1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

[Tư vấn pháp luật ] VUI LÒNG ĐẶT CÂU HỎI NƠI NÀY :

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi StylishII, 31/03/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. No-fear

    No-fear Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/11/2001
    Bài viết:
    2.120
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn, vấn đề bạn định nghiên cứu rất hay - theo như tớ biết bạn có thể tìm kiếm tài liệu tham khảo ở rất nhiều nguồn -
    Trước tiên, bạn cần phải có văn bản luật tố tụng hình sự mới sửa đổi bổ sung và bản luật tố tụng hình sự cũ (để thực hiện phương pháp so sánh).
    Ngoài ra, trên Internet cũng có rất nhiều bài viết liên quan tới vấn đề mà bạn chuẩn bị viết. Để có thông tin bạn vào Google - bật font Unicode lên, gõ nguyên dòng "Địa vị pháp lý của luật sư, người bào chữa"... etc... sẽ có rất nhiều thông tin.
    Một nguồn nữa cũng ko kém phần quan trọng là các bài viết, bình luận trên các báo nghiên cứu lập pháp, pháp luật TPHCM, công lý... nếu bạn cần có thể liên hệ đến nhà tớ, tớ cho mượn một số báo để tra cứu thêm...
    Chúc bạn may mắn.
  2. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    MỘT VÀI TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng:
    thực trạng và phưng hướng đổi mới
    PGS.TS. Phạm Hồng HẢi
    Khi bàn tới thực trạng hoạt động của luật sư trong tố tụng, bên cạnh những kết qu đạt được không thể không đề cập những hạn chế, khó khăn đang tồn tại xuất phát từ c hai phía - luật sư và những chủ thể khác tham gia tố tụng. Đề cập tới thực trạng này, tác gi nhấn mạnh những việc cần làm để sự tham gia của luật sư trong tố tụng được thực chất hn.
    Cải cách tư pháp là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Nó hướng tới mục tiêu củng cố và hoàn thiện bộ máy các cơ quan tư pháp, hoàn thiện pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức - c sở pháp lý của hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh tế, dân sự, lao động, hành chính và các vụ án hình sự. Hiệu quả của hoạt động tư pháp quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của luật sư. Nhận rõ điều này, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08/NQTW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp.. Nghị quyết chỉ rõ cần phi nâng cao hiệu qu của các phiên toà xét xử "khi xét xử, các Toà án phi bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa... để ra bn án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định".
    Từ những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo trên đây của Đảng, chúng ta thấy vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp là một nhu cầu cấp thiết hiện nay.
    Thực trạng
    ở nước ta, hoạt động của luật sư đã được thể chế hoá bằng pháp luật rất sớm. Trước khi ban hành bản Hiến pháp đầu tiên vào tháng 11/1946 thì ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46 thành lập tổ chức luật sư mới ở nước ta thay thế cho tổ chức luật sư cũ tồn tại dưới thời kỳ thực dân phong kiến. Sau đó, tuy tất cả các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, các luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, 1981, 1992, 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và nhiều thông tư của TANDTC đều có các quy định về tổ chức và hoạt động của luật sư. Hoạt động của luật sư được thể hiện trên hai lĩnh vực: Tranh tụng và tư vấn. Khong 10 năm trở về trước, các luật sư chỉ tham gia vào trong tố tụng hình sự (TTHS), tố tụng dân sự (TTDS), nay luật sư tham gia vào cả trong tố tụng kinh tế (TTKT), tố tụng hành chính (TTHC) và tố tụng lao động (TTLĐ).
    Quyền hạn của luật sư
    Theo các quy định của các văn bản pháp luật về tố tụng (bao gồm Bộ luật TTHS, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các hướng dẫn đường lối xét xử của TANDTC...), trong quá trình gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, luật sư được tham gia với một trong những tư cách sau đây:
    - Người bào chữa cho bị can, bị cáo.
    - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án.
    - Người đại diện, người được uỷ quyền.
    Trong các hình thức tố tụng như tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính, tố tụng lao động khi được mời tham gia bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trước phiên toà, luật sư được quyền có mặt trong các buổi lấy lời khai do cán bộ toà án tiến hành, các lần hoà gii giữa các bên, có mặt khi cơ quan có thẩm quyền quy định giá tài sản, xác minh tình trạng tài sn, cùng đưng sự cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án tại trụ sở Toà án. Trong phiên toà xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, với vai trò là người bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư được tham gia thẩm vấn, được quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu, được tranh luận với bên đối tác trước khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm kết luận về vụ án. Sau phiên toà, nếu đưng sự không đồng ý với các quyết định, bản án của Toà án, luật sư giúp đỡ họ kháng cáo theo trình tự phúc thẩm hay giám đốc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, luật sư cũng có quyền như ở phiên toà sơ thẩm.
    Trong tố tụng hình sự, nếu tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo, luật sư được quyền tham gia ngay từ giai đoạn điều tra sau khi có quyết định khởi tố bị can, trừ các vụ án đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì để giữ bí mật điều tra, theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát, luật sư - người bào chữa được quyền tham gia sau khi có kết luận điều tra và hồ sơ vụ án được chuyển từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, luật sư - người bào chữa được quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được điều tra viên hoặc kiểm sát viên đồng ý thì có thể được đặt câu hỏi với bị can; được tham gia một số hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, thực nghiệm điều tra, kê biên tài sản... Nếu được cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cho phép, luật sư được quyền kiến nghị với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện một công việc nào đó để bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can như đề nghị tiến hành giám định, giám định bổ sung, giám định lại; thay đổi biện pháp ngăn chặn từ nghiêm khắc sang biện pháp ít nghiêm khắc hn; thay đổi điều tra viên, kiểm sát viên nếu có căn cứ cho thấy những người này không khách quan khi tiến hành công việc. Trong trường hợp bị can bị tạm giam, luật sư được quyền gặp gỡ bị can trong trại tạm giam theo sự giới thiệu của c quan điều tra, Viện kiểm sát. Luật sư cũng được quyền cung cấp cho c quan điều tra, Viện kiểm sát các chứng cứ, tài liệu liên quan tới vụ án nhằm bênh vực bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Luật sư - người bào chữa cũng được quyền nghiên cứu hồ s, tài liệu về vụ án ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, đồng thời có nghĩa vụ giữ bí mật tài liệu điều tra. Để chuẩn bị tham gia phiên toà xét xử, bào chữa cho bị cáo, ngay từ khi chuẩn bị xét xử, luật sư được nghiên cứu hồ s vụ án tại trụ sở Toà án, được quyền tiếp xúc với bị cáo trong trại tạm giam, được đề xuất ý kiến với thẩm phán được phân công sẽ làm chủ toạ phiên toà, tr hồ s điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chặn, cung cấp cho Toà án các tài liệu, chứng cứ mới về vụ án, khi chúng chưa được cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập và lưu giữ trong hồ sơ vụ án. Tại phiên toà xét xử, luật sư - người bào chữa được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có lý do cho rằng người đó không khách quan, tham gia thẩm vấn, tranh luận với bên buộc tội là đại diện Viện kiểm sát và bị hại, được đề xuất với hội đồng xét xử về cách thức gii quyết vụ án, áp dụng điều luật về tội danh và hình phạt nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với các bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, luật sư - người bào chữa được quyền thay họ kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm của hội đồng xét xử tại phiên toà sơ thẩm. Nếu được mời làm người bào chữa, luật sư cũng có quyền như tại phiên toà s thẩm. Nếu được hội đồng xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm mời tham gia phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, luật sư được quyền đưa ra các tài liệu, chứng cứ về vụ án, lập luận bác bỏ một phần hay toàn bộ sự cáo buộc đối với thân chủ của các c quan tiến hành tố tụng trước đó, đề xuất cách gii quyết vụ án để bo vệ quyền và lợi ích của bị cáo.
    Trong TTHS, khi luật sư tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đưng sự, luật sư có quyền năng tố tụng như trong TTDS.
    Trong tất c các hình thức tố tụng, luật sư được đại diện uỷ quyền từ tất cả các đưng sự (đương nhiên là trừ bị can, bị cáo). Khi được đại diện hoặc uỷ quyền, luật sư có quyền như các đưng sự và trong trường hợp này, luật sư sử dụng kiến thức pháp luật và kinh nghiệm của mình để lợi ích của khách hàng được bảo vệ ở mức cao nhất.
    Đóng góp của luật sư
    Nhìn lại chặng đường gần 60 năm qua từ khi Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời, tổ chức và hoạt động của luật sư ở nước ta cũng có lúc thăng trầm nhưng cũng phi thừa nhận sự đóng góp của các luật sư vào trong quá trình gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế hành chính, lao động là rất đáng kể. Các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư đã là những căn cứ pháp lý để các luật sư hành nghề và hoạt động của luật sư đã góp phần bảo đảm chất lượng cho công tác xét xử các vụ án khác nhau của Toà án các cấp. Sự tham gia của luật sư vào các hình thức tố tụng khác nhau đã ít nhiều làm cho các c quan tư pháp, cán bộ tư pháp thận trọng hơn mỗi khi đưa ra các quyết định, phán quyết của mình. Đối với các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán mới vào nghề, ít kinh nghiệm thì các kiến nghị, đề xuất của những luật sư đã từng có nhiều năm làm công tác thực tiễn trước đây ở các c quan tiến hành tố tụng có tác dụng để những người này thực hiện công việc của mình đúng đắn và khách quan hn. Sự hiện diện của luật sư trong quá trình gii quyết các vụ án khác nhau đã làm cho tỷ lệ oan sai gim đi nhiều, người dân cần nhận được tính công bằng, dân chủ trong hoạt động tư pháp và từ đó thêm tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng vào pháp luật và có ý thức hơn trong việc tuân thủ pháp luật.
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  3. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    MỘT VÀI TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng:
    thực trạng và phưng hướng đổi mới
    PGS.TS. Phạm Hồng HẢi
    Khi bàn tới thực trạng hoạt động của luật sư trong tố tụng, bên cạnh những kết qu đạt được không thể không đề cập những hạn chế, khó khăn đang tồn tại xuất phát từ c hai phía - luật sư và những chủ thể khác tham gia tố tụng. Đề cập tới thực trạng này, tác gi nhấn mạnh những việc cần làm để sự tham gia của luật sư trong tố tụng được thực chất hn.
    Cải cách tư pháp là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. Nó hướng tới mục tiêu củng cố và hoàn thiện bộ máy các cơ quan tư pháp, hoàn thiện pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức - c sở pháp lý của hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh tế, dân sự, lao động, hành chính và các vụ án hình sự. Hiệu quả của hoạt động tư pháp quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó có vai trò của luật sư. Nhận rõ điều này, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08/NQTW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp.. Nghị quyết chỉ rõ cần phi nâng cao hiệu qu của các phiên toà xét xử "khi xét xử, các Toà án phi bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa... để ra bn án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định".
    Từ những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo trên đây của Đảng, chúng ta thấy vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp là một nhu cầu cấp thiết hiện nay.
    Thực trạng
    ở nước ta, hoạt động của luật sư đã được thể chế hoá bằng pháp luật rất sớm. Trước khi ban hành bản Hiến pháp đầu tiên vào tháng 11/1946 thì ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46 thành lập tổ chức luật sư mới ở nước ta thay thế cho tổ chức luật sư cũ tồn tại dưới thời kỳ thực dân phong kiến. Sau đó, tuy tất cả các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, các luật tổ chức Toà án nhân dân 1960, 1981, 1992, 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và nhiều thông tư của TANDTC đều có các quy định về tổ chức và hoạt động của luật sư. Hoạt động của luật sư được thể hiện trên hai lĩnh vực: Tranh tụng và tư vấn. Khong 10 năm trở về trước, các luật sư chỉ tham gia vào trong tố tụng hình sự (TTHS), tố tụng dân sự (TTDS), nay luật sư tham gia vào cả trong tố tụng kinh tế (TTKT), tố tụng hành chính (TTHC) và tố tụng lao động (TTLĐ).
    Quyền hạn của luật sư
    Theo các quy định của các văn bản pháp luật về tố tụng (bao gồm Bộ luật TTHS, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các hướng dẫn đường lối xét xử của TANDTC...), trong quá trình gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, luật sư được tham gia với một trong những tư cách sau đây:
    - Người bào chữa cho bị can, bị cáo.
    - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án.
    - Người đại diện, người được uỷ quyền.
    Trong các hình thức tố tụng như tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính, tố tụng lao động khi được mời tham gia bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trước phiên toà, luật sư được quyền có mặt trong các buổi lấy lời khai do cán bộ toà án tiến hành, các lần hoà gii giữa các bên, có mặt khi cơ quan có thẩm quyền quy định giá tài sản, xác minh tình trạng tài sn, cùng đưng sự cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án tại trụ sở Toà án. Trong phiên toà xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, với vai trò là người bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư được tham gia thẩm vấn, được quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu, được tranh luận với bên đối tác trước khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm kết luận về vụ án. Sau phiên toà, nếu đưng sự không đồng ý với các quyết định, bản án của Toà án, luật sư giúp đỡ họ kháng cáo theo trình tự phúc thẩm hay giám đốc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, luật sư cũng có quyền như ở phiên toà sơ thẩm.
