TGrô, K?TPac, K?TNghê - K?TNga. Con cháu cô K?TGrup sinh ra người Chăm, con cháu cô K?TGrum sinh ra người Chu-ru, con cháu cô K?TGrăm sinh ra người Chin, con cháu cô K?TGrô sinh ra người Cơ-ho, con cháu cô K?TPac sinh ra người Mạ, còn con cháu cô K?TNghê - K?TNga đi xuống đồng bằng sinh ra người Kinh. Vì vậy, người Chăm, người Chu-ru, người Chin, người Mạ, người Cơ-ho và người Kinh đều là anh em.
    Về ý nghĩa địa danh Lang Bi-an, truyện cổ của người Chin cho biết về sự tích K?T Lang và Ha Biang, núi Voi và sông Đa Nhim:
    Ngày xưa, ở buôn Kon Đố (xã Đưng K?T Nớ, huyện Lạc Dương) có một đôi vợ chồng: người chồng tên là Ha Biang, người vợ tên là K?T Lang.
    Một năm nọ, toàn vùng bị hạn hán, Ha Biang lên đường đi kiện trời, nhưng khi đến núi Găng-reo ở huyện Đức Trọng hiện nay thì bị chết đói.
    K?T Lang lần theo vết của cây con do Ha Biang đã bẻ đi tìm chồng. Nhìn thấy xác chồng, K?T Lang khóc lóc thảm thiết, vang xa khắp ?otám núi, tám sông, tám rừng, tám suối? và bay đến tận trời.
    Trời liền sai thần mưa trút nước xuống trần gian nhưng K?T Lang vẫn tiếp tục khóc cho đến chết. Tiếng khóc của K?T Lang làm xúc động con voi đầu đàn. Nó đến che mưa cho K?T Lang và Ha Biang, đứng khóc rồi chết theo Ha Biang và K?T Lang.
    Nước mưa hoà cùng nước mắt của K?T Lang và con voi chảy thành sông gọi là sông Đa Nhim (da: nước; nhim: khóc). Các già làng đặt tên cho ngọn núi ở Kon Đố là Lang Biang và núi Găng-reo là núi Voi.
  9. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    Người Lạch cũng có một truyện cổ về sự thành lập núi Lang Bi-an :
    Ngày xưa, đất trên cao nguyên và vùng đồng bằng đều bằng phẳng, chưa có núi cao như bây giờ. Khi mùa lũ đến, nước biển và nước sông tràn ngập cả đất đai, cây xanh không mọc, đất đai bạc màu. Thần Nđu thấy vậy đã làm phép nâng đất cao thành cao nguyên. Nước biển vẫn tràn lên, thần Nđu liền tạo ra nhiều ngọn núi cao thấp nằm gần nhau làm bờ ngăn cản nước, trong đó có hai ngọn núi Lang Bi-an. Ngăn chặn được nước sông và nước biển, cây cỏ xanh tươi, đất đai màu mỡ, thần Nđu giao cho thần rừng tạo ra loài vật để cho cuộc sống thêm vui. [6, 89]
    NGƯỜI LẠCH
    Từ xa xưa, trên cao nguyên Lang Bi-an có hai tộc người Chin và Lạch cùng sinh sống, nhưng đông nhất là người Lạch.
    Chin còn gọi là cau n?Tho (cau: người; n?Tho: ngo, thông) có tập quán du canh, du cư, phát rừng, làm rẫy (sa bri: ăn rừng).
    Lạch có nghĩa là đồi cỏ:
    Jùn ntúat bơh brê làc tus brê dơr
    (Con nai chạy từ đồi cỏ vào trong rừng thưa).
    Một số tư liệu dịch Lạch là rừng thưa (clairière) hay trảng cỏ (clairière herbacée).
    Người Chăm gọi người Lạch, Chin, Srê là Cơ-ho (Cơ Ho, Kơho, K?T Ho) có nghĩa là người miền núi.
    Người Lạch sử dụng ngôn ngữ Môn - Khơ-me như người Ba-na, Stiêng, M?T Nông và một số dân tộc ít người khác trên Tây Nguyên.
    Gốc người Lạch có các họ: Cil (Chil), Krajan (Krazanh), Liêng Hot, Rơông, Pangting, Dagốt (Dagout), Mebla, Bonding (Bòn Đing), Bonyộ (Bòn Yộ), Lơmbiêng,... Riêng họ Cil còn chia nhiều nhánh: Cil Mup, Cil Damjong,...
    Người Lạch có một số họ như người Chin: Cil, Krajan, Liêng Hot, Rơông; riêng họ Cil của người Chin có Cil Pam, Cil Yú,...
