1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tướng Giáp qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương-Sách tham khảo

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Suốt trong thời gian kế hoạch Linebacker I và II, cả hai phía đều sử dụng một loạt chiến thuật định loại đối phương ra ngoài cuộc chơi. Một trong những mưu mẹo của những người sử dụng SA.2 là phóng một tên lửa không điều khiền, rồi dựa vào sự điều khiển của ra đa ở thời điểm cuối cùng để tên lửa có thể tiếp cận mục tiêu để cho tên lửa chống SA trang bị cho các máy bay không đủ thời gian điều chỉnh hành trình trên sóng ra đa để tiêu diệt tên lửa được phóng đi. (Ngày 22 tháng 11 một tên lửa SAM đã hạ một máy bay B52. Đối với quân Mỹ, một trong những bài học của vụ rắc rối này là những lối bay nhỏ hẹp của máy bay ném bom không được bảo vệ khi gió đẩy các băng kim loại sử dụng đề phá rối ra đa đi xa). Một mẹo khác là phóng ít nhất hai tên lửa đuổi theo một máy bay. Trong khi các khí tài điện tử đang tập trung bảo vệ chống tên lửa thứ nhất, thì tên lửa thứ hai và những tên lửa khác có thể đánh trúng mục tiêu và phá huỷ máy bay.
    Song người Việt Nam phải tính đến hiệu quả lợi hại của những tên lửa chống tên lửa và bom chùm của không quân Mỹ: ra đa điều khiển SAM chỉ có thể sử dụng trong những thời kỳ rất ngắn để không bị phát hiện; do đó cũng phải di chuyển tên lửa luôn, điều đó giảm hiệu quả của hệ thống.
    Sau đây là những con số bom Mỹ ném xuống miền Bắc Việt Nam trong kế hoạch Linebacker I và II: B52 ném 35.544 quả bom vào 734 mục tiêu; F111 ném 1.424 quả bom vào 139 mục tiêu; F4 ném 2.271 quả vào 254 mục tiêu; A7 ném 1.702 bom vào 226 mục tiêu, tất cả 40.941 quả bom.
    Trong 3 tháng 4, 5 và 6 nậm 1972 thời Nixon làm tổng thống, ông đã thả xuống Việt Nam một số lượng nhiều hơn cả năm trời dưới thời tổng thống Johnson. Trong thời kỳ Nixon, nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào bị ném bom dày đặc hơn cá nhiệm kỳ chính phủ Johnson.
    Từ năm 1964 đến năm 1971, 6,2 triệu tấn bom được trút xuống toàn Đông Dương thuộc Pháp: 150 kilô bom/mỗi người dân kể cả đàn bà và trẻ con; 8,6 tấn bom/một kilômét vuông. Thêm vào những trận ném bom của kế hoạch Linebacker thì tổng cộng gồm 8.000.000 (8 triệu) tấn, gấp 4 lần toàn bộ số tấn bom sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai tất cả quân đội và tất cả kế hoạch tác chiến lẫn lộn.
    Ngoài việc ném bom, không quân Mỹ còn thực hiện hon 19.000 vụ rải chất độc hoá học ở một phần lớn miền Nam Việt Nam và một số vùng ở Campuchia và Lào; chất độc "màu da cam" làm trụi lá rừng và cây sú vẹt; chất độc màu trắng phá huỷ các bụi cây và chất độc màu xanh đốt cây non trên đồng ruộng.
    Tổn thất của không quân Mỹ như sau: trực thăng: 4.869 chiếc (12 chiếc ở miền Bắc Việt Nam), máy bay 3.726 (trong 2.651 chiếc ở miền Nam-1.100 ở miền Bắc). Khối lượng vật chất ấy có giá trị tất cả 225,2 tỷ đô la. Hơn 8.000 phi công bị chết.
    Sau đây là hai nhân chứng của không lực Hoa Kỳ bị người Bắc Việt Nam bắt và giam giữ ở ?oHilton" Hà Nội viết:
    "Tôi đã ngủ được hai hoặc ba giờ thì thức giấc vì tiếng còi báo động. Tôi hoàn toàn quên mất cái đêm ngon giấc của lính Mỹ, cái đêm sau một lần đi ném bom xuống những tên ngu ngốc này. Tôi mừng hớn hở. Tôi vui sướng đến điên dại! Tiếng còi báo động tiếp tục 15 phút, rồi đến một khoảnh khắc im lặng như chết. Cả đến những tiếng động nhỏ thường ngày trong tù cũng im tiếng. Sau đó, cao xạ bắt đầu bắn, càng ngày càng dữ dội. Vài tiếng nổ gần, những tiếng nổ khá xa; tiếng nổ khắp nơi cùng đến một lúc. Tiếp theo, tôi nghe thấy tiếng rùng rợn hơn mà tôi chưa bao giờ được nghe Kablamm-whoom! Và vài giây sau một tiếng Whoom khác? Theo bản năng, tôi biết có hai F111 vừa bay qua rất gần, bay thấp, với tốc độ nhanh hơn âm thanh. Kính cửa rung. Vôi và bụi từ trần nhà rơi trúng tôi. Vài giây sau Bo um, boum, boum, boum, boum... tôi nghe được tiếng bom F111 nổ. Không thể đứng tại chỗ, tôi nhảy múa xung quanh phòng và kêu lên những tiếng kêu thắng lợi. Đạn cao xạ càng ngày càng xa, và irn lặng lại đến. Tôi biết cái gì sẽ đến.
    Khoảng 10 phút sau, tiếng còi báo động lại vang lên và cao xạ lại bắn. Rồi tiếng còi im bặt, nhưng cao xạ tiếp tục bắn từng đợt. Tôi không còn đủ kiên nhẫn nữa. Bỗng nhiên, có một tiếng động mới, một tiếng nổ dữ dội chắc là SAM. Sau đó những tiếng nổ lớn khác và những phát đạn cao xạ cỡ lớn. Và cuối cùng, điều tôi đang đợi: tiếng động, trước hết từ xa sau càng ngày càng gần những chùm B52 thả xuống nổ liên tiếp nhanh chóng, có thể vùng phụ cận Hà Nội. Mỗi đợt nổ kéo rất dài; thỉnh thoảng lại trùm lên. Người ta bảo rằng God zilla nghiền nát thành phố. Ba trùm bom rơi xuống khá gần; những tiếng nổ nối tiếp nhau ngày càng gần; bom nổ mạnh đến nỗi rung cả tường phòng tôi, khung cửa kính và cửa lắc lư như thể sắp rời ra. Vôi và cát rơi xuống quanh tôi. trong đời tôi chưa bao giờ tôi nghe tiếng ồn ào inh ỏi ghê sợ như vậy. Tôi nhớ lại hy vọng những phi công đang sửa đổi hướng. Đạn cao xạ dày đặc và tiếng nổ của SAM thường xuyên hơn. Tôi vừa nhảy múa vừa kêu lên vui vẻ...
    Trong vài ba tháng tiếp theo, tôi không bao giờ cảm thấy cô đơn. Đó là deus ex machina cuối cùng. Tôi cầu nguyện cho các đội bay và máy bay. Đối với tôi, họ là bàn tay chúa vừa cho tôi sự thanh thản bên trong và sức thạnh cần thiết để vượt qua khỏi cái đất nước hung dữ này.
    Nhân chứng Nguyễn Thị Huỳnh:
    ?oTôi 3 1 tuổi, chưa có chồng và tôi là người con gái duy nhất của gia đình. Tôi là đại úy trong quân đội; tôi làm việc ở Bảo tàng quân sự. Cha mẹ tôi còn sống cả; họ trồng rau ở ngoại ô Hà Nội và bán bên lề đường những vùng lân cận.
