1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Từ Vương Vũ đến Wương Thúy Kiều: Vài bí mật của chữ Nôm và quốc ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi culan, 10/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Từ Vương Vũ đến Wương Thúy Kiều: Vài bí mật của chữ Nôm và quốc ngữ

    copy để các bạn đọc cho vui.

    tác giả: Nguyên Nguyên

    Phần I: Vương Vũ

    Những ai từng hâm mộ xem phim kiếm hiệp ở thời trước 75 chắc còn nhớ những tài tử gạo cội Hongkong như Lý Tiểu Long tức Bruce Lee, Ðịch Long, Khương Ðại Vệ, Trần Tinh, và Vương Vũ. Jackie Chan thời đó chỉ chuyên đóng vai phụ, nhất là thay cho tài tử chính trong những màn nhào lộn nguy hiểm. Vương Vũ nổi tiếng nhất có lẽ nhờ phim "Võ sĩ một tay" và sau đó anh ta lên như diều. Vào khoảng 1976 Vương Vũ được mời đóng một phim đấm đá hình sự của Úc chung với tài tử George Lazenby - trước đó đã từng thủ vai điệp viên James Bond 007 trong "On Her Majesty Secret Service" với Diana Rigg của The Avengers. Phim Vương Vũ đóng mang tên, rất thích hợp, The Man from Hongkong (Người hùng từ Hương Cảng). Trong phim Vương Vũ thủ vai một công an hình sự từ Hongkong sang Úc phối hợp với nhà chức trách điều tra một băng đảng buôn chất trắng và cướp bóc. Phim đó có lẽ là một trong những phim đầu tiên của phương Tây sử dụng tài tử kung-fu của Hongkong.

    Khi wãn hát, người viết chợt để ý tên tài tử Vương Vũ viết theo tiếng Anh là Wang YU chứ không phải Wang Wu theo phỏng đoán từ tiếng Việt Vương Vũ. YU chứ không phải WU. Yũ chứ không phải Vũ. Cũng trong khoảng thời gian đó vào một dịp tình cờ người viết để ý tỉnh Vân Nam bên Trung quốc, tức nước Ðiền Việt hay Ðại Lý của Ðoàn Dự trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, được ghi trên bản đồ là YUN-Nan chứ không phải Wan-Nan.

    Một thời gian khá dài ở khoảng giữa thập niên 80, người viết được việc làm đi dạy học. Trong trường có một giáo sư người Ấn Ðộ. Thỉnh thoảng cứ nghe ông này nói đến đưá con trai cưng mang tên Vivek, một tên rất phổ thông của Ấn như tên Tuấn tên Minh của Việt Nam. Ông giáo sư đó phát âm Vivek luôn luôn như là Wiwek, hay Uui Uuék. Tức âm W chứ không phải âm V. Ông ấy phát âm W chứ không phải V, không phải vì ông ta không biết phát âm chữ V như trong Verify, very truthful, variable. . . Ngược lại ông ta tốt nghiệp tại đại học Liverpool ở bên Anh quốc đàng hoàng. Khi nói tiếng Anh ông ta nói và phát âm y như, hay ít lắm cũng bảy, tám mươi phần trăm như người Anh chính gốc.

    Việc ông giáo sư Ấn Ðộ đó phát âm chữ V như chữ W trong ngữ âm của tiếng mẹ đẻ cũng giống như những cụ người Việt ở phiá Nam, ngay cả ở Sài gòn, trong thập niên 60. Lúc đó, nếu có ai thách mấy cụ người Nam Bộ thử phát âm chữ V như: đi về, con voi, anh Vương, . . . theo kiểu . . . 'Bắc Kỳ', đảm bảo các cụ đó sẽ phát âm như: đi Uuề, con Uoi (hay Woi), anh Uương (hay Wương), chứ rất khó được như: đi về, con voi, anh Vương, . . . theo lối phát âm người phiá Bắc. Mặc dù có thể các cụ này đã học và nói được tiếng Tây và phát âm những tiếng Tây rất đúng, như: la vérité, vertigo, la valse dans l'ombre, . . .

    Hiện tượng kỳ bí này cho đến ngày nay vẫn hiện diện trong đời sống hằng ngày của rất nhiều người ở tại, và ngay cả bên ngoài Việt Nam. Xin đơn cử một thí dụ về hiện tượng kỳ bí, do ở khám phá cũng rất tình cờ, khi xem Thúy Nga's Paris by Night 67. Ðó là cách phát âm những âm TR như: trước, trong trắng, truyền cảm, cô Trâm, trao nhau, v.v. . Người Việt với giọng Bắc, và nhất là các ca sĩ trong những chương trình TiVi hay video, thường phát âm TR như TCH, như tchước, tchong tchắng, tchuyền cảm, cô Tchâm, tchao nhau, . . . Mặc dù rằng khi họ nói chuyện với người Mỹ, người Anh, người Úc, người Pháp, người Canada, . . . họ sẽ phát âm TR rất đúng với quốc tế, như: Translation, très bien, trop tard, tra***ion, truthful, . . . Ðiểm ngộ nghĩnh nữa, trong khi người phía Bắc phát âm chữ V theo với quốc tế (đi vào - đi về), người phía Nam lại quốc tế hoá được âm TR. Giới cải lương và vọng cổ phía Nam phát âm TR như trong "Em ơi anh hãy còn trong trắng lắm' trúng phong phóc theo quốc tế của âm TR. Trong khi giới "tân nhạc" lại không. (Xin nhắc lại, âm TR và R cùng một số âm quen thuộc khác hoàn toàn không có trong tiếng Việt cổ, trước thế kỷ 18). Tương tự, một số ca sĩ từ một vài khu vực ở Trung Bộ có lối phát âm chữ R như giữa J và Jr. Thí dụ: Rừng nghe như Jừng, ròng rã như jòng jã. Dù vậy, khi nói tiếng Anh tiếng Pháp các ca sĩ này vẫn phát âm R theo quốc tế như thường[1].

    Hiện tượng này có vẻ như một thứ biến chuyển của ngôn ngữ khi bị chìm vào một ngành nghề nào đó. Một nghệ ngữ hơn là phương ngữ.

    Trở lại với tài tử Vương Vũ. Sự việc Vương Vũ nếu viết thật đúng phải viết Vương Yũ hay Vương Dũ đã nằm trong đầu người viết, ở một góc kẹt nào đó trong suốt hơn 25 năm. Và chỉ được lôi ra ánh sáng trở lại khi viết bài "Thử đọc lại Kim Dung II: Nguồn Việt và Kim Dung". Một 'phát hiện' đã nảy ra trong bài Kim Dung 2: Tên "Việt" trong bộ tộc Lạc Việt, hoặc nước "Việt Nam" theo nguyên thủy, từ thời Hồng Bàng cho đến khoảng cuối thế kỷ 17, đã được phát âm giống như kiểu của người Nam Bộ: Byiệt hay Yiệt.