    Tuy nhiên, người Lạch có các họ mà người Chin không có: Dagout, Pangting, Rơglê, Mebla, Bonyộ, Bonding.
    Ngược lại, có các họ chỉ có trong người Chin, người Lạch không có: Bondưng, Dơnggur, Konsa, Konsơ, Sơao, Sơnơr, Lơmu, Mbon, Bontô, Ntôl, Klong,...
    K?T không phải là họ nhưng là một từ đặt trước tên của một nhân vật, có nghĩa như ông, bà, anh, chị trong tiếng Kinh. Ví dụ: K?T Mlơi có nghĩa là ông Mlơi.
    Người Chin dùng từ K?T để phân biệt phái: K?T dùng để gọi phái nữ, Ha dùng để gọi phái nam. Người Lạch, người Srê dùng chung từ K?T cho cả nam lẫn nữ. [3, 165]
    Trước năm 1954, người Lạch sinh sống trong 7 buôn: Bon Nơr, Bon Đêng (Bon Đing), Bon Dơng, Hàng Kròc (Rơhàng Kròc), Mang Ling và hai buôn Đang Ja. Năm 1954, thung lũng sông Đạ Đờng (Dạ Dờng, Da Deung, Đa Dâng) bị ngập lụt, Bon Dơng và một buôn Đang Ja được tập trung vào một địa điểm mới, trong khi đó vài gia đình chuyển sang Dơng Kriêng, Dà Mpào, Nrèng hay Pơnơr ở các huyện Đức Trọng và Lâm Hà ngày nay. [35, 3]
  10. huongdanvien_dalat

    huongdanvien_dalat Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2004
    Bài viết:
    1.546
    Đã được thích:
    1
    Làng người Lạch
    Nhà dài
    Buôn Prền
    Trong một làng người Lạch
    Hiện nay, người Lạch sống tập trung tại xã Lát (huyện Lạc Dương). Năm 1989, xã Lát có 395 hộ với 4.915 người Lạch. Xã Tà Nung (thành phố Đà Lạt) có khoảng trên 300 người Lạch.
    Ngày xưa, đa số người Lạch sống trên vùng đất thấp, màu mỡ, trong các buôn có nhiều nhà dài với nhiều gia đình cùng chung sống.
    Buôn làng ít khi có hơn 20 nhà, mỗi nhà có 3 hay 4 hộ. Có hai loại nhà: nhà đắp đất và nhà dài 20 - 25m, cất trên cột cao 2m, không có cửa sổ và ống khói. Dưới sàn nhà, họ nuôi trâu, heo, gà,... Ngựa được nhốt trong chuồng giống như chiếc hộp khép kín để tránh cọp thỉnh thoảng đi kiếm mồi.
    Mái nhà lợp một lớp tranh dày. Trên trần nhà, người Lạch cất thóc, bắp, dây mây, thịt trâu, heo, nai xông khói. Hạt giống được cất giữ trong những chiếc giỏ bằng mây.
    Buôn làng là đơn vị hành chính quan trọng nhất. Người có quyền lực cao nhất trong buôn là trưởng buôn hay chủ làng (kuang bon) được chọn không phải do thể lực nhưng do sự hiểu biết về phong tục, tập quán và luật lệ. Ngoài ra còn có một hội đồng già làng gồm chủ nhà (pô hiu) và tộc trưởng (kumy). Hội đồng họp với sự tham gia của trưởng buôn để giải quyết những trường hợp nghiêm trọng. Vì lợi ích chung, nhiều buôn có thể hợp tác với nhau và chọn người đứng đầu liên minh (roklong).
    Luật tục (nri) là những câu thơ ca truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong luật tục của người Lạch không có án tù và tử hình. Người Lạch tin rằng khi con người phạm lỗi là không hoà đồng với thiên nhiên và động đến thần linh. Để không bị thần linh nổi giận trừng phạt, người phạm lỗi phải hiến sinh và nộp phạt. [70, 389, 395, 415 - 416]
    Dừng chân
    Thiếu nữ Lạch
    Người Lạch có thân hình cân đối, nước da ngăm đen, tóc dài, mắt tinh. Họ luôn nhìn thẳng và hay cười. Họ cà răng, không dùng đũa nhưng ăn bốc và hay hút thuốc lá trong ống điếu.
    Lỗ tai người phụ nữ đeo vòng bằng ngà voi hay thiếc lớn dần theo năm tháng, có khi nặng đến 500 gam. Cổ tay và cổ chân đeo vòng phát ra tiếng động khi bước đi. Đây là dấu hiệu của sự giàu sang.
    Trẻ em đeo kiềng và vòng với những chiếc lục lạc.
    Đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy làm bằng một mảnh vải quấn ngang thắt lưng.
    Người Lạch rất trung thực, chất phác, giữ lời hứa, dũng cảm và hiếu khách.
    ?oJơi gloh cô tờm, hờm cô năc?
    (Chủ đói để cho khách no).
    Khi khách đến làng, họ mang chuối, cơm, gà, trứng,... đãi khách. Trưởng buôn đem ra một ché rượu, cắm một chiếc cần và mời khách uống. Chiếc cần được chuyền cho người này đến người khác. Trưởng buôn đôi lúc đổ thêm nước vào ché rượu, rượu ngày càng nhạt dần.
    Họ rất ân hận khi không tiếp khách được chu đáo:
    Trôêh kòn prôm bềl bồ ờ te làng
    Trôêh kòn prôm bềl bàng ờ te lă
    Iêr kuang kră ờ te bôh
    Rơpu kuang yôh ờ te pơntề?
    (Khách đến nhà chiếu trải không đủ
    Khách đến nhà không có chiếu quý để trải
    Khách đến nhà không có gà trống để nướng
    Không có trâu đực để làm thịt mời khách).
    Tuy y học còn thô sơ nhưng người Lạch biết sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Trong một số trường hợp, họ phải cúng bái. Người phụ trách cúng bái là thầy cúng (gru) nam hay nữ phục vụ cho nhiều buôn. Thông qua các vị thần linh, thầy cúng xác định bệnh tình, cho biết tên thần linh gây bệnh và lễ vật phải cúng tế.
    Cuối thế kỷ XIX, bác sĩ Étienne Tardif đã được dân làng mời đến thăm một người dân bị bệnh nặng ở Bon Dơng (Bandone) gần Đăng Gia trên cao nguyên Lang Bi-an kể lại:
    ?oKhi đến nhà, tôi thấy trên chòi đầu và chân một con trâu vừa mới bị giết. Người ta cho tôi biết đây là con trâu thứ ba cúng thần linh từ khi bệnh bắt đầu. Vào trong nhà, khói lửa cúng thần linh xông lên khó chịu. Quanh ngọn lửa, dân làng ăn và uống rượu. Thỉnh thoảng, một người kéo một sợi dây cột vào mái nhà làm cho những chiếc bùa và lục lạc vang lên. Cùng lúc trống chiêng đánh lên và người trong nhà la hét để xua đuổi ma quỷ đang nhập vào xác người bệnh. Bệnh nhân bị sốt rét nặng nằm cạnh đống lửa.
    Khi một người trong làng chết trong một thời gian ngắn do một căn bệnh không rõ, dân làng dời buôn sang nơi khác.? [50, 107 - 124]
    Trong xã hội người Lạch, người phụ nữ sở hữu và thừa hưởng tài sản, đề khởi hôn lễ và truyền tên dòng họ gia đình cho con cái. Nam giới lo việc cày bừa, trồng trọt, thu hoạch, săn bắn, bắt cá và đan lát; người phụ nữ nấu cơm, chế biến rượu, dệt thổ cẩm và chăm sóc con cái. Vào mùa đông, săn bắn và bắt cá chiếm phần lớn thời gian của nam giới; vào mùa xuân và mùa hè, hoạt động chính là nông nghiệp.
    Một ngày trong buôn diễn ra như sau:
    Từ sáng sớm, người vợ thức dậy nấu cơm và dở cơm trưa.
    Sau bữa ăn sáng, hai vợ chồng người nào việc nấy tùy theo mùa và ngày trong tháng.
    Đến tối, người chồng trở về nhà, người vợ lại chuẩn bị cơm nước.
    Sau bữa ăn tối, dân làng ca hát, kể chuyện cổ tích và trò chuyện đến khuya.
    Thỉnh thoảng, các lễ hội, ma chay, hôn lễ làm thay đổi cuộc sống thường ngày.
    Cũng như các tộc người Cơ-ho khác, người Lạch theo chế độ mẫu hệ, một vợ, một chồng. Họ cũng được phép đa thê nhưng rất hiếm, chỉ xảy ra trong các gia đình giàu có hay trưởng buôn. Hôn nhân giữa các thành viên trong cùng một dòng họ bị coi là loạn luân và cấm triệt để.
    Người phụ nữ kén chồng (kup bao: bắt chồng) trong những người cùng buôn hay buôn lân cận. Một thầy cúng đứng ra chủ lễ thành hôn, cầu nguyện thần linh gia hộ cho đôi lứa. Trong trường hợp không có thầy cúng thì mẹ của cô dâu chủ lễ. Gia đình cô dâu giết trâu, heo, gà và lấy máu động vật hiến sinh trộn với rượu bôi vào chân cô dâu, chú rể.
    Sau đó, chú rể ở lại lao động trong nhà cô dâu, chịu sự lãnh đạo của người lớn tuổi nhất trong gia đình nhà vợ. Nếu người vợ chết, người chồng có thể trở về nhà cha mẹ nhưng con cái ở lại nhà mẹ.
    Sự gian dâm là một trọng tội và bị phạt rất nặng. Kẻ có tội phải nộp phạt cho gia đình, trưởng buôn, già làng và giết sinh vật để tạ tội với thần linh.
    Người Lạch cũng được phép ly dị nhưng phải có lý do và được trưởng buôn, già làng cho phép. Nếu vợ hay chồng bị tố cáo là tà dâm, bất lực, lười biếng hay mâu thuẫn không giải quyết được thì hai họ họp lại bàn bạc với sự tham dự của chức sắc trong buôn. Người chồng không được cưới vợ lẽ nếu không được phép của người vợ cả. Người vợ lẽ bị đối xử như người ở và người chồng phải ở trong gia đình người vợ cả.
    Nếu vợ hay chồng trốn nhà ra đi, cha mẹ vợ hay chồng phải nộp phạt một con trâu.
    Khi bà mẹ chuyển bụng, người cha mời bà đỡ (mọ boai) đến giúp và ở lại trong nhà ba ngày sau khi đứa bé ra đời. Người cha cúng một con gà, một ché rượu và trả cho bà mụ một cái kiềng, một vòng bạc và một chiếc chăn.
    Nếu bà mẹ đẻ khó, một bà đỡ thứ hai được mời đến.
    Nếu bà mẹ vẫn chưa đẻ được, người cha mời bà đỡ thứ ba (mọ boai giac). Bà đỡ này có nhiều kinh nghiệm nhưng rất hiếm, 5 hay 6 buôn mới có một người.
    Trong trường hợp đẻ khó, gia đình phải cúng heo, dê, trâu và rượu.
    Đại gia đình người Lạch rất thương yêu, chăm sóc trẻ em, không bao giờ bỏ rơi trẻ em. Trẻ mồ côi được gia đình bên mẹ nuôi nấng, thỉnh thoảng người hàng xóm nuôi, dạy dỗ và đối xử như con ruột.
    Trẻ em rất được quý mến; con gái được chuộng hơn con trai vì nhờ con gái về sau sẽ có thêm chàng rể, tăng thêm người lao động trong gia đình.
    Trẻ em được giáo dục về sự đối xử với cha mẹ, các thành viên trong gia đình và phong tục buôn làng, chuẩn bị cho các em trở thành người lớn. Con trai được dạy về nghề nông, săn bắn, bắt cá, trong khi con gái học những công việc hằng ngày của người phụ nữ: nấu ăn, dệt thổ cẩm và chăm sóc các em nhỏ.
    Người con gái út ở lại trong gia đình để chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già. Tuy nhiên, nếu người chị cả sống với cha mẹ, người con gái út có thể rời khỏi gia đình. Nếu người chị cả mất trước khi cha mẹ từ trần, người con gái út phải trở về chăm sóc cha mẹ. Con cái không bao giờ không phụng dưỡng cha mẹ.
    Người Lạch chia trường hợp chết thành hai loại: chết tự nhiên và chết vì tai ương (tai nạn, bất đắc kỳ tử hay khi lọt lòng mẹ) do thần linh gây ra. Như các tộc người khác trên Tây Nguyên, người Lạch sợ phải chết xa buôn làng.
    Người chết được tắm rửa và mặc y phục đẹp nhất. Nếu chết vào buổi tối, một con trâu, một con heo và một con gà được hiến tế. Nếu chết vào sáng sớm, lễ hiến tế được tổ chức ngay. Nếu chết vào ban ngày, lễ hiến tế được tổ chức vào lúc hoàng hôn.
    Trong dịp ma chay, bạn bè và người thân của người chết đến viếng thăm, mang theo trâu, heo, gà và những ché rượu để dân làng cùng hưởng. Người lớn uống rượu trước, sau đó đến thanh niên và cuối cùng là phụ nữ.
    Lễ an táng được cử hành vào ngày thứ ba hay thứ tư sau ngày chết. Các ché rượu, ly chén được đập vỡ, bỏ vào một cái giỏ cùng với lễ vật và đặt gần mộ. Thân nhân người chết cũng đặt lên mộ một con gà, không giết gà nhưng để cho nó chết dần. Thân nhân tiếp tục mang thức ăn đến cho người chết trong vòng một năm, sau đó mới bỏ mả. Một số gia đình dựng nhà mồ trên mộ người thân.

Chia sẻ trang này