    Trong tố tụng hình sự, nếu tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo, luật sư được quyền tham gia ngay từ giai đoạn điều tra sau khi có quyết định khởi tố bị can, trừ các vụ án đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì để giữ bí mật điều tra, theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát, luật sư - người bào chữa được quyền tham gia sau khi có kết luận điều tra và hồ sơ vụ án được chuyển từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, luật sư - người bào chữa được quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu được điều tra viên hoặc kiểm sát viên đồng ý thì có thể được đặt câu hỏi với bị can; được tham gia một số hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, thực nghiệm điều tra, kê biên tài sản... Nếu được cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cho phép, luật sư được quyền kiến nghị với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện một công việc nào đó để bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can như đề nghị tiến hành giám định, giám định bổ sung, giám định lại; thay đổi biện pháp ngăn chặn từ nghiêm khắc sang biện pháp ít nghiêm khắc hn; thay đổi điều tra viên, kiểm sát viên nếu có căn cứ cho thấy những người này không khách quan khi tiến hành công việc. Trong trường hợp bị can bị tạm giam, luật sư được quyền gặp gỡ bị can trong trại tạm giam theo sự giới thiệu của c quan điều tra, Viện kiểm sát. Luật sư cũng được quyền cung cấp cho c quan điều tra, Viện kiểm sát các chứng cứ, tài liệu liên quan tới vụ án nhằm bênh vực bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Luật sư - người bào chữa cũng được quyền nghiên cứu hồ s, tài liệu về vụ án ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, đồng thời có nghĩa vụ giữ bí mật tài liệu điều tra. Để chuẩn bị tham gia phiên toà xét xử, bào chữa cho bị cáo, ngay từ khi chuẩn bị xét xử, luật sư được nghiên cứu hồ s vụ án tại trụ sở Toà án, được quyền tiếp xúc với bị cáo trong trại tạm giam, được đề xuất ý kiến với thẩm phán được phân công sẽ làm chủ toạ phiên toà, tr hồ s điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, thay đổi áp dụng biện pháp ngăn chặn, cung cấp cho Toà án các tài liệu, chứng cứ mới về vụ án, khi chúng chưa được cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập và lưu giữ trong hồ sơ vụ án. Tại phiên toà xét xử, luật sư - người bào chữa được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có lý do cho rằng người đó không khách quan, tham gia thẩm vấn, tranh luận với bên buộc tội là đại diện Viện kiểm sát và bị hại, được đề xuất với hội đồng xét xử về cách thức gii quyết vụ án, áp dụng điều luật về tội danh và hình phạt nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với các bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, luật sư - người bào chữa được quyền thay họ kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm của hội đồng xét xử tại phiên toà sơ thẩm. Nếu được mời làm người bào chữa, luật sư cũng có quyền như tại phiên toà s thẩm. Nếu được hội đồng xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm mời tham gia phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, luật sư được quyền đưa ra các tài liệu, chứng cứ về vụ án, lập luận bác bỏ một phần hay toàn bộ sự cáo buộc đối với thân chủ của các c quan tiến hành tố tụng trước đó, đề xuất cách gii quyết vụ án để bo vệ quyền và lợi ích của bị cáo.
    Trong TTHS, khi luật sư tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đưng sự, luật sư có quyền năng tố tụng như trong TTDS.
    Trong tất c các hình thức tố tụng, luật sư được đại diện uỷ quyền từ tất cả các đưng sự (đương nhiên là trừ bị can, bị cáo). Khi được đại diện hoặc uỷ quyền, luật sư có quyền như các đưng sự và trong trường hợp này, luật sư sử dụng kiến thức pháp luật và kinh nghiệm của mình để lợi ích của khách hàng được bảo vệ ở mức cao nhất.
    Đóng góp của luật sư
    Nhìn lại chặng đường gần 60 năm qua từ khi Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời, tổ chức và hoạt động của luật sư ở nước ta cũng có lúc thăng trầm nhưng cũng phi thừa nhận sự đóng góp của các luật sư vào trong quá trình gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế hành chính, lao động là rất đáng kể. Các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư đã là những căn cứ pháp lý để các luật sư hành nghề và hoạt động của luật sư đã góp phần bảo đảm chất lượng cho công tác xét xử các vụ án khác nhau của Toà án các cấp. Sự tham gia của luật sư vào các hình thức tố tụng khác nhau đã ít nhiều làm cho các c quan tư pháp, cán bộ tư pháp thận trọng hơn mỗi khi đưa ra các quyết định, phán quyết của mình. Đối với các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán mới vào nghề, ít kinh nghiệm thì các kiến nghị, đề xuất của những luật sư đã từng có nhiều năm làm công tác thực tiễn trước đây ở các c quan tiến hành tố tụng có tác dụng để những người này thực hiện công việc của mình đúng đắn và khách quan hn. Sự hiện diện của luật sư trong quá trình gii quyết các vụ án khác nhau đã làm cho tỷ lệ oan sai gim đi nhiều, người dân cần nhận được tính công bằng, dân chủ trong hoạt động tư pháp và từ đó thêm tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng vào pháp luật và có ý thức hơn trong việc tuân thủ pháp luật.
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  4. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Những hạn chế
    Tuy nhiên, khi bàn tới thực trạng hoạt động của luật sư trong tố tụng, bên cạnh những kết quả đạt được không thể không đề cập những hạn chế đang tồn tại.
    Nghề luật sư chưa được coi trọng
    Trước hết, phi khẳng định luật sư là một nghề. ở những quốc gia phát triển, ở bất kể lĩnh vực nào của đời sống xã hội người ta đều cần tới sự trợ giúp của luật sư. ở Nhật, luật sư được xếp vào một trong 4 nghề cao quý được xã hội trọng vọng là nghị sỹ, bác sỹ, luật sư, nhà giáo. ở nhiều quốc gia trên thế giới, người ta coi tỷ lệ luật sư trên số lượng dân cư như một trong những tiêu chí về sự văn minh và phát triển. So với các nước trên thế giới và khu vực, nghề luật sư ở nước ta thực sự chưa được coi trọng. Cho tới nay c nước mới có 2000 luật sư, lại tập trung c bn ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh... Mỗi năm Toà án các cấp ở nước ta xét xử s thẩm gần 70.000 vụ án hình sự và hàng chục nghìn vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Như vậy, nếu 100% số luật sư hiện nay đều tham gia tranh tụng và nếu chỉ có 50% số vụ án cần luật sư thì mỗi luật sư hàng năm ít nhất phi tham gia vào 20 vụ án theo thủ tục sơ thẩm, mà có vụ án kéo dài không phi hàng tháng mà là hàng năm... Ngoài ra, hàng năm có tới 60 - 70% số vụ án hình sự và 50-60% số vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Chính vì vậy, chỉ nhìn vào số lượng thì cũng thấy luật sư không thể ** đưng được nhiệm vụ đề ra. Nhiều vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự không thể xét xử nếu không có luật sư tham gia, trong khi việc chỉ định luật sư tham gia không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chính vì lý do này, việc hoãn phiên toà thường xuyên xy ra và đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới án tồn đọng, vi phạm các quy định về thời hạn.
    Đạo đức nghề nghiệp
    Luật sư là một nghề cao quý. Để hành nghề và hành nghề có hiệu quả, ngoài trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, người luật sư phi có đạo đức nghề nghiệp. Trong Pháp lệnh luật sư năm 1987 và năm 2001, các Nghị định mà Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh luật sư và điều lệ của các đoàn luật sư đều có các quy định về đạo đức nghề nghiệp của luật sư nhưng trong thực tế không phi không có những trường hợp luật sư vi phạm. Hiện tượng luật sư tham gia bênh vực cho hai bên có lợi ích đối lập nhau ở hai cấp xét xử; luật sư bị đưng sự kiện vì vi phạm hợp đồng; luật sư tham gia "chạy án", luật sư bị truy tố... chưa phi là hiện tượng phổ biến nhưng cũng không phi là hiện tượng cá biệt tính trên đầu ngón tay. Tình trạng trên đây rõ ràng làm gim hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên toà xét xử, nh hưởng xấu tới uy tín của luật sư và những người tiến hành tố tụng.
    Những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng
    Pháp luật về tố tụng hiện hành của nước ta mặc dù còn có những bất cập, còn thiếu nhưng dù sao nó cũng tạo ra được những cơ sở pháp lý của luật sư trong tố tụng. Trong thời gian qua, nếu tuân thủ tuyệt đối các quy định đó cũng là một trong những điều kiện bo ** hiệu qu của hoạt động của luật sư nói riêng và hiệu qu gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động nói chung. Đáng tiếc là trong thực tế đã không như vậy. Pháp luật tố tụng đã quy định các c quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phi có trách nhiệm, nghĩa vụ tạo mọi điều kiện để luật sư tham gia tố tụng bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đưng sự. Thế nhưng do những nguyên nhân, động c khác nhau, trong đó có động c vụ lợi nên đã có nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng gây khó khăn, cn trở hoạt động của luật sư. Có thẩm phán được giao xét xử các vụ án dân sự, kinh tế đã nói thẳng với đưng sự là: không nên mời luật sư và tốt nhất là nhờ thẩm phán, vì chính thẩm phán mới là người có quyền quyết định.
    Trong thời gian qua, trong giới luật sư cũng như trong dư luận xã hội, người ta nói nhiều về những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự. Không ít điều tra viên quan niệm sự tham gia của luật sư - người bào chữa là sự cn trở hoạt động điều tra, vì vậy hầu như không thể tiếp xúc với bị can trong trại tạm giam khi hoạt động điều tra chưa kết thúc. Có c hàng chục lý do khác nhau để c quan điều tra và điều tra viên từ chối hoặc lng tránh không tiếp xúc với luật sư - người bào chữa và cấp giấy chứng nhận bào chữa và giấy giới thiệu vào trại tạm giam gặp bị can. Có những c quan tiến hành tố tụng đưa ra những yêu cầu vô lý như muốn được cấp giấy chứng nhận bào chữa ngoài thẻ luật sư, giấy giới thiệu của đoàn luật sư hoặc văn phòng luật sư, luật sư phi trình lý lịch tư pháp của mình, hay muốn được cấp giấy giới thiệu vào trại tạm giam phi có đn mời luật sư của chính người đang bị tạm giam trong trại tạm giam... Ai cũng hiểu được một nguyên tắc: khi hồ s vụ án do c quan tiến hành tố tụng nào thụ lý thì c quan tiến hành tố tụng đó cấp giấy giới thiệu cho luật sư vào trại tạm giam gặp bị can, bị cáo và trại tạm giam phi thực hiện. Thế nhưng, có không ít trại tạm giam chỉ trích xuất người bị tạm giam khi có sự đồng ý, sự chỉ đạo của chính c quan điều tra hoặc thủ trưởng hành chính cấp trên của trại tạm giam. Đối với các bị can, đặc biệt là các bị can đang bị tạm giam, sự tư vấn và khuyên nhủ của luật sư là rất quan trọng, nó có thể giúp bị can tự biện hộ cho mình lúc không có luật sư, đồng thời có nhiều trường hợp khi bị can khai nhận tội và khai ra các đồng phạm khác sẽ giúp c quan điều tra mở rộng vụ án và nhanh chóng kết thúc điều tra. Thế nhưng, vì không có các quy định thống nhất trong ngành Công an cũng như hướng dẫn liên ngành nên ở một số địa phưng, khi luật sư gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam bao giờ cũng có một vài điều tra viên - người đã điều tra vụ án đó ngồi giám sát. Tài liệu về vụ án chỉ được coi là bí mật với bị can trong giai đoạn điều tra, vì vậy, nếu đã kết thúc điều tra, việc luật sư gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam để thông báo cho những bị can, bị cáo về những chứng cứ, tài liệu chống lại họ để họ chuẩn bị tự bào chữa trước toà là rất cần thiết, được pháp luật cho phép. Thế nhưng, ở một số trại giam, các điều tra viên đã không cho phép luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình.
    Trong các giai đoạn trước khi mở phiên toà xét xử, các yêu cầu, kiến nghị của luật sư phi coi là những tài liệu tố tụng, phi lưu trong hồ s và đặc biệt là phi được tr lời. Thế nhưng, trong thực tế, các yêu cầu, kiến nghị đó được chấp nhận hay không được chấp nhận hầu như không được thông báo cho luật sư biết. Trong tất c các phiên toà xét xử, cho dù là vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính hay lao động thì sự có mặt cùng với các việc làm của luật sư có ý nghĩa rất quan trọng. Vì còn tồn tại một quan niệm rất cũ, rất không khoa học là "án tại hồ s" nên bn thân phiên toà không thực sự là một cuộc điều tra công khai, các tài liệu, chứng cứ mới do các bên đưa ra tại phiên toà ít được xem xét và chấp nhận. Sự tồn tại của c chế "thỉnh thị án", "báo cáo án", "án chỉ đạo", "án bỏ túi" vô hình trung đã phủ định nguyên tắc tranh tụng. Điều này đã hạ thấp vai trò của luật sư trong tố tụng, đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực như trên đã nói là có những luật sư tham gia vào đường dây chạy án.
    Hiệu qu hoạt động của luật sư còn phụ thuộc một phần vào trình độ, kĩ năng hành nghề của chính luật sư. Đã có một thời kỳ do có quan niệm chưa đúng về nghề luật sư nên có người nói Đoàn luật sư là tổ chức của những người về hưu và các sinh viên luật mới ra trường xin vào vì không xin được việc ở c quan nhà nước. Do kh năng kém về sức khoẻ nên không thể xông xáo, đi xa, do trình độ pháp luật còn thấp kém nên sự tham gia trong tố tụng của các luật sư này kém hiệu qu. Cho tới nay, các Đoàn luật sư đã được trẻ hóa, tỷ lệ luật sư chuyên trách được nâng cao. Bên cạnh một số luật sư đã tự học hỏi, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm qua thực tiễn và tự khẳng định mình vẫn còn nhiều luật sư trình độ chuyên môn chưa cao, chưa thực sự là những người thực hiện được nhiệm vụ "bổ trợ tư pháp" để các c quan tiến hành tố tụng gii quyết đúng đắn vụ án và bo vệ có hiệu qu quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Vì có nhiều vụ án trong cùng một thời gian nên có những luật sư tham gia phiên toà theo kiểu "chạy xô" và lại có những luật sư tham gia phiên toà "chỉ để mà tham gia" chứ không phát biểu, đề nghị, kiến nghị được gì để bo vệ cho thân chủ của mình.
    Kiến nghị
    Trong những điều kiện hiện nay, khi mà "công bằng, dân chủ, nhân đạo, văn minh" vừa là những khẩu hiệu, vừa là những mục tiêu của công cuộc ci cách tư pháp thì vấn đề nâng cao hiệu qu hoạt động của luật sư trong tố tụng là rất cần thiết. Điều đầu tiên theo quan điểm của chúng tôi là phi thay đổi trong nhận thức, mà trước hết là nhận thức của các c quan và những người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của luật sư và nghề luật sư trong xã hội. Chừng nào chúng ta chưa thấy được sự tham gia của luật sư trong tố tụng như một sự đối trọng, một hình thức giám sát đối với hoạt động của c quan và người tiến hành tố tụng thì sự hiện diện của luật sư cũng chỉ mang tính hình thức, một thứ "trang điểm thêm đẹp", để cho tố tụng có vẻ dân chủ, có vẻ văn minh mà thôi.
    Trong tố tụng, c chế đối trọng, hình thức giám sát của hoạt động luật sư cần được thể chế hoá bằng pháp luật tố tụng (hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động). Luật tố tụng là luật hình thức, nên về nguyên tắc các quy định nói chung và các quy định về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng nói riêng phi chi tiết, tỉ mỉ. Hạn chế tới mức tối đa các quy phạm tuỳ nghi, quy phạm viện dẫn để một nội dung, một quy định luôn được hiểu như nhau. Song song với các văn bn luật, cần có các văn bn dưới luật, thông tư của ngành và liên ngành điều chỉnh các quan hệ liên quan tới hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong tố tụng từ lâu đã được ghi nhận nhưng lại chưa có c chế thực hiện nguyên tắc này. Các quy định của luật cũng như dưới luật cần tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động của luật sư, từ việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ tới việc kiến nghị, đề xuất các cách thức gii quyết vụ án đối với các c quan tiến hành tố tụng.
    Để tránh oan sai, cần coi trọng những ý kiến của luật sư trong các phiên toà xét xử, đặc biệt là các kiến nghị của luật sư về việc kháng nghị hoặc xem xét vụ án theo các trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. ý kiến của luật sư chỉ có thể bị bác bỏ bởi các lập luận có căn cứ pháp lý của bên kia, tránh tình trạng các kiến nghị của luật sư được các c quan tiến hành tố tụng nhận nhưng chúng lại được "tr lời" bằng sự im lặng hoặc quên lãng.
    Cần ghi nhận tranh tụng như một nguyên tắc trong tất c các hình thức tố tụng và để thực hiện nguyên tắc này không thể không xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", c chế "thỉnh thị án" hay "chỉ đạo án" như đã tồn tại từ xưa tới nay. Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cần được tôn trọng và tuân thủ. Giới luật sư nói riêng và xã hội nói chung đều thừa nhận tính đúng đắn, tính khoa học của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị BCHTW Đng và đang đặt nhiều hi vọng vào các c quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết trong thực tiễn.
    Hoạt động của luật sư trong tố tụng đã có chỗ dựa là Nghị quyết của Đng, có căn cứ pháp lý là Pháp lệnh luật sư năm 2001 và các quy định của pháp luật tố tụng đang dần được sửa đổi cho phù hợp. Để đóng góp vào nhiệm vụ chung là ci cách tư pháp, nâng cao hiệu qu của hoạt động tư pháp, bo vệ có hiệu qu lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, bản thân các tổ chức luật sư, từng cá nhân luật sư phi tự khẳng định vị trí của mình. Đã có một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng hành nghề của luật sư là Trường đào tạo các chức danh tư pháp. Các luật sư và những người mong muốn trở thành luật sư phi tự nâng cao trình độ tri thức, kinh nghiệm công việc qua tự học và học ở trường, lớp. Số lượng luật sư đang rất ít, trong khi nhu cầu trợ giúp pháp lý và tham gia tố tụng lại rất cao. Các Đoàn luật sư không thể "đóng cửa" hoặc hạn chế kết nạp luật sư mới như hiện nay. Giữa các luật sư cũng cần có sự cạnh tranh lành mạnh để từng người hoặc có thể vưn lên khẳng định mình hoặc bị đào thi. Thực tiễn pháp lý và thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi nhiều ở các luật sư và đã tới lúc các luật sư không thể đứng ngoài hoặc thờ với công cuộc đổi mới nói chung và cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta hiện nay./.
    * Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  5. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Những hạn chế
    Tuy nhiên, khi bàn tới thực trạng hoạt động của luật sư trong tố tụng, bên cạnh những kết quả đạt được không thể không đề cập những hạn chế đang tồn tại.
    Nghề luật sư chưa được coi trọng
    Trước hết, phi khẳng định luật sư là một nghề. ở những quốc gia phát triển, ở bất kể lĩnh vực nào của đời sống xã hội người ta đều cần tới sự trợ giúp của luật sư. ở Nhật, luật sư được xếp vào một trong 4 nghề cao quý được xã hội trọng vọng là nghị sỹ, bác sỹ, luật sư, nhà giáo. ở nhiều quốc gia trên thế giới, người ta coi tỷ lệ luật sư trên số lượng dân cư như một trong những tiêu chí về sự văn minh và phát triển. So với các nước trên thế giới và khu vực, nghề luật sư ở nước ta thực sự chưa được coi trọng. Cho tới nay c nước mới có 2000 luật sư, lại tập trung c bn ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh... Mỗi năm Toà án các cấp ở nước ta xét xử s thẩm gần 70.000 vụ án hình sự và hàng chục nghìn vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Như vậy, nếu 100% số luật sư hiện nay đều tham gia tranh tụng và nếu chỉ có 50% số vụ án cần luật sư thì mỗi luật sư hàng năm ít nhất phi tham gia vào 20 vụ án theo thủ tục sơ thẩm, mà có vụ án kéo dài không phi hàng tháng mà là hàng năm... Ngoài ra, hàng năm có tới 60 - 70% số vụ án hình sự và 50-60% số vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Chính vì vậy, chỉ nhìn vào số lượng thì cũng thấy luật sư không thể ** đưng được nhiệm vụ đề ra. Nhiều vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự không thể xét xử nếu không có luật sư tham gia, trong khi việc chỉ định luật sư tham gia không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chính vì lý do này, việc hoãn phiên toà thường xuyên xy ra và đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới án tồn đọng, vi phạm các quy định về thời hạn.
    Đạo đức nghề nghiệp
    Luật sư là một nghề cao quý. Để hành nghề và hành nghề có hiệu quả, ngoài trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, người luật sư phi có đạo đức nghề nghiệp. Trong Pháp lệnh luật sư năm 1987 và năm 2001, các Nghị định mà Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh luật sư và điều lệ của các đoàn luật sư đều có các quy định về đạo đức nghề nghiệp của luật sư nhưng trong thực tế không phi không có những trường hợp luật sư vi phạm. Hiện tượng luật sư tham gia bênh vực cho hai bên có lợi ích đối lập nhau ở hai cấp xét xử; luật sư bị đưng sự kiện vì vi phạm hợp đồng; luật sư tham gia "chạy án", luật sư bị truy tố... chưa phi là hiện tượng phổ biến nhưng cũng không phi là hiện tượng cá biệt tính trên đầu ngón tay. Tình trạng trên đây rõ ràng làm gim hiệu quả hoạt động tranh tụng tại các phiên toà xét xử, nh hưởng xấu tới uy tín của luật sư và những người tiến hành tố tụng.
    Những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng
    Pháp luật về tố tụng hiện hành của nước ta mặc dù còn có những bất cập, còn thiếu nhưng dù sao nó cũng tạo ra được những cơ sở pháp lý của luật sư trong tố tụng. Trong thời gian qua, nếu tuân thủ tuyệt đối các quy định đó cũng là một trong những điều kiện bo ** hiệu qu của hoạt động của luật sư nói riêng và hiệu qu gii quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động nói chung. Đáng tiếc là trong thực tế đã không như vậy. Pháp luật tố tụng đã quy định các c quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phi có trách nhiệm, nghĩa vụ tạo mọi điều kiện để luật sư tham gia tố tụng bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đưng sự. Thế nhưng do những nguyên nhân, động c khác nhau, trong đó có động c vụ lợi nên đã có nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng gây khó khăn, cn trở hoạt động của luật sư. Có thẩm phán được giao xét xử các vụ án dân sự, kinh tế đã nói thẳng với đưng sự là: không nên mời luật sư và tốt nhất là nhờ thẩm phán, vì chính thẩm phán mới là người có quyền quyết định.
    Trong thời gian qua, trong giới luật sư cũng như trong dư luận xã hội, người ta nói nhiều về những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự. Không ít điều tra viên quan niệm sự tham gia của luật sư - người bào chữa là sự cn trở hoạt động điều tra, vì vậy hầu như không thể tiếp xúc với bị can trong trại tạm giam khi hoạt động điều tra chưa kết thúc. Có c hàng chục lý do khác nhau để c quan điều tra và điều tra viên từ chối hoặc lng tránh không tiếp xúc với luật sư - người bào chữa và cấp giấy chứng nhận bào chữa và giấy giới thiệu vào trại tạm giam gặp bị can. Có những c quan tiến hành tố tụng đưa ra những yêu cầu vô lý như muốn được cấp giấy chứng nhận bào chữa ngoài thẻ luật sư, giấy giới thiệu của đoàn luật sư hoặc văn phòng luật sư, luật sư phi trình lý lịch tư pháp của mình, hay muốn được cấp giấy giới thiệu vào trại tạm giam phi có đn mời luật sư của chính người đang bị tạm giam trong trại tạm giam... Ai cũng hiểu được một nguyên tắc: khi hồ s vụ án do c quan tiến hành tố tụng nào thụ lý thì c quan tiến hành tố tụng đó cấp giấy giới thiệu cho luật sư vào trại tạm giam gặp bị can, bị cáo và trại tạm giam phi thực hiện. Thế nhưng, có không ít trại tạm giam chỉ trích xuất người bị tạm giam khi có sự đồng ý, sự chỉ đạo của chính c quan điều tra hoặc thủ trưởng hành chính cấp trên của trại tạm giam. Đối với các bị can, đặc biệt là các bị can đang bị tạm giam, sự tư vấn và khuyên nhủ của luật sư là rất quan trọng, nó có thể giúp bị can tự biện hộ cho mình lúc không có luật sư, đồng thời có nhiều trường hợp khi bị can khai nhận tội và khai ra các đồng phạm khác sẽ giúp c quan điều tra mở rộng vụ án và nhanh chóng kết thúc điều tra. Thế nhưng, vì không có các quy định thống nhất trong ngành Công an cũng như hướng dẫn liên ngành nên ở một số địa phưng, khi luật sư gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam bao giờ cũng có một vài điều tra viên - người đã điều tra vụ án đó ngồi giám sát. Tài liệu về vụ án chỉ được coi là bí mật với bị can trong giai đoạn điều tra, vì vậy, nếu đã kết thúc điều tra, việc luật sư gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam để thông báo cho những bị can, bị cáo về những chứng cứ, tài liệu chống lại họ để họ chuẩn bị tự bào chữa trước toà là rất cần thiết, được pháp luật cho phép. Thế nhưng, ở một số trại giam, các điều tra viên đã không cho phép luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình.
    Trong các giai đoạn trước khi mở phiên toà xét xử, các yêu cầu, kiến nghị của luật sư phi coi là những tài liệu tố tụng, phi lưu trong hồ s và đặc biệt là phi được tr lời. Thế nhưng, trong thực tế, các yêu cầu, kiến nghị đó được chấp nhận hay không được chấp nhận hầu như không được thông báo cho luật sư biết. Trong tất c các phiên toà xét xử, cho dù là vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính hay lao động thì sự có mặt cùng với các việc làm của luật sư có ý nghĩa rất quan trọng. Vì còn tồn tại một quan niệm rất cũ, rất không khoa học là "án tại hồ s" nên bn thân phiên toà không thực sự là một cuộc điều tra công khai, các tài liệu, chứng cứ mới do các bên đưa ra tại phiên toà ít được xem xét và chấp nhận. Sự tồn tại của c chế "thỉnh thị án", "báo cáo án", "án chỉ đạo", "án bỏ túi" vô hình trung đã phủ định nguyên tắc tranh tụng. Điều này đã hạ thấp vai trò của luật sư trong tố tụng, đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tiêu cực như trên đã nói là có những luật sư tham gia vào đường dây chạy án.
    Hiệu qu hoạt động của luật sư còn phụ thuộc một phần vào trình độ, kĩ năng hành nghề của chính luật sư. Đã có một thời kỳ do có quan niệm chưa đúng về nghề luật sư nên có người nói Đoàn luật sư là tổ chức của những người về hưu và các sinh viên luật mới ra trường xin vào vì không xin được việc ở c quan nhà nước. Do kh năng kém về sức khoẻ nên không thể xông xáo, đi xa, do trình độ pháp luật còn thấp kém nên sự tham gia trong tố tụng của các luật sư này kém hiệu qu. Cho tới nay, các Đoàn luật sư đã được trẻ hóa, tỷ lệ luật sư chuyên trách được nâng cao. Bên cạnh một số luật sư đã tự học hỏi, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm qua thực tiễn và tự khẳng định mình vẫn còn nhiều luật sư trình độ chuyên môn chưa cao, chưa thực sự là những người thực hiện được nhiệm vụ "bổ trợ tư pháp" để các c quan tiến hành tố tụng gii quyết đúng đắn vụ án và bo vệ có hiệu qu quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Vì có nhiều vụ án trong cùng một thời gian nên có những luật sư tham gia phiên toà theo kiểu "chạy xô" và lại có những luật sư tham gia phiên toà "chỉ để mà tham gia" chứ không phát biểu, đề nghị, kiến nghị được gì để bo vệ cho thân chủ của mình.
    Kiến nghị
    Trong những điều kiện hiện nay, khi mà "công bằng, dân chủ, nhân đạo, văn minh" vừa là những khẩu hiệu, vừa là những mục tiêu của công cuộc ci cách tư pháp thì vấn đề nâng cao hiệu qu hoạt động của luật sư trong tố tụng là rất cần thiết. Điều đầu tiên theo quan điểm của chúng tôi là phi thay đổi trong nhận thức, mà trước hết là nhận thức của các c quan và những người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của luật sư và nghề luật sư trong xã hội. Chừng nào chúng ta chưa thấy được sự tham gia của luật sư trong tố tụng như một sự đối trọng, một hình thức giám sát đối với hoạt động của c quan và người tiến hành tố tụng thì sự hiện diện của luật sư cũng chỉ mang tính hình thức, một thứ "trang điểm thêm đẹp", để cho tố tụng có vẻ dân chủ, có vẻ văn minh mà thôi.
    Trong tố tụng, c chế đối trọng, hình thức giám sát của hoạt động luật sư cần được thể chế hoá bằng pháp luật tố tụng (hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động). Luật tố tụng là luật hình thức, nên về nguyên tắc các quy định nói chung và các quy định về địa vị pháp lý của luật sư trong tố tụng nói riêng phi chi tiết, tỉ mỉ. Hạn chế tới mức tối đa các quy phạm tuỳ nghi, quy phạm viện dẫn để một nội dung, một quy định luôn được hiểu như nhau. Song song với các văn bn luật, cần có các văn bn dưới luật, thông tư của ngành và liên ngành điều chỉnh các quan hệ liên quan tới hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên trong tố tụng từ lâu đã được ghi nhận nhưng lại chưa có c chế thực hiện nguyên tắc này. Các quy định của luật cũng như dưới luật cần tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng cho hoạt động của luật sư, từ việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ tới việc kiến nghị, đề xuất các cách thức gii quyết vụ án đối với các c quan tiến hành tố tụng.
    Để tránh oan sai, cần coi trọng những ý kiến của luật sư trong các phiên toà xét xử, đặc biệt là các kiến nghị của luật sư về việc kháng nghị hoặc xem xét vụ án theo các trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. ý kiến của luật sư chỉ có thể bị bác bỏ bởi các lập luận có căn cứ pháp lý của bên kia, tránh tình trạng các kiến nghị của luật sư được các c quan tiến hành tố tụng nhận nhưng chúng lại được "tr lời" bằng sự im lặng hoặc quên lãng.
    Cần ghi nhận tranh tụng như một nguyên tắc trong tất c các hình thức tố tụng và để thực hiện nguyên tắc này không thể không xóa bỏ tình trạng "án bỏ túi", c chế "thỉnh thị án" hay "chỉ đạo án" như đã tồn tại từ xưa tới nay. Nguyên tắc khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cần được tôn trọng và tuân thủ. Giới luật sư nói riêng và xã hội nói chung đều thừa nhận tính đúng đắn, tính khoa học của Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị BCHTW Đng và đang đặt nhiều hi vọng vào các c quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết trong thực tiễn.
    Hoạt động của luật sư trong tố tụng đã có chỗ dựa là Nghị quyết của Đng, có căn cứ pháp lý là Pháp lệnh luật sư năm 2001 và các quy định của pháp luật tố tụng đang dần được sửa đổi cho phù hợp. Để đóng góp vào nhiệm vụ chung là ci cách tư pháp, nâng cao hiệu qu của hoạt động tư pháp, bo vệ có hiệu qu lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, bản thân các tổ chức luật sư, từng cá nhân luật sư phi tự khẳng định vị trí của mình. Đã có một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng hành nghề của luật sư là Trường đào tạo các chức danh tư pháp. Các luật sư và những người mong muốn trở thành luật sư phi tự nâng cao trình độ tri thức, kinh nghiệm công việc qua tự học và học ở trường, lớp. Số lượng luật sư đang rất ít, trong khi nhu cầu trợ giúp pháp lý và tham gia tố tụng lại rất cao. Các Đoàn luật sư không thể "đóng cửa" hoặc hạn chế kết nạp luật sư mới như hiện nay. Giữa các luật sư cũng cần có sự cạnh tranh lành mạnh để từng người hoặc có thể vưn lên khẳng định mình hoặc bị đào thi. Thực tiễn pháp lý và thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi nhiều ở các luật sư và đã tới lúc các luật sư không thể đứng ngoài hoặc thờ với công cuộc đổi mới nói chung và cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta hiện nay./.
    * Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  6. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Tố tụng "tranh tụng" và tố tụng "thẩm cứu"1
    Trần đại thắng*
    Nhằm đưa ra một cách nhìn đối với việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, bài viết tập trung mô tả, khái quát và phân tích những đặc trưng cơ bản của hai hệ thống Tố tụng hình sự điển hình trên thế giới là tranh tụng và thẩm cứu (The Adversarial và the Inquisitorial system), so sánh với đặc điểm tố tụng hình sự Việt Nam nhằm chứng minh rằng vì những lý do truyền thống, không thể sao chép mô hình tố tụng của nước ngoài, tuy nhiên phải thừa nhận có "sự giao thoa" của các hệ thống.
    1. Bối cảnh TTHS Việt Nam
    Hiện nay khái niệm về "cơ quan tư pháp" ở Việt Nam phổ biến được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và trong chừng mực nhất định bao gồm cơ c quan thi hành án1. Theo Điều 27 của Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) thì cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra. Ba cơ quan chính trong hệ thống tư pháp hình sự có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có chung nhiệm vụ phải "phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội"2.
    Theo trình tự tố tụng thông thường, một hành vi phạm tội sẽ được cơ quan điều tra tiến hành điều tra qua các thao tác như: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra và đề nghị truy tố gửi đến Viện kiểm sát. Viện kiểm sát sẽ xem xét, quyết định truy tố bị can ra toà bằng bản cáo trạng. Toà án có nhiệm vụ xét xử và bản án sẽ được chuyển cho cơ quan thi hành án để thi hành. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thông thường do cơ quan điều tra đề nghị hoặc trực tiếp tiến hành có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Điều đáng chú ý là vai trò của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong TTHS. Viện kiểm sát nhân dân không chỉ "thực hành quyền công tố" mà còn thực hiện chức năng "kiểm sát các hoạt động tư pháp"3.
    Như vậy có thể thấy:
    Thứ nhất, cách thức tổ chức hệ thống tư pháp hình sự hiện nay giống như một "đường trục" hay một "dây chuyền" tuy rằng có sự trùng lắp hay bao trùm bởi chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Cách tổ chức như vậy cùng với hàng loạt các quy định, thủ tục tố tụng phức tạp, dễ dẫn đến tình trạng khi một khâu nào đó bị trục trặc hoặc sự liên kết, hợp tác giữa các cơ quan tố tụng không được chặt chẽ, đồng bộ sẽ nh hưởng đến cơ hệ thống mà trực tiếp là hiệu quả hoạt động của cơ hệ thống tư pháp hình sự.
    Thứ hai, cách thức tổ chức như trên vô hình trung đặt các cơ quan tư pháp về một phía và đặt những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo ở phía bên kia. Điều này dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lực của cơ ba cơ quan này theo kiểu "ba bộ đồng tình" mà hậu quả dễ thấy là tình trạng oan, sai hay vi phạm các quyền công dân của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo "bị dồn" vào thế phải chịu đựng và đối phó với cơ một hệ thống cơ quan tư pháp "hùng mạnh" với đầy đủ quyền lực nhà nước trong tay.
    2. Tố tụng hình sự tranh tụng
    Tố tụng hình sự tranh tụng (tố tụng tranh tụng) được sử dụng rộng rãi ở các nước theo truyền thống luật án lệ như Anh, Mỹ, úc và một số quốc gia khác. Tuy có sự khác biệt ở mỗi quốc gia, tố tụng tranh tụng có thể được khái quát như sau4: Cảnh sát sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra toà. Nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường những tội có mức hình phạt cao nhất dưới năm năm tù) thì toà án thụ lý chỉ cần có một thẩm phán. Nếu là tội nghiêm trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa xét xử theo thủ tục rút gọn, không có bồi thẩm đoàn tham dự. Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có bồi thẩm đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra toà với một thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, đối chất và tự bảo vệ quan điểm của mình. Thẩm phán có vai trò điều hành mọi hoạt động tố tụng, hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, thẩm phán có vai trò điều khiển các bên tham gia phiên toà để bảo đảm những thông tin về chứng cứ đưa ra không tạo nên định kiến (prejudice) đối với bồi thẩm đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn toàn thuộc quyền hạn của bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có thẩm phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến định) không cho phép xét xử hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội (Double jeopardy). Việc phúc thẩm chỉ đặt ra khi liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình.
    Đặc điểm
    Tố tụng tranh tụng có ba đặc điểm chính5.
    Thứ nhất, trong tố tụng tranh tụng, toà án giữ vai trò thụ động và trung lập. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi toà án phải kiềm chế tham gia tìm hiểu về nội dung vụ án tận tới khi các bên đã trình bày hết các chứng cứ. Nếu toà án tham gia tích cực vào vụ án, nhất là vào việc xét hỏi tại toà, công chúng sẽ cho rằng Toà án là một bên tranh chấp và như vậy sẽ không bảo đảm công lý.
    Thứ hai, tố tụng tranh tụng đòi hỏi các bên phải trình bày chứng cứ. Do vai trò thụ động và trung lập của toà án, các bên phải tự tìm, thu thập và trình bày chứng cứ một cách có hiệu quả nhất, thuyết phục nhất trước toà. Vì sự phức tạp của các quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung, các bên thường không tự mình tiến hành tố tụng mà phải có một đội ngũ luật gia chuyên nghiệp đại diện trong các hoạt động tố tụng, đặc biệt là tại phiên toà.
    Thứ ba, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố tụng: Quy tắc tố tụng (rules of procedures), quy tắc chứng cứ (rules of evidence) và quy tắc về ứng xử của luật sư (rules of counsel). Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có nh hưởng lớn nhất vì nó "kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định (decision-maker)"6 hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cơ thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ cho rằng thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đặt ra nhằm bảo đảm sự công bằng trong tranh tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch hoặc có thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết7. Trong vụ án Miranda nổi tiếng trong lịch sử tư pháp Mỹ, bị cáo bị kết tội ở toà s thẩm dựa trên lời khai với cảnh sát, và vụ việc được đưa lên Toà án tối cao vì liên quan đến một trong những quyền được Hiến pháp bảo vệ. Căn cứ chính mà luật sư đưa ra không phải là nội dung lời khai của bị cáo đúng hay sai mà ở chỗ khi lấy cung bị cáo, cảnh sát đã không thông báo cho bị cáo biết trước bị cáo được quyền im lặng và lời khai của bị cáo sau này có thể được sử dụng trước toà chống lại bị cáo. Như học gi Reichel đã bình luận, tố tụng tranh tụng thiên về luật hình thức hơn là luật nội dung8. Có thể nói, lịch sử hơn 200 năm phát triển của tố tụng tranh tụng gắn với lịch sử phát triển của các quy tắc về chứng cứ. Luật về chứng cứ luôn luôn đồ sộ nhất và phức tạp nhất trong tố tụng tranh tụng.
    Còn phải nói đến một khác biệt quan trọng của tố tụng tranh tụng khi so với các hệ TTHS khác là yếu tố thú tội và mặc cơ thú tội (pleas of guilty and plea-bargaining). Do tính chất khắc nghiệt của tranh tụng, cơ quan cnh sát và công tố nhiều khi không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể "thắng" tại phiên toà khi họ muốn truy tố một bị cáo hoặc các bị cáo khác. Do đó, luật pháp có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép họ tho thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được gim hình phạt sau này. cơ chế này tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục tố tụng đối với bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn "tranh tụng" nữa và lúc đó thẩm phán sẽ thẩm tra lại hồ s vụ án để quyết định hình phạt9. Một thực tế là các phiên toà như thường thấy trên các phưng tiện thông tin đại chúng có đầy đủ luật sư, công tố viên, thẩm phán, bồi thẩm đoàn chỉ chiếm 3-10% tổng số vụ án đã xử lý của toà án10. Đây là ni mà "cuộc đấu" gay gắt nhất, khốc liệt nhất, kéo dài nhất, "một ăn một thua"- vì khi Bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo vô tội, cơ quan công tố không bao giờ được truy tố bị cáo ra toà về tội đó nữa.
    Tố tụng tranh tụng với thực trạng TTHS ở Việt Nam
    Rõ ràng là, thể thức tố tụng như trên không thể phù hợp với thực trạng TTHS nước ta, ni các cơ quan tố tụng có chức năng không chỉ buộc tội mà còn cơ gỡ tội cho bị cáo11. Hn nữa, ở hệ tranh tụng, nguyên tắc phân quyền quy định toà án là bộ phận độc lập tách khỏi hành pháp và lập pháp. Toà án không những là cơ quan xét xử một tội phạm dựa trên luật hiện hành mà còn được coi là cơ quan thực thi công lý, bảo vệ công dân chống lại những vi phạm hay lạm dụng quyền hành của cnh sát và cơ quan công tố - thuộc hành pháp12. Toà án là cơ quan tư pháp và toà án chỉ xét xử dựa trên sự truy tố của cnh sát hay cơ quan công tố. Việc có đưa một bị can ra truy tố hay không, tình hình tội phạm diễn biến thế nào không thuộc thẩm quyền hay trách nhiệm của toà án. Chính quyền hành pháp phải chịu trách nhiệm trước công chúng về tình hình tội phạm, về việc truy tố hay không truy tố một tội phạm và hậu quả là chính quyền đó có được bầu lại trong nhiệm kỳ tới hay không. Trong khi đó toà án là cơ quan hoàn toàn độc lập, các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, bồi thẩm đoàn không chịu trách nhiệm khi đưa ra phán quyết, trừ khi có sai phạm về ứng xử. Cách thức tổ chức như trên cho thấy, về lý luận, tố tụng tranh tụng không thể đặt ra đối với TTHS hiện nay của Việt Nam, "tố tụng tranh tụng chỉ phù hợp duy nhất với các thể chế có hệ thống toà án độc lập với hành pháp và lập pháp theo nguyên tắc phân quyền..., công dân có thói quen tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến cộng đồng, các quyền công dân cơ bản được tôn trọng và bảo vệ... và nền dân chủ có cơ sở đảm bảo vững chắc"13.
    Về kỹ thuật, có thể thấy rằng, hệ tranh tụng bao gồm hàng loạt các quy tắc về tố tụng, về chứng cứ... và có bề dày phát triển mấy trăm năm. Tố tụng tranh tụng không đn thuần là các thủ tục "tranh tụng" đn lẻ mà là tổng hợp của các quy tắc có quan hệ chặt chẽ, kết nối, liên kết với nhau tạo thành cơ một hệ thống thống nhất mà chỉ cần thiếu một chi tiết là nh hưởng tới sự vận hành của toàn hệ thống14. Nếu áp dụng hệ tranh tụng, rõ ràng đây là một ý tưởng không thực tế đối với TTHS Việt Nam, vốn bị nh hưởng nặng nề bởi tố tụng thẩm cứu. TTHS trên thế giới cũng đang có xu hướng "giao thoa", hệ thống này áp dụng một số nguyên tắc, thể thức của hệ thống kia và ngược lại, nhưng việc vận dụng chi tiết nào, vào đâu là cơ một sự cân nhắc, xem xét trong từng trường hợp cụ thể15.
    3. Tố tụng hình sự thẩm cứu
    Tố tụng hình sự thẩm cứu (tố tụng thẩm cứu) được áp dụng phổ biến ở các nước theo truyền thống luật dân sự - châu Âu lục địa. Nó bắt đầu phát triển rộng rãi tại châu Âu lục địa từ thế kỷ XVI và là sự kết hợp giữa các yếu tố của luật La mã cổ đại với những nguyên tắc pháp lý của giáo hội Thiên chúa giáo16. Tố tụng thẩm cứu diễn ra như sau17: Sau khi cnh sát phát hiện một hành vi tội phạm, tuỳ theo mức độ vi phạm, vụ việc sẽ được chuyển cho Viện công tố. Đối với những vi phạm nhỏ hay tội tiểu hình, vụ án sẽ được chuyển cho Toà tiểu hình hoặc toà vi cnh và được xét xử bởi một thẩm phán hoặc có cơ hội thẩm tham gia. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và quyết định truy tố thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Viện công tố cũng là cơ quan chỉ đạo hoạt động điều tra của cnh sát. Đối với những vụ đại hình, sau khi s bộ kết thúc điều tra, hồ s vụ án sẽ được chuyển cho thẩm phán điều tra để xem xét yếu tố chứng cứ đã đủ để đưa ra phiên toà đại hình hay không. Thẩm phán điều tra có quyền đề ra những yêu cầu điều tra bổ sung đối với cnh sát và cơ quan công tố. Nếu Viện công tố quyết định truy tố bị cáo ra toà, vụ án sẽ được xét xử bởi một hội đồng xét xử có cơ thẩm phán và hội thẩm (Đức) hay bởi một bồi thẩm đoàn (Pháp, Italia). Thông thường, phiên toà bắt đầu bằng việc công tố viên đọc cáo trạng, mô t vắn tắt hành vi phạm tội của bị cáo, tội danh. Thẩm phán sẽ hỏi bị cáo và nếu bị cáo không thực hiện "quyền im lặng"18, bị cáo sẽ phải tr lời về hành vi phạm tội của mình. Sau đó là thủ tục xét hỏi từng nhân chứng và xem xét các chứng cứ cụ thể khác. Công tố viên và luật sư được quyền hỏi bị cáo và nhân chứng về bất kỳ vấn đề gì mà họ thấy cần thiết. Bị cáo và luật sư của họ cũng được quyền hỏi lại hay đối chất với nhân chứng và công tố viên. Hội thẩm được quyền hỏi nhưng thường là sau khi thẩm phán và các bên đã hỏi - đáp xong. cơ luật sư và công tố viên đều có quyền đưa ra bản kết luận cùng lập luận của họ về những tình tiết của vụ án qua quá trình xét xử trước khi bị cáo nói lời sau cùng và toà nghị án. Cũng giống như tố tụng tranh tụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn (đặc biệt là tạm giam) hay cưỡng chế tố tụng đối với bị can, bị cáo do toà án xem xét, quyết định nhưng có một khác biệt: Viện công tố đề nghị và toà án quyết định tuy luật sư hay bị cáo có quyền đưa ra phn bác hay kháng nghị lên toà cấp trên. Trong khi đó, ở hệ tranh tụng, việc xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn thường diễn ra tại một phiên xử nhỏ trước thẩm phán hay một viên chức toà án có sự tranh luận của các bên về các căn cứ áp dụng.
    Có thể thấy rằng, ở tố tụng thẩm cứu, các cơ quan tố tụng đều làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội. Việc xét xử tại toà cũng là một giai đoạn tiếp tục điều tra để tìm sự thật của vụ án. Toà án có vai trò tích cực và chủ động trong việc tìm ra sự thật bằng việc có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ19. Luật sư có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải trình bày chứng cứ như ở hệ tranh tụng, họ có vai trò bổ sung trong công cuộc đi tìm sự thật của toà án và để đảm bảo rằng các hoạt động tố tụng đã diễn ra đúng đắn, các quyền của bị can, bị cáo được tôn trọng và bảo vệ.
    Trong tố tụng thẩm cứu, viện công tố có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra và truy tố. Viện công tố có thẩm quyền phê chuẩn khởi tố vụ án, trực tiếp điều tra và chỉ đạo mọi hoạt động điều tra của cnh sát20. Tất cơ các biện pháp nghiệp vụ, cưỡng chế tố tụng như khám xét, nghe lén hay bắt giữ (trừ trường hợp khẩn cấp)... đều phải có sự cho phép trước hay tham dự của Viện công tố. Mặc dù trong hệ điều tra thẩm cứu có sự xuất hiện của thẩm phán điều tra, nhưng chức năng bị ràng buộc bởi thẩm quyền của viện công tố trong việc cho phép điều tra ai, vụ việc gì và thực chất thẩm phán điều tra chỉ có vai trò bổ sung cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ hn các tình tiết của các vụ án phức tạp, kết nối các yếu tố chứng cứ của quá trình điều tra cho phù hợp với quá trình xét xử tại toà.
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  7. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Tố tụng "tranh tụng" và tố tụng "thẩm cứu"1
    Trần đại thắng*
    Nhằm đưa ra một cách nhìn đối với việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, bài viết tập trung mô tả, khái quát và phân tích những đặc trưng cơ bản của hai hệ thống Tố tụng hình sự điển hình trên thế giới là tranh tụng và thẩm cứu (The Adversarial và the Inquisitorial system), so sánh với đặc điểm tố tụng hình sự Việt Nam nhằm chứng minh rằng vì những lý do truyền thống, không thể sao chép mô hình tố tụng của nước ngoài, tuy nhiên phải thừa nhận có "sự giao thoa" của các hệ thống.
    1. Bối cảnh TTHS Việt Nam
    Hiện nay khái niệm về "cơ quan tư pháp" ở Việt Nam phổ biến được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và trong chừng mực nhất định bao gồm cơ c quan thi hành án1. Theo Điều 27 của Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) thì cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra. Ba cơ quan chính trong hệ thống tư pháp hình sự có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có chung nhiệm vụ phải "phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội"2.
    Theo trình tự tố tụng thông thường, một hành vi phạm tội sẽ được cơ quan điều tra tiến hành điều tra qua các thao tác như: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra và đề nghị truy tố gửi đến Viện kiểm sát. Viện kiểm sát sẽ xem xét, quyết định truy tố bị can ra toà bằng bản cáo trạng. Toà án có nhiệm vụ xét xử và bản án sẽ được chuyển cho cơ quan thi hành án để thi hành. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thông thường do cơ quan điều tra đề nghị hoặc trực tiếp tiến hành có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Điều đáng chú ý là vai trò của Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong TTHS. Viện kiểm sát nhân dân không chỉ "thực hành quyền công tố" mà còn thực hiện chức năng "kiểm sát các hoạt động tư pháp"3.
    Như vậy có thể thấy:
    Thứ nhất, cách thức tổ chức hệ thống tư pháp hình sự hiện nay giống như một "đường trục" hay một "dây chuyền" tuy rằng có sự trùng lắp hay bao trùm bởi chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Cách tổ chức như vậy cùng với hàng loạt các quy định, thủ tục tố tụng phức tạp, dễ dẫn đến tình trạng khi một khâu nào đó bị trục trặc hoặc sự liên kết, hợp tác giữa các cơ quan tố tụng không được chặt chẽ, đồng bộ sẽ nh hưởng đến cơ hệ thống mà trực tiếp là hiệu quả hoạt động của cơ hệ thống tư pháp hình sự.
    Thứ hai, cách thức tổ chức như trên vô hình trung đặt các cơ quan tư pháp về một phía và đặt những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo ở phía bên kia. Điều này dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lực của cơ ba cơ quan này theo kiểu "ba bộ đồng tình" mà hậu quả dễ thấy là tình trạng oan, sai hay vi phạm các quyền công dân của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo "bị dồn" vào thế phải chịu đựng và đối phó với cơ một hệ thống cơ quan tư pháp "hùng mạnh" với đầy đủ quyền lực nhà nước trong tay.
    2. Tố tụng hình sự tranh tụng
    Tố tụng hình sự tranh tụng (tố tụng tranh tụng) được sử dụng rộng rãi ở các nước theo truyền thống luật án lệ như Anh, Mỹ, úc và một số quốc gia khác. Tuy có sự khác biệt ở mỗi quốc gia, tố tụng tranh tụng có thể được khái quát như sau4: Cảnh sát sau khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra toà. Nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường những tội có mức hình phạt cao nhất dưới năm năm tù) thì toà án thụ lý chỉ cần có một thẩm phán. Nếu là tội nghiêm trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa xét xử theo thủ tục rút gọn, không có bồi thẩm đoàn tham dự. Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có bồi thẩm đoàn, vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra toà với một thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng, đối chất và tự bảo vệ quan điểm của mình. Thẩm phán có vai trò điều hành mọi hoạt động tố tụng, hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, thẩm phán có vai trò điều khiển các bên tham gia phiên toà để bảo đảm những thông tin về chứng cứ đưa ra không tạo nên định kiến (prejudice) đối với bồi thẩm đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn toàn thuộc quyền hạn của bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có thẩm phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị cáo được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan công tố cũng không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến định) không cho phép xét xử hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội (Double jeopardy). Việc phúc thẩm chỉ đặt ra khi liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình.
    Đặc điểm
    Tố tụng tranh tụng có ba đặc điểm chính5.
    Thứ nhất, trong tố tụng tranh tụng, toà án giữ vai trò thụ động và trung lập. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi toà án phải kiềm chế tham gia tìm hiểu về nội dung vụ án tận tới khi các bên đã trình bày hết các chứng cứ. Nếu toà án tham gia tích cực vào vụ án, nhất là vào việc xét hỏi tại toà, công chúng sẽ cho rằng Toà án là một bên tranh chấp và như vậy sẽ không bảo đảm công lý.
    Thứ hai, tố tụng tranh tụng đòi hỏi các bên phải trình bày chứng cứ. Do vai trò thụ động và trung lập của toà án, các bên phải tự tìm, thu thập và trình bày chứng cứ một cách có hiệu quả nhất, thuyết phục nhất trước toà. Vì sự phức tạp của các quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung, các bên thường không tự mình tiến hành tố tụng mà phải có một đội ngũ luật gia chuyên nghiệp đại diện trong các hoạt động tố tụng, đặc biệt là tại phiên toà.
    Thứ ba, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố tụng: Quy tắc tố tụng (rules of procedures), quy tắc chứng cứ (rules of evidence) và quy tắc về ứng xử của luật sư (rules of counsel). Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có nh hưởng lớn nhất vì nó "kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định (decision-maker)"6 hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cơ thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ cho rằng thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đặt ra nhằm bảo đảm sự công bằng trong tranh tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch hoặc có thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết7. Trong vụ án Miranda nổi tiếng trong lịch sử tư pháp Mỹ, bị cáo bị kết tội ở toà s thẩm dựa trên lời khai với cảnh sát, và vụ việc được đưa lên Toà án tối cao vì liên quan đến một trong những quyền được Hiến pháp bảo vệ. Căn cứ chính mà luật sư đưa ra không phải là nội dung lời khai của bị cáo đúng hay sai mà ở chỗ khi lấy cung bị cáo, cảnh sát đã không thông báo cho bị cáo biết trước bị cáo được quyền im lặng và lời khai của bị cáo sau này có thể được sử dụng trước toà chống lại bị cáo. Như học gi Reichel đã bình luận, tố tụng tranh tụng thiên về luật hình thức hơn là luật nội dung8. Có thể nói, lịch sử hơn 200 năm phát triển của tố tụng tranh tụng gắn với lịch sử phát triển của các quy tắc về chứng cứ. Luật về chứng cứ luôn luôn đồ sộ nhất và phức tạp nhất trong tố tụng tranh tụng.
    Còn phải nói đến một khác biệt quan trọng của tố tụng tranh tụng khi so với các hệ TTHS khác là yếu tố thú tội và mặc cơ thú tội (pleas of guilty and plea-bargaining). Do tính chất khắc nghiệt của tranh tụng, cơ quan cnh sát và công tố nhiều khi không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể "thắng" tại phiên toà khi họ muốn truy tố một bị cáo hoặc các bị cáo khác. Do đó, luật pháp có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép họ tho thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được gim hình phạt sau này. cơ chế này tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, toàn bộ thủ tục tố tụng đối với bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn "tranh tụng" nữa và lúc đó thẩm phán sẽ thẩm tra lại hồ s vụ án để quyết định hình phạt9. Một thực tế là các phiên toà như thường thấy trên các phưng tiện thông tin đại chúng có đầy đủ luật sư, công tố viên, thẩm phán, bồi thẩm đoàn chỉ chiếm 3-10% tổng số vụ án đã xử lý của toà án10. Đây là ni mà "cuộc đấu" gay gắt nhất, khốc liệt nhất, kéo dài nhất, "một ăn một thua"- vì khi Bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo vô tội, cơ quan công tố không bao giờ được truy tố bị cáo ra toà về tội đó nữa.
    Tố tụng tranh tụng với thực trạng TTHS ở Việt Nam
    Rõ ràng là, thể thức tố tụng như trên không thể phù hợp với thực trạng TTHS nước ta, ni các cơ quan tố tụng có chức năng không chỉ buộc tội mà còn cơ gỡ tội cho bị cáo11. Hn nữa, ở hệ tranh tụng, nguyên tắc phân quyền quy định toà án là bộ phận độc lập tách khỏi hành pháp và lập pháp. Toà án không những là cơ quan xét xử một tội phạm dựa trên luật hiện hành mà còn được coi là cơ quan thực thi công lý, bảo vệ công dân chống lại những vi phạm hay lạm dụng quyền hành của cnh sát và cơ quan công tố - thuộc hành pháp12. Toà án là cơ quan tư pháp và toà án chỉ xét xử dựa trên sự truy tố của cnh sát hay cơ quan công tố. Việc có đưa một bị can ra truy tố hay không, tình hình tội phạm diễn biến thế nào không thuộc thẩm quyền hay trách nhiệm của toà án. Chính quyền hành pháp phải chịu trách nhiệm trước công chúng về tình hình tội phạm, về việc truy tố hay không truy tố một tội phạm và hậu quả là chính quyền đó có được bầu lại trong nhiệm kỳ tới hay không. Trong khi đó toà án là cơ quan hoàn toàn độc lập, các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, bồi thẩm đoàn không chịu trách nhiệm khi đưa ra phán quyết, trừ khi có sai phạm về ứng xử. Cách thức tổ chức như trên cho thấy, về lý luận, tố tụng tranh tụng không thể đặt ra đối với TTHS hiện nay của Việt Nam, "tố tụng tranh tụng chỉ phù hợp duy nhất với các thể chế có hệ thống toà án độc lập với hành pháp và lập pháp theo nguyên tắc phân quyền..., công dân có thói quen tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến cộng đồng, các quyền công dân cơ bản được tôn trọng và bảo vệ... và nền dân chủ có cơ sở đảm bảo vững chắc"13.
    Về kỹ thuật, có thể thấy rằng, hệ tranh tụng bao gồm hàng loạt các quy tắc về tố tụng, về chứng cứ... và có bề dày phát triển mấy trăm năm. Tố tụng tranh tụng không đn thuần là các thủ tục "tranh tụng" đn lẻ mà là tổng hợp của các quy tắc có quan hệ chặt chẽ, kết nối, liên kết với nhau tạo thành cơ một hệ thống thống nhất mà chỉ cần thiếu một chi tiết là nh hưởng tới sự vận hành của toàn hệ thống14. Nếu áp dụng hệ tranh tụng, rõ ràng đây là một ý tưởng không thực tế đối với TTHS Việt Nam, vốn bị nh hưởng nặng nề bởi tố tụng thẩm cứu. TTHS trên thế giới cũng đang có xu hướng "giao thoa", hệ thống này áp dụng một số nguyên tắc, thể thức của hệ thống kia và ngược lại, nhưng việc vận dụng chi tiết nào, vào đâu là cơ một sự cân nhắc, xem xét trong từng trường hợp cụ thể15.
    3. Tố tụng hình sự thẩm cứu
    Tố tụng hình sự thẩm cứu (tố tụng thẩm cứu) được áp dụng phổ biến ở các nước theo truyền thống luật dân sự - châu Âu lục địa. Nó bắt đầu phát triển rộng rãi tại châu Âu lục địa từ thế kỷ XVI và là sự kết hợp giữa các yếu tố của luật La mã cổ đại với những nguyên tắc pháp lý của giáo hội Thiên chúa giáo16. Tố tụng thẩm cứu diễn ra như sau17: Sau khi cnh sát phát hiện một hành vi tội phạm, tuỳ theo mức độ vi phạm, vụ việc sẽ được chuyển cho Viện công tố. Đối với những vi phạm nhỏ hay tội tiểu hình, vụ án sẽ được chuyển cho Toà tiểu hình hoặc toà vi cnh và được xét xử bởi một thẩm phán hoặc có cơ hội thẩm tham gia. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và quyết định truy tố thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Viện công tố cũng là cơ quan chỉ đạo hoạt động điều tra của cnh sát. Đối với những vụ đại hình, sau khi s bộ kết thúc điều tra, hồ s vụ án sẽ được chuyển cho thẩm phán điều tra để xem xét yếu tố chứng cứ đã đủ để đưa ra phiên toà đại hình hay không. Thẩm phán điều tra có quyền đề ra những yêu cầu điều tra bổ sung đối với cnh sát và cơ quan công tố. Nếu Viện công tố quyết định truy tố bị cáo ra toà, vụ án sẽ được xét xử bởi một hội đồng xét xử có cơ thẩm phán và hội thẩm (Đức) hay bởi một bồi thẩm đoàn (Pháp, Italia). Thông thường, phiên toà bắt đầu bằng việc công tố viên đọc cáo trạng, mô t vắn tắt hành vi phạm tội của bị cáo, tội danh. Thẩm phán sẽ hỏi bị cáo và nếu bị cáo không thực hiện "quyền im lặng"18, bị cáo sẽ phải tr lời về hành vi phạm tội của mình. Sau đó là thủ tục xét hỏi từng nhân chứng và xem xét các chứng cứ cụ thể khác. Công tố viên và luật sư được quyền hỏi bị cáo và nhân chứng về bất kỳ vấn đề gì mà họ thấy cần thiết. Bị cáo và luật sư của họ cũng được quyền hỏi lại hay đối chất với nhân chứng và công tố viên. Hội thẩm được quyền hỏi nhưng thường là sau khi thẩm phán và các bên đã hỏi - đáp xong. cơ luật sư và công tố viên đều có quyền đưa ra bản kết luận cùng lập luận của họ về những tình tiết của vụ án qua quá trình xét xử trước khi bị cáo nói lời sau cùng và toà nghị án. Cũng giống như tố tụng tranh tụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn (đặc biệt là tạm giam) hay cưỡng chế tố tụng đối với bị can, bị cáo do toà án xem xét, quyết định nhưng có một khác biệt: Viện công tố đề nghị và toà án quyết định tuy luật sư hay bị cáo có quyền đưa ra phn bác hay kháng nghị lên toà cấp trên. Trong khi đó, ở hệ tranh tụng, việc xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn thường diễn ra tại một phiên xử nhỏ trước thẩm phán hay một viên chức toà án có sự tranh luận của các bên về các căn cứ áp dụng.
    Có thể thấy rằng, ở tố tụng thẩm cứu, các cơ quan tố tụng đều làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội. Việc xét xử tại toà cũng là một giai đoạn tiếp tục điều tra để tìm sự thật của vụ án. Toà án có vai trò tích cực và chủ động trong việc tìm ra sự thật bằng việc có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ19. Luật sư có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải trình bày chứng cứ như ở hệ tranh tụng, họ có vai trò bổ sung trong công cuộc đi tìm sự thật của toà án và để đảm bảo rằng các hoạt động tố tụng đã diễn ra đúng đắn, các quyền của bị can, bị cáo được tôn trọng và bảo vệ.
    Trong tố tụng thẩm cứu, viện công tố có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra và truy tố. Viện công tố có thẩm quyền phê chuẩn khởi tố vụ án, trực tiếp điều tra và chỉ đạo mọi hoạt động điều tra của cnh sát20. Tất cơ các biện pháp nghiệp vụ, cưỡng chế tố tụng như khám xét, nghe lén hay bắt giữ (trừ trường hợp khẩn cấp)... đều phải có sự cho phép trước hay tham dự của Viện công tố. Mặc dù trong hệ điều tra thẩm cứu có sự xuất hiện của thẩm phán điều tra, nhưng chức năng bị ràng buộc bởi thẩm quyền của viện công tố trong việc cho phép điều tra ai, vụ việc gì và thực chất thẩm phán điều tra chỉ có vai trò bổ sung cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ hn các tình tiết của các vụ án phức tạp, kết nối các yếu tố chứng cứ của quá trình điều tra cho phù hợp với quá trình xét xử tại toà.
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  8. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Tố tụng thẩm cứu với thực trạng TTHS Việt Nam
    Như vậy, tuy có sự giống nhau (đều buộc tội và gỡ tội), có một khác biệt lớn giữa TTHS Việt Nam và tố tụng thẩm cứu, đó là vị trí của Viện công tố. Về tổ chức Nhà nước, Viện công tố ở các nước theo hệ tố tụng thẩm cứu nói chung được đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp tuy rằng các công tố viên có quy chế nghề nghiệp, hoạt động như các thẩm phán21. Bộ trưởng Bộ tư pháp phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về mọi hoạt động của Viện công tố. Tuy nhiên, việc quy định công tố viên có quy chế giống như các thẩm phán chỉ nhằm đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của công tố viên, tránh những can thiệp của quyền lực chính trị22. Về vị trí và chức năng của Viện công tố trong tổ chức Nhà nước và hệ thống tư pháp hình sự, có sự giống nhau giữa hệ tố tụng thẩm cứu và tranh tụng, Bộ trưởng Bộ tư pháp đứng đầu cơ quan công tố và chịu trách nhiệm trước pháp luật và công chúng về tình hình thực thi pháp luật và truy tố tội phạm. Trong khi đó, Viện kiểm sát Việt Nam là cơ quan độc lập, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Quốc hội.
    Bên cạnh đó, trong tố tụng thẩm cứu, trừ giai đoạn thi hành án, chỉ có hai giai đoạn buộc tội và xét xử và gắn vào đó là hai cơ quan chính: Viện công tố và toà án. Trong đó, Viện công tố đại diện cho hành pháp truy tố một người nào đó ra toà23 và toà án đại diện cho tư pháp để xét xử. Viện công tố là trung tâm của chức năng buộc tội, cơ quan cnh sát chỉ làm nhiệm vụ điều tra theo yêu cầu của cơ quan công tố và cơ quan công tố phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chức năng buộc tội trước pháp luật và công chúng. Tất nhiên không thể nói rằng cnh sát không có sự độc lập trong hoạt động điều tra, giữ gìn an ninh trật tự hay trấn áp tội phạm v.v..., nhưng liên quan đến các hoạt động để đưa một người nào đó ra toà, viện công tố có vai trò đặc biệt quan trọng vì là cơ quan quyết định có cho phép khởi tố, điều tra và truy tố một tội phạm hay không24.
    Trong khi đó, trình tự TTHS Việt Nam bị cắt khúc thành ba giai đoạn25: điều tra, truy tố và xét xử mà trong đó mỗi cơ quan phụ trách một giai đoạn, một khâu. Hồ s vụ án do cơ quan điều tra lập và lần lượt được chuyển từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát và toà án. Mọi quyết định hay hành vi tố tụng trong giai đoạn tiền xét xử hầu hết do cơ quan điều tra làm và chuyển sang Viện kiểm sát để xem xét phê chuẩn hay không phê chuẩn - hay nói cách khác là kiểm tra tính hợp pháp, đúng hay sai của các quyết định hay hành vi tố tụng đó. cơ về luật thực định và kh năng thực tế, Viện kiểm sát không có vai trò chủ đạo trong hoạt động điều tra, không nắm được cơ quan điều tra26. Ngay cơ giai đoạn truy tố, các quyết định thể hiện thẩm quyền chức năng của Viện kiểm sát cũng giống với cơ quan điều tra và cũng giống với toà án ở giai đoạn trước khi xét xử, trừ thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung27. Mặc dù có thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung và có thể nói đây là sự khác biệt, thể hiện thẩm quyền của Viện công tố đối với cơ quan điều tra nhưng đây không phải quyền duy nhất của Viện kiểm sát vì toà án cũng có quyền này, kể cơ khi xét xử tại phiên toà28. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung hoàn toàn thuộc "quyền hạn" của cơ quan điều tra và không có ràng buộc hay bảo đảm về pháp luật để cơ quan điều tra thực hiện đúng theo yêu cầu điều tra bổ sung. TTHS phụ thuộc nặng nề vào giai đoạn điều tra và cơ quan điều tra như một nhận định gần đây: "dù xét xử s thẩm hay phúc thẩm... các Hội đồng xét xử phần lớn và chủ yếu vẫn phải dựa vào những tài liệu do cơ quan điều tra thu thập, xây dựng, tập hợp trong hồ s vụ án... chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào kết quả xây dựng hồ s của cơ quan điều tra"29. Nếu không nói đến chức năng kiểm sát hoạt động điều tra hay nói chính xác là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra, có thể nói, về trình tự tố tụng, Viện kiểm sát chỉ làm nhiệm vụ "nhận" hồ s từ cơ quan điều tra để sau đó đọc cáo trạng trước toà án.
    4. Đánh giá và kết luận
    1. Tố tụng tranh tụng đang được áp dụng ở các nước theo truyền thống luật án lệ Anh- Mỹ và với nhiều ưu điểm và có thể được coi là mô hình mẫu cho nhiều hệ thống tố tụng khác. Nhưng như đã trình bày ở trên, nó khó có thể trở thành mô hình cho TTHS Việt Nam về mọi phưng diện. Có thể khẳng định, Ban soạn tho Bộ luật TTHS sửa đổi đã có cách tiếp cận đúng khi nhìn nhận về định hướng được vạch ra trong Nghị quyết số 08- NQ/TW: "...việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà..."30. Tố tụng tranh tụng bao gồm hàng loạt các quy tắc về chứng cứ, tố tụng... và không đn thuần về kỹ thuật, việc thay đổi sang hệ thống tranh tụng không chỉ nh hưởng đến tổ chức các cơ quan tư pháp mà còn liên quan đến tổ chức Nhà nước, cách thức phân chia quyền lực hành pháp, tư pháp và lập pháp.
    Hệ tố tụng thẩm cứu được áp dụng ở các nước theo truyền thống luật thành văn hay châu Âu lục địa. Tuy không được coi trọng hay đánh giá cao như hệ tố tụng tranh tụng và hiện nay hệ thống này đang có xu hướng áp dụng một số cơ chế của hệ tranh tụng, nhưng trên thế giới có tới 48% số quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng hệ thống này trong khi áp dụng hệ tố tụng tranh tụng chỉ có 19%31. Xem xét các đặc trưng của tố tụng thẩm cứu, rất khó có thể khẳng định tố tụng hình sự nước ta thuộc hệ tố tụng này mà chỉ có thể cho rằng tố tụng hình sự nước ta có nhiều đặc điểm giống với hệ tố tụng thẩm cứu hn là với hệ tố tụng tranh tụng. Tuy vậy, trừ một số khác biệt như vị trí của Toà án, Viện kiểm sát trong tổ chức Nhà nước và trong tố tụng, TTHS nước ta và tố tụng thẩm cứu có một đặc trưng cơ bản giống nhau là đều có chức năng buộc tội và gỡ tội, tất cơ các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự nói chung đều có trách nhiệm hoặc được khuyến khích tìm ra sự thật không phải qua đối kháng mà qua điều tra, xét hỏi. Có thể khẳng định, cách tiếp cận của chúng ta với hệ tố tụng thẩm cứu có sức thuyết phục hn. Hn nữa, cũng cần phải lưu ý một thực tế: hệ tố tụng thẩm cứu hiện vẫn đang vận hành rất tốt ở các quốc gia phát triển như Pháp, Đức, Thụy Điển và nhiều nước châu Âu khác32.
    2. Khi xem xét hai hệ thống tố tụng lớn và điển hình trên, có thể thấy tuy có những điểm khác nhau về trình tự, thủ tục tố tụng hay cách thức tổ chức hệ thống tư pháp hình sự, nhưng có một điểm chung: Dù tổ chức theo cách thức nào, cơ quan tố tụng thực hiện những hoạt động gì nhưng khi liên quan đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân thì vấn đề sẽ trở nên khác. Đối tượng trực tiếp chịu nh hưởng của tố tụng hình sự là những công dân được coi là vô tội khi chưa có quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án. Những hành vi như bắt, tạm giam, giữ hay khám xét đều liên quan đến những quyền cơ bản của công dân vốn được quy định trong Hiến pháp hoặc trong những đạo luật cơ bản và khi áp dụng, các cơ quan cnh sát hay công tố đều phải xin lệnh hay phê chuẩn của Toà án. Hn nữa, rất nhiều quyền công dân trong tố tụng hình sự đã được thể chế hoá trong luật pháp các nước và thậm chí trở thành tiêu chuẩn quốc tế, chẳng hạn một số quyền như:
    - Quyền được giam giữ trước khi xét xử bằng lệnh của toà án và quyền được đề nghị toà án xem xét lại tính hợp pháp của các lệnh bắt, giam, giữ;
    - Quyền có luật sư của họ trong các hoạt động tố tụng;
    - Quyền được suy đoán vô tội;
    - Quyền được chất vấn, đối chất nhân chứng chống lại họ và quyền được yêu cầu sự có mặt của nhân chứng mà họ thấy cần thiết;
    - Quyền không phải chứng minh, không phải khai báo chống lại họ, quyền được im lặng;
    - Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội khi họ đã từng bị kết án có tội hay vô tội;
    Các quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ra đời năm 1966 và có hiệu lực từ năm 197633. Do vậy, khi tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan tố tụng phải bảo đảm các quyền cơ bản của công dân và nếu có vi phạm, kết quả của toàn bộ các hoạt động tố tụng sẽ không còn giá trị. Với vai trò nắm quyền lực tư pháp, toà án không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ công dân chống lại những vi phạm hay lạm dụng quyền lực của hành pháp. Nguyên tắc pháp quyền (rule of laws) được tôn trọng và bảo đảm là cơ sở cho toà án thực hiện tốt chức năng xét xử theo những chuẩn mực chung của pháp luật và xã hội.
    Có thể nói, trên thế giới có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ tố tụng hình sự và ngay cơ việc phân định hai hệ thống chính là tố tụng tranh tụng và thẩm cứu cũng là tưng đối vì ngay cơ hai quốc gia trong cùng một hệ thống cũng có những khác biệt và không thể lấy mô hình của một quốc gia để khái quát những đặc điểm chung cho cơ hệ thống. Hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống tư pháp hình sự và tố tụng hình sự nói riêng của một quốc gia được xây dựng trên truyền thống pháp luật, cơ sở, điều kiện chính trị, lịch sử, văn hoá của quốc gia đó34. Không thể sao chép mô hình tố tụng của một hệ thống, một quốc gia để áp dụng cho một quốc gia khác. Hn nữa, các nước khác nhau ở các mô hình tố tụng khác nhau cũng có sự học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của nhau. Việc lựa chọn mô hình nào, hay những yếu tố nào là cơ một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, đúc rút kinh nghiệm từ những thành công thậm chí thất bại vì có thể ở quốc gia này vận hành tốt nhưng ở quốc gia khác không có kết quả tưng tự.
    3. Một thực tế là tất cơ các quốc gia trên thế giới đều phải hàng ngày, hàng giờ đấu tranh chống tội phạm, đều phải bắt hay giam giữ, khám xét, đều phải đưa những kẻ phạm tội ra toà để công lý được thực thi. Các quốc gia cũng đều phải đối phó với những vấn đề như tội phạm gia tăng hay diễn biến phức tạp, tình trạng oan sai hay sự trì trệ của các cơ quan đấu tranh chống tội phạm. Chỉ có khác nhau ở chỗ: mức độ tội phạm hay sự trì trệ đến đâu, số lượng và mức độ oan sai như thế nào để xã hội và người dân có thể chấp nhận được. Ngay từ năm 1964, Packer đã đưa ra khái quát về hai mô hình tố tụng hình sự và được thừa nhận rộng rãi trong khoa học cũng như thực tiễn tố tụng hình sự trên thế giới: mô hình công bằng (due process model) và mô hình kiểm soát tội phạm (crime control model)35. Nói một cách ngắn gọn, một mô hình thiên về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và một mô hình thiên về phòng chống tội phạm. Không một xã hội nào, nếu không phải ở thời kỳ chiến tranh, chỉ áp dụng mô hình kiểm soát tội phạm và cũng không một xã hội tự do nào chỉ áp dụng mô hình công bằng. Vấn đề là kết hợp giữa các yếu tố của mỗi mô hình như thế nào để vừa bảo đảm các quyền công dân trong khi tiến hành hiệu quả công cuộc đấu tranh chống tội phạm.
    4. Từ những phân tích, so sánh trên đây, tác gi bài viết cho rằng:
    - Việc sửa đổi Bộ luật TTHS không chỉ liên quan đến toàn bộ hệ thống tư pháp hình sự mà còn phụ thuộc rất lớn vào cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vị trí của từng cơ quan tố tụng trong phân chia quyền lực nhà nước.
    - Không nên đặt ra trọng tâm của việc sửa đổi là theo mô hình tranh tụng hay thẩm cứu. Cần phải bắt đầu từ việc xem xét những nhược điểm nội tại của TTHS hiện hành và nguyên nhân của tình trạng đó là gì thì mới có thể đưa ra giải pháp thích hợp. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng: truyền thống pháp luật, điều kiện chính trị, văn hoá xã hội là những yếu tố phải cân nhắc khi xem xét bất cứ sự thay đổi nào.
    - Nếu luật hình sự thể hiện xử sự của Nhà nước đối với người phạm tội thì luật TTHS thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với công dân tự do. Việc sửa đổi phải bắt đầu từ bị can bị cáo, những người vẫn là công dân tự do theo luật pháp, do đó những quyền cơ bản của công dân cần phải được tôn trọng và bảo vệ và phải có cơ chế đảm bảo thi hành thực sự trong TTHS./.
    * ThS, Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  9. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Tố tụng thẩm cứu với thực trạng TTHS Việt Nam
    Như vậy, tuy có sự giống nhau (đều buộc tội và gỡ tội), có một khác biệt lớn giữa TTHS Việt Nam và tố tụng thẩm cứu, đó là vị trí của Viện công tố. Về tổ chức Nhà nước, Viện công tố ở các nước theo hệ tố tụng thẩm cứu nói chung được đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp tuy rằng các công tố viên có quy chế nghề nghiệp, hoạt động như các thẩm phán21. Bộ trưởng Bộ tư pháp phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về mọi hoạt động của Viện công tố. Tuy nhiên, việc quy định công tố viên có quy chế giống như các thẩm phán chỉ nhằm đảm bảo sự độc lập trong hoạt động của công tố viên, tránh những can thiệp của quyền lực chính trị22. Về vị trí và chức năng của Viện công tố trong tổ chức Nhà nước và hệ thống tư pháp hình sự, có sự giống nhau giữa hệ tố tụng thẩm cứu và tranh tụng, Bộ trưởng Bộ tư pháp đứng đầu cơ quan công tố và chịu trách nhiệm trước pháp luật và công chúng về tình hình thực thi pháp luật và truy tố tội phạm. Trong khi đó, Viện kiểm sát Việt Nam là cơ quan độc lập, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Quốc hội.
    Bên cạnh đó, trong tố tụng thẩm cứu, trừ giai đoạn thi hành án, chỉ có hai giai đoạn buộc tội và xét xử và gắn vào đó là hai cơ quan chính: Viện công tố và toà án. Trong đó, Viện công tố đại diện cho hành pháp truy tố một người nào đó ra toà23 và toà án đại diện cho tư pháp để xét xử. Viện công tố là trung tâm của chức năng buộc tội, cơ quan cnh sát chỉ làm nhiệm vụ điều tra theo yêu cầu của cơ quan công tố và cơ quan công tố phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chức năng buộc tội trước pháp luật và công chúng. Tất nhiên không thể nói rằng cnh sát không có sự độc lập trong hoạt động điều tra, giữ gìn an ninh trật tự hay trấn áp tội phạm v.v..., nhưng liên quan đến các hoạt động để đưa một người nào đó ra toà, viện công tố có vai trò đặc biệt quan trọng vì là cơ quan quyết định có cho phép khởi tố, điều tra và truy tố một tội phạm hay không24.
    Trong khi đó, trình tự TTHS Việt Nam bị cắt khúc thành ba giai đoạn25: điều tra, truy tố và xét xử mà trong đó mỗi cơ quan phụ trách một giai đoạn, một khâu. Hồ s vụ án do cơ quan điều tra lập và lần lượt được chuyển từ cơ quan điều tra sang Viện kiểm sát và toà án. Mọi quyết định hay hành vi tố tụng trong giai đoạn tiền xét xử hầu hết do cơ quan điều tra làm và chuyển sang Viện kiểm sát để xem xét phê chuẩn hay không phê chuẩn - hay nói cách khác là kiểm tra tính hợp pháp, đúng hay sai của các quyết định hay hành vi tố tụng đó. cơ về luật thực định và kh năng thực tế, Viện kiểm sát không có vai trò chủ đạo trong hoạt động điều tra, không nắm được cơ quan điều tra26. Ngay cơ giai đoạn truy tố, các quyết định thể hiện thẩm quyền chức năng của Viện kiểm sát cũng giống với cơ quan điều tra và cũng giống với toà án ở giai đoạn trước khi xét xử, trừ thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung27. Mặc dù có thẩm quyền yêu cầu điều tra bổ sung và có thể nói đây là sự khác biệt, thể hiện thẩm quyền của Viện công tố đối với cơ quan điều tra nhưng đây không phải quyền duy nhất của Viện kiểm sát vì toà án cũng có quyền này, kể cơ khi xét xử tại phiên toà28. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung hoàn toàn thuộc "quyền hạn" của cơ quan điều tra và không có ràng buộc hay bảo đảm về pháp luật để cơ quan điều tra thực hiện đúng theo yêu cầu điều tra bổ sung. TTHS phụ thuộc nặng nề vào giai đoạn điều tra và cơ quan điều tra như một nhận định gần đây: "dù xét xử s thẩm hay phúc thẩm... các Hội đồng xét xử phần lớn và chủ yếu vẫn phải dựa vào những tài liệu do cơ quan điều tra thu thập, xây dựng, tập hợp trong hồ s vụ án... chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào kết quả xây dựng hồ s của cơ quan điều tra"29. Nếu không nói đến chức năng kiểm sát hoạt động điều tra hay nói chính xác là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra, có thể nói, về trình tự tố tụng, Viện kiểm sát chỉ làm nhiệm vụ "nhận" hồ s từ cơ quan điều tra để sau đó đọc cáo trạng trước toà án.
    4. Đánh giá và kết luận
    1. Tố tụng tranh tụng đang được áp dụng ở các nước theo truyền thống luật án lệ Anh- Mỹ và với nhiều ưu điểm và có thể được coi là mô hình mẫu cho nhiều hệ thống tố tụng khác. Nhưng như đã trình bày ở trên, nó khó có thể trở thành mô hình cho TTHS Việt Nam về mọi phưng diện. Có thể khẳng định, Ban soạn tho Bộ luật TTHS sửa đổi đã có cách tiếp cận đúng khi nhìn nhận về định hướng được vạch ra trong Nghị quyết số 08- NQ/TW: "...việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà..."30. Tố tụng tranh tụng bao gồm hàng loạt các quy tắc về chứng cứ, tố tụng... và không đn thuần về kỹ thuật, việc thay đổi sang hệ thống tranh tụng không chỉ nh hưởng đến tổ chức các cơ quan tư pháp mà còn liên quan đến tổ chức Nhà nước, cách thức phân chia quyền lực hành pháp, tư pháp và lập pháp.
    Hệ tố tụng thẩm cứu được áp dụng ở các nước theo truyền thống luật thành văn hay châu Âu lục địa. Tuy không được coi trọng hay đánh giá cao như hệ tố tụng tranh tụng và hiện nay hệ thống này đang có xu hướng áp dụng một số cơ chế của hệ tranh tụng, nhưng trên thế giới có tới 48% số quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng hệ thống này trong khi áp dụng hệ tố tụng tranh tụng chỉ có 19%31. Xem xét các đặc trưng của tố tụng thẩm cứu, rất khó có thể khẳng định tố tụng hình sự nước ta thuộc hệ tố tụng này mà chỉ có thể cho rằng tố tụng hình sự nước ta có nhiều đặc điểm giống với hệ tố tụng thẩm cứu hn là với hệ tố tụng tranh tụng. Tuy vậy, trừ một số khác biệt như vị trí của Toà án, Viện kiểm sát trong tổ chức Nhà nước và trong tố tụng, TTHS nước ta và tố tụng thẩm cứu có một đặc trưng cơ bản giống nhau là đều có chức năng buộc tội và gỡ tội, tất cơ các cơ quan trong hệ thống tư pháp hình sự nói chung đều có trách nhiệm hoặc được khuyến khích tìm ra sự thật không phải qua đối kháng mà qua điều tra, xét hỏi. Có thể khẳng định, cách tiếp cận của chúng ta với hệ tố tụng thẩm cứu có sức thuyết phục hn. Hn nữa, cũng cần phải lưu ý một thực tế: hệ tố tụng thẩm cứu hiện vẫn đang vận hành rất tốt ở các quốc gia phát triển như Pháp, Đức, Thụy Điển và nhiều nước châu Âu khác32.
    2. Khi xem xét hai hệ thống tố tụng lớn và điển hình trên, có thể thấy tuy có những điểm khác nhau về trình tự, thủ tục tố tụng hay cách thức tổ chức hệ thống tư pháp hình sự, nhưng có một điểm chung: Dù tổ chức theo cách thức nào, cơ quan tố tụng thực hiện những hoạt động gì nhưng khi liên quan đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân thì vấn đề sẽ trở nên khác. Đối tượng trực tiếp chịu nh hưởng của tố tụng hình sự là những công dân được coi là vô tội khi chưa có quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án. Những hành vi như bắt, tạm giam, giữ hay khám xét đều liên quan đến những quyền cơ bản của công dân vốn được quy định trong Hiến pháp hoặc trong những đạo luật cơ bản và khi áp dụng, các cơ quan cnh sát hay công tố đều phải xin lệnh hay phê chuẩn của Toà án. Hn nữa, rất nhiều quyền công dân trong tố tụng hình sự đã được thể chế hoá trong luật pháp các nước và thậm chí trở thành tiêu chuẩn quốc tế, chẳng hạn một số quyền như:
    - Quyền được giam giữ trước khi xét xử bằng lệnh của toà án và quyền được đề nghị toà án xem xét lại tính hợp pháp của các lệnh bắt, giam, giữ;
    - Quyền có luật sư của họ trong các hoạt động tố tụng;
    - Quyền được suy đoán vô tội;
    - Quyền được chất vấn, đối chất nhân chứng chống lại họ và quyền được yêu cầu sự có mặt của nhân chứng mà họ thấy cần thiết;
    - Quyền không phải chứng minh, không phải khai báo chống lại họ, quyền được im lặng;
    - Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội khi họ đã từng bị kết án có tội hay vô tội;
    Các quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ra đời năm 1966 và có hiệu lực từ năm 197633. Do vậy, khi tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan tố tụng phải bảo đảm các quyền cơ bản của công dân và nếu có vi phạm, kết quả của toàn bộ các hoạt động tố tụng sẽ không còn giá trị. Với vai trò nắm quyền lực tư pháp, toà án không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ công dân chống lại những vi phạm hay lạm dụng quyền lực của hành pháp. Nguyên tắc pháp quyền (rule of laws) được tôn trọng và bảo đảm là cơ sở cho toà án thực hiện tốt chức năng xét xử theo những chuẩn mực chung của pháp luật và xã hội.
    Có thể nói, trên thế giới có bao nhiêu quốc gia thì có bấy nhiêu hệ tố tụng hình sự và ngay cơ việc phân định hai hệ thống chính là tố tụng tranh tụng và thẩm cứu cũng là tưng đối vì ngay cơ hai quốc gia trong cùng một hệ thống cũng có những khác biệt và không thể lấy mô hình của một quốc gia để khái quát những đặc điểm chung cho cơ hệ thống. Hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống tư pháp hình sự và tố tụng hình sự nói riêng của một quốc gia được xây dựng trên truyền thống pháp luật, cơ sở, điều kiện chính trị, lịch sử, văn hoá của quốc gia đó34. Không thể sao chép mô hình tố tụng của một hệ thống, một quốc gia để áp dụng cho một quốc gia khác. Hn nữa, các nước khác nhau ở các mô hình tố tụng khác nhau cũng có sự học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của nhau. Việc lựa chọn mô hình nào, hay những yếu tố nào là cơ một quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, đúc rút kinh nghiệm từ những thành công thậm chí thất bại vì có thể ở quốc gia này vận hành tốt nhưng ở quốc gia khác không có kết quả tưng tự.
    3. Một thực tế là tất cơ các quốc gia trên thế giới đều phải hàng ngày, hàng giờ đấu tranh chống tội phạm, đều phải bắt hay giam giữ, khám xét, đều phải đưa những kẻ phạm tội ra toà để công lý được thực thi. Các quốc gia cũng đều phải đối phó với những vấn đề như tội phạm gia tăng hay diễn biến phức tạp, tình trạng oan sai hay sự trì trệ của các cơ quan đấu tranh chống tội phạm. Chỉ có khác nhau ở chỗ: mức độ tội phạm hay sự trì trệ đến đâu, số lượng và mức độ oan sai như thế nào để xã hội và người dân có thể chấp nhận được. Ngay từ năm 1964, Packer đã đưa ra khái quát về hai mô hình tố tụng hình sự và được thừa nhận rộng rãi trong khoa học cũng như thực tiễn tố tụng hình sự trên thế giới: mô hình công bằng (due process model) và mô hình kiểm soát tội phạm (crime control model)35. Nói một cách ngắn gọn, một mô hình thiên về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và một mô hình thiên về phòng chống tội phạm. Không một xã hội nào, nếu không phải ở thời kỳ chiến tranh, chỉ áp dụng mô hình kiểm soát tội phạm và cũng không một xã hội tự do nào chỉ áp dụng mô hình công bằng. Vấn đề là kết hợp giữa các yếu tố của mỗi mô hình như thế nào để vừa bảo đảm các quyền công dân trong khi tiến hành hiệu quả công cuộc đấu tranh chống tội phạm.
    4. Từ những phân tích, so sánh trên đây, tác gi bài viết cho rằng:
    - Việc sửa đổi Bộ luật TTHS không chỉ liên quan đến toàn bộ hệ thống tư pháp hình sự mà còn phụ thuộc rất lớn vào cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vị trí của từng cơ quan tố tụng trong phân chia quyền lực nhà nước.
    - Không nên đặt ra trọng tâm của việc sửa đổi là theo mô hình tranh tụng hay thẩm cứu. Cần phải bắt đầu từ việc xem xét những nhược điểm nội tại của TTHS hiện hành và nguyên nhân của tình trạng đó là gì thì mới có thể đưa ra giải pháp thích hợp. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng: truyền thống pháp luật, điều kiện chính trị, văn hoá xã hội là những yếu tố phải cân nhắc khi xem xét bất cứ sự thay đổi nào.
    - Nếu luật hình sự thể hiện xử sự của Nhà nước đối với người phạm tội thì luật TTHS thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với công dân tự do. Việc sửa đổi phải bắt đầu từ bị can bị cáo, những người vẫn là công dân tự do theo luật pháp, do đó những quyền cơ bản của công dân cần phải được tôn trọng và bảo vệ và phải có cơ chế đảm bảo thi hành thực sự trong TTHS./.
    * ThS, Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười
  10. ngualuoi

    ngualuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Về tranh tụng trong tố tụng hình sự
    Nguyễn Thị Bắc*
    Hai hệ thống tố tụng hình sự "tranh tụng" và "xét hỏi" dựa trên truyền thống pháp lý và điều kiện khác nhau. Bàn về vấn đề này, tác gi cho rằng cần thận trọng khi muốn ci cách tố tụng hình sự ở Việt Nam theo hướng tranh tụng; nên bổ sung thêm vào tố tụng "xét hỏi" ở Việt Nam những ưu điểm của tố tụng tranh tụng.

    1. Khái lược về tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi
    Tố tụng tranh tụng là một loại hình tố tụng xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng. Nhiều nhà khoa học đều cho rằng quá trình phát triển pháp luật tố tụng thế giới có hai loại hình tố tụng cơ bn, thứ nhất là loại hình tố tụng tranh tụng, thứ hai là loại hình tố tụng xét hỏi. Trong tố tụng tranh tụng có yếu tố xét hỏi, trong tố tụng xét hỏi có yếu tố tranh tụng. Loại hình tố tụng tranh tụng xuất hiện trước và được áp dụng đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại. Loại hình tố tụng xét hỏi có sau và được xuất hiện lần đầu trong pháp luật La Mã. Từ sau cách mạng tư sn Pháp (1789) thì loại hình tố tụng xét hỏi này được thực hiện ở hầu hết các nước châu Âu và nhiều nước trên thế giới, trừ các nước theo hệ thống luật án lệ. Quá trình phát triển của pháp luật cho thấy các nước theo trường phái luật án lệ như Anh, Mỹ, úc, Singapo thường áp dụng tố tụng tranh tụng còn các nước theo hệ thống luật lục địa thường áp dụng xét hỏi. Hai loại hình tố tụng này tuy có khác nhau về thủ tục, trình tự trong quá trình giải quyết vụ án nhưng đều có chung mục đích cơ bản là tìm ra sự thật, không xử oan người vô tội.
    Loại hình tố tụng tranh tụng được áp dụng ở mỗi quốc gia có những điểm khác biệt, nhưng xét về bản chất có chung một số đặc điểm sau:
    Thứ nhất, thủ tục tranh tụng được thực hiện một cách công khai theo các nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà. Các bên buộc tội và bị buộc tội phải tự tìm, thu thập tài liệu, chứng cứ và trình bày trước phiên toà. Đó là việc đấu chứng, đấu lý giữa hai bên, mỗi bên đều có quyền đưa ra chứng cứ, đặt câu hỏi trực tiếp đối với bên kia và cơ đối với nhân chứng, giám định viên, thậm chí có quyền ngắt lời, phn bác ý kiến bên kia. Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng, Hội đồng xét xử chỉ đóng vai trò như một trọng tài, không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, không được biết trước những tài liệu, chứng cứ do hai bên buộc tội và gỡ tội thu thập được trước khi mở phiên toà. Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành phiên toà và quyết định hình phạt sau khi Bồi thẩm đoàn quyết định bị cáo có tội. Trường hợp nếu bồi thẩm đoàn quyết định bị cáo vô tội thì vụ án được chấm dứt ngay, không được kháng cáo, kháng nghị, xét xử phúc thẩm.
    Khác với loại hình tố tụng tranh tụng, tố tụng xét hỏi đề cao vai trò chủ động của thẩm phán. Ngoài cơ quan điều tra, cơ quan công tố phải chứng minh tội phạm thì Toà án cũng có nhiệm vụ chứng minh tội phạm. Trong những vụ án nghiêm trọng, thẩm phán còn có quyền chỉ đạo việc điều tra; ra lệnh tạm giam bị can khi cần thiết. Tại phiên toà, thẩm phán là người tích cực xét hỏi bị cáo, người bị hại, nhân chứng... để tìm ra sự thật của vụ án. Thủ tục này được xem như là việc tiếp tục điều tra- điều tra công khai tại phiên toà. Việc tranh luận giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội về các tình tiết của vụ án được tiến hành sau khi Hội đồng xét xử kiểm tra công khai toàn bộ các chứng cứ của vụ án và nếu người tiến hành và người tham gia tố tụng tại phiên toà không còn yêu cầu hỏi thêm gì nữa. Trong tố tụng xét hỏi, cơ quan công tố có quyền lớn hn so với tố tụng tranh tụng như: cơ quan công tố có vai trò bảo vệ lợi ích chung, có quyền chỉ đạo công tác điều tra.
    Về hai loại hình tố tụng trên, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều cho rằng, mỗi loại hình đều có ưu điểm và nhược điểm. Nhược điểm chính của loại hình tố tụng tranh tụng là bị tốn nhiều tiền thuê luật sư, mà nếu không thuê luật sư thì việc gỡ tội sẽ rất khó khăn và có thể không thể thực hiện được. Tố tụng tranh tụng rất phức tạp vì đáng lẽ ra nhiều vấn đề phải được giải quyết trong quá trình điều tra vụ án, nhưng tất cơ phải trình bày, diễn ra tại phiên toà, dẫn đến phiên toà kéo rất dài. Tố tụng xét hỏi thường bị phê phán là không tôn trọng đầy đủ quyền của bên gỡ tội vì họ không có nghĩa vụ chứng minh vô tội và nhiều khi thẩm phán đã có sẵn trong đầu những nhận định, quyết định trước khi mở phiên toà và như vậy thì việc tranh luận tại phiên toà trở nên vô nghĩa.
    ở nước ta, khái niệm tranh tụng được thừa nhận trong khoa học pháp luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, từ sau khi có Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, thì vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự, tranh tụng tại phiên toà được các nhà luật gia quan tâm nhiều hn. Có ý kiến cho rằng cần chuyển mô hình tố tụng nước ta hiện nay sang loại hình tranh tụng. Có ý kiến đề nghị cần quy định nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Có ý kiến cho rằng cần nâng cao chất lượng tranh luận dân chủ giữa kiểm sát viên và bên bị buộc tội nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo tôi, cần hết sức thận trọng khi muốn ci cách tố tụng theo hướng tố tụng tranh tụng vì tố tụng tranh tụng cũng có không ít nhược điểm. Mặt khác, cũng cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc những giá trị truyền thống của pháp luật nước ta và hoàn cnh, điều kiện về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hiện nay để có từng bước ci cách mô hình tố tụng cho phù hợp nhằm bảo vệ, phát huy hn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tuyệt đối hoá quan điểm: Toà án chỉ đóng vai trò trọng tài, không buộc tội, không gỡ tội là chưa phù hợp với điều kiện, hoàn cnh nước ta và cũng không phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nước ta là quyền lực tập trung thống nhất, có sự phân công và phối hợp. Nghị quyết 08/NQ-TW hoàn toàn không đề cập đến việc thay đổi mô hình tố tụng của nước ta hiện nay mà đề ra việc nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, việc bảo đảm tranh tụng dân chủ tại phiên toà giữa kiểm sát viên với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác và kết quả tranh tụng tại phiên toà phải là một trong những căn cứ quan trọng để phán quyết, ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Theo đó, vấn đề tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là phải mở rộng dân chủ, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước toà án, nâng cao trách nhiệm, năng lực của người tiến hành tố tụng, nhất là ở giai đoạn xét xử nhằm bảo đảm tính khách quan, chính xác trong việc giải quyết các vụ án hình sự, chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
    2. Quy định, thực trạng
    Từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS các quy phạm pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự được quy định ri rác trong các sắc lệnh, thông tư liên ngành và luật. Các quy định này còn mang tính khái quát, chưa quy định chi tiết về trình tự, thủ tục tại phiên toà. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước những năm 1960 thủ tục tố tụng tại phiên toà được quy định ở một số Sắc lệnh và thông tư liên ngành. Thí dụ: tại Điều thứ 5 Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 về thiết lập các Toà án quân sự quy định: "Đứng buộc tội là một uỷ viên quân sự hay một uỷ viên của các ban trinh sát. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ một người khác bênh vực cho"; Điều thứ 31 Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán quy định: "Sau khi nghe các bị can, các người làm chứng, cáo trạng của ông biện lý và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án hai thẩm phán và hai phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng xét xử về tất cơ các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp gim tội. Nghị án xong, toà lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai bản án"; tại Điều thứ 26 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về ấn định thẩm quyền các toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong toà án quy định: "Khi cuộc thẩm vấn ở phiên toà xong rồi, ông biện lý thay mặt xã hội buộc tội bị can. Bao giờ ông biện lý cũng nói sau cùng, trước khi toà tuyên án. Toà không bắt buộc phải xử theo yêu cầu của ông biện lý".
    Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành đã đánh dấu một bước phát triển của các cơ quan tiến hành tố tụng, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Chức năng xét xử các vụ án hình sự hoàn toàn tách khỏi chức năng buộc tội, cơ quan công tố được tách ra khỏi Chính phủ. Đây cũng là cơ sở pháp lý để hoàn thiện một bước pháp luật tố tụng hình sự cũng như thủ tục xét xử tại phiên toà của Toà án các cấp. Sau đó tại Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Toà án nhân dân tối cao đã có một số quy định về thủ tục tại phiên toà như: tại phiên toà "Toà án nhân dân thẩm tra lại toàn bộ chứng cứ, nghe tranh cãi và cuối cùng quyết định việc xử lý vụ án".
    Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Toà án năm 1981. Điều 133 của Hiến pháp năm 1980 quy định: "Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đưng sự khác về mặt pháp lý". Điều 9 của Luật tổ chức Toà án năm 1981 quy định: "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo **. Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người luật sư, bào chữa viên nhân dân bào chữa cho mình. Trong những trường hợp do pháp luật quy định, Toà án nhân dân cử người bào chữa cho bị cáo". Tiếp đó, ngày 18/12/1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành. Những quy định trên đây là những căn cứ pháp lý rất quan trọng đối với việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo và việc hình thành, phát triển đội ngũ luật sư ở nước ta, phát huy vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự.
    Ngày 28/6/1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989 đã đánh dấu một bước phát triển mới của khoa học luật tố tụng hình sự, đáp ứng nhu cầu về đổi mới và dân chủ hoá của đời sống xã hội do Đng ta khởi xướng.
    Ngoài việc ghi nhận các nguyên tắc tố tụng truyền thống đã được đề cập trong Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân, BLTTHS còn quy định một số nguyên tắc mới phù hợp với xu thế dân chủ hoá theo đường lối đổi mới của Đng như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án: "C quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp lý để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết gim nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội" (Điều 11); nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 12); nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án: "kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đn dân sự, bị đn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án" (Điều 20). Đồng thời BLTTHS còn ghi nhận và xác định các quyền tố tụng của bị can, bị cáo, người bào chữa và các điều kiện khác bảo đảm quyền bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trước Toà án trong quá trình xét xử. Cùng với những quy định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử BLTTHS đã quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; cơ quan điều tra tiến hành điều tra thu thập chứng cứ xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Toà án là cơ quan xét xử. Với mục đích xác định sự thật của vụ án, BLTTHS còn quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tố tụng nói chung và trong xét xử nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan này một mặt phát hiện một cách khách quan, chính xác, nhanh chóng hành vi tội phạm, đồng thời bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, không làm oan người vô tội. Đặc biệt BLTTHS đã giành hai chưng XIX và XX quy định về thủ tục, trình tự xét hỏi, tranh luận tại phiên toà - xác định các phán quyết của Toà án phải trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét công khai tại phiên toà và kết quả tranh luận bình đẳng giữa Kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng tại phiên toà.
    Khi tôi sinh ra, mọi người cười, riêng tôi khóc
    Sống làm sao khi tôi chết đi, mọi người khóc, riêng tôi cười

Chia sẻ trang này