    Yũ trong Vương Yũ cũng giống như Yũ trong Sở Bá Vương Hạng Yũ (chứ không phải Hạng Vũ) - có nghĩa lông chim. Người Việt ở phía Nam, nhất là những người gốc Hoa, cũng ưa có tên Vũ, nhưng viết đúng Dũ, như Trần Dũ. Dũ đó không có trong tự điển Hán Việt, nhưng lại rất đúng trong chuyển hệ từ Hoa-ngữ ra quốc ngữ. Dũ đó chính là Dũ, là Yũ lông chim chứ không phải Vũ của vũ công hay khiêu vũ. Dũ chữ Nôm mang nghĩa khác, phủi - như trong: dũ sạch bụi trần. Phải chăng do ở lí do tránh lộn xộn này các tác giả chữ quốc ngữ đã cho Yũ-lông chim vần chữ V với hàm ý phát âm theo kiểu Nam Bộ?



    ...........................
    Cù Lần
  2. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Phần II: Hiện tượng V
    Theo với khám phá về chữ V cổ, hai bài2 về chữ V và chữ Dz đã được giới thiệu qua một vài tạp chí - nhất là dưới dạng báo internet. Thế nhưng, mãi sau khi viết xong bài thứ 2 về âm chữ V[2], nỗi tò mò và thắc mắc về Vũ, về Việt Nam, và các từ bắt đầu bằng V không những không suy giảm mà lại còn gia tăng. Nhân tiện đi Sài gòn thăm gia đình vào dịp Tết Quí Mùi, một người cháu đã cố gắng tìm mua được hai quyển sách về chữ Nôm, trong đó có quyển tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính. Dùng trong việc tra cứu. Người viết cảm chừng như bị sa lầy trong vùng đất cũ, hoang vắng của chữ Nôm, đầy chông gai, hiểm trở, và . . . sờ sợ. Bởi rất ít người trong thời đại internet hiện nay còn để ý đến chữ Nôm, và trình độ chữ Nôm của người viết chỉ là trình độ ...vỡ lòng.
    Chữ V trong ký âm thuở ban đầu thực sự đã mang ý định nào của các tác giả chữ quốc ngữ? V dùng để thay cho By như cách gọi của người phiá Nam - như trong 'byết lách' thay vì viết lách, Byệt Nam như tên nước Việt Nam, byâng yạ cho Vâng dạ? Hay V chỉ dùng để thay W sẵn có, như trong: VĂN-hoá thay cho Wăn-hoá, đi về thay thế đi wìa, con voi thay cho con Woi? Hoặc đúng hơn, chữ V được nhập khẩu từ tiếng Pháp vào chữ Nôm để thay thế luôn một lượt cho cả âm W (như con woi / wẽ tranh) và âm Y hay By (như bà byợ / hình byuông / đi byào) - nhưng tỷ số thay thế V cho W đối với Y là bao nhiêu? Tức V thay cho W được bao nhiêu phần trăm và V thế chỗ cho B hay By hoặc Y được bao nhiêu phần trăm? Nếu tìm ra tỷ số đó, hy vọng ta sẽ mò ra được lý do tại sao người Nam Bộ phát âm V luôn như By (hoặc B) - mặc dù có nhiều âm đáng phải phát âm như V phía Bắc. Và người Bắc Hà phát âm V trong vài thế kỷ qua như V quốc tế, và quên hẳn mớ từ bắt đầu bằng V đáng lẽ phải nói như B hay By, theo kiểu Nam Bộ. Xin tạm gọi đó hiện tượng V.
    Trong lúc tìm giải đáp cho các câu hỏi này người ta có thể khám phá thêm những hiện tượng lạ lùng nào của chữ quốc ngữ nữa không. Ðể hỗ trợ và minh chứng cho hiện tượng V, một hiện tượng, như phần sau sẽ trình bày, chỉ xảy ra sau khi chữ quốc ngữ tràn ngập thay thế chữ Nôm. Một hiện tượng đã ẩn núp rất kín trong một thời gian khá dài, trên dưới 300 năm. Mặt khác, người ta có thể để ý trong khi nhiều ngôn ngữ các nước láng giềng có liên hệ với tiếng Việt như: Trung quốc, Nhật, Inđônêxia, Triều Tiên,...vẫn không có âm chữ V cho mãi đến ngày nay. Thêm nữa, nhiều người cộng sự gốc Hàn quốc, có học thức cao, đã xác nhận Hàn ngữ chỉ có một âm gần giống với V ở đầu từ. Ðó là âm của chữ...B.
    Những chi tiết viện dẫn cho kết luận tiếng Việt ở trước thế kỷ 18 hoàn toàn không có âm V - mà chỉ có âm B (hay By theo kiểu Nam Bộ) và W (như con Woi) đã được trình bày trong hai bài[3] về chữ V. Do ở khoảng thời gian khá dài gián đoạn giữa hai bài đầu về chữ V với bài này, sau đây xin tóm tắt, và hiệu đính chút ít, những điểm căn bản của hai bài trước về chữ V.
    Yũ trong các tên Wương Yũ hoặc Hạng Yũ mang nghĩa lông chim, chứ không phải Vũ như trong quan võ, vũ công, võ nghệ, vũ múa. Dù những người tinh thông tiếng Hán có thể biện bạch rằng âm tiếng Tàu đã thay đổi từ âm Thượng cổ, qua âm Trung cổ đến âm Hiện đại, có lẽ họ sẽ phải nhìn nhận âm Yũ như trong tên Hạng Yũ vẫn giữ y nguyên Yũ từ xưa đến nay. Do đó ký âm Hạng Vũ trong chữ quốc ngữ, rồi lây sang tiếng HÁN VIỆT, thay cho Hang Yu (quan thoại: Xiang Yu) có thể là một trong những sơ sót đáng tiếc trong công trình ký âm chữ quốc ngữ từ chữ Nôm. Tương tự gọi tài tử Wương Yũ (Wang Yu) là Vương Vũ như người Việt đã gọi, sẽ phạm vào một lỗi sai lệch trong ký âm. Và tự nhiên sáng tác thêm một từ Vũ, viết bắt đầu bằng chữ V, mang nghĩa 'lông chim' rất gượng gạo. Bởi nó gây thêm cảnh đồng âm dị nghĩa lộn xộn cho Vũ - chính ra dùng để chỉ vũ công, võ nghệ, hoặc khiêu vũ - mà thôi. Phía Nam do ở cách viết Yũ (hay Dũ) ra Vũ, do những thầy quốc ngữ xếp đặt, lại vô tình đã làm sai ra thêm hàng chục cây số nữa khi họ kị úy gọi Hạng Vũ là Hạng Võ. Võ, với 1 nghĩa duy nhất là võ nghệ, đã hoàn toàn biến mất đi ý nghĩa lông chim của Yũ trong tiếng Hoa.
    Nước Việt, tiếng quan thoại gọi Yuế, Quảng Ðông là Yuệt, tiếng Nhật gọi Beto (Việt Nam là Beto-nam), tiếng Mường kêu là Yịt - theo với suy luận rất căn bản như 'kiểu điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa', chắc chắn phải được tiền nhân gọi Yiệt hay Byệt trước khi mấy người Âu Châu truyền giáo sang đó và ký âm tiếng Nôm ra chữ quốc ngữ. Tương tự, trong quốc ngữ, rất nhiều từ Hán Việt như công viên, nhân viên, hoàn vũ, vũ trụ, viêm nhiệt, viện trưởng, viên mãn, đã bị âm V lắp vào thay thế cho âm Y hay By, cho công yiên, nhân yiên, hoàn yũ, yũ trụ, yêm nhiệt, yiên mãn, bởi tiếng Tàu nguyên thủy từ đời Hán đời Ðường và mãi cho đến ngày nay không hề gọi các âm này bằng âm bắt đầu với W, mà chỉ gọi với âm Y. Vũ (như tên tài tử Vương Vũ, như trong: yũ lộ, hoàn yũ) và Việt (như trong Việt Nam) hay viết (như trong viết lách) cho đến khoảng giữa thế kỷ 18 từ Nam chí Bắc chắc chắn đã được phát âm đúng đắn, theo thứ tự đối ứng, là Yũ, Yiệt (hay Byệt) và byết.
    Âm chữ V, theo như kiểu phát âm By hay B của người Việt phía Nam, được nhận rằng thực sự đã thay thế một số đông các từ Nôm với cách đọc vào thế kỷ 17 trên toàn nước An Nam, là By hay B hoặcY: Byua (Vua), Byú (Vú), Byợ (Vợ), Byải byóc (Vải vóc), Byía (hồn Vía), Bôi hay byui (Vui), Bâng hoặc byâng (Vâng), ...Phát hiện này đã được chứng minh, trước hết, bằng cách so sánh và đối chiếu các từ tương đương thuộc các dân tộc ít người sống trên phần đất của nước Việt Nam cổ, tập trung ở phía Bắc[4]. Thêm vào đó người ta có thể nhắc đến công trình nghiên cứu về người Mường của Jeanne Cuisinier 'Les Mường, Géographie humaine et Sociologie' xuất bản năm 1946, trích lại trong quyển 'Mã Lai'4 của Bình Nguyên Lộc. Trong đó, Jeanne Cuisinier ghi nhận người Mường có khuynh hướng phát âm chữ V như chữ Bi, theo kiểu người Nam Bộ. Chẳng hạn vải vóc họ đọc biải bióc, vợ chồng họ đọc byợ chồng. Theo thống kê vào năm 1946, tổng số người Mường độ 300000, trong đó 136000 cư ngụ ở Hoà Bình, 86000 sống ở Thanh Hoá, 30000 ở Phú Thọ, 20000 tại Sơn Tây.
    Ðào Duy Anh[5] trong một tác phẩm về chữ Nôm cũng xác nhận một số từ ngày nay viết bắt đầu bằng chữ V nếu truy cứu theo lối viết chữ Nôm ngày trước chắc chắn đã được phát âm như bắt đầu bằng B, theo kiểu người phía Nam: Vui khi xưa đọc là Bôi hay Bui, Vội trước đọc Bội, Vâng đọc Bâng, Vợ ngày xưa đọc Bợ hay Byợ.
    Mặt khác, hầu hết các ngôn ngữ trong vùng Ðông Nam Á KHÔNG có âm bắt đầu bằng V của tiếng Tây. Kể cả tiếng Việt xưa[6]. Chỉ có âm bắt đầu bằng W như tại các nước láng giềng khác: Wang xian sheng (Hoa: Vương tiên sinh), Watanabe San (Nhật: ông Watanabe), Bung Widjaja (Inđônêxia, bạn Widjaja). Ở tiếng Việt cổ: con Woi (con voi), đi wìa (đi về - để ý đồng bào tại một số nơi ở Nam Bộ còn gọi 'đi yìa' bởi sự lầm lẫn do chữ V gây nên), wăn hoá (văn hoá), wĩ đại (vĩ đại),...Bởi lý do hiển nhiên tiếng Tây không có chữ W, các tác giả quốc ngữ đã hoàn toàn tránh dùng chữ W, như trong trường hợp phiên âm của tiếng các nước Tàu, Nhật, Inđô. Ðể tránh W, họ đã dùng V thay cho W. Âm W do đó trở thành 'âm cổ xưa' của V. Việc W là tiền thân của V đã được nhà ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu4 xác nhận trong một bài nghiên cứu về nước Văn Lang. Tuy nhiên họ Hoàng không hề xác nhận chữ V cũng đã được các giáo sĩ vay mượn từ mẫu tự Tiếng Pháp để thay thế âm bắt đầu bằng By, hay B hoặc Y - như viết và Việt Nam thay cho byết và Yiệt Nam.
    Hiện tượng âm chữ V, đặt ra dùng để thay thế cả âm 'W' và âm 'B hay By', hoàn toàn nằm chìm trong bóng tối trong suốt khoảng 300 năm là một thiếu sót thật đáng tiếc trong ngành ngôn ngữ học Việt Nam. Rất ít người để ý đến nó, chung qui cũng bởi cái thế quốc tế bề ngoài của chữ V, do ở những người tác giả quốc ngữ tạo nên. Người phía Nam - nhất là người Nam Bộ - theo với nhầm lẫn hoặc cố ý của các vị tôn sư chữ quốc ngữ - đã cho rằng chữ V nhập khẩu để thay thế âm By như trong Byũ (cho Vũ) và tuốt luôn cho âm W xưa như trong con woi. Ðối với câu nói sau đây đọc theo kiểu thế kỷ 18 trở về trước trên toàn cõi Việt Nam:
    Wương Bạch Byũ byào lừng thấy con woi.
    Người phía Nam, đặc biệt Nam Bộ, giữ lối đọc cũ nhưng nới rộng với khuynh hướng đọc tuốt luôn tất cả những từ bắt đầu với âm V, bằng By hay Y. Vào thế kỷ 18-19 trở về sau, họ phát âm:
    Byương Bạch Yũ byào rừng thấy con byoi.
    (Xin nhớ: rừng ngày xưa đọc lừng -bởi tiếng Việt cổ không có âm ...R)
    Người phía Bắc từ thế kỉ 18-19 cũng có khuynh hướng sai nửa chừng tương tự. Họ nói:
    Vương Bạch Vũ vào rừng thấy con voi.
    Thoạt tiên lối nói phía Bắc cũng chỉ là một phương ngữ, do các thầy quốc ngữ địa phương sắp xếp, sai trật phân nửa như lối phương Nam. Thế nhưng dần dà về sau, lối phát âm phía Bắc được đa số nhìn nhận như tiếng Việt chuẩn. Một phần nhờ ở thế quốc tế của âm chữ V đã được áp đặt lên toàn thể các âm cũ bắt đầu bằng W và By (hay B / hoặc Y) của tiếng Yiệt cổ. Quốc tế ở chỗ những Vũ, Viết, Văn, Vào, Vách, v.v. ở phía Bắc có phát âm bắt đầu bằng V theo kiểu tiếng Pháp tiếng Anh: Vérité, Very unreal, venture, v.v.
    ...........................
    Cù Lần
  3. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Mục đích chính của bài này do đó thử đào sâu những tính chất cơ bản của những từ ngày nay được viết bắt đầu bằng chữ V. Ta thử cố gắng tìm xem từ nào ngày trước đã được phát âm như bắt đầu bằng By hay Y (như: byợ chồng yui buồn byới nhaụ / vợ chồng vui buồn với nhau). Những từ nào của V quốc ngữ đã được đọc bằng B mới chính xác ở vào thời điểm của thế kỉ thứ 17 và 18 ở đàng Trong lẫn đàng Ngoài. Từ nào mới thật sự nên dùng V thay cho W, như trong con Woi, Wương Thúy Kiều, wăn hoá, wấn đáp, wãn hát, v.v. Từ đó, ta cũng thử quan sát kỹ hơn, hay đúng ra đặt một vài giả thuyết thuộc loại bỏ túi, cho các câu hỏi sau:
    ?" tại sao tiếng Việt chấp nhận việc các Thầy quốc ngữ áp đặt V vào thay cho B (hay By hoặc Y) và W dễ dàng, không một chút thắc mắc hoặc nghi vấn. Dù rằng thỉnh thoảng người ta cũng có thể đọc được chừng 1 dòng ở một hai quyển sách, viết rằng tiếng Việt có thay đổi, như Blời thành Trời. Chỉ vỏn vẹn ngắn ngủi thế thôi.
    ?" hiện tượng V phải chăng chỉ là một phần tử của một tâp hợp các hiện tượng ngữ âm chứng tỏ hai trường phái quốc ngữ khác nhau tại phía Bắc và ở phương Nam. Hai trường phái này đã do chính các tác giả và các Thầy dạy chữ quốc ngữ thuở ban đầu vô tình hay hữu ý thiết lập trong khoảng giữa thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19.
    Các nguyên tắc căn bản dùng để khảo sát được liệt kê như sau:
    Cách thứ 1: Dựa vào ngôn ngữ của các dân tộc ít người. Khi quan sát một từ bắt đầu bằng V hiện tại, đặc biệt đối với những chữ thuần Nôm, trước hết ta xem có một tiếng nào tương đương trong ngôn ngữ của các dân tộc ít người[7] hay không. Và họ phát âm từ đó như thế nào. Thí dụ, VÀNG trong màu vàng người Mường đọc là Yèng - thành ra màu vàng trong tiếng Yiệt xưa chắc hẳn đã được đọc như Byàng hay Yàng. Trong khi đó VÀNG dùng để chỉ kim khí như Vàng Bạc, người Mường đọc Wàng. Vàng để chỉ Vàng (kim khí quí) người xưa phát âm Wàng, và ngày nay viết Vàng với V để chỉ kim khí quý là đúng. Nhưng viết Vàng cho màu vàng thì không chính xác so với tiếng Yiệt cổ.
    Các từ khác đã được sưu tầm4, 7 ở bài 'Chữ V - phần 2', theo phương thức 'ngôn ngữ dân tộc ít người', xin ghi lại:
    ?" Nhóm đáng lẽ viết bằng B (hay By hoặc Y) tiêu biểu:
    Vải (vải vóc /byải byóc, fabric): byải (Mạ), kpải (Bàna),
    Vua (king): Bua (Mường), Buua(Bàna)
    Vác (gánh vác): Baa (Mường), Boq (Danaw), Bah (Khasi)
    Vàng (màu vàng, yellow): Yèng (Mường) và những chữ như:
    Vuốt (byuốt bye, caress), Vú (byú, breast), Vai (byai, shoulder),
    Vơ (byơ= dùa, sweep off), Viá (hồn byía, soul/spirit),
    Vàm(Byàm, sông Vàm Cỏ), Vui (byui mừng, glad/ happy), v.v.
    ?" Nhóm biến dạng từ W sang V (gần đúng), xin đơn cử:
    Ve (con we), voi (con woi - Mường),
    Về (đi wìa, wir - tiếng Palaung, tiếng Tạng, wiyên - Thái), vẽ (wẽ tranh),
    Vay (vay mượn - wai, tiếng Danaw - vuai, tiếng Wa nhánh Munda)
    Vàng (vàng bạc - wàng, Mường), Váy (cái váy - Wal, Mường)
    Cách thứ 2: Phương thức thứ 2 dành cho các từ xuất thân từ tiếng Hán, qua trung gian tiếng Hán Việt. Tức dựa trên tiếng Tàu đọc theo khẩu 'vị' của các tiền nhân nước Việt vào các đời nhà Hán nhà Ðường bên Trung quốc - nay đa số đã biến thành tiếng Việt qua hàng trăm năm. Người ta có thể so sánh các từ như Vĩ đại, Việt Nam, Vương (họ), Vũ (vũ công, võ nghệ, lông chim), công viên, hoàn vũ, với tiếng Tàu thực sự như quan thoại (mandarin), tiếng Quảng Ðông (cantonese). Thí dụ, vĩ đại người Hoa gọi wei da, vĩ Việt Nam chắc chắn được bắt đầu bằng W hay V. Tiếng Quảng Ðông và quan thoại đều gọi Vương Vũ là Wang Yu, và do đó tiền nhân Việt Nam cho đến thế kỉ 17-18 chắc hẳn phát âm Wương Yũ. Ðặc biệt nên xem xét những từ gốc Hán Việt đó - khi ở Trung Quốc - có đổi thay qua nhiều thế kỷ hay không. Nhất là khi tiếng Tàu đó có hai lối phát âm khác biệt giữa phiá Bắc (quan thoại) và phía Nam (Quảng Ðông) gần với Việt Nam. Thí dụ, vân (mây) người phía Bắc đọc Yun, Quảng Ðông đọc Vân (Wân). Ðiểm này sẽ được phân tích thêm ở sau.
    Bây giờ xin tóm tắt hai nhóm, theo phương thức "xuất xứ tiếng Hoa":
    ?" Nhóm thiên về âm chữ B, hay By hoặc Y, tiêu biểu:
    Việt Nam (Yiệt Nam), Vũ (lông chim: Yũ / như Vương Yũ, Hạng Yũ), viên chức (yiên chức - zhi yuan), vũ trụ (yũ trụ, yu zhu), viết lách (yiết: yue - như: Khổng Tử yiết, nghĩa ban đầu: Khổng Tử nói), vượt (Nôm thay đổi từ việt: đọc byượt, trước thế kỷ 17), công viên (công yiên - gong yuan), viễn chinh (yiễn chinh - yuan zheng), viện binh (yiện binh - yuan bing), viên mãn (yiên mãn - yuan man), viện trưởng (yiện trưởng - yuan zhang), vũ lượng (yũ lượng, yu liang - lượng mưa), vũ lộ (yũ lộ- yu lu), vũ cầu (yũ cầu - yu qiu), viễn đông (yiễn đông / yuan dong), v.v.
    ?" Nhóm dùng chữ V thay thế cho W, bởi tiếng Tây không có W:
    Vong bản (wong bản, wang ben), Vũ công (võ công - wũ công / wu gong), vấn đề (wấn đề - wen ti), văn hoá (wăn hoá - wen hua), vô thừa nhận (wô thừa nhận, wu cheng ren), thời vụ (thời wụ, shi wu), võng mạc (wõng mạc, wang mo). Vệ binh (wei bing), vạn vật (wan wu), vạn (=10000, wan), vong ân (wang en), vong linh (wang ling), vĩ tuyến (wei xian), vệ sinh (wei sheng), . . .
    Theo thống kê sơ sơ tính theo một nhóm mẫu thu thập được ở một quyển tự điển bỏ túi (Huỳnh Diệu Vinh (1999): Từ điển Việt-Hán - nxb Ðồng Nai), những từ có V viết thay cho W chiếm 83 từ (55%), và những chữ có âm V thay cho Y (hay By hoặc B) chiếm 69 từ (tức 45%), trong tổng số 152 từ bắt đầu bằng V.
    Cách thứ 3: Phương thức thứ 3 cần đến một quyển tự điển chữ Nôm. Xin nhắc lại chữ Nôm là thứ chữ của người nước Nam pha trộn với một số các từ Hán Việt (chữ Tàu phát âm theo kiểu Việt Nam). Lối viết của chữ Nôm dựa hoàn toàn vào chữ Hán - và lại phức tạp gấp mấy lần. Thông thường một từ chữ Nôm là sản phẩm của hoặc một sự chắp nối ít nhất 2 từ của tiếng Hán, hoặc một sự vay mượn nguyên con một từ tiếng Hán nhưng đọc theo kiểu Nôm.
    Thí dụ, ÐÁ với nghĩa 'đá bằng chân, đá banh' tiếng Hán Việt gọi Thích (ti, qt). Chữ Nôm viết ÐÁ bằng cách kẹp chữ Hán 'ÐA' (nhiều), để lấy âm, với chữ TÚC (nghĩa chân) để gợi ý, Ðá=Ða+Túc.
    ÐÁ với nghĩa hòn đá, chữ Hán Việt là Thạch (shi, qt) - chữ Nôm viết Ðá bằng cách nối liền Ða với Thạch tiếng Hán, Ðá=Thạch+Ða.
    NĂM có nghĩa số 5, tiếng Hán là Ngũ (4 nét), tiếng Nôm kẹp từ NAM (chỉ phương Nam) với Ngũ, mới viết được ra tiếng Nôm NĂM, Năm= Nam+Ngũ!
    NĂM chỉ Năm Tháng lại dùng: Nam+Niên. Nam nghĩa phương Nam cho âm, Niên tiếng
    Hán Việt là Năm, cho ý.
    BÀ (lão bà) viết bằng BA (sóng, phong ba) đặt nằm trên chữ NỮ
    CHỔNG (chổng cẳng): Túc (chân, cẳng)+Chủng (chủng loại) - chủng cho âm
    Trong lối vay mượn một từ Hán:
    ÂN (trong "ân cần"): mượn từ ẤN (yin / in ấn, ấn loát) của tiếng Hán-Việt.
    BIẾT (to know, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn - Kiều)= mượn từ BIỆT (giả biệt).
    Trong khuôn khổ tra cứu V thay cho B hay W ta chỉ cần để ý các thành tố tiếng Hán tạo dựng nên từ Nôm được bắt đầu bằng âm B hay W:
    Vào (enter)= Bao + Nhập - 'Bao' có âm bắt đầu bằng B / 'Nhập' chỉ ý[8].Như vậy ngày trước Vào đọc là Bào hay Byào.
    Vẽ (draw)= Wĩ (vĩ= đuôi, tiếng qt: Wei) + Hoạ (Hán Việt của Vẽ, chỉ Ý)= Wĩ+Hoạ.
    Vẽ ngày xưa= Wẽ - bởi Vẽ viết bằng âm W cho vĩ
    Vá (patch)= âm giả tá của BÁ / = Y (y phục) + Bách (100) , v.v./ Vá= Byá (ngày trước)
    Với (with)= Khẩu (miệng)+Bối (phía sau) /Thủ (tay)+Yí (cũng / và)/ Với= Bới, ngày xưa
    Vì (because)= giả tá âm Vị (Wei = vị chỉ vị trí / người) / Vì ngày xưa= Wì
    Vuông (square)= Bông (gợi âm B) + Phương (nghĩa tiếng Hán= vuông).
    Vuông ngày xưa= Buông[9]
    ...........................
    Cù Lần
  4. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Qua lối khảo sát này ta cũng có thể kiểm chứng những từ đã được lựa ra qua phương thức 1 và 2 ở phía trên.
    Tuy nhiên hễ đụng đến tiếng Nôm, là đụng đến phức tạp. Rất phức tạp. Phức tạp và lộn xộn bắt nguồn ở việc tiếng Nôm trong hơn 1000 năm đã không được 'điển chế', tức không được chánh quyền nhà nước nhìn nhận như ngôn ngữ chính thức của nước nhà. Không có tiêu chuẩn nào để viết chữ Nôm. Mạnh ai nấy viết. Nhà nho nào cũng có quyền tự 'phát minh' ra lối viết chữ Nôm cho một từ nào đó mà mình không vừa ý hoặc đã quên khuấy đi mất rồi. Nhiều khi cũng một nhà Nho, nhưng hôm nay nhà Nho đó có thể viết một từ chữ Nôm kiểu này, ngày khác viết theo kiểu khác[10]. Trung bình mỗi từ Nôm có đến khoảng 4 lối viết khác nhau. Hàng trăm chữ lại có lối viết trùng nhau: Như Bôi và Vui[11], Bùng với Vùng, Vùng với Vung...Bởi vậy người ta sẽ không mấy ngạc nhiên khi được biết những truyện như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm khi chuyển hệ từ bản chữ Nôm sang quốc ngữ thường có đến 5, 10 bản khác nhau. Sai biệt ở một số từ trong các bản quốc ngữ thường dẫn đến những cuộc tranh luận sôi nổi giữa những nhà Nôm-học[12]. Một trong những học giả hàng đầu về Nho/Nôm học trong thế kỷ 20, Hoàng Xuân Hãn, lúc sinh thời đã bỏ ra rất nhiều công sức trong việc nghiên cứu xem xem chính tác giả một quyển thơ Nôm, đã thực sự dùng chữ Nôm nào trong câu văn, nhất là công trình đi tìm nguyên bản của Kim Vân Kiều16.
    Bây giờ xin tóm tắt phân loại các từ bắt đầu bằng V đáng lẽ ra bắt đầu bằng B hay W, qua quan sát chữ Nôm:
    ?" Nhóm đáng lẽ viết bằng B (hay By hoặc Y), bởi có âm B, tiêu biểu:
    Va (y, người đó), Vá (byá), vách, vài, van, ván, vàng (màu vàng - xin xem phía trên)
    Vội vã: byội byã, vác (kiểm chứng cách 1), vang, vào, váo (byênh byáo), vằm (=bằm ra từng mảnh), vùng (chữ Nôm đa số viết giống như Bùng: vùng lên:=: bùng lên), vằng, Vua (king): Bua, vần, vâng (dạ), vầng trăng, vất bỏ (byất bỏ), vấu (yấu mèo/ yấu hùm), vẩu (răng yẩu), vén, vẻn (bẻn byẹn), vẻ (bui bẻ), veo (trong beo), vèo (byèo), vẻo (yắt byẻo), vét, vẹt (con byẹt), vếch (bếch mặt), vết, vệt, ví (bí dụ= thí dụ), viên (vừa Hán vừa Nôm: Cao nguyên Lâm Viên phiên âm từ Lang Bian), viền, viễn (yiễn yông), Việt Nam (Yiệt Nam / tất cả loại hài thanh chữ Nôm đều viết theo âm Hán: Yiệt hay Byiệt), vịm, vin (bin cành cam), vít (wấn bít), vịt (con byịt, quan thoại Ya), víu (byá bíu) vo (tròn byo), vò (dày byò), vó (byó ngựa), vóc (byóc dác), vọc, vòi, vói, vọi, von (byí byon), vỏn, vọp (byọp bẻ), vố, vốc (bốc nước), vối (nước bối), vốn (bốn/ bổn, tư bổn, tư bản), vội (bội bàng), vồng, vợ (bợ= nữ+ Bị, theo chữ Nôm), với, vờn, vớt, vu (byu qui), vù (sưng yù), vú (bú= bú byú), vùa (byùa), vui (byui, bôi), vùn vụt (byùn byụt), vụn, vùng (bùng= khu wực), vũng, vụng, vượn (con bượn), vuông (=hình buông), vuốt (byuốt), vuột, vút (cao byút), vựa, vừa, vức (buông byức), vươn, vườn, v.v.
    ?" Nhóm biến dạng gần gũi từ W sang V (gần đúng), byí dụ:
    Va (va chạm), vả (wả miệng), vạc (wạc dầu), vạch (wạch lá tìm sâu), vài (vài người), vãi (bà wãi), vãn (wãn hát), vạn, vàng (wàng bạc), váng (choáng váng), vạng (choạng vạng), vánh, vành, vay (kiểm chứng với cách 1), vày (wày yò), váy (như cách 1), văn (wăn chương), vắn, vặn, vắng vẻ, vắt (con wắt), vặt (wặt wãnh), ve (byuốt we / con we), vật, vây (wây cá), vầy (sum vầy), vậy, vẽ, vệ, về (đi về / dạng cổ: đi wìa), vê, vi (vi yút), vì, vỉ, vĩ (wĩ mô), vỉa (wỉa hè),vít (con vít), võ (wõ nghệ), voi (con woi), vòng, võng (wõng mạc), vọng, vong, vót, vô, vỗ (sóng vỗ), vồ, vơ (bơ vơ), vớ (vớ va vớ vẩn), vở, vỡ (wỡ nợ), vời, vợi, vũ (chỉ có vũ công, khiêu vũ), vụ (mùa), vùm, vức, vực, vương, vướng, vượng, vứt, v.v.
    ?" Nhóm biến dạng 'lừng khừng" khi từ V thay cho W nguyên thủy, khi cho B:
    Va (chỉ 'người đó'/ he, him: bya / va chạm: wa chạm), vội vã (yội yã) nhưng vả (wả) miệng, vàng (yàng chỉ màu vàng / wàng= vàng bạc), vắt (byắt tay lên trán/ con wắt), vân (wân theo Quảng Ðông / Yân theo quan thoại), vận chuyển (wận theo QÐ, yận theo QT), vất (byất bỏ / bá wất bá wơ), lĩnh wực theo Quảng đông, lĩnh yực theo Quan thoại.
    Một số ít các từ Nôm nằm trong nhóm lừng khừng này xuất hiện sau thế kỷ 18, tức những chữ Nôm sáng chế sau khi có sự 'phân cực' giữa lối gọi V của phương Nam (như B hay By), và lối phát âm toàn chữ V theo kiểu 'quốc tế' của phía Bắc - gây ra bởi chữ quốc ngữ. Nghĩa là các nhà Nho phía Bắc, sau thế kỉ 18, sẽ viết thêm những từ họ hiểu qua quốc ngữ có âm V, bằng cách kẹp chữ Nôm một thành tố mang âm V, như Vĩ cho nó chắc. Tương tự, nhà Nho phía Nam, cũng sau thế kỷ 18, sẽ có khuynh hướng viết chữ Nôm những từ như con Woi bằng cách quất vào đó một âm bắt đầu bằng B, bởi lúc đó, khoảng thế kỷ 18 trở về sau, phân cực B và V đang hình thành giữa phía Bắc và Nam - do ở tác động của chữ quốc ngữ người Pháp truyền lại cho dân Việt Nam, mỗi phía một kiểu.
    Theo cách thức thứ 3, số phần trăm của nhóm theo chữ Nôm viết bằng V đáng lẽ phải dưới dạng âm B là 61% trong khi dưới dạng âm W, 39%, trên tổng số 265 từ Nôm, hay Nôm-hoá từ Hán Việt.
    So với tổng kết phía trên trong nhận diện qua Hán tự, số phần trăm âm B bị biến thành V từ Nôm sang quốc ngữ, cao hơn số từ biến "tại chỗ" W sang V - nếu chỉ truy xét những từ bằng chữ Nôm hoặc đã bị Nôm hoá.
    Tóm tắt:
    (a) Nếu chỉ truy theo Hán tự: B sang V chiếm 45% / W sang V bằng 55%
    (b) Nếu truy từ chữ Nôm: B sang V chiếm 61% / W sang V chiếm 39%.
    (c) Nếu gộp hai cách truy cứu kể trên: B sang V có tỷ số 53% / W sang V chiếm 47%
    Tổng số gộp ở đây được tính đơn giản bằng cách cộng tỷ số do ở phương pháp Hán Việt với tỷ số suy ra từ chữ Nôm. 53:47 gần bằng với 50:50. Ðiều này phù hợp với nhận xét và ước đoán ban đầu trong bài 'chữ V - Phần II'. Ðó là tỷ số âm chữ B với chữ W trên những từ ngày nay viết bắt đầu bằng V tròn trèm 50:50! Cũng có nghĩa cả người Việt phía Nam và phía Bắc đều đọc sai - so với thế kỷ 18 và trước đó - âm bắt đầu bằng chữ V, mỗi phiá phân nửa, tức 50%, hay 50:50. Người phía Bắc đọc V theo quốc tế tất cả từ bắt đầu bằng V - trong khi người phía Nam đọc những từ đó với âm B hay By hoặc Y. Người phía Bắc phát âm 'Vương Vũ' trong khi phiá Nam, Byương Yuõ. Thật ra đúng nhất phải là Wương Yũ, hay ít lắm cũng Vương Yũ.
    Một vài nhận xét nhỏ phát hiện trong lúc phân loại V cho B và W, đáng ghi lại như sau:
    Trong phương thức thứ hai, truy tầm âm cổ V bằng tiếng Hán Việt, tức xem V ở tiếng Tàu bắt đầu bằng Y hay W, người ta có thể gặp một vài điểm hơi khó khăn và phức tạp như sau. Âm tiếng Tàu hiện tại có thể cũng lộn xộn 2 chiều như tiếng Việt: một đàng quan thoại gọi theo âm Y, nhưng Quảng Ðông gọi theo W. Thí dụ: Mây, quan thoại hiện nay gọi Yun, quảng đông Wân. Ta sẽ chọn lựa Vân theo kiểu cổ đọc ra làm sao? Wân hay Bân (Yân)? Thế tại sao có hiện tượng lộn xộn này ngay trong giữa tiếng Tàu? Người Quảng Ðông gọi Mây là Vân có lẽ vì thời thượng cổ họ đã là bà con với các dân Mã Lai / Inđô nê xia, bởi tiếng Mã/Inđô gọi Vân bằng AWAN.
    Theo Vũ Thế Ngọc[13], Lê Nguyễn Lưu[14] và Bình Nguyên Lộc4, tiếng Hán Việt thường đọc theo giọng 'nguyên si' tiếng Tàu ở phiá Bắc, thời nhà Ðường nhà Hán bên Trung Quốc. Thí dụ: chữ Buồng=room, đọc như Buờng vào thời Ðường, nay cả Tàu lẫn Việt đọc Phòng (Fang). Một từ giống y như Buồng là Vuông trong Hình Vuông. Chữ Nôm viết Vuông= Bông+Phương (xem phía trên). Rất có thể âm cũ tiếng Hán của Vuông là Buông - sau này biến thể ra Phương (Fang) song song và y hệt như Buồng. Vuông do đó đã có âm B trước thế kỉ 18. Thế tại sao nước An Nam gần Quảng Ðông hơn, nhưng tiếng Hán Việt lại giống bạch thoại ở Bắc Phương hơn? Trả lời câu hỏi này người ta có thể nhớ lại chánh quyền trung ương của Trung quốc trong suốt lịch sử thường nằm trong khu vực phía Bắc nói tiếng bạch thoại: Trường An, Lạc Dương, Nam Kinh, Yên Kinh (tức Bắc Kinh), v.v. Lúc nhà Hán phá tan và chiếm đóng Nam Việt, họ gởi xuống nước Nam toàn những quân lính và các Thái Thú người Bắc phương, chứ không hề gởi dân từ Quảng Ðông xuống. Bởi trong vài thế kỷ đầu sau Công Nguyên, Quảng Tây - Quảng Ðông hãy còn bận rộn trải qua chuỗi trình đồng hoá với Hán tộc ở Bắc phương. Trung ương của các nhà Hán, nhà Ðường cũng không tin tưởng mấy ở dân Quảng Ðông Quảng Tây để gởi họ sang Giao Châu. Thí dụ: người Việt phía Bắc hấp thụ Hoa thay cho Bông từ thế kỷ 17 về sau. Hoa gần với quan thoại Hua hơn quảng đông Fa.
    Tuy nhiên ta không thể không để ý đến một vài ngoại lệ. Ðó là những lúc tiếng Hán Việt và tiếng Nôm hấp thụ thẳng từ tiếng Quảng Ðông. Có lẽ do ở các giao lưu trong vài ba thế kỷ gần đây, như 50000 tàn quân Minh đa số từ Lưỡng Quảng2, chạy trốn Mãn Thanh lưu vong sang Ðàng Ngoài. Như đám quân cũng từ Lưỡng Quảng của Tôn Sĩ Nghị sang 'viện trợ' cho Lê Chiêu Thống, vào thời Tây Sơn. Hoặc giả tiếng Quảng Ðông cũng đã bị ảnh hưởng của thời Hán mới đồng hoá, và vẫn giữ âm cổ của Bắc phương - như trong tiếng Hán Việt. Thí dụ, Dục tiếng Hán Việt dùng để chỉ Thịt gần giống với tiếng Quảng (yuk) hơn quan thoại ngày nay (Rou), Nhân (người) giống Yen của tiếng Quảng hơn Ren quan thoại. Dung trong dung nhan gần với yung tiếng Quảng hơn Rong, quan thoại. Nhị (2) gần với yi của Quảng Ðông hơn quan thoại ER. Ngầu dục tức 'thịt bò' gần quảng đông hơn quan thoại: Niu rou.
    Lộn xộn giữa W và Y xảy ra giữa tiếng Quan thoại và Quảng Ðông được thể hiện trong chừng năm- bẩy từ, tiêu biểu bằng:
    Vân (mây): quảng đông Wân, quan thoại Yun - kéo theo một số từ dùng bộ Vân như vận động, vận hành, . . .
    Vĩnh (trong vĩnh biệt): quảng đông wing (wĩnh), quan thoại yong (yĩnh)
    Váng (choáng váng): quảng đông wang (váng), quan thoại yun (yáng)
    Vinh (vinh quang): quảng đông wing (vinh), quan thoại rong (yinh)
    Vực (lĩnh vực): quảng đông ling wig (lĩnh wực), qt ling yu (lĩnh yực)12
    Những từ lộn xộn giữa W và Y này của tiếng Hoa lại được ưa dùng để ráp âm cho một số chữ Hán đã được Nôm-hoá. Thí dụ: vận động, dùng âm vận và bộ Vân của 'mây'.
    Thành ra xác định được VÂN là Wân hay Yân sẽ kéo theo một loạt chừng 5 từ nữa dùng âm Vân trong tiếng Nôm xuất từ Hán Việt. Tuy nhiên tỷ số của các lộn xộn trong tiếng Tàu trên tổng số các âm bắt đầu bằng V không đáng kể, và chưa đáng khảo sát thật sâu trong lúc này[15]. Những từ còn mang nghi vấn giữa âm W và B (hay Y) do đó có thể được liệt kê vào cả hai cột, B (hay Y) và W (hay V), trước khi cộng lại để tính tỷ số.
    ...........................
    Cù Lần
    Được culan sửa chữa / chuyển vào 08:42 ngày 10/04/2003
  5. culan

    culan Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/10/2002
    Bài viết:
    223
    Đã được thích:
    0
    Như đã ghi ở trên, khó khăn lộn xộn giữa W và B còn xuất hiện trong ký âm chữ Nôm thuần túy. Nhất là sau khi chữ quốc ngữ ra đời. Bởi chữ Nôm luôn luôn được các nhà Nho tự do sáng chế cách viết. Khoảng từ giữa thế kỷ 18 sự phân cực giữa W và B được hình thành giữa phía Nam và Bắc - do ở tác động của chữ quốc ngữ, nguyên nhân sẽ bàn phía sau. Nhà Nho ở phía Bắc sẽ sáng chế thêm một số lối viết chữ Nôm để ***g âm V vào đó cho các từ họ cho đánh vần bằng V quốc ngữ phải đọc bằng V. Ngược lại những người theo Nho học ở Nam bộ sẽ thay đổi lối viết, cho những từ bắt đầu bằng V như Về / Voi phải có âm B như họ đã quen thuộc. Ở những từ Nôm có hai lối viết bắt đầu bằng B và V - rất may không đến nỗi nhiều - ta phải xem thật kỹ:
    chữ Nôm đó có bao nhiêu cách viết và đa số viết theo âm B hay âm W. Ta phải chọn theo đa số. Thí dụ:
    Von (ví von): Có tất cả 5 cách viết - Sơn + Yiên (yiên chức) / Tiểu (nhỏ)+Yiên / Giả tá Văn (wăn) / Khẩu (miệng)+Yiên / Khẩu+Yung (dung nhan). Trong 5 cách viết đó chỉ có cách vay mượn Văn là có âm V hay W. Còn 4 cách kia thiên về B hay By: Byon chính là kiểu đọc xưa.
    Voi (con voi): ta biết người Mường đọc Woi. Chữ Nôm có 5 cách viết:
    Viết theo tiếng Hán: Tượng nhưng đọc Voi/ Khuyển (chó)+Vi (Wei=Vì) / Khuyển+Bôi (cái chén) / Khuyển+ Vị (đơn vị) / Tượng+ VI. Trong 5 cách viết chỉ có Khuyển+Bôi thiên về B - còn lại ngã về W hay V: Con Woi = con Voi.
    Với (with, avec): có tất cả 13 cách viết, trong đó 11 cách viết theo âm B - như Bối / Bái - và 2 lối viết theo V (Vĩ đuôi). Theo đa số: Với= Byới, lúc xưa
    Vài (some, một vài)= vay mượn Bài / Ba+Nhị (2) / Nhị+Bài / Vi+dấu móc / Thủ+Vi. Vài viết theo B chiếm 3 dạng, viết theo V (tức W) chiếm 2. Vài, khi xưa= Bài
    Vuông (square): có 9 cách viết= giả tá chữ Phương (bình phương= squared) /
    Vi(chu wi)+Phương / Phương+Ðạm / Phương+Khuông / Phương+Lôn / Phương+Bông / Phong+Phương / Yiên+Bông - Trừ dạng VI+Phương những loại dạng còn lại thiên về âm B hơn W. Dạng "Phương+Ðạm" thì sao? Tra "Ðạm" ta sẽ thấy Ðạm= Khí+Yiêm / Bối+Yiêm / Tâm+Yiêm (Yiêm chứ không phải Viêm bời tiếng Tàu là Yan). Vuông dựa âm Ðạm, Ðạm dựa âm Yiêm. Do đo,ù Vuông đã được gọi Yuông hay Buông. Thêm vào đó, dạng ưa dùng nhất Vuông= Phương+Bông như trong Kim Vân Kiều[16]. Khi xưa, Vuông=Buông
    Ðáng lưu ý nhất, ta phải xem âm chính đó có thật V không, hay đã sai ngay từ ban đầu do ở tác giả lầm lẫn âm thật sự của tiếng Tàu. Thí dụ: Vé (như vé hát, vé máy bay) quan thoại viết Piao tức có âm B hay gần B. Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính[17] ghi: Vé = Mịch (sợi tơ nhỏ)+ Vi (tiếng Hán, nghĩa cũng như, và, . . .). Vi mang nghĩa cũng , cả tiếng Quảng Ðông và quan thoại đều phát âm Yi. Do đó dù tự điển Nôm ghi âm của Vé bắt đầu bằng V, âm thực thụ của Vé là Yé hay byé bởi nó lệ thuộc vào âm đúng đắn của Vi là Yi. Tương tự, âm của Vượt dựa trên âm Việt. Việt mặc dù viết với V, nhưng dựa vào âm Yue của toàn tiếng Tàu. Do đó Vượt khi xưa phát âm Yượt, hay Byượt. Phải xếp những từ như Vé, Vượt vào cột chữ B. Tương tự, Vuông ngày trước đọc Buông, như ghi lại phía trên.
    (còn tiếp)
    © 2003 talawas
    --------------------------------------------------------------------------------
    [1]Hiện tượng phát âm chữ R hơi khác lạ cũng thường xảy ra với các ca sĩ như E***h Piaf, Mireille Mathieu ở tận chân trời Paris. Những ca sĩ này đánh lưỡi chữ R rất . . . dòn
    [2]Thử viếng lại âm chữ V và D (hay Dz) trong tiếng Yiệt cổ. Trong: "7 Ngàn Dặm - Instant E***ion" hoặc Hồn Quê tại www.honque.com hay Charité tại http://perso.wanadoo.fr/charite - hoặc Ði Tới - Montreal, Canada, hay Vietnam Daily - San Jose, USA.
    [3]Bài thứ nhất về chữ V mang tựa: "Thử tìm lại phát âm chữ V trong tiếng Việt cổ". Xem: 7 Ngàn Dặm - Instant E***ion hoặc Ði Tới - Montreal, Canada.
    [4]Xin xem các bản liệt kê từ đối chiếu ở: Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu.
    [5]Ðào Duy Anh (1973) Chữ Nôm: Nguồn Gốc, Cấu Tạo và Diễn Biến. Nxb Ðông Nam Á
    [6]Hoàng Thị Châu (1969) Nước Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ. Nghiên Cứu Lịch Sử - số 120
    [7]Hồ Lê và nhiều tác giả (1992) Tiếng Việt và các Ngôn Ngữ dân tộc phía Nam. Nxb Khoa Học Xã Hội - Hà Nội
    [8]A= B+C mang nghĩa: chữ Nôm A viết bằng cách nối (+) từ B với từ C. Dấu " / " có nghĩa: 'cũng có thể viết như". Thí dụ A= B+C / D+E - A viết bằng B kẹp với C - HOẶC bằng D viết chung với E
    [9]Vuông ngày trước chắc chắn gọi Buông hay Byuông. Lý do: Một từ tương tự Buồng (room) vào đời nhà Ðường chính là âm của Phòng (Fang) ngày nay. Buồng biến thành Phòng. Song song, Buông có rất nhiều cơ hội biến theo thành Phương (quan thoại củng Fang), nghĩa tiếng Hán: Vuông. Do đó Vuông chính là Buông ngày xưa, theo âm.
    [10]Trong phim mới The Heroes (Yin Xiong - Những Người Anh Hùng) với Jet Li trong vai chính, Tần Thủy Hoàng có tiết lộ 1 trong những tham vọng của ông khi thống nhất được Trung Quốc, ông sẽ tìm cách thống nhất chữ viết. Bởi trong phim, thời đó từ Kiếm (Sword) có đến 19 cách viết khác nhau!
    [11]Hương Giang Thái Văn Kiểm (2000) Việt Nam Anh Hoa (nxb làng văn) có kể một câu chuyện về cầu Bông ở Gia Ðịnh. Cầu này có tên cũ là cầu Hoa. Nhưng để tránh tên úy bà Hồ Thị Hoa vợ vua Minh Mạng nên đổi tên ra cầu Bông. Hồ Thị Hoa là con của đại thần Hồ Văn Vui. Quyển sách ghi: Hồ Văn Vui hoặc Hồ Văn Bôi. Tra tự điển Chữ Nôm ta sẽ thấy Vui và Bôi thông thường có chung một lối đánh vần, một lối viết theo chữ Nôm. Âm UI biến chuyển qua lại với ÔI trong chữ Nôm còn thể hiện qua: Tui và Tôi viết giả tá theo Toái.
    [12]Thí dụ trong Kiều có câu: Một VÙNG như thể cây quỳnh cành dao - Một số học giả đã không đồng ý và đề nghị thay Vung cho Vùng bởi hai từ này trong dạng Nôm có một vài lối đánh vần giống nhau: Một VUNG như thấy cây quỳnh cành dao.
    [13]Vũ Thế Ngọc (1989) Nghiên Cứu chữ Hán và tiếng Hán Việt. Nxb East West Institute
    [14]Lê Nguyễn Lưu (2002) Từ chữ Hán đến chữ Nôm. Nxb Thuận Hoá
    [15]"Lĩnh vực" có phát âm nghiêng về phía Quảng Ðông "lĩnh wực" thay vì Quan thoại "lĩnh yực", bởi cách viết chữ Nôm đa số dựa trên âm W qua chữ "Hoặc". Vực (Nôm)= Thổ+Hoặc / Thủy+Hoặc / Quỷ+Hoặc, v.v. Nhưng chưa thể xác định về VAÂN. Tự điển chữ Nôm ghi Vân phát âm Nôm theo Hán Việt - YUN hay WAN?
    [16]Nghiêm Xuân Hải (2002) Di sản Hoàng Xuân Hãn - Trong HỢP LƯU - số 65, tháng 6 & 7 năm 2002, trang 5-46.
    [17]Vũ Văn Kính (1998) Ðại Tự Ðiển chữ Nôm. Nxb Văn Nghệ/ Trung tâm Nghiên Cứu Quốc Học
    ...........................
    Cù Lần

Chia sẻ trang này