1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tướng Giáp qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương-Sách tham khảo

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sự tan rã
    Năm này đến năm khác, chúng ta đã chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, vượt qua những điều không thể tưởng tượng được nhưng chúng ta vẫn tiếp tục sống, lao động và chiến đấu.
    Phạm Văn Đồng
    Mùa xuân năm 1968, chiến tranh Việt Nam-và trong một nghĩa khác ông Võ Nguyên Giáp-đã gây nên hai nạn nhân mới. Một trong hai nạn nhân là William Childs Westmoreland.
    Tướng Westmoreland đã bị chỉ trích vi phạm ba sai lầm trong nhận định đánh giá việc lãnh đạo cuộc chiến tranh. Có thể kể: "Tính đến sức cơ động rất cao của không quân, tính đến những lực lượng hậu cần rất uyển chuyển, và nhất là năng lực nổ súng khổng lồ, ông rất muốn quân Mỹ chiến đấu trong những khu vực vắng, thưa dân nếu như đối phương đã sẵn sàng nghênh chiến. "Những người khác không chia sẻ phương diện này: "Chiến trường thực sự là dân cư chứ không phải là rừng núi" tướng Krulak Tư lệnh trưởng Hải quân toàn khu vực Thái Bình Dương. Ông Giáp cũng có ý kiến tương tự. Kể cả chiến lược "tìm và diệt" của Westmoreland-mà quân Pháp đã chịu thất bại-cùng với sự quan tâm đến những hành trình xâm nhập đưa đến hậu quả phân tán lực lượng quân Mỹ trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, điều đó khiến quân Mỹ dễ bị tổn thương và cản trở việc tập trung lực lượng nổ súng khi có dịp giáng cho đối phương một cú quyết định. Hơn nữa, quan niệm của ông muốn mở rộng các cuộc hành quân đưa chiến tranh ra miền Bắc-thuật lại năm 1960 cuộc đổ bộ 1950 ở In chon Triều Tiên, cho phép vòng ra phía sau địch-là đáng nghi ngờ. Ở Triều Tiên, đội ngũ các quốc gia liên hiệp không phản đối với một lựa chọn như *********, liên tục quấy rối các đơn vị và các căn cứ. Ông Giáp bình luận: "Tấn công miền Bắc có nghĩa là mở ra một chiến trường lớn hơn. Các lực lượng quân Mỹ càng bị phân tán hơn, càng dễ bị tiêu tan ý chí." Dù thế nào quan niệm ấy không bao giờ thực hiện được.
    Westmoreland chống đỡ rằng, để bảo đảm không xâm nhập vào biên giới và buộc ông Giáp phải tiến hành những trận đánh thông thường không bao giờ giành được thắng lợi ông ta cần ít nhất gấp 3 lần lực lượng để bố trí tối đa sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. (Nói khác đi một triệu rưỡi người. Ông Giáp đã nói quân Mỹ phải cần hơn một triệu người. Về phương diện ấy, họ đã chấp nhận). Westmoreland không hỏi họ cần tính đến những can dự của Mỹ vào các điểm khác trên thế giới, tính đến trạng thái tinh thần của quốc hội và dư luận công chúng Mỹ, ông ta không còn may mắn nào để đạt được. Vì vậy, ông không bao giờ có một mặt trận xác định rõ ràng hơn là một phần trên đường giới tuyến kéo dài trên khu phi quân sự: còn trong tất cả phần còn lại của miền Nam Việt Nam, ông chấp nhận sử dụng những cuộc hành động cơ động.
    Trái lại, Westmoreland luôn đổi mới trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. ông là người đầu tiên đã sử dụng máy bay chiến lược vào mục đích chiến thuật-và đã thuyết phục được các tướng Mỹ sử dụng những máy bay B52 để yểm trợ gần cho các lực lượng mặt đất. Được Mc. Namara nâng đỡ, ông đã thực hiện Hulycobra và các loại máy bay trực thăng khác với những hoả lực cơ động đã yểm trợ cho bộ binh rất hiệu quả. Cuối cùng ông đã đưa lại cho các cuộc hành quân sức mạnh chiến đấu và sức cơ động chưa từng có.
    Xung quanh vấn đề Khe Sanh, không ai có thể làm gì hơn để cho thắng lợi tuột khỏi tay ông Giáp. Westmoreland không bao giờ nghi ngờ rằng các lực lượng của ông có thể giữ được căn cứ, nhưng để không coi thường ai cả, ông đã giữ việc giao chiến 20 giờ mỗi ngày. Suốt hai tháng trời, ông đã ngủ trên một cái giường sắt trong Trung tâm điều hành tác chiến Sài Gòn, ở tư thế sẵn sàng ngay cả trong những lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi. Hết ngày này qua ngày khác, ông sống ở Khe Sanh, thở không khí Khe Sanh-nhận báo cáo ra quyết định, viết tóm tắt tình hình cho tổng thống, tự mình giao mục tiêu cho B52. Không nên quên rằng, một phần lớn của thời kỳ này, ông đang điều hành chiến tranh dịp Tết. Đó là một nhiệm vụ hầu như quá sức người, cùng với các tướng ương ngạnh của hải quân, với đô đốc Ullysses S.Grant "người chủ? của vùng Thái Bình Dương (tất nhiên là cấp trên của ông) và với vô số tướng của không quân. Westmoreland đã thành công trong việc dung hoà tất cả.
    Hôm nay, ông nói rằng Khe Sanh không quan trọng bằng những trận đánh nhân dịp Tết, mà người dân Mỹ đòi hỏi là một thắng lợi lớn hơn, nhưng trong những trường hợp tương tự, ông lại tiến hành một cuộc chiến tranh mới:"Khe Sanh là một chiến trường quan trọng nếu chúng ta không tiến hành, các sư đoàn của ông Giáp tiếp tục tiến lên và trộn vào nhân dân vùng đồng bằng miền biển. Trong trường hợp ấy, các sư đoàn ấy sẽ không hoạt động xung quanh Khe Sanh làm mồi cho không quân chúng ta".
    Westmoreland là người chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh lâu dài hơn tất cả các tướng Mỹ khác. Không có ai chỉ huy bằng ông, như một ông chủ. Nhiệm vụ của ông còn khó khăn hơn khi một phần các tin tức do các dịch vụ tình báo cung cấp lại đáng ngờ nhất. Có thể kể một ví dụ: những con số thống kê xung quanh các mục tiêu không quân đánh phá thường rất mơ hồ: không lực Hoa Kỳ đã phá huỷ 179 nhà ga ở miền Bắc Việt Nam không vượt quá vài trăm kilômét mà phần lớn là đường đơn.
    Westmoreland hy vọng vào Việt Nam ông sẽ có danh sách trong số các danh nhân có nhiều kỷ lục ở nước Mỹ. Không phải là trường hợp này. Mặc dù tổng thống Johnson đã quyết định bổ nhiệm ông Westmoreland làm tổng tham mưu trưởng của quân đội mặt đất ít lâu trước khi ông Giáp chưa tiến hành chiến dịch Đông Xuân 1967-1968. Việc bổ nhiệm này đưa ra công chúng sau trận tấn công tết Mậu Thân và chiến dịch Khe Sanh, nhiều người tưởng rằng đó là một cách thải loại ông ta mà không làm mất mặt ông ta. Đó là sự giải thích nhầm lẫn: rõ ràng ông đi khỏi Việt Nam khá vẻ vang. Westmoreland ra đi để trở thành người binh sĩ số một của Hoa Kỳ, nhưng những năm dài ở Việt Nam ông đã đạt đến một thất bại. Ông không trở về chiến thắng, ông không có quyền điều hành chiến thắng giữa nòng thần công bằng đá ở New York; đó là một con người chua chát đắng cay, người đã qua những năm tháng định đặt ngón tay vào chỗ yếu đang hoàn toàn lung lay. Đúng, Việt Nam là một giai đoạn buồn. Và không phải chỉ có ông như đã từng nói: "Nhiệm vụ của người lính trẻ Mỹ càng nặng nề hơn khi không được nhân dân ủng hộ."
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cũng như Navane, Westmoreland vấp phải một đối thủ khắt khe và không thể khuất phục. Ông đã định giải một bài toán quân sự cơ bản không có lời giải vì đấu tranh: ông không bao giờ có thể giành được thắng lợi khi người miền Bắc Việt Nam đã xác định tiếp tục cuộc đấu tranh; và bởi vì cái giá của cuộc chiến tranh này không phải là tiền của, mà cuộc sống con người và những vấn đề kiên nhẫn, mà nhân dân Mỹ không thể chấp nhận được.
    Các tướng lĩnh của Westmoreland là những binh sĩ yêu nước, là con người bình thường trái lại đối phương, họ không nhận thức rằng công luận tạo thành yếu tố cơ bản nào đó; họ không hiểu rằng họ cần phải tôn trọng nhân dân và vì dân họ phải chiến đấu để nhân dân ủng hộ; không lấy chính trị là mấu chốt của triến tranh. Và cả khi họ không kiên nhẫn, điều đó không có gì thay đổi. Trong các nước phương Tây, quân đội làm những điều mà các nhà chính khách bảo họ làm, còn ông Giáp-một sự thật không có trước trong thế kỷ XX-có một chân trong mỗi phía. Ông có the vừa đưa ra những quyết sách về chính trị hoặc ít ra là đổi hướng trong suy nghĩ-và là người thực hiện những quyết sách đó.
    Cũng như phần lớn sĩ quan cao cấp đã làm ở cương vị ông, Westmoreland nghĩ rằng có thể thắng lợi nếu người ta chấp nhận một nguồn lực lớn hơn. Một sự tăng cường đơn giản 20% số quân hoạt động chống lại đối phương đã đủ làm cho cán cân nghiêng hẳn. Nhưng cách thức của Mỹ là tiến hành chiến tranh với phần lớn những binh sĩ là lính thuỷ có mặt tại Việt Nam tự bảo vệ và quản lý lấy. Theo năm tháng, đã gần 3 triệu người phải đưa sang miền Nam mà một tỷ lệ thấp về quân số đến ngạc nhiên được đưa lên phía trước.
    Theo những con số thống kế công khai, 45% của các đơn vị cơ bản không được hiểu theo đúng nghĩa của nó; giả thiết một số lớn người của các đơn vị chiến đấu để phần lớn thời gian tặng cho bạn bè các yếu tố của American way of life bằng chăm lo đến các cửa hàng, rạp chiếu bóng, câu lạc bộ, v.v... Mỗi tuần lễ, 7.000 trong số họ rời Việt Nam đi nghỉ phép. Sự thật tính ra chưa bao giờ có hơn 5% binh sĩ đi chiến đấu.
    Ông Giáp biết rằng: ?oBình định tạo nên một mối đe doạ cho thắng lợi của miền Nam Việt Nam", nhưng quân Mỹ không bao giờ chấp nhận tầm quan trọng của việc giành lấy trái tim và khối óc của con người miền Nam Việt Nam. Thái độ của phần lớn lính Mỹ được tóm tắt trong câu nói bất hủ của một vị tướng: "Đánh họ bằng dùi cui, tim và óc họ sẽ theo". Để làm trầm trọng thêm tình trạng đó, các chính khách ở Washington mất dần sự ủng hộ về tinh thần và ý thức đối với nhân dân của chính họ. Đứng đầu họ là nạn nhân thứ hai của cuộc chiến tranh: Lyndon Baines Johnson.
    Đối với tổng thống Johnson, trận chiến đấu ở Khe Sanh là một cái gai làm cho cái ghế chính phủ thêm lung lay. Tức thời sau khi cuộc chiến bắt đầu, lòng dân giảm sút nghiêm trọng; tệ hơn, 50% dân chúng phản đối chiến tranh và chỉ có 35% đồng ý. Họ bị ám ảnh về thảm hoạ Điện Biên Phủ. Dù thế nào đi nữa, Khe Sanh cũng không được bất hủ. Hy vọng có thể gây ảnh hưởng thuận lợi đến lối thoát cho cuộc chiến, quan tâm gần gũi đến các sự kiện, ông xây dựng ở dưới nền nhà trắng một cái sa bàn Khe Sanh và vùng phụ cận. Mọi giờ ban ngày và ban đêm, thỉnh thoảng cả quần áo ngủ, ông đến nghiên cứu, đặt câu hỏi và yêu cầu sự để tâm hàng ngày. Hằng tuần lễ liền ông đến đó tất cả các đêm, quan sát những gì xảy ra ở đó, theo đúng nghĩa tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ. Cũng như nhiều chính khách trước ông, Johnson làm rối loạn các kế hoạch của tướng lĩnh, sử dụng quyền quyết định những vấn đề quân sự quan trọng thực ra không thuộc thẩm quyền của ông. Ngày 27 tháng giêng ông yêu cầu từng người trong số Joint Chiefs of Staff tự mình-bằng xương bằng thịt như ông chỉ định-trình bày Khe Sanh có thể giữ được không. Chưa có ai trước ông đã làm như vậy. Ngày 29, ông nhận được sự "bảo đảm" do các tổng tham mưu trưởng liên quân ký. (Người ta chỉ có thể phỏng đoán trước phản ứng của ông, khi ông không vừa lòng).
    Tháng 2 năm 1968, tác động của những hình ảnh Sài Gòn và Huế lan tràn trên toàn cõi Hoa Kỳ lục địa gây sự phản ứng kịch liệt vào ngày ấy-và tàn nhẫn làm cho Johnson đối mặt trước câu hỏi cần giải đáp về việc ông có thể tiếp tục cuộc chiến tranh giá đắt về tiền của cũng như sinh mạng con người. Gánh nặng của chi phí quân sự đã làm cho ông phải giảm bớt chương trình xã hội mà ông đã đưa ra bao nhiêu lần-giấc mơ của ông về một xã hội Hoa Kỳ vĩ đại. Ông đã làm nhiều: những người da đen đã có quyền bầu cử, một thế kỷ sau khi Lincoln ký tuyên bố giải phóng chương trình Medicare-nhưng như vậy chưa đủ. Để giữ cân bằng tương đối giữa giấc mộng ấy và thực tế chiến tranh, ông đã che giấu nhân dân Mỹ điều thực tế đang xáy ra ở Việt Nam-mở rộng sự can thiệp của Mỹ, số lượng người đã được gửi đi... ông đi đến chỗ phải che giấu cải giá thật của cuộc chiến tranh trước Quốc hội. Nhưng bao giờ vẫn thế, sự thật cuối cùng phải lộ ra giữa ban ngày.
    Ngày 14 tháng hai, chính phủ đã cho ngân sách quân sự năm 1969 là 32 tỷ đô la. Ngày 15, không quân Hoa Kỳ tuyên bố bị bắn rơi 800 máy bay ở Việt Nam. Ngày 20 Hội đồng đối ngoại của Thượng viện mở một cuộc điều tra để xác định vụ rắc rối ở Vịnh Bắc Bộ, là một cuộc diễn tập của Mỹ để mở rộng chiến tranh, hoặc một sai lầm của Bắc Việt Nam được hiểu như một hành động chiến tranh (cuộc điều tra không kết luận). Cùng ngày ấy, một báo cáo báo tin có hai sư đoàn dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam lên đường đến Khe Sanh; trong đêm đó điểm cao 881 nam bị tiến công. Cuối cùng ngày 22, cơ quan tham mưu của Westmoreland tuyên bố con số thương vong hàng ngày cao nhất của quân Mỹ là 543. Ngày hôm sau, bộ trưởng bộ quốc phòng báo cáo Johnson cần tăng viện người cho Việt Nam. Muốn đáp ứng những đòi hỏi về quân số, cần phải gửi quân National Guard ("Canh phòng lãnh thổ"), điều không thể thực hiện khi tính đến sự phản đối chiến tranh đang tăng lên. (Westmoreland đã yêu cầu rất chính xác số đơn vị mà ông cần thiết nếu kế hoạch mở rộng chiến tranh của ông đưa các cuộc hành quân sang Lào và phía Bắc khu phi quân sự được phê chuẩn; trong trường hợp ngược lại, ông xin thêm 20.000 người để giữ nguyên trạng. Lầu Năm Góc đã phê chuẩn 206.000 người nhưng Westmoreland nói rằng phải đến con số ấy khi tính đến thành lập lại những lực lượng dự bị chiến lược. Ông đã nói với tôi: "Không có đâu ông không tìm thấy một tờ giấy có chữ ký yêu cầu 206.000 người của tôi"). Khi tổng thống hỏi đến Hội đồng các cố vấn gồm những người mà ông hoàn toàn tin tưởng, ông nhận thấy rằng họ đã hết ủng hộ cố gắng chiến tranh: chỉ còn ông là người cuối cùng còn tin tưởng. Lyndon Johnson đã hết đường. Ngày 31 tháng 3 năm 1968, trên một chương trình truyền hình, ông đã tuyên bố cho nước Mỹ việc ngừng ném bom của không quân và hải quân ở Bắc Việt Nam sắp xảy ra; cuối bản tuyên bố ông cũng không khêu gợi thêm một nhiệm kỳ nữa. Ba ngày sau, Hà Nội tuyên bố đồng ý thương lượng. Ngày 13 tháng 5, hội nghị hoà bình mở ra ở Paris. Tháng giêng năm 1969, Richard Mithous Nixon vào nhà trắng.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 2 tháng 9, ***** Chí Minh mất ở tuổi 79. Trong di chúc, cụ yêu cầu tro của Cụ được bảo quản ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn để cụ có thể ở lại mãi mãi với dân tộc Việt Nam. Đáng lẽ được hoả thiêu, thân hình Cụ được ướp xác; trưng bày trong quan tài bằng kính trong một lăng rộng bằng đá cẩm thạch hồng ở Hà Nội. Lăng được các binh sĩ danh dự bảo vệ và được hàng triệu người Việt Nam tôn kính. Điều đó có nghĩa là giữ lại trong đời sống một biểu tượng mà toàn Đảng đang cố gắng thực hiện. Lê Duẩn trở thành người thứ nhất trong số các nhà lãnh đạo
    Việt Nam sau khi Cụ mất. Cụ Tôn Đức Thắng trở thành ************* Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    Cái chết của ***** gây nên một nỗi đau thương lớn lao và khóc than âm ỉ, nhưng nó cho phép Đảng được xây dựng đất nước để tiếp tục cuộc chiến tranh: người ta nói với nhân dân là điều Cụ muốn; tại sao không tôn trọng ý muốn của Cụ.
    Hoa Kỳ càng dấn sâu vào cuộc chiến tranh, số người Mỹ nghĩ rằng chính phủ của họ đã lầm lẫn ngày càng nhiều. Đối với nhiều công dân Mỹ, đất nước vĩ đại của họ lại can dự vào một cuộc chiến tranh tàn bạo như vậy là không thể tha thứ được. Đất nước Việt Nam bị tàn phá vì: bom và chất độc rụng lá của Mỹ. Ngày nào cũng có đàn ông, đàn bà, trẻ con bị giết, bị hành hạ xé nát thành sợi giẻ vì bom đạn và napan đốt cháy.
    Ngày 2 tháng 11 năm 1965, noi gương một vị sư đã tự thiêu ở Sài Gòn để phản đối Diệm, một tín đồ trẻ phái Quây Cơ tên là Norman Morrison tự đốt cháy mình trước Lầu Năm Góc ở Washington. Một tuần lễ sau, một thành viên của hoạt động thợ thuyền công giáo lặp lại hành động của Morrison trước trụ sở Liên hiệp quốc ở New York. Ngày 27 tháng 11 một cuộc biểu tình im lặng tập hợp 35.000 người chống chiến tranh ngồi ở Lầu Năm Góc. Những tháng tiếp theo, những cuộc biểu dương lực lượng tiếp tục xảy ra, trong các khu sân bãi các trường đại học Mỹ. Người ta đốt hình nộm của các nhà lãnh đạo, trong đó có Westmoreland. Ít lâu sau, nhân dân Mỹ đã làm cho họ có tiếng nói trên chính trường nước Mỹ.
    Tháng 6 năm 1969 tổng thống Nixon tuyên bố bắt đầu việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Một tháng sau ông đưa ra một học thuyết mới: Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tôn trọng những nghĩa vụ quốc tế và bảo đảm tấm chắn vũ khí nguyên tử cùng một sự viện trợ quân sự và kinh tế, những nước bị trực tiếp đe doạ phải cung cấp phần lớn lực lượng cần thiết để phòng vệ đất nước mình. Đây là bước thứ nhất để rút ra khỏi ngõ cụt Việt Nam.
    Tháng 11 năm 1969, hai trăm năm chục nghìn người tập trung ở Washington để phản đối chiến tranh. Tháng 5 năm 1970, quân đội phải đến giải tán cuộc biểu tình nổi sóng tập hợp một trăm nghìn người. Ở trường đại học quốc gia Dekent ở Ohio, những người National Guard bắn vào đám đông, giết chết 4 sinh viên. Cùng tháng 5, Quốc hội bãi bỏ "những sự kiện Vịnh Bắc Bộ" năm 1964 cho phép tiếp tục cuộc chiến tranh bằng những lời lẽ không chắc chắn. Cuộc chiến tranh này, quân đội không thể thắng lợi; số người lên án mãnh liệt ngày càng tăng; bản thân quốc hội cũng đã có một bước lùi. Tổng thống Nixon phải hành động. Tháng 7 năm 1970, tổng thống cho ra đời một chiến lược ba điểm để cho Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến; tăng cường viện trợ cho miền Nam Việt Nam; thúc đẩy nhanh hơn hành động bình định; rút dần các lực lượng Mỹ đồng thời với những tiến bộ của Việt Nam hoá và công việc bình định. Ngoài ra, phải cố gắng tách rời miền Bắc Việt Nam ra khỏi Liên Xô và Trung Quốc nhờ những tiến trình ngoại giao, song song với đàm phán hoà bình với Hà Nội.
    Tướng Creighton W.Abrams tiếp tục sự nghiệp của Westmoreland đến giữa năm 1968, xây dựng một chương trình rút quân Mỹ làm 14 chuyến. Chuyến thứ nhất gồm 25.000 người ra đi gần như tức thời: 35.000 trở về Hoa Kỳ vào tháng 9 và 50.000 người vào tháng chạp.
    Ngay sau khi Mỹ tuyên bố rút quân, tình thế thay đổi cơ bản ở Việt Nam. Ở miền Bắc ông Giáp và các ủy viên Bộ Chính trị rất hài lòng: chắc chắn thắng lợi chỉ còn là vấn đề thời gian. Ở miền Nam nhân dân và quân cộng hoà miền Nam nhìn đến tương lai mà lo, còn các lực lượng Mỹ hầu như đó là tất nhiên: tuy thật xấu hổ về tinh thần khi phải tuyên bố không thể thắng lợi-trong những điều kiện ấy hy sinh cuộc sống để làm gì? Nhưng ở Washington, Nixon không có cách lựa chọn nào khác bố trí thời gian để rút quân về; quân Mỹ chưa thể ra đi trước khi tăng cường lực lượng cho quân ngụy miền Nam đủ sức đương đầu với đe doạ từ miền Bắc-và điều đó không thể làm ngày một ngày hai được.
    Như vậy miền Nam đã thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trước khi ông Giáp và quân đội của ông giành thắng lợi, như họ đã chiến thắng chiến tranh Đông Dương. Sau phát súng kết liễu ở Điện Biên Phủ, quân Pháp chỉ có thể rút lui. Ở miền Nam, không có một trận tác chiến quyết định có lợi cho bên này hoặc biên kia-chỉ còn một nỗi ngày càng mất lòng tin của nhân dân Mỹ cũng như miền Nam Việt Nam. Sau những chuyến ra đi đầu tiên, những bộ phận còn lại hầu như tan rã, cũng như quân cộng hoà miền Nam để miền Nam rơi vào tình trạng không có phòng ngự chống lại sự xâm nhập sắp xảy ra của miền Bắc.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong khi quân Mỹ giảm dần, những người còn lại càng ngày càng mất tinh thần. Những kẻ mới đến đắm sâu vào trong không khí thất bại gần đến nổi loạn và đến lượt họ mất hết động cơ chiến đấu. Càng ngày dịch bệnh càng lan khắp trận địa, kỷ luật và trật tự đi vào quên lãng; nhiều đơn vị lâm vào tình trạng vô chính phủ. Tình trạng bất mãn toàn bộ lan khắp quân đội; ở một số trường hợp, khoảng 245 xuất bản phẩm chống chiến tranh được viết, in và phân phối trong lính Mỹ.
    Quyết định rút khỏi Việt Nam không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng bất ổn. Phần lớn binh sĩ Mỹ là dũng cảm, giỏi, và tự hào về truyền thống của họ nhưng xa hơn họ không nhiệt tình bằng đối phương của họ. Khi phải luyện tập căng thẳng về thể lực, đòi hỏi kỹ thuật tinh thông, họ kém tập trung do đó kém hiệu quả, chính bởi vì một số trong bọn họ không chấp nhận chiến đấu cho đất nước họ cũng như cha ông họ đã làm trong những cuộc chiến tranh trước đây. Yếu tố chính làm nhụt chí xung kích của họ là tất cả họ sống theo kiểu Mỹ, trừ một số lực lượng đặc biệt đóng ở cuối rừng; vì cần cho mức sống cao ấy, mọi người đều phải chở bằng máy bay hàng nghìn kilômét đến. Các tướng lĩnh và các chính khách rất lấy làm tự hào về điều đó đó là gốc rễ của nhiều vấn đề.
    Các đội máy bay ném bom, những căn cứ tráng lệ có điều hoà khí hậu ở Thái Lan, Philippines hoặc Việt Nam, từ bỏ thời gian thực hiện những nhiệm vụ nguy hiểm căng thẳng thần kinh, để trở về yên tĩnh và đủ tiện nghi. Các lính thuỷ đã trực tiếp chiến đấu, chỉ sống căng thẳng trong giây lát được máy bay lên thẳng trở về sau một trận chiến ác liệt họ có thể yên lặng ăn một mẩu biftek khoai tây nướng tưới Cocacola tươi và tận hưởng những cốc nước đá. Thỉnh thoảng, ngay giữa trận đánh vẫn có bia lạnh đến từ trên trời, do máy bay lên thẳng đưa tới. (Trong những căn cứ lớn, hậu cần quân đội đã đưa đến 250.000m3 thực phẩm ướp lạnh). Một đại tá đã được hưởng một huân chương dũng cảm vì đã dùng trực thăng mang đến trận địa các lực lượng đặc biệt những con gà tây ướp lạnh nhân dịp kỷ niệm Thanksgivingday. Trong các câu lạc bộ sĩ quan, khi không khí quá lạnh đều xây dựng lò sưởi-Ngoài ra có những lò than rán cá thịt tất cả các chủ nhật. Hầu như khắp nơi, mọi người đều có truyền hình, cộng với một bộ phim các buổi chiều-nếu họ muốn đi đến rạp chiếu bóng. Làm sao có thể đưa hết năng lực vào trận chiến đấu trong khi họ đang bị mềm lòng về những tiện nghi quá mức và giành nhiều thời gian cho thế giới viễn tưởng? Thông thường, binh sĩ không thể dung hoà thực tế chiến tranh với trạng thái căng thẳng thường xuyên và những tình tiết đẫm máu và những tính chất tự nhiên của cuộc sống; điều trái ngược quá mức đó là một trong những nguyên nhân chính của những chấn thương tâm thần của một số họ đã phải chịu đựng trong chiến tranh và sau chiến tranh.
    Theo tướng Westmoreland, tất cả những tiện nghi ấy nhằm giữ vững tinh thần của con người tránh họ kéo ra đường phố và làm lung lay hơn nữa nền kinh tế yếu ớt của miền Nam Việt Nam vì sự hoang phí của họ; Không ít chuyện hào nhoáng quá đáng ấy đã gây nên những chi tiêu không cần thiết. Khi quân Mỹ rút quân khỏi Việt Nam họ đã để lại 71 bể bơi, 160 cửa hàng lưu niệm, 90 câu lạc bộ, 159 sân bóng rổ, 30 sân tenis, 55 sân bóng đá, 85 sân bóng chuyền, 2 bowlings, 357 thư viện-chưa tính những cửa hàng của quân đội đầy ắp hàng hoá xa xỉ: nữ trang, nước hoa, rượu vang nhiều cồn. Theo một người đã chứng kiến, các tủ kính của họ đầy đủ như các tủ ở đại lộ số 5.
    Cũng có cả cuộc sống ban đêm. Hàng nghìn lính Mỹ lương cao đến đây sẵn sàng tiêu tiền đến mức gây tác dụng thảm hoạ trên tinh thần số đông người Việt Nam chỉ nghĩ đến làm giàu mà quên đi việc thờ cúng tổ tiên. Năm 1966 ở Sài Gòn, người ta tính có khoảng 30.000 trẻ em mồ côi chiến tranh chưa qua tuổi thiếu nhi đã đi làm nghề gái điếm, không tính đến số gái điếm "bình thường". Xung quanh các căn cứ lớn, hàng trăm gái điếm hành nghề trên những xe móc cắm trại không cần yêu cầu. Một trong số 4 lính Mỹ bị bệnh hoa liễu. Hàng nghìn bị sốt rét và những bệnh nhiệt đới khác chưa tính đến các bệnh lý có liên quan đến sử dụng chất ma tuý. Chỉ có 17% lính Mỹ điều trị ở bệnh viện vì bị thương trên chiến trường. Một tỷ lệ lớn người nghiện ma tuý. Năm 1970, 58% lính Mỹ nghiện hút; 22% chích heroin; 14% dùng hallucinogene. Năm 1971 gần 5.000 lính Mỹ được điều trị vì vết thương chiến tranh, trong khi 20.529 lính được điều trị vì những bệnh tật có liên quan đến ma tuý.
    Kiểu sống quá tiện nghi không chỉ có hậu quả đó. Những sĩ quan bộ binh chỉ có 6 tháng chỉ huy quân đội trên tuyến đầu, thực tế có 5 tháng luyện cho quen thuỷ thổ và đi phép. Họ đến Hoa Kỳ bằng những chuyến bay thường kỳ, rời khỏi máy bay có điều hoà nhiệt độ và chúc nhau "Chiến tranh tốt lành?" với một cử chỉ lịch thiệp-điều đó có thể là vấn đề may mắn.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lúc ban đầu, họ thường không có kinh nghiệm bằng những binh sĩ trẻ mà họ chỉ huy (tuổi trung bình là 19 gần như trẻ con). Sau khi "làm việc" được 5 tháng-thời kỳ quá ngắn để hiểu đúng con người-Các sĩ quan được thuyên chuyển đến cơ quan tham mưu hoặc trở thành huấn luyện viên trong các trại huấn luyện quân cộng hoà miền Nam Việt Nam.
    Lính bộ binh phục vụ 365 ngày ở Việt Nam, còn lính thuỷ 13 tháng. Hơn một ngày. "Ngày trở về" của họ được ghi sâu vào trí nhớ; một số ghi vào mũ, số khác dùng đá nhọn khắc lên thành hầm trú ẩn. Chưa có một cuộc chiến tranh khác nào mà Mỹ tham dự thời hạn phục vụ lại ngắn như vậy. (Tướng Westmoreland hy vọng: "Thời hạn phục vụ một năm là một nhân tố ổn định tránh sức ép của dư luận yêu cầu cho các chàng trai nhỏ bé trở về".) Những chàng tân binh trẻ được bổ sung nhỏ giọt để thay thế những người trở về, như thế có nghĩa là các đơn vị không có ý thức đơn vị cơ bản về tinh thần, tình cảm đồng đội và tin cậy chỉ có thể phát sinh sau những năm tháng cùng cố gắng.
    Một lý do không vừa lòng khác dẫn đến tinh thần tồi tệ của con người: hệ thống gọi tòng quân không làm vừa lòng lính da đen, những Hispano Americans là những người da trắng nghèo. Những ai có quyền thế và tiền của riêng lính WASP (gốc Anglo-saxon) do người đứng đầu chế độ Hoa Kỳ quyết định-có thể thoát khỏi việc tuyển mộ thường lý do cần thiết để tiếp tục học tập. Những người da đen đã hàng năm trời đấu tranh cho quyền lợi của họ, tìm thấy một cách đối xử mới không công bằng làm thêm mất lòng tin triền miên trong quân đội. Martin lather King tuyên bố rằng: "Một số lượng mất cân đối người da đen chết ở Việt Nam" và kích động người Mỹ trở thành những người từ chối cầm súng vì thấy trái lương tâm-Sự thật, họ đại diện cho 13% lực lượng sang Việt Nam, kém hơn tỷ lệ người da đen so với toàn bộ dân số; dẫu sao, 28% trong số họ được đưa vào các đơn vị chiến đấu.
    Với ý định hãm bớt sự tan rã, nếu quân lính không tuân lệnh thì sĩ quan bị cách chức. Do đó sĩ quan tránh được những mệnh lệnh nhạy cảm trong việc bố trí lực lượng chiến đấu, kể cả những ai không chấp nhận hy sinh. Những người chỉ huy ra những mệnh lệnh không như vậy có thể bị giết-vì đạn (thường từ phía sau lưng trong khi đang tác chiến với đối phương) hoặc vì một quả lựu đạn ném vu vơ hoặc vào xe họ (một quả lựu đạn nổ không còn giữ được dấu vết gốc). Giữa năm 1969 đến năm 1971, đã có 730 vụ phản chiến gây nên cái chết cho 83 sĩ quan. Thật đáng tiếc cho những sĩ quan ưu tú những người cố gắng duy trì kỷ luật. Những người thân trong gia đình tất nhiên không được thông tin về cái chết của họ, họ chỉ nghĩ rằng con cái họ đã anh dũng ngã xuống chiến trường.
    Suốt chiều dài cuộc chiến tranh, quân đội cũng sử dụng cái mồi: tưởng nhớ xa xưa để làm huân chương và các hình thức khen thưởng khác. Như Napoleon đã nói: "Một mẩu băng có thể đưa đến thắng trận". Một cái huân chương đeo trước ngực là một chứng minh cho một hành vi dũng cảm hoặc được khen thưởng ngoài công chúng-nhưng ở Việt Nam, đã có một sự lạm phát khen thưởng khiến cho nó không còn ý nghĩa. Trong chiến tranh hơn 1.250.000 huân chương dũng cảm đã được tặng thưởng (trong đó 800.000 cho không quân) trong khi ở Triều Tiên chỉ có 55.258 huân chương số lượng tỷ lệ nghịch với nỗ lực chiến tranh: năm 1968, 416.693 huân chương và 14.592 người chết trong chiến đấu; năm 1970, 522.905 huân chương và 3.946 chết trong chiến đấu.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một yếu tố khác gây tác động đặc biệt độc hại ở Việt Nam là chương trình "Chim Phượng hoàng?.
    Cho đến năm 1968, nhiều dịch vụ tình báo Mỹ và Nam Việt Nam hoạt động ở Việt Nam, nhưng không có sự kết hợp thực tế giữa các dịch vụ. Để che đậy khuyết điểm đó CIA đã tổ chức ra và chi tiêu cho một hệ thống kiểm soát mà họ gọi là "Phượng hoàng". Chương trình có mục đích cải tiến cách nhận biết cơ sở hạ tầng của chiến tranh du kích. Không cần biết bằng cách nào, CIA đã tổ chức những nhân viên vào 360.000 cán bộ và người cảm tình với cộng sản hoạt động ở miền Nam Việt Nam và bắt giết hết *********.
    Biện pháp đầu tiên của chương trình Phượng hoàng là phát hành "giấy căn cước (giấy chứng minh thư)"-một trong những mục đích của chương trình là bảo đảm viện trợ Mỹ đến tay những địa chỉ thực sự. Những tin tức nhận được trong dịp này dần dần được đưa vào một ngân hàng tin tức; khoảng 8 triệu tên được ghi vào sổ sách ở Sài Gòn. Sau đó, những văn phòng của Phượng hoàng được tổ chức ở cấp tỉnh và cấp huyện; mỗi văn phòng có một cố vấn Mỹ thường từ cơ quan tình báo quân đội sang. Phượng hoàng không giống như tổ chức hành chính cộng sản theo kiểu hình chóp: những đơn vị nhỏ phụ thuộc những đơn vị quan trọng nhất, tập trung trên đỉnh.
    Ý định cơ bản là sự đối chiếu những nguồn tin tức sẽ cho một lối vào tối ưu đến hệ thống *********, như vậy sẽ cho phép thu được nhiều tin tức, tin tức càng nhiều càng tăng hiệu quả của những cuộc hành quân chống Cộng, điều đó càng biết thêm nhiều tin tức hơn và cứ như vậy cho đến khi lực lượng an ninh gặm nhấm hạ tầng cơ sở cách mạng từ bên trong và phá huỷ hoàn toàn phong trào cách mạng đó. Đó là lý thuyết; cũng như trường hợp thông thường của những sáng kiến Mỹ, nó hoàn toàn logic và có giá. Nhưng, như người Mỹ đã từng làm việc trong tổ chức ấy đã nói: "Phượng hoàng trở thành cỗ xe đưa chúng ta (người Mỹ) đến một vụ diệt chủng bẩn thỉu?.
    Trên cơ sở những tin tức của các ngân hàng trung ương và các nguồn tin tức địa phương, các văn phòng Phượng hoàng giới thiệu các mục tiêu đến các đơn vị trinh sát tỉnh. Những "đội va chạm" (equipe choc) bao gồm cảnh sát miền Nam Việt Nam làm việc hiệp đồng-và dưới mệnh lệnh-với lực lượng đặc biệt Mỹ lùng sục khắp các thành phố và làng mạc để tìm thấy kẻ khả nghi-đàn ông và đàn bà-bắt họ và đưa họ về một trong số 80 trung tâm thẩm vấn của Phượng hoàng. Việc chọn lọc những kẻ khả nghi là công việc ngẫu nhiên, nhưng mỗi khi những người này bị bắt, hệ thống trở thành một hậu quả tai hại.
    Mỗi văn phòng bố trí những công thức tương ứng với các loại người bị nghi ngờ là cộng sản: lãnh đạo, cán bộ, đảng viên hoặc chỉ là người có cảm tình. Trước hết phải phân loại những người khả nghi này theo các loại trên. Vấn đề thứ nhất: Không có một đình nghĩa nào chính xác như thế nào là một "người cộng sản". Sau đó, mọi cuộc thẩm vấn hoặc tức thời hoặc ép buộc, một người nghi ngờ là coi như một chứng cứ của tội lỗi, để sử dụng những biện pháp cưỡng bức khác. Tính đến các điều kiện của thời kỳ ấy hầu hết những người miền Nam Việt Nam lúc này hoặc lúc khác đều có những tiếp xúc với hạ tầng cơ sở của hoạt động nổi dậy và cuối cùng cho đó là nghi ngờ theo sở thích hoặc vũ lực.
    Mỗi khi kẻ nghi ngờ chỉ là người cảm tình, CIA không quan tâm, và về lý thuyết họ được trả tự do. Mỗi khi kẻ tình nghi coi như là lãnh đạo hoặc cán bộ, một thủ tục tư pháp được tổ chức. Trong thực tế không một người nào được dẫn đến các trung tâm đặc biệt của Phượng hoàng để được thẩm vấn ở đây và còn sống đi ra. Năm 1971 một người Mỹ cộng tác với chương trình Phượng hoàng đã tuyên bố dưới dạng lời tuyên thệ trước hội đồng điều tra của Thượng viện Mỹ: "Trong rất nhiều cuộc hành quân, tôi không bao giờ trông thấy một người còn sống sót sau khi tra hỏi. Họ chết tất cả. Không bao giờ có một chứng cứ khả dĩ cho rằng một cá nhân nào đó đã thực tế cộng tác với *********. Nhưng tất cả đều chết".
    Trong những trung tâm thẩm vấn Phượng hoàng, thông thường sử dụng cách tra tấn; một số nạn nhân chết có thể vì thái độ đối xử tồi tệ kéo dài, nhưng phần lớn đổ xuống dưới tác dụng trực tiếp và lập tức của tra tấn. Đáng lẽ là một cơ quan tìm kiếm khai thác tin tức, Phượng hoàng thực sự trở thành một cái máy giết người. Một nhân viên Phượng hoàng nói có 30.000 người chết. Cuộc hành quân cũng đã đưa đến hàng ngàn nạn nhân gián tiếp. Ví dụ một văn phòng thẩm vấn hoạt động trên cơ sở về tín hiệu có một người ủng hộ ********* đang đến làng nào đó trong giờ nào đó; lập tức, một cuộc không tập B52 xoá sạch toàn bộ làng và tất cả dân cư.
    Phượng hoàng là một giai đoạn bi kịch và kinh khủng. Một số binh sĩ Mỹ có tình yêu đối với nhân dân Việt Nam-để tranh thủ trái tim và khối óc của họ-đã mất hết tâm hồn con người. Miền Nam Việt Nam là một cảnh tượng gây đau khổ từ điểm ký hiệu SAD tìm và diệt cuối cùng đưa những người lính Mỹ đến một khái niệm: SAD (tiếng Anh là buồn) buồn và đáng thương hại như một người lính Mỹ trong cuộc chiến tranh này.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Không phải chỉ người Mỹ mới ở trong tình thế rủi ro.
    Sau năm 1954, quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam đang suy tàn ghê ngợm vì chấm dứt sự giúp đỡ của Mỹ với sự ra đi của người Pháp. Hấp hối lười biếng, quên hết những bài học chiến thuật trong chiến tranh Đông Dương, quân đội đóng quân bên cạnh những con đường lớn và tránh xa các làng mạc, cho rằng hệ thống làng mạc chịu ảnh hưởng của *********, toàn bộ quân đội trưng ra cho những trận phục kích. Đến thời điểm tối đa, kể cả không quân và hải quân miền Nam Việt Nam, quân số quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam đến nửa triệu người (Kể cả lực lượng địa phương và chủ lực, hơn một triệu lính miền Nam Việt Nam mặc đồng phục) nhưng cũng như đất nước nói chung, tổ chức và lãnh đạo của quân đội rất kém. Hàng thế kỷ nay đã có sự chia rẽ giữa người lính mới nhập ngũ gốc nông dân với số sĩ quan của họ thuộc giai cấp trung lưu ở thành thị. Tất cá đều được trả lương ít ỏi: một người linh cộng hoà miền Nam Việt Nam được hưởng ít hơn một lính Mỹ 16 lần; một đại tá cộng hoà miền Nam mỗi tháng nhận được 70 đô la trong khi một phiên dịch làm việc cho người Mỹ nhận 300 đô la.
    Quân Mỹ đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả thật tồi tệ-Coi thường chính phủ của họ bị quấy nhiễu vì ngờ vực, nhạy cảm trước sức ép xã hội, khiếp sợ về tương lai giành cho họ, một số lớn binh sĩ và sĩ quan cộng hoà miền Nam Việt Nam thực sự không tin tương vào mục tiêu họ chiến đấu. Trái lại, họ tin vào thuật chiêm tinh, điều rất mơ hồ với lính Mỹ. Khi có những dấu hiệu không tốt lành, họ từ chối đi chiến đấu, sợ bị thất bại-nhưng không sao tránh khỏi. Quân Mỹ coi thường những cuộc hành quân ?otìm và tránh" của họ. Đó là một vòng luẩn quẩn: những kết quả tồi tệ dẫn đến những kết quả tồi tàn... Như tướng Westmoreland đã nói: "đối với những đơn vị địa phương các binh sĩ không muốn thực hiện những cuộc hành quân xa gia đình. Khi người ta giải quyết vấn đề, khi trông thấy gia đình trong khu vực họ chiến đấu, họ càng không bằng lòng hơn".
    Kỷ luật lỏng lẻo, cấp trên muốn thi hành những hình phạt đáng sợ đối với binh sĩ mà không có quan hệ chính trị. Các sĩ quan bán vật liệu Mỹ ra chợ đen, lạm dụng tiền công quỹ, khai thác mạng gái điếm, tham gia buôn bán ma tuý. Hạ sĩ quan và binh sĩ hành hạ và cướp bóc nhân dân. Được nhận xét không đủ tin cậy và không hiệu quả để tham dự những cuộc hành quân hiệp đồng với quân Mỹ và quân đồng minh khác, các binh sĩ của cộng hoà miền Nam được giao nhiệm vụ "bình định" trong các vùng nông thôn hoạ hoằn bắt được ********* và buộc dân làng phải tuân theo chính phủ-Rõ ràng, như vậy dễ cho tuyên truyền của ********* kêu gọi binh sĩ cộng hoà miền Nam Việt Nam quay súng trở lại người Mỹ hoặc vào hàng ngũ quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tất cả những đơn vị đào ngũ hàng loạt sẽ được khen thưởng và những người chỉ huy của họ sẽ được bổ nhiệm những cương vị phụ trách trong quân giải phóng miền Nam. Vô số binh sĩ miền Nam đi theo con đường đó. Năm 1966, có đến 100.000 binh sĩ đào ngũ, đặc biệt người gặp lại anh em đang chiến đấu trong quân giải phóng. Hàng nửa thế kí, rất nhiều gia đình bị tan nát: nhân một đêm, những người cộng sản đem đi một người con trai; vài ngày sau đại diện chính phủ cướp đi một người con trai khác.
    Tinh thần của những vị cấp cao trong chính quyền miền Nam cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, một tướng không quân là người trung thành của Diệm (sau chiến tranh ông mở một cửa hàng tinh thần ở California) đã từng tuyên bố: "mỗi lần báo chí muốn đưa tin về các cuộc hành quân, người Mỹ không bao giờ trực tiếp lãnh đạo miền Nam Việt Nam. Những người cộng sản miền Bắc coi chúng ta như những con rối, nhưng quân Mỹ cũng làm như vậy".
    Năm 1967, bộ chỉ huy Mỹ tin rằng quân cộng hoà miền Nam Việt Nam đã bị vô hiệu hoá 80%. Sự ngờ vực đến nỗi mỗi lính Mỹ của tướng Westmoreland ở Sài Gòn giấu kín những cái ống để rải khí lacrymogene vào đội danh dự gồm những binh sĩ thiện chiến của cộng hoà miền Nam trong trường hợp bọn này quyết định đột nhiên đào ngũ, chỉ có lính Mỹ mới biết chỗ cất mặt nạ phòng độc. Được hỏi về thái độ cá nhân đối với cộng hoà miền Nam, anh ta trả lời: "Tôi yêu những người Việt Nam, dưới con mắt của tôi, họ là những người rất đáng chú ý-lao động cương nghị và thông minh nhất các nước phương Đông. Vấn đề quân đội cộng hoà miền Nam, đó là sự lãnh đạo của họ; quân đội không có đủ sĩ quan tinh thông".
    Mặc dù vậy, quân đội cộng hoà miền Nam thường ở tuyến đầu trong phần lớn các lực lượng ngoại quốc. Khi các quân đồng minh rời khỏi Việt Nam, hơn 100.000 binh sĩ của họ đã chết.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chiến tranh của Nixon
    Như Tacite đã nói ơ Rome ?oHọ đã tạo nên một bãi sa mạc và họ gọi đó ỉa hoà bình. Phải chăng chúng ta có quyền khoác lên lưng cái uy nghiêm ghê gớm của chúa trời, có quyền quyết định thành phố này, làng mạc nọ sẽ phải phá huỷ, ai được sững và ai phải chết, ai sẽ là người tăng thêm hàng ngũ những người tị nạn của tổ chúc cứu nạn của chúng tao.
    Thượng nghị sĩ Robert Kennedy
    Kế hoạch không tập tiếp theo Rolling Thunder nhận cái tên Linebacker. Kế hoạch chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn I, Linebacker bắt đầu tháng 5 năm 1972 phản ứng lập tức trận tấn công dịp lễ phục sinh của ông Giáp sẽ được mô tả vào chương sau.
    Trong cuộc tấn công này, quân đội cộng hoà miền Nam sẽ được tổng thống Nixon quyết định cứu trợ bằng tăng cường các lực lượng ném bom từ các căn cứ ở Thái Lan và ở Thái Bình Dương. Lập tức sau khi đưa tin về chiều sâu và sức mạnh của cuộc tấn công, tổng thống hạ lệnh cho một số phi đội máy bay đã rời Việt Nam quay lại, đưa thêm B52 dự bị đến Guam và Thái Lan, và các hàng không mẫu hạm quay trở lại những căn cứ không quân của Mỹ. Phần tử chính của các biện pháp trả đũa là hạm đội B52 được tăng cường to lớn; trong vài tuần (từ cuối tháng 3 đến nửa tháng 5) số máy bay từ 83 lên 171 chiếc.
    Khi cuộc tấn công nhân dịp lễ phục sinh kết thúc, thì những cuộc thương lượng được tổ chức sau Rolhng Thunder lại một lân nữa đi vào ngõ cụt, và tính đến những lực lượng quan trọng bố trí tại chỗ, Nixon quyết định tấn công vào miền Bắc với một sức mạnh chưa từng có, hy vọng bẻ gãy ngay một lần quyết tâm của chế độ cộng sản. (Các cuộc đàm phán hoà bình tổ chức tháng 5 năm 1968 từ đó tiếp tục bị xúc phạm: những người miền Bắc Việt Nam tranh thủ giành thắng lợi và đạt được những sự nhượng bộ, còn Hoa Kỳ tìm một biện pháp rút lui danh dự khỏi sự can thiệp vào Việt Nam).
    Ngày 9 tháng 5 năm 1972 Linebacker I bắt đầu thả mìn ở một số cảng của miền Bắc Việt Nam. Sau đó các mục tiêu ở bên trong đất nước hàng ngày bị ném bom chiến thuật. Quân miền Bắc Việt Nam không chịu ở thế thụ động; khi Linebacker I bắt đầu thực hiên, họ bố trí 204 MIG 21 Liên Xô vào 7 căn cứ không quân. Trong giai đoạn I của kế hoạch tác chiến, các phi đội từ 15 đến 40 MIG tấn công các máy bay của không quân Mỹ đang gặp phải một lưới tên lửa SAM2 do Liên Xô chế tạo. Quân Việt Nam không dùng hệ thống điều khiển ra đa mà các dàn tên lửa được trang bị, để sóng phát đi không bị nhiễu vì những máy thu diện tử của máy bay ném bom Mỹ chỉ thị mục tiêu cho máy bay yểm trợ. Sự xuất hiện nhiễu trên màn hình ra đa các máy bay không quân Mỹ làm thay đổi sự chú ý các phi đội đủ thời gian để cho MIG 21 có thể tấn công họ từ phía sau.
    Tháng 9 năm 1972, không lực Hoa Kỳ tăng cường lực lượng tấn công cỡi việc đưa vào sử dụng một căn cứ ở Thái Lan gồm 48 máy bay ném bom bất kỳ giờ nào F111. Có thể thực hiện một chuyến bay không cần tiếp tế dầu, các máy bay cực kỳ tinh vi này được trang bị một ra đa mới của hải quân, có thể bay ở độ thấp trên các đồi núi xung quanh Hà Nội và tự động thả lô bom xuống. Nhờ những máy điện toán tính toán chính xác đoạn đường bay và vị trí máy bay qua các vệ tinh, bom có thể thả xuống vào thời điểm mong muốn không cần thiết phi công phải trông thấy mục tiêu.
    Chuẩn tướng Maxwell D.Taylor thời kỳ làm đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã công nhận những trận ném bom ấy như sau: "Tôi chấp nhận việc sử dụng không quân của chúng ta tối thiểu có 3 cái lợi. Thứ nhất tinh thần của quân miền Nam Việt Nam: điều đó cho họ cái cảm giác được đáp lại những cú đánh của đối phương, điều đó rất đáng kể đối với họ. Sau đó miền Bắc đã đưa một số lượng lớn người và vật liệu quân sự vào miền Nam. Tôi không bao giờ nghĩ rằng chúng ta có thể chấm dứt việc đó, nhưng chúng ta ít nhất có thể gây cho hộ những tổn thất-Và do đó làm chậm quá trình này. Cuối cùng, tôi có cảm giác rằng không quân được sử dụng từng bước và quyết định, có thể buộc Hà Nội chấp nhận trả giá cao hơn. Chúng ta thực hiện những cuộc không tập mật độ tăng dần đến điểm mà họ (người miền Bắc Việt Nam) phải chịu để thủ đô tiêu tan nếu không ngồi vào bàn thương lượng tìm một giải pháp".
    Nói về "tinh thần", thật đáng nghi ngờ đa số người Việt Nam thực sự tin tưởng vào những trận ném bom ấy, hoặc họ lo nghĩ về một biện pháp khác; họ quan tâm đến chuyện gì đang xảy ra đối với họ. Cái việc làm chậm việc tiếp tế vào miền Nam từ miền Bắc, hiệu quả không mấy hữu ích. Linebacker I phá huỷ nặng nề mạng lới đường sắt miền Bắc Việt Nam; dù sao mọi biện pháp khẩn cấp vẫn đưa hàng vào. Nam bằng đường bộ. Cuối cùng, mức độ ném bom tăng dần lên có thể hiệu quả và như người Mỹ hy vọng nó sẽ đưa đến cuối cùng những sự thương lượng và một hiệp định hoà bình.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mùa thu năm 1972 cuộc tấn công nhân dịp lễ phục sinh ông Giáp bắt đầu bị đứt hơi, thứ nhất vì những sự tàn phá của B52 trong đội hình bộ binh. Mỗi khi chính phủ Bắc Việt Nam dự định một cuộc đàm phán hoà bình, các cuộc không tập từ tháng 10 được giới hạn đến các mục tiêu nam vĩ tuyến 20; nói cách khác cuộc không tập nhằm vào các mục tiêu là những chuyến hàng ở vùng phụ cận giới tuyến tạm thời. Tính đến một sự ngừng bắn, tư lệnh Mỹ giữ giới hạn đó cho đến tháng 12 năm 1972.
    Ngày 18 tháng 12 năm 1972, trong khi các thương lượng một lần nữa nối lại, trong khi các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục xâm nhập vào miền Nam, tổng thòng Nixon lệnh tiếp tục ném bom Bắc vĩ tuyến 20. Linebacker II kế hoạch tác chiến của không quân Mỹ quan trọng từ chiến tranh thế gởi lần thứ 2, nhằm tấn công qui mô lớn vào hệ thống giao thông, các trung tâm điện lực, và các kho tạm giữ hàng hoá trong vùng Hà Nội và Hải Phòng. Các cuộc không tập nối tiếp nhau 24/24 giờ, ban đêm có F111 và B52, ban ngày eo máy bay ném bom chiến thuật.
    Những vụ ném bom ban đêm có lợi là tiêu trừ hiệu quả của những máy bay miền Bắc Việt Nam và cản trở việc quan sát bằng mắt thường đối với tên lửa đất đối không. Các cuộc không tập này phức tạp đến từng phút từng giây.
    Một lực lượng không quân tập hợp ở tầng cao, rồi như một chuyến bay khổng lồ của chim đại bàng có chim cắt xung quanh, vượt biên giới để đánh vào những mục tiêu đã chọn do chụp ánh và ra đa trên máy bay xác định. Máy bay F4 hộ tống B52 sử dụng những phi đội ECM để gây nhiễu và đánh lừa ra đa đối phương. Những phi đội EB66 ECM đi vào quỹ đạo xung quanh B52 làm dày đặc thêm hàng rào điện tử, còn F4 được các F4 khác hộ tống thả xuống một trận mưa mảnh kim loại như kiểu tín hiệu của một máy bay đang bay để làm mất phương hướng ra đa đối phương; chúng có thể tạo thành như vậy một lối rộng 8 km và dài hơn 150 km, đủ để ngụy trang những máy bay ném bom trong hành trình. Những F4 khác bay phía trên hoặc xung quanh các máy bay ném bom bảo vệ chống những máy bay tấn công ban đêm (máy bay MIG). Máy bay FI05G báo đảm bảo vệ dự bị nhờ những tên lửa đặc biệt do các giàn ra đa đối phương dẫn đường (nói chung, chúng phi phá hoại những giàn ra đa cơ động đặt ở trung tâm trận địa, mà không phải bản thân tên lửa SAM). Những máy bay tiếp dầu bay trên toàn bộ đội máy bay đã sẵn sàng đáp ứng yêu cầu. Lực lượng không quân khổng lồ này hoàn toàn nhằm thẳng mục tiêu gồm Hà Nội, Hải Phòng xác định mục tiêu và tấn công. Kế hoạch này là một sáng tác tập thể chưa bao giờ có trong lịch sử không quân.
    Trước hết máy bay F111 tấn công các trận địa tên lửa SAM và các căn cứ không quân trong khi nhiệm vụ mà các phi công gọi là "một chuyến bay đơn ở độ rất thấp". Sử dụng những ra đa mới của hải quân chúng đến ở tầm thấp, đánh vào mục tiêu và bay đi ngay, và bay rất thấp (các súng ra đa không đi theo độ cong của trái đất, máy bay có thể bay dưới tầm ra đa). Vài phút sau, máy bay B52 mở hầm bom. Rõ ràng, F111 bắt buộc cao xạ Việt Nam hạ thấp tầm bắn cho đến pháo hạng nặng đến.
    Máy bay F111 đánh suốt đêm, trước và sau đợt B52 kèm theo lớp bảo vệ trên không của họ. Thông thường trong một đêm, ba đợt sóng kế tiếp nhau của B52 đánh vào những mục tiêu khác nhau: hệ thống đường sắt, trung tâm điện lực, kho, trận địa tên lửa SAM, các khẩu cao xạ... Sau đó những máy bay hộ tống nạp đầy xăng và lại đến những phi công mới để bảo đảm che phủ các kế hoạch nửa đêm.
    Các vụ không tập giữa đêm là "Tacair" do các máy bay F4 và A7 thực hiện mang theo một khối lượng bom và tên lửa nặng. Khi không nhìn rõ, chúng được Fa Pathfinders trang bị một hệ thống LORAN của hải quân dẫn đường. Khi thời tiết tốt, máy bay F4 mang bom được laze dẫn đường đánh vào những mục tiêu được ưu tiên. (Đội bay nhằm vào mục tiêu với một tia laze đặt trên máy bay, thắp ánh sáng của laze dẫn bom đến mục tiêu cực kỳ chính xác. Nhờ kỹ thuật này, 5 cầu đường sắt bị phá hoại trong một ngày tháng 5 năm 1972 chỉ với 24 quả bom; với những phương tiện thông thường phải mất hơn (2.000 quả bom). Yểm trợ các chuyến không tập nửa đêm cũng như các chuyến bay đêm, trừ khâu chống MIG do các phi công hải quân bảo đảm và không phải phi công, không lực Hoa Kỳ.
    Trong thời gian 11 ngày "ném bom dịp Noel" năm 1972 đã thực hiện 700 lần cất cánh, và máy bay F111 khoảng 1.000 lần. (Một dẫn chứng loại trang bị của B52: 84 bom 500 livres trong hầm, cộng 24 bom 750 livres cố định dưới cánh tay, tất cả 27 tấn chất nổ. Máy bay ở độ cao đến mức muốn bảo đảm ném bom chính xác, cái máy tính điện tử, phải tính đến vòng quay của trái đất). Ngày 18 tháng chạp phi đội máy bay ném bom gồm 120 B52, suốt đợt tấn công, số lượng máy bay không bao giờ xuống dưới con số 100.
    Ngày 29 tháng chạp 100.000 quả bom đã được ném xuống kể từ đầu kế hoạch. Theo tin tức của không quân Mỹ, các lực lượng của ông Giáp đã phóng 1.242 tên lửa SAM chống lại máy bay của họ.
    Các phi công Mỹ đã bắn rơi 8 MIG và mất 26 B52 trong đó có 3 chiếc bị MIG bắn rơi, số còn lại là tên lửa. Quân Việt Nam chết 1.318 người ở Hà Nội, nhưng không tuyên bố con số ở những địa phương khác. Ngày 18 tháng riêng năm 1973, ngừng bắn. Sau đó là những cuộc đàm phán nối tiếp nhau không dứt để đạt được những điều chi tiết trong hiệp định hoà bình.
    Không có gì khẳng định rằng kế hoạch Linebacker II đã chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Ông Giáp muốn thảo luận thêm về sự giải thích này. Chắc chắn các cuộc không tập đã phá hoại nặng miền Bắc nhưng Hà Nội vẫn mạnh mẽ chắc chắn rằng nhân dân có thể đương đầu với những vụ ném bom và chấp nhận cuộc chiến tranh có thể kéo dài. Theo phân tích của Bộ Chinh trị **********************, những vụ ném bom nhân dịp Noel là một cố gắng cuối cùng đầy thất vọng của Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh. Bây giờ, phải chăng họ tin rằng, người Mỹ đã sẵn sàng đàm phán; đã đến lúc gặt hái những giá trị cố gắng lớn và tránh được sự đổ máu tiếp theo.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một trong những lý do thể hiện lòng dũng cảm của nhân dân là chính phủ đã có những biện pháp cụ thể để đối mặt với ném bom-tháng 12 hầu như toàn thể học sinh và những người lao động không căn bản cùng các cơ quan hành chính đã rời khỏi thành phố. Nhiều hầm trú ẩn đã được xây dựng từ thời kế hoạch Thunder; hơn nữa trên phần lớn đường phố Hà Nội và Hải Phòng đều có vô số hố cá nhân, là những ống bê tông đơn giản ở hai bên vệ đường. ở Hà Nội trung bình có 3 hố cá nhân cho một người dân, theo nguyên tắc: một ở gần nhà, một gần nơi làm việc và một nữa ở trên đường đi. .Chúng cũng có thể đậy kín bởi tấm bê tông dày; khi còi báo động vang lên, hầu như toàn thể nhân dân không còn bóng dáng ai. Một biện pháp khác là cho trẻ con mang ngụy trang xanh; khi có báo động trên đường tới trường, các em chạy trốn trên những cánh đồng. Hơn nữa trên khắp miền Bắc Việt Nam, các cấp lãnh đạo đã tổ chức những đội "thanh niên xung phong? tập trung ít nhất hai triệu thanh niên, phụ nữ đến sửa chữa khắc phục những hậu quả của các trận ném bom-nhất là trên đường sắt và đường bộ. Khẩu hiệu của họ-và của công nhân công nghiệp-là "đánh và xây dựng. Vì phần lớn nam thanh niên đã vào bộ đội, các đội này gồm 70% là phụ nữ. Kể cả các dân quân tự vệ các làng mạc 50% phụ nữ được huấn luyện để thao tác các khẩu cao xạ, phóng tên lửa, lựu đạn và vũ khí cá nhân. (Những phụ nữ trẻ buộc tóc thật chặt thành một túm cho khỏi vướng khi thao tác vũ khí) Các đơn vị sản xuất phân tán vào một số lớn địa hình có lợi có khi đến hàng chục, để giảm đến tối thiểu hậu quả của bom đạn. Vì lý do ấy, các gia đình cũng phân tán trong nhiều làng mạc.
    Mọi người đều chia sẻ mối nguy hiểm, mọi người đều bằng lòng với chế độ ăn uống cơ bản. Khẩu phần gạo hàng ngày ít hơn 1kg. Mỗi người được tiêu chuẩn 5 mét vải mỗi năm-đủ để may 2 áo sơ mi và 1 quần. Mọi người lao động kể cả ủy viên Bộ Chính trị, cùng hưởng một chế độ phụ cấp tương đương 10 đô la một tháng.
    Vũ khí hiện đại, được sử dụng cho phép người miền Bắc Việt Nam với tới những máy bay Mỹ từ độ cao gần 3.000 mét-tầm tối đa của SAM 2. Tên lửa được điều khiển bằng ra đa; MIG được đặt dưới đất điều khiển đến máy bay địch. Thông thường như trường hợp tấn công dịp Tết Mậu Thân những nhân viên tình báo cài trong các tổng hành dinh quân Mỹ ở gần căn cứ không quân thông báo cho hà Nội, số lượng, mục tiêu và cả thời gian các lực lượng không quân Mỹ xuất phát. Khi thiếu những tin tức ấy, việc phân tích các tín hiệu do ra đa thu được và sự quan sát của các lực lượng đã bố trí cung cấp những hướng dẫn khá chính xác về hành trình của các máy bay nêm born, về mục tiêu chúng đến, và thời gian các cuộc ném bom bắt đầu tiều đó cho phép sử dụng những biện pháp phòng ngừa. Các đài ra đa bám sát gọi là GCI cho lệnh báo động trước 45 phút-đủ thời gian cho máy bay MIG có thể tấn công lực lượng địch xa mục tiêu, cho nên những máy bay ném bom và chở dầu giảm bớt tính dễ sử dụng.
    Vũ khí kém hiện đại cũng có nhiệm vụ quan trọng, những hàng rào đạn cỡ nhỏ bắn tương đối chính xác chống những máy bay bay thấp thể hiện hiệu quả đáng chú ý. Một lỗ xuyên nhỏ vào vỏ máy bay đang bay với tốc độ tiếng nói cũng đủ làm máy bay tan xác. Ông Giáp bình luận: "Các lực lượng tự vệ và dân quân có một nhiệm vụ to lớn trong chiến tranh". "Tay cày, tay súng? đàn ông và đàn bà, thanh niên và phụ lão, các thành phố và làng mạc, đều tham gia tích cực vào việc bắn máy bay địch và đã hạ được nhiều máy bay; các lực lượng này đã tạo thành một lưới lửa chống máy bay tầm thấp bao trùm trên toàn bộ đất nước, nhưng tập trung vào những mục tiêu chủ chốt. Sử dụng các loại vũ khí cá nhân, các đội viên tự vệ và dân quân du kích đã bắn rơi nhiều máy bay hiện đại và bắt được nhiều giặc lái Mỹ. Họ cũng đã tháo ngòi nổ hàng chục nghìn tấn bom và mìn các loại tiên tiến nhất. Bắn máy bay địch đang bay thấp không còn nghi ngù gl nữa đã tạo thành một hình thức phòng ngự chống máy bay mới của nhân dân ta. "Ông Giáp phê phán mạnh mẽ chiến thuật của không quân Mỹ: chúng đã nhằm vào một số lớn mục tiêu điều đó phân tán lực lượng. Chúng sử dụng những máy bay giá hàng triệu đô la để tấn công một cái cầu nổi bằng tre!" .
    Những chiến thuật cổ điển ấy chỉ thực hiện một nhiệm vụ tối thiểu. Việc phòng ngự chống không quân Mỹ đặt ra trước ông Giáp một vấn đề rất phức tạp: năm 1972, những người lão luyện nhất thế giới trong lĩnh vực này kể cả người Mỹ tin rằng nó tương đương với sự bố trí phức tạp mà khối Bắc đại đương đã sử dụng để phòng ngự châu Âu phía tây và còn hơn cả sự bố trí sử dụng để phòng ngự Ruhr năm 1945.
    Ông Giáp rất tự hào về tên lửa SA.2 do Liên Xô chế tạo dài khoảng 8m với hệ thống dẫn đường của nó. Ông nhận được những tên lửa đầu tiên này ít lâu sau khi các cuộc không tập của Mỹ đánh miền Bắc; vài tuần sau hơn hai trăm trận địa phóng tên lửa sẵn sàng tác chiến. Mặt khác MIG 21 đến là những máy bay tiêm kích nhanh mà phi công Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô (ông Giáp đã nhận được những máy bay MIG đầu tiên năm 1965). Máy bay được khoảng 4.000 khẩu pháo các cỡ từ 23 đến 100 mm-yểm trợ dưới mặt đất, trong đó 2.000 để bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng. Hoạt động của máy bay và tên lửa được 200 giàn ra đa điều khiển, việc hiệp đồng được bảo đảm bằng 3 trung tâm chỉ huy lớn ở Bạch Mai, Phúc Yên và Kép. Toàn bộ tổ chức phòng ngự chống máy bay phụ thuộc một trung tâm chỉ huy đặt ở căn cứ không quân Bạch Mai, gần Hà Nội. Ông Giáp chuyên gia lớn về sử dụng lượng lớn nhân công, đã bố trí trong việc phòng ngự chống máy bay tổng số 125.000 đàn ông và đàn bà không kể hàng nghìn cố vấn Liên Xô bố trí ở những điểm chủ chốt.
    Theo tiêu chuẩn hiện nay của chúng tôi, SA.2 chỉ là con thằn lằn kinh khủng; vào thời kỳ đó là một loại vũ khí hiệu quả. Các trận địa phóng tên lửa rất cơ động có thể di chuyển nửa giờ sau khi nổ súng; một giờ sau, nó lại bước vào trận chiến đấu mới. Sự cơ động lớn đó làm cho việc dò tìm các tên lửa rất khó khăn, trở thành con chủ bài quan trọng, kể cả cao độ đạt được của SA.2.

Chia sẻ trang này