    Năm 1972 bấy giờ tôi mới mười bốn tuổi-quân Mỹ đã ném bom Hà Nội ròng rã 10 ngày cả ngày và đêm, trừ đêm Noel. Ngày hôm sau Mỹ ném một khu phố đông dân ở đường Khâm Thiên. Tôi học lớp 8, nhà trường xa 7 km; tất cả mọi ngày, trừ chủ nhật, tôi đi xe đạp. Vì Mỹ ném bom tôi chỉ có thể đến trường một số ngày, và tôi phải mang một cái túi thuốc cấp cứu trường hợp bị thương. Tôi phải đội cái mũ rơm để tránh mảnh bom đạn từ trên trời rơi xuống sau khi cao xạ bắn.
    Mỗi khi máy bay ném bom đến, các bạn cùng lớp và tôi phải trú ẩn trong những hầm xung quanh trường đó là những cái hố dưới đất, mỗi hố chứa được vài người học sinh. Trên tất cả các đường phố Hà Nội, người ta đào những hố cá nhân để mọi người có thể trú ẩn khi máy bay ném bom đến. Ke cả khi tôi ngủ ở nhà, tôi cũng phải xuống hầm. Tất cả gia đình đều đi tản cư, trừ cha tôi, hình như ông không sợ, vẫn ngủ khi máy bay ném bom. Mẹ tôi vô cùng lo lắng cho ông.
    Đài Hà Nội phát tin báo động máy bay cách thành phố 80 km phải vội vàng xuống hầm trú ẩn. Em trai út của tôi mới 1 tuổi, nó cũng phải đi tản cư. Cha mẹ tôi nghĩ đến chuyện ổn định ở nhà quê, nhưng chúng tôi không muốn rời khỏi cái bếp của chúng tôi. Do đó, gia đình xây dựng một hầm trú ẩn dưới một bụi tre và sắp xếp trong đó như ở nhà. Cũng có những tranh đẹp trên tường, và cả một cái đèn dầu hoả. Thình thoảng chúng tôi ngủ ở đó cả đêm, vì có nhiều lần báo động kế tiếp nhau.
    Nhiều người đã tản cư rời khỏi thành phố, nhưng còn một số khác ở lại để làm việc hoặc vì họ ở trong lực lượng dân quân tự vệ; một số phục vụ ở các khẩu cao xạ. Không ít người rời thành phố và bị bom dọc đường.
    Chúng tôi vô cùng may mắn, không có quả bom nào đúng nhà chúng tôi, nhưng chúng tôi nghe bom nổ và tiếng ồn của khẩu pháo ngay bên cạnh. Máy bay đã nén bom trạm phát đài Hà Nội, và những mục tiêu khác. Thỉnhthoảng ba ngày chúng tôi có thể nhìn rõ máy bay Mỹ thả bom từ trên cao; có một lần tôi thấy máy bay rơi trong bầu trời và một giặc lái mặc đồ đỏ ở đầu một cái dù. Chắc nó là cấp cao vì mặc đồ đỏ.
    Không có ai thích chiến tranh, chiến tranh làm ngừng trệ mọi hoạt động, và tiến bộ xã hội bị hãm lại. Đối với nhiều người mất người thân, thật khổ. Tôi và tất cả bạn bè đều biết có nhiều người chết.
    Chúng tôi không căm thù nhân dân Mỹ. Đa số người Mỹ là bạn của chúng tôi và đa số họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Không phải lỗi của nhân dân mà là lỗi của chính phủ?.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Những trận chiến đấu cuối cùng
    Quân đểu giả vẫn còn chưa bao giờ bị ném bom thì lần này chúng sẽ bị.
    Richard Nixon
    Trong cuộc tấn công dịp lễ Phục sinh Cuộc tấn công nhân dịp Tết và chiến tranh ở Khe Sanh đã đánh dấu một bước ngoặt mấu chốt của cuộc chiến tranh. Người Mỹ không tin tưởng vào khả năng tìm một giải pháp quân sự cho cuộc chiến tranh. ********* đã bị suy yếu, nhiều người sống sót đã trở về gia đình, mất tinh thần vì những năm chiến tranh không nghỉ, chiến tranh chẳng thấy kết thúc. Tướng Trần Văn Trà người chỉ huy thời kỳ vùng quân sự ở trên cao nguyên miền Trung đã viết: "Cán bộ chiến sĩ của chúng ta đã kiệt sức. Chúng ta không có thời gian để củng cố quân số, tất cả các đơn vị đều hỗn loạn; chúng ta thiếu người, thiếu lương thực và đạn dược". Để bù vào những tổn thất dịp Tết, ông Giáp đã vội đưa vào 80 đến 90 nghìn người, nhưng số quân này không đáng kể: 40% số này đã phục vụ 6 tháng và 50% mới vào được 3 tháng kể cả thời gian đi trên đường mòn. Phải hàng năm trời, quân giải phóng miền Nam mới có thể hoạt động lại như thường lệ; và không có sự yểm trợ của quân giải phóng miền Nam Quân đội nhân dân Việt Nam không thể tiếp tục tác chiến ở miền Nam như trước đây.
    Sau Tết, ông Giáp đã đi đến kết luận về phương diện quân sự, chiến tranh. đã đến ngõ cụt. Không thể cân bằng được với lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, nhưng họ cũng không thắng nổi quân đội của ông vì phần lớn lực lượng của họ có nhiệm vụ bảo vệ những căn cứ khổng lồ của họ.
    Tháng 5 năm 1968 Trường Chinh một trong những người giúp ông Giáp trong trận Điện Biên Phủ, trở thành một ủy viên quan trọng của Bộ Chính trị bảo vệ sự cần thiết phải thay đổi chiến lược. Ông nói: Thứ nhất cuộc tấn công dịp Tết đã phạm một sai lầm: trái với những điều đã dự đoán trước, nhân dân chưa sẵn sàng nổi dậy; Trung ương Cục miền Nam chưa thiết lập được những căn cứ cần thiết. Thứ hai là cuộc tiến công dịp Tết đã làm thay đổi cán cân lực lượng có lợi cho Mỹ. Trong tình trạng tương tự, Lênin đã quyết định chuyển từ tấn công sang phòng ngự: kéo dài chiến tranh để "giành lấy thời gian, củng cố lực lượng, làm mất tinh thần quân địch". Thứ ba là, miền Bắc phải ra sức tăng cường kinh tế để cho miền Nam tiếp tục cuộc chiến tranh của họ.
    Lê Duẩn và những ủy viên khác của Bộ Chính trị không đồng ý lập luận của ông Trường Chinh, khăng định cần tiếp tục tấn công, nhưng họ bị thiểu số. Do đó phải quyết chơi con bài thời gian: chắc chắn hoa Kỳ không đủ ý chí để theo đuổi chiến tranh đến cùng. Đến một thời cơ thuận lợi, phải thay đổi chiến lược, chuyển từ chiến tranh du kích sang chiến tranh thông thường (ông Giáp nói: "Bây giờ chưa có khả năng tiến bộ thực sự để tiến hành chiến tranh thông thường với những trận tập trung lực lượng quan trọng), còn phải một thời gian lâu dài mới có khả năng đó. Trong khi chờ đợi, phải tiếp tục chiến tranh tâm lý chống lại Hoa Kỳ. Ông Giáp khuyến khích Trung ương Cục miền Nam tiếp tục chiến tranh du kích với quy mô nhỏ, vì ông không bao giờ có ý định bỏ cuộc.
    Cho đến cuối tháng 5 năm 1968, Trung ương Cục tổ chức một cuộc tiến công nhỏ "minh tít" nhưng nhanh chóng bị bóp nghẹt. Tháng 8, một đợt hoạt động khác nhưng còn ít thắng lợi. Những người có trách nhiệm đã có ý nghĩ không có lực lượng để tiếp tục hoạt động khá hơn, họ giới hạn trong vòng 4 năm tiếp theo duy trì những hoạt động du kích của những đơn vị nhỏ về phía mình, quân đội cộng hoà miền Nam và quân đồng minh càng ngày càng ít dần, cố gắng không cần thắng lợi xoá đi những vùng quân giải phóng miền Nam kiểm soát và "bình định" vùng nông thôn.
    Ông Giáp và cộng sự đã thành công thực hiện chiến lược có hiệu quả lớn: bằng con đường kéo dài đàm phán hoà bình, đồng thời giết các binh sĩ và lái máy bay Mỹ khi có dịp thuận lợi, Hà Nội làm cho dư luận Mỹ càng căm ghét chiến tranh. Trong một lời nhận xét nổi tiếng, Karl von Clausewit, đã nói: "Chiến tranh là tiếp tục của chính trị bằng các phương tiện khác"; Hà Nội tiến hành hội đàm là để tiếp tục chiến tranh bằng các phương pháp khác.
    Ở Hội nghị hoà bình, Henry Kissiger là đại biểu của Hoa Kỳ. Kissiger là một người Đức nhập tịch Hoa Kỳ năm 1938, sau khi phục vụ ở châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã được bằng tiến sĩ học ở trường đại học Haward. Cố vấn cho các tổng thống Kennedy và Johnson trong thống lĩnh vực kiểm soát quân đội và chính sách ngoại giao, ông được Nixon cử làm trợ lý cố vấn an ninh quốc gia. Bắc Việt Nam có đại diện không lay chuyển được Lê Đức Thọ.
    Trong khi các cuộc thương lượng "công khai" tiếp tục ở Paris, từ tháng 8 năm 1969 Kìssiger tiến hành đàm phán bí mật với Lê Đức Thọ ở một vùng ngoài ô. Ông định giải pháp "nước đôi" công nhận sự rút quân của Mỹ và miền Bắc Việt Nam, miền Nam Việt Nam phải ngang hàng với *********. Hà Nội bác bỏ giải pháp này và yêu cầu tổng thống Thiệu từ chức. Hoa Kỳ từ chối bỏ Thiệu. Năm 1971 các áp lực chấm dứt chiến tranh tăng lên. Lợi dụng bất đồng trong quan hệ Liên Xô và Trung Quốc, Kissiger đến Bắc Kinh để chuẩn bị cho chuyến thăm của tổng thống vào năm sau.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ tháng chạp năm 1965 đến tháng 5 năm 1968, Hoa Kỳ từng thời kỳ ra lệnh ngừng ném bom để buộc Bắc Việt Nam đàm phán một thoả thuận chấp nhận được nhưng phải đợi đến tháng 1 năm 1964 bầu Tổng thống Nixon để cho Hà Nội tính đến chuyện cũng như những người tiền nhiệm, ông không xác định thắng lợi trong cuộc chiến tranh, điều đó chấm dứt hy vọng Hoa Kỳ thay đổi thái độ.
    Những người Bắc Việt Nam bắt đầu nghiêm túc nghĩ đến tìm biện pháp chấm dứt chiến tranh. Yếu tố mấu chốt làm nghiêng hẳn cán cân là sự kiện: tổng thống Nixon thăm Bắc Kinh, điều chắc chắn là Trung Quốc không tiếp tục ủng hộ Bắc Việt Nam nhiều như trước.
    Năm 1972 Washington cũng như Hà Nội chấp nhận dần những vị trì đã được cải thiện: tháng 10, các điều khoản của hiệp nghị đã được thiết lập, nhưng tổng thống Thiệu phê phán không chấp nhận. Tháng chạp, tổng thống Nixon ra lệnh thực hiện "đợt ném bom Noel". Tháng giêng 1973 thoả hiệp được ký công khai. Lần này chấp nhận các lực lượng miền Bắc Việt Nam được ở lại miền Nam, cũng như tổng thống Thiệu vẫn tồn tại. Không có lúc nào trong những cuộc thương lượng, Kissiger được một con chủ bài cao hơn. Mục đích của Mỹ là muốn cho miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại như một nước độc lập. Mặc dù những lời hứa của Hà Nội, ông Kissiger cũng nghĩ rằng Sài Gòn sẽ tiêu tan sau khi quân Mỹ rút về nước.
    Vì những cố gắng của họ đưa đến một kết quả ngừng bắn, Henry Kissiger và Lê Đức Thọ đều được giải thưởng Nobel về hoà bình. Lê Đức Thọ từ chối không nhận giải thưởng.
    Đây là một thí dụ khác về chiến lược quy mô lớn mà ông Giáp áp dụng. Đã nhiều lần trong những năm dài chiến tranh, ông đã buộc quân địch sang Campuchia và Lào, như vậy họ phải phân tán nguồn lực đáng lẽ phải tập trung cho vùng chủ chốt miền Nam Việt Nam. Hơn chục nghìn người đàn ông và đàn bà của đường mòn Hồ Chí Minh đã cùng các đơn vị khác tiến hành những trận đấu hoặc độc lập hoặc hiệp đồng với Pathet Lào; khi quân địch hạ thấp sự bảo vệ, họ tăng cường các trận chiến đấu; Sài Gòn và Washington luôn luôn phải tính đến sườn Tây.
    Tháng 3 năm 1969, địch chấm dứt việc tiếp tế cho lực lượng của ông Giáp và quân giải những miền Nam qua cảng Sihanon Kville, và phản ứng với những hoạt động trở lại của cộng sản ở Nam Việt Nam, Tổng thòng Nixon ra lệnh ném bom Campuchia; kế hoạch đặc biệt bí mật này lấy tên là Menu. Campuchia về nguyên tắc là một nước trung lập, cho nên chỉ có Tổng thống, Henry Kissiger và Bộ trưởng Bộ quốc phòng Melvin Laird, thêm vài thành viên của Quốc hội được biết về kế hoạch này. Tổng tư lệnh Không quân cũng không được báo tin. Tính đến phần lớn binh sĩ và những người tham dự vào kế hoạch; phải giữ tuyệt đối bí mật đến lúc tờ New York tim đặt bó hoa hồng tháng 5 năm 1969. Lúc ban đầu kế hoạch Menu không được kéo dài quá vài tuần lễ, nhưng sang tháng 5, họ quyết định mở rộng kế hoạch đê yểm hộ cho quân đội Campuchia chống lại Khơmer đỏ-Cho đến kế hoạch kết thúc tháng 8 năm 1973, B52 đã phải cất cánh 16.527 lần, ném bom 400.000 tấn bom.
    Đầu năm 1969, ông Giáp đã lệnh cho quân đội tăng cường tác chiến trong vùng biên giới và thực hiện xâm nhập sâu vào lãnh thổ Campuchia. Cũng thời kỳ này; Hoa Kỳ cắt viện trợ cho Campuchia, vì thái tử Xihanuc theo đường lối của Trung Quốc. Tiếp theo quyết định này và quân miền Nam Việt Nam đe doạ đất nước, chinh phủ Campuchia phải hạ bệ Xihanuc và thực hiện những biện pháp chống Cộng kịch liệt. Quân đội Campuchia hoạt động trên biên giới phía đông để đuổi quân miền Nam Việt Nam ra khỏi những căn cứ chúng ta đã thiết lập; đầu 1970 ông Giáp đã đưa một lực lượng khoảng 50.000 người vào Nôm Pênh để đáp lại.
    Ở Washington người ta sợ rằng quân của ông Giáp sẽ làm chủ Campuchia. Ngày 17 tháng 4 năm 1970, 15.000 lính Mỹ lợi dụng yểm trợ mạnh mẽ của máy bay đã vào Campuchia. Kế hoạch hành quân nhằm 3 mục tiêu: giảm áp lực của Bắc Việt Nam lên quân đội Campuchia còn yếu ớt; tấn công những căn cứ ở biên giới của ông Giáp; nếu có thể, chiếm tổng hành dinh của Trung ương Cục miền Narn Việt Nam. Bắt đầu bằng những vụ không tập khổng lồ, các đơn vị quân Mỹ tiến hành về phía Tây và phía Nam nhưng không phải giao chiến: đối phương vừa đánh và lùi sâu về phía Nam, gần 9.000 quân Việt Nam cộng hoà gặp một vài sự chống trả, nhưng đối phương rút lui sau 2 ngày chiến đấu. Nhưng một lần nữa Trung ương Cục miền Nam vẫn tồn tại; sau đó người ta được tin họ đã trở về phía Bắc sông Mêkông ngày 13 tháng 3. Các cuộc hành quân chấm dứt ngày 30 tháng 6 và các lực lượng rút quân.
    Cuộc đột nhập vào Campuchia được mạo xưng là đúng để chống lại các kế hoạch của ông Giáp và ngăn trở việc rút quân của các lực lượng Mỹ. Cuộc hành quân ấy không có tác dụng đó, vì lí do ông Giáp không bao giờ phản đối việc rút quân. ông Giáp đang bận tổ chức lại và tập hợp lại quân giải phóng miền Nam và im lặng chờ đợi cho đến khi quân Mỹ rời khỏi miền Nam- ở Hoa Kỳ, trái lại kế hoạch Free dom Deal kích động một làn sóng chống chiến tranh mạnh hơn; các sân bãi trường đại học là nơi diễn ra những cuộc biểu tình mãnh liệt, đồng thời những lời chỉ trích mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng đặt chính phủ Nixon vào trong tình thế không vững chắc hơn bao giờ hết. Lấy làm phiền lòng vì không kiểm soát được những sự kiện này. Quốc hội chấp nhận một quyết định cấm các lực lượng Mỹ hoạt động ở Lào hoặc ở Thái Lan.
    Tháng 2 năm 1971, tám tháng sau khi đột nhập vào Campuchia, các đơn vị quân cộng hoà miền Nam lợi dụng một lần nữa sự yểm trợ quan trọng của không quân Mỹ, xâm nhập vào Lào trong kế hoạch hành quân như Henry Kissinger nói "thụ thai trong ngờ vực và bị nghi hoặc dày vò Có đến gần 30.000 quân đưa sang Lào, song họ đã nhận chỉ thị của Sài Gòn phải kết thúc cuộc hành quân với hơn 3.000 người thiệt mạng. Đó là trường hợp họ dừng lại nửa đường đến mục tiêu và trở về trong tình trạng hoàn toàn lộn xộn. kế hoạch Lam Sơn 719 không làm chậm hoạt động trên đường mòn Hồ Chí Minh; tệ hại nhất quân cộng hoà miền Nam đã thất bại thảm hại ngay trận ra quân đâu tiên không có sự yểm trợ của bộ binh Mỹ. Điều đó không ngăn cân Tổng thống Nixon tuyên bố với đất nước ngày 7 tháng 7 rằng Việt Nam hoá đã thành công. Chắc chắn đó không phải là trường hợp sự tan vỡ lớn hơn trong tinh thần mọi người và làm tăng gay gắt hơn áp lực lên những lực lượng ốm yếu của quân Mỹ hiện còn ở miền Nam.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mùa xuân năm 1972, ông Giáp đã sẵn sàng. Để lại một sư đoàn dự bị ở lại miền Bắc Việt Nam, ông đưa phần lớn lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, kể cả những đơn vị từ Lào về, vào một cuộc chiến tranh thông thường qui mô lớn. Một lực lượng khoảng 125.000 người chia thành 20 sư đoàn hơn cả lực lượng của tướng Patton chỉ huy trong chiến tranh thế giới thứ hai-vượt qua vùng giới tuyến khu phi quân sự.
    Sau hội nghị lần thứ 19 họp cuối năm 1970, ông Giáp đã phân tích tình thế: theo ông, chính sách Việt Nam hoá của Mỹ đã tiến triển cũng như công việc bình định. Theo quan điểm của ông, tình thế tích cực là các lực lượng Mỹ đã rút khỏi miền Nam Việt Nam năm 1972. Sự đột nhập của quân ngụy miền Nam vào Lào đã bị thất bại, chỉ ra rằng quân ngụy miền Nam chỉ chống cự yếu ớt trước một cuộc tấn công qui mô lớn. Ông đề nghị và hội nghị chấp nhận vào mùa xuân năm 1972 tiến hành một cuộc tấn công lớn nhằm gây những tổn thất nặng nề cho quân Mỹ trong năm bầu cử tổng thống với sự thất bại có thể của Nixon.
    Kế hoạch Nguyễn Huệ, đặt tên một vị anh hùng dân tộc Việt Nam thế kỷ 17, như ông giải thích có mục đích "thay đổi tương quan lực lượng nhờ những trận chiến đấu thông thường kết hợp với đấu tranh chính trị". Không giành được thắng lợi quyết định các lực lượng tác chiến cóthể tạo thành một luận chứng quan trọng đầy sức nặng ở các cuộc thương lượng.
    Kế hoạch của ông Giáp chia làm 3 khu vực tác chiến đồng thời với nhau. Hai sư đoàn cộng với 3 trung đoàn bộ binh phải vượt qua vùng giới tuyến theo hướng Quáng Trị còn một sư đoàn khác tấn công vào Huế theo hướng Tây; cũng như trong cuộc tấn công dịp Tết năm 1968, một cuộc nghi binh lớn phải tiến hành ở miền Bắc, nhằm chia cắt 2 tỉnh phía Tây và đánh chiếm lấy 2 tỉnh. Một khu vực tiến công thứ hai từ các cao nguyên miền Trung chiếm Pleiku và Kontum nhằm cắt đôi miền Nam. Còn sâu hơn về phía Nam, một lực lượng thứ ba phải đánh vào Sài Gòn theo quốc lộ số 13. Mỗi khu vực tác chiến đều chia thành 2 đợt, khi đợt sóng thứ nhất bắt đầu lắng xuống, những đơn vị mới lại tiếp tục tấn công.
    Đây là một kế hoạch táo bạo nhưng không phải độc đáo: tính đến điều kiện địa hình, các mục tiêu đều quan trọng, và tính đến việc bố trí lực lượng của hai phía, một đợt tấn công như vậy trên ba mặt trận là có thể dự kiến được. Hơn nữa ông Giáp không thực sự được chọn. Lúc nào cũng có một yếu tố mới, hy vọng thắng lợi quyết định. Lần thứ nhất ông bố trí một lực lượng lớn xe tăng T54 của Liên Xô. Ông có thể trở thành một vi tướng của thế kỷ 20 về mọi phương diện; chỉ có ông thiếu máy bay tấn công để yểm trợ các lực lượng dưới mặt đất.
    Trên mặt trận phía Bắc trận tấn công bắt đầu ngày 30 tháng 3 được pháo bắn chuẩn bị yểm trợ dày đặc. Ngày 2 tháng 4, phần lớn các đơn vị của quân đội cộng hoà miền Nam đang ở giới tuyến quân sự tạm thời vừa chiến đấu vừa vội vàng rút lui. Tuy nhiên lực lượng của ông Giáp không vượt qua được; ngày 9 tháng 4 các đơn vị phải quay lại để củng cố. Ngày 1 tháng 5 các đơn vị mới chọc thủng tuyến phòng ngự và chiếm được thành phố Quảng Trị.
    Ở miền Trung, trận tấn công bắt đầu ngày 1 tháng 4. Các đơn vị cộng hoà miền Nam thường được lợi thế địa hình; đến cuối tháng có khả năng những trận công tiến ra đến biển, chia đôi đất nước. Từ 15 đến 25 tháng 5 các lực lượng cộng sản tạm ngừng để tiếp thêm và củng cố lại quân số; sau đó, họ tiến lên Kontum. Washington lo lắng theo dõi sự tiến quân của các lực lượng của ông Giáp; nhưng tính đến lực lượng Mỹ còn lại ở Việt Nam đã giảm đi nhiều, chỉ còn các cuộc không tập có thể bảo đảm yểm trợ cho quân cộng hoà miền Nam. Một lần nữa, máy bay lém bom hạng nặng đã giúp quân ngụy miền Nam khỏi thua trận. Sau một thời hạn nhất định quân miền Nam vừa đánh vừa rút lui.
    Ở phía Nam, trận tấn công bắt đầu ngày 2 tháng 4. Cũng như ở phía Bắc, quân bộ binh của ông Giáp bắt đầu giành được trận địa, nhưng những đợt không tập chiến thuật và B52 đã làm chậm bước tiến của họ. Các sĩ quan chỉ huy đã không hợp đồng chặt chẽ giữa xe tăng và bộ binh. Các xe tăng phải dồn vào vùng An Lộc và không thể tiếp tục tiến về Sài Gòn. Ngày 18 tháng 4, một lính ngụy miền Nam Việt Nam bắt được của đối phương kế hoạch của trận tấn công tiếp theo, điều đó cho phép quân phòng ngự đẩy lùi đợt tấn công. Cho đến ngày 15 tháng 5, các đợt tác chiến ở miền Nam Việt Nam đã thực sự kết thúc. Đó là lần cuối cùng ông Giáp tấn công trực tiếp vào những đơn vị bao gồm cả lực lượng Mỹ.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuối cùng là hoà bình
    Đúng, chúng ta đã thắng Hoa Kỳ. Nhưng bây giờ chúng ta đang bị rung chuyển trước nhiều vấn đề. Chúng ta không đủ ăn. Chúng ta là một nước nghèo, kém phát triển. Tiến hành chiến tranh, thật đơn giản; nhưng quản lý một đất nước, thật cực kỳ khó khăn.
    Phạm Văn Đồng
    Về mặt tài chính, cái giá của chiến tranh Việt Nam thật đồ sộ đổi với Hoa Kỳ nhưng nhỏ nhoi đối với Bắc Việt Nam. Vì người Liên Xô và người Trung Quốc thanh toán phần lớn hoá đơn. Đến cuối cùng, người Mỹ tốn mỗi năm 30 tỷ đô la; Liên Xô và Trung Quốc mỗi nước khoảng 1 tỷ đô la.
    Năm 1965, Alexei Kossyguine Thủ tướng chính phủ Liên Xô đến Hà Nội và hứa viện trợ mỗi năm tương đương một tỷ đô la ngoài những triệu đô la mà Liên Xô đã chấp nhận cho Việt Nam. (Ông cũng đề nghị, không được hoan nghênh, chế độ Hà Nội tìm kiếm một giải pháp hoà bình với Hoa Kỳ). Trung Quốc cũng vậy tỏ ra rất hào hiệp suốt những năm dài chiến tranh; ngoài việc viện trợ vật chất và tài chính, Trung Quốc đã gửi sang hàng nghìn chuyên gia và cố vấn; ở miền Bắc Việt Nam đã có trên 40.000 huấn luyện viên và kỹ thuật viên Trung Quốc.
    Về mặt con người, chiến tranh Việt Nam còn đắt giá hơn nhiều khi Nixon vào ghế tổng thống, khoảng 30.000 quân Mỹ đã chết ở Việt Nam; một năm sau, còn thêm 10.000 người chết. Kết thúc chiến sự, những con số công khai về tổn thất của Mỹ trong toàn bộ thời gian chiến tranh là như sau: Khoảng 46.000 chết trong chiến đấu (trong đó 13.000 lính chuyên nghiệp khoảng 13%) cộng thêm khoảng 10.000 binh sĩ chết vì tai nạn máy bay hoặc tai nạn khác; khoảng 300.000 binh sĩ bị thương. Các lực lượng liên quân hơn 5.200 người chết: 4.407 Nam Triều tiên, 469 Úc và Niu Zilân, 350 Thái Lan.
    Tổn thất trong quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam được phân phối như sau: khoảng 137.000 chết và 300.000 bị thương. Đối với dân thường miền Nam Việt Nam, những con số đáng tin cậy là từ 355.000 đến 415.000 chết và gần 750.000 bị thương.
    Về phía cộng sản, Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam không tính những người không chiến đấu-đã phải chịu những tổn thất nặng nề. Ông Giáp cho là có 600.000 người chết (bao gồm những người hy sinh trong chiến đấu, và tất cả những người bị sốt rét và các bệnh nhiệt đới khác); về phía mình, Washington đưa tin quân cộng hoà miền Nam Việt Nam có 800.000 người chết và *********, một triệu.
    Ở miền Bắc chiến tranh đã gây nên 400 triệu đô la tổn thất về vật chất kỹ thuật (nhưng người ta thấy khó lòng mà thống kê được những con số thiếu chính xác này). Với một tổng thu nhập hằng năm là 1,7 triệu đô la (năm 1972) vào loại thấp nhất châu Á, hà Nội chắc chắn phải nhiều năm mới khôi phục được.
    Khi ngừng bắn đã được thực hiện ở miền Nam Việt Nam đã có hơn nửa triệu người tị nạn. Trợ cấp hàng năm của chính phủ cho những người tị nạn chỉ đạt được chưa đầy một nửa ngày chi tiêu trong chiến tranh của Hoa Kỳ. Lyndon Johnson đã chết ngày 23 tháng giêng năm 1973 trước khi ký Hiệp định Paris 5 ngày. Hiệp định qui định:
    Ngừng bắn tôn trọng hiện trạng, các lực lượng quân đội của hai bên phải ở lại trên những vị trí họ đang đóng ngày này.
    Rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam.
    Trao đổi tù binh chiến tranh trong phạm vi 60 ngày.
    Cấm đưa thêm lực lượng vào miền Nam Việt Nam đối với cả 2 bên.
    Hai hội đồng chịu trách nhiệm kiểm tra tiệc tôn trọng lệnh ngừng bắn.
    Nói cách khác, sau những năm thương lượng, Hoa Kỳ phải chấp nhận một tối thiểu tuyệt đối: rút hết toàn bộ quân đội, đổi lấy sự trở về của tù binh chiến tranh. Tất cả những nỗ lực của họ, những thương vong của họ không phục vụ cho ai hết, vì quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam không suy chuyển ở lại tại chỗ, sẵn sàng để tiếp tục chiến đấu.
    Ngày 9 tháng 8 năm 1974 Tổng thống Nixon (được bầu lại năm 1972) phải từ chức sau vụ Watergate; Phó Tổng thống Gerald Ford thay thế. Một chi tiết nhỏ về lịch sử thú vị, những người có trách nhiệm trong vụ trộm Watergate là nhóm quan chức chính phủ đã giấu dư luận những vụ ném bom bí mật ở Campuchia.
    Chiến tranh chống Mỹ đã khép lại, nhưng Võ Nguyên Giáp không có ý định nghỉ ngơi. Đối với ông, đó chỉ là một thời gian ngắt quãng ngắn ngủi trong cuộc marathon cho đến khi nước Việt Nam thống nhất mới kết thúc.
    Ở hội nghị lần thứ 21 họp tháng 10 năm 1973, các nhà lãnh đạo miền Bắc quyết định ưu tiên cho một cuộc tấn công quân sự, chiến tranh tâm lý chuyển xuống hàng thứ hai. Tất cả cho hành động cuối cùng mà họ gọi là "giải phóng? miền Nam.
    Ông Giáp là Tổng tư lệnh đã gần 20 năm và đảm nhiệm thêm trách nhiệm chinh trị cao. Các lực lượng quân đội Bắc Việt Narn không ngừng được tăng cường; quân đội của ông bây giờ đứng thứ ba thế giới với 800.000 người. Ông cũng phải để tâm dành thời gian cho không quân và hải quân. Đó là một gánh rất nặng cho riêng một người.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bên ngoài có nhiều lý do để nghĩ rằng miền Nam giữ quyền độc lập sau khi quân Mỹ rút. Quân đội cộng hoà miền Nam gồm 450.000 binh sĩ, hơn 100.000 thuộc lực lượng hải quân và không quân. Ngoài ra, còn một nửa triệu quân địa phương và dân quân, một dạng địa phương của lực lượng du kích của ông Giáp: Nên nhớ rằng có rất nhiều người dân thường Nam Việt Nam phản đối các hình thức thống nhất với miền Bắc.
    Tất nhiên một trong những nhóm người sợ nhất việc thống nhất là các thành viên của lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam trước đây cũng như hiện nay, nếu quân cộng sản đến, thì chắc chắn họ là những người đầu tiên bắt vào tù hoặc hành quyết. Sau đó là những nhà buôn đã làm giàu vì có quan hệ với Hoa Kỳ; khi người ta giơ ngón tay lên cho họ, tiền của của họ sẽ không có cách gì cứu vãn được. Và vô số các công chức, cũng như nhiều người đã làm việc cho quân Mỹ, những người ít nhiều đã giúp đỡ Hoa Kỳ giữ lấy miền Nam; nhiều người trong số họ chẳng được lợi lộc gì nhiều về kinh tế, nhưng không thể qua mắt những kẻ tố cáo. Cuối cùng là những công dân bình thường, họ biết rằng khi những người miền Bắc tới đây đời sống họ càng xuống thấp, vì bóc lột miền Nam để kích thích nền kinh tế nghèo nàn của miền Bắc. Tính đến sự phản đối mạnh mẽ ấy, ý thích chống lại quân cộng sản đủ mạnh để đẩy lùi họ (lý lẽ cuối cùng là số phận của họ trông chờ vào quân đội cộng hoà miền Nam Việt Nam).
    Về mặt tổ chức tốt, huấn luyện tốt, được trang bị một học thuyết quân sự tiến bộ trong những năm dài chiến đấu bên cạnh quân Mỹ, quân đội miền Nam phải chứng tỏ họ có bản lĩnh cao. Mặc dầu vậy, các đơn vị chiến đấu chỉ còn nửa quân số còn lại là bộ phận dư thừa. Năm 1974 tiếp theo những khó khăn về kinh tế, tổng thống Thiệu đã giảm mạnh ngân sách quốc phòng, ông đã phải cắt bớt lương, những phụ tùng thay thế, xây dựng trận địa, đạn dược cho huấn luyện; binh lính chỉ có quyền hưởng hai đôi giày một năm mà không phải ba đôi như trước... và yếu tố quan trọng nhất, tấm lòng không ở đấy.
    Sự ra đi của quân Mỹ không làm gì để tăng thêm hư hỏng, hủ hoá, gian lận, và chính sách gia đình trị có mặt ở khắp nơi. Tinh thần, hiệu quả, kỷ luật không ngừng xuống cấp. Phần lớn những người lính mới ra đi từ những gia đình theo chính sách phân loại từ nhiều năm nay: những người thanh niên có anh ruột đang chiến đấu trong hàng ngũ ********* được gọi vào lính cộng hoà miền Nam; các thành viên của ********* lẫn vào trong quân đội cộng hoà vì không có công ăn việc làm nơi họ sinh sống. Thật không đáng ngạc nhiên khỉ những người cộng sản chuyển sang tấn công, quân đội cộng hoà miền Nam tan rã trong vòng vài ngày. Một số đơn vị hoặc cá nhân chiến đấu kịch liệt-những người tích cực nhất hoặc những người không có gì để mất-nhưng họ chỉ là một thiểu số.
    Văn Tiến Dũng ngày 5 tháng giêng 1975 được cử giữ chức tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn, tổ chức cuộc tấn công ngày 8 tháng 4 năm 1975 trên 5 mặt trận khác nhau với 22 sư đoàn chia thành 5 quân đoàn. Ngày 25 tháng 3 Huế thất thủ; ngày 30 đến Đà Nẵng (ngày 7 tháng 4 Lê Đức Thọ người đã đàm phán hoà bình ở Paris, đến miền Nam Việt Nam để quan sát trận tấn công). Ngày 17 sự kiện đưa đến những hậu quả khắc nghiệt và khủng khiếp Phnom Penh thủ đô Campuchia rơi vào tay Khơme đỏ Pol Pot. Ngày 29, những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn; ngày 30 đại tá Bùi Tín nhận sự đầu hàng của thủ đô miền Nam. Tất cả đã kết thúc. Để đến lúc này, phải chiến đấu 30 năm.
    Quân đội cộng hoà miền Nam không thể chống cự nổi trận tấn công cuối cùng. Vân Tiến Dũng kể: "Sau khi chiến thắng quân Mỹ và quân ngụy, chúng ta đã chiếm được một số lượng vũ khí và vật chất kỹ thuật. Chúng ta đã bố trí một lực lượng vũ trang mạnh và một số trang bị kỹ thuật hiện đại để giải phóng miền Nam".
    Đúng như điều họ đã làm.
    Mai Thế Chính người đã phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã kể cho tác giả nghe câu chuyện sau đây:
    ?oTôi cưới vợ tháng 4 năm 1967, vợ tôi rất lo lắng cho tôi. Trong 6 tháng, chúng tôi có quyền gửi và nhận những bức thư, nhưng không bao giờ tôi cho vợ tôi biết hoàn cảnh thiếu thốn của chúng tôi, tôi không bao giờ nói rằng chúng tôi thiếu ăn, chúng tôi bị ngập lụt, và bom bỏ như mưa xung quanh. Trái lại tôi lại nói với cô ấy rằng nếu tôi chết, cô vẫn chưa đến 30 tuổi, cô phải đi tái giá. Tôi cũng nói với cô rằng, nếu cô đã quá 30 tuổi, thì tuỳ cô quyết định ở lại với các con hoặc đi bước nữa. Đó là điều tôi viết cho vợ tôi.
    Tôi đã tham dự cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn. Năm quân đoàn tấn công theo 5 hướng khác nhau. Tôi ở Quân đoàn 3 tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Đơn vị tôi đã bắt đầu chiến đấu trên Tây Nguyên, trước khi theo đường 17 và phía Đông. Phần lớn thời gian quân địch, quân ngụy bỏ chạy, nhưng ở một vài nơi, chúng chiến đấu dữ dội. Hàng nghìn lính ngụy bị bắt làm tù binh. Ở nhiều nơi quân địch bỏ lại hàng đống lớn quần áo, mũ và vũ khí bên vệ đường, mà họ vứt bỏ để làm người thường dân.
    Có sự thi đua tích cực xem ai là người đầu tiên cắm lá cờ trên dinh Độc Lập, tất cả phải lỗ lực để đạt được vinh dự đó. Cuối cùng, Quân đoàn 2 là những người đầu tiên. Rất tiếc đã không phải là chúng tôi.
    Sau thắng lợi, mọi gia đình chiến sĩ đều mong đợi người thân trở về. Lúc này, vợ tôi đang học Đại học ở Hà Nội. Họ bảo cô rằng nếu bỏ trường đại học về đi gặp chồng thì mất một năm học hoàn toàn, nhưng cô ấy cứ đi, hy vọng chồng cô trở về.
    Khi mọi chuyện đã kết thúc, tôi theo đường bộ từ Sài Gòn ra Hà Nội, mất ba ngày. Ngày 1 tháng 6 tôi đã trở về và đã gặp vợ tôi.
    Phải hơn một năm để thực hiện thống nhất miền Nam và miền Bắc-một năm khủng khiếp vì lo sợ và lộn xộn. Đối với nhân dân Mỹ, hình ảnh trên truyền hình về những người vừa móc vào mắt xích trực thăng vừa kêu la vừa rơi xuống mái nhà đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn là khúc tưởng mềm cho thời kỳ dai dẳng và thảm hại của lịch sử nước Mỹ. Đối với những người khác, không phải là kết thúc mà là một sự bắt đầu mới.
    Sau khi thống nhất, một triệu người đàn ông, đàn bà và trẻ con rời miền Nam Việt Nam: những người Boat people đầu tiên. Khoảng 100.000 người ở lại được tập trung vào những trại "cải huấn". Một số ít bị cầm tù trong 3 năm hoặc hơn; ban ngày, nói chung họ đi chặt tre trong rừng, buổi tối dành cho những buổi huấn luyện làm cho họ nhận rõ sai lầm. Nói chung không đến nỗi dễ sợ như người ta tưởng. Những bài học của chiến dịch cải cách ruộng đất 1956 còn chưa quên; mục tiêu bây giờ là xoá đi và cải tạo mà không phải tiêu diệt.
    Ít lâu sau việc giải phóng miền Nam, ông Giáp và các ủy viên Bộ Chính trị khác đã vào Sài Gòn để thưởng thức thành quả của thắng lợi. Nhưng họ chưa thể kết thúc, chưa thể.
    Ở Campuchia, Pônpôt trở thành người chủ đất nước tổ chức một vụ khủng bố trắng toàn xã hội. Đa số dân thành thị bị đuổi về làm việc ở nông thôn bằng vũ lực. Ai chống lại sẽ giết, gần như tất cả những nhà tri thức, kể cả bác sĩ, nhà khoa học và công chức phải suy nghĩ, tổ chức lại và lãnh đạo họ là mối nguy hiểm cho chế độ mới. Các thành phố suy sụp và chết-cũng như vậy trong những vùng nông thôn đối với mùa màng, và những người nông dân đói không hy vọng cày cấy trở lại.
    Cái kinh nghiệm tàn nhẫn ấy của chủ nghĩa xã hội khoa học trả giá bằng sinh mệnh của 2 hoặc 3 triệu người dân Campuchia không ai biết con số chính xác: có quá nhiều đầu lâu để mà đếm. Cuộc diệt chủng chấm dứt khi lực lượng quân giải phóng miền Nam tràn sang đất Campuchia tháng 12 năm 1978, một kế hoạch hành quân do ông Giáp đề xuất và lãnh đạo (họ phải ở lại cho đến tháng 12 năm 1989).
    Năm 1980 Văn Tiến Dũng kế tục sự nghiệp của ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông Giáp vẫn còn ở lại Bộ Chính trị, và phụ trách công tác Khoa học và Kỹ thuật; nhiều năm ông làm Phó Thủ tướng.
    Tháng 7 năm 1991 một tháng trước ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80, Võ Nguyên Giáp không còn ở trong Bộ Chính trị.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ông Giáp-Bản tổng kết
    Chúng tôi muốn sống trong hoà bình và hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới.
    Ông Giáp với Tác giả
    Cuốn sách này đã thuật lại cuộc đời của Võ Nguyên Giáp và lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự thật không phải quân đội, mà chinh nhân dân đã thắng trong cuộc chiến tranh, nhưng làm sao có thể tách đôi? Nhân dân là quân đội: tất cả đều là chiến sĩ...
    Đàn ông và đàn bà Việt Nam là những người thực sự đã gây dựng nên thắng lợi; Tổng tư lệnh xuất chúng. ***** Chí Minh là người lái con thuyền, nhưng ông Giáp là người chỉ huy các lực lượng vũ trang.
    "Của cải dành riêng? của ***** Chí Minh là Đảng Cộng sản, nhưng của ông Giáp là quân đội, và là quân đội nhân dân đã giành thắng lợi trong chiến tranh. Trong giới hạn này, ông Giáp có thể tự hào đã giành hai thắng lợi to lớn và là nguồn gốc của thống nhất và độc lập của đất nước ông. Rất nhiều thắng lợi của ông đã làm cho ông trở thành một trong những người chỉ huy vĩ đại nhất của tất cả các thời đại.
    Ông Giáp đã thật sự là một nhà chiến lược vĩ đại? Vì bốn lý do không dễ dàng gì để trả lời câu hỏi đó:
    Dưới chế độ ông phục vụ, mọi quyết định được tiến hành tập thể; trong phạm vi quân sự, ông là người đứng đầu trong số những người ngang hàng (Primus inter pares) nhưng chỉ mình ông là trọng tài.
    Nước Việt Nam còn là một xã hội đóng kín, có khả năng mở hơn cách đây vài năm, nhưng những người từ phương Tây tư bản chủ nghĩa đến đã quan tâm đến quá khứ rất gần đây, không đánh giá cao.
    Tôi có thể đến Hà Nội vì cánh cửa đã mở, vì tôi là một tác giả nổi tiếng, vì tôi đã là một người lính và như vậy đối với ông Giáp trong lúc trò chuyện dễ chấp nhận hơn một nhà văn không có kiến thức quân sự và cũng vì tôi là một công dân Anh quốc, có thể khách quan hơn một người Pháp hoặc một người Mỹ.
    Cuối cùng, người Việt Nam là những người rất kín đáo; nói công khai những vấn đề cá nhân là không chấp nhận được-nên để tấm lòng ngay thẳng trước những người không quen biết; những chi tiết của đời tư, những tư tưởng và tình cảm sâu kín đều cấm ky. Một quyển tiểu sử "cho Tây phương? là không phù hợp.
    Nhưng bản thân những sự việc đủ sức thuyết phục và chúng đã tập trung đủ những chỉ số để có một sự đánh giá.
    Từ năm 1944 đến năm 1975, mọi người biết đến cuộc đời của ông Giáp không thể tách khỏi những trận chiến đấu những trận tấn công và những sáng kiến khác của ông. Trong nhiều công trình ông đã tham gia, hoặc với tư cách Đại tướng, hoặc với tư cách thành viên của Chính phủ. Ông Giáp đã giữ chức Tổng tư lệnh quân đội ròng rã ba mươi năm và đã tham dự vào những cuộc thảo luận chính trị ở cấp cao trong gần 50 năm: hai sự việc chưa bao giờ có trong lịch sử. Ngoài ra rất khó so sánh với các vị tướng khác, sự kết hợp giữa hoạt động du kích ở phạm vi lấy tác chiến thông thường cũng là việc chưa bao giờ có.
    Ông Giáp đã tỏ rõ những đức tính xuất chúng trong tất cả mọi lĩnh vực lớn nhất của chiến tranh. Về chiến lược, ông đã có một tầm quan sát sâu sắc các sự kiện và đã khoanh vùng những vấn đề chủ yếu; ông đã làm lung lay đối phương bằng sử dụng sáng suốt những lực lượng từ nhiều điểm: ở Lào, ở Campuchia, trong vùng châu thổ sông Cửu Long, trên các cao nguyên Tây Nguyên, vùng đồng bằng ven biển, hai bên bờ vùng giới tuyến phi quân sự.
    Về chiến thuật, ông Giáp là bậc thầy trong nghệ thuật chiến tranh du kích; về mặt này, ông là người chỉ huy vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trong lĩnh vực chiến tranh thông thường, ông biết cách đổi mới: ví dụ ở Điện Biên Phủ ông đã sử dụng giao thông hào tiếp cận xói mòn những lực lượng phòng ngự, phá huỷ từ vị trí phòng ngự này đến vị trí phòng ngự khác trước khi vượt qua số còn lại. Hơn ai hết, ông đã làm cho chiến sĩ của ông hiểu được sự cần thiết và những nguyên tắc của một "timing? tốt, tác dụng của bất ngờ, ngụy trang và động tác giả; ví dụ các đơn vị của ông đã ẩn nấp kín đáo đến nỗi quân địch chỉ phát hiện được họ khi người đứng đầu bị loạt đạn ngay sát gần; so sánh với những hầm hố của quân Mỹ như Khe Sanh có thể chụp ảnh được qua vệ tinh.
    Trong lĩnh vực hậu cần, ông thật xuất sắc suốt cuộc chiến tranh Đông Dương, không có một sự làm chủ hoàn hảo hơn về công tác hậu cần mà không thể thực hiện đượctrong chiến dịch Điện Biên Phủ. Cũng như vậy, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đường mòn Hồ Chí Minh đã cung cấp tiếp tế cho Quân đội nhân dân Việt Nam và quân giải phóng miền Nam ròng rã mấy năm trời.
    Chỉ có ít người chỉ huy quân sự tỏ ra có tinh thần làm chủ được mọi yếu tố làm nên thắng lợi. Hơn nữa, ông Giáp biết phái đi điều gì cơ bản cho cấp này; mặt khác làm sao ông có thể đảm nhiệm lâu dài như vậy những trách nhiệm cao cấp? ông khuyến khích "những con người trên trận địa, những người biết rõ dịa điểm, tình trạng và thời gian thích hợp nhất để hành động, được quyền quyết định.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Khi tôi hỏi tướng Marcel Bigeard bình luận về năng lực quân sự của ông Giáp, tướng Bigeard trả lời rất khâm phục ông Giáp. "Ông đã học thuộc những bài học sai lầm và không lặp lại chúng" và "ông đã chỉ huy thắng lợi những đơn vị của ông trong thời gian dài đáng chú ý; trong vòng 30 năm đã lập nên một kỳ tích chưa từng có". Bất kỳ lúc nào "đối với Giáp, đời sống bản thân không đáng gì". Bigeard cũng rất tôn trọng những người Việt Nam. "Họ là những người dũng cảm, ngay thăng, thông minh, lao động" ông thành thật xúc cảm thêm: "người Việt Nam yêu chúng ta, và chúng ta, những người Pháp cũng yêu họ. một ngày nào đó, chúng ta sẽ cưới nhau...".
    Về phần mình, tướng William C. Westmoreland cũng rất khâm phục người Việt Nam. Họ tin tưởng những người cùng làm việc ở miền Nam, nhưng "vấn đề lớn là những người nông dân ở xa thành phố không tôn trọng chính phủ trung ương chút nào: dưới con mắt họ, không có gì hơn là chế độ thuộc địa kéo dài, do đó chúng ta khó mà liên minh với họ trong cuộc chiến tranh này", hơn nữa "có rất nhiều dân tộc thiểu số; không phải là một xã hội đồng nhất."
    Còn về phẩm chất của một người chỉ huy quân sự lỗi lạc: khả năng ra những quyết định, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung, không quên trí thông minh đã gắn bó tất cả các phẩm chất trên- Westmoreland tin tưởng ông Giáp "có tất cả các phẩm chất đó". Đó là một con người rất "quyết tâm, một vì tướng vĩ đại". Song ông "mắc lỗi vì lạc quan: mặc dù mọi nỗ lực suốt trong cuộc tấn công nhân dịp Tết, ông không thấy dấu hiệu nào của tổng khởi nghĩa mà ông đã tính toán".
    Xung quanh vấn đề nhận xét con người Westmoreland nghĩ rằng ông Giáp "không có sự lựa chọn, những tài năng thường hiếm. Westmoreland nhận xét ông Giáp làm chủ được bản thân: "Mọi người chỉ huy quân sự ở cấp cao phải có phẩm chất ấy, nếu không không thể lâu dài được". Ông Giáp là người táo bạo quyết tâm, ông có "khả năng chi phối những người của ông vì những câu chuyện huyền thoại xung quanh ông và vầng sáng lạc quan của ông". Ông Giáp "tin vào sức thuyết phục của ông; ông tưởng rằng điều người ta muốn nói với ông vì họ nghĩ rằng điều đó ông muốn nghe". Chắc rằng ông cũng luôn luôn đối xử như thế với những cán bộ cao cấp, hoặc là linh hoặc là chính khách.
    Trả lời một câu hỏi về cuộc đời chính trị kéo dài của ông Giáp, Westmoreland hăng hái cho rằng đối với một vị tướng, điều đó phụ thuộc dư luận công chúng: "Nếu không được sự nâng đỡ của dư luận, không vị tướng nào có thể tự đặt ra cho mình, dù cho uy lực của niềm tin bản thân đến thế nào". Và sở dĩ Hoa Kỳ không thắng được là vì "các mặt tiêu cực của cuộc chiến tranh đã là đối tượng cho công luận quá khích (vì các loại thông tin đại chúng), còn các mặt tích cực thực tế không được tỏ rõ". Hơn nữa nếu Hoa Kỳ đã sử dụng ngay từ năm 1968 một lực lượng máy bay B52 như năm 1972, thì Hà NộI đã phải ngồi lại bàn đàm phán từ ngày đó; chiến tranh sẽ không kéo dài và hàng nghìn sinh mạng của Mỹ và Việt Nam đã được cứu vớt". Song câu trả lời ấy cho rằng dư luận công chúng Mỹ ở thời kỳ ấy đã tha thứ cho một sáng kiến như vậy ư? Hoàn toàn không chắc chắn như thế. Năm 1968, đất nước bị chia rẽ hơn bao giờ hết kể từ cuộc chiến tranh ly khai; còn 1972, trái lại Tổng thống Nixon có thể dựa vào ý chí thất vọng của nhân dân Mỹ để tìm một giải pháp với bất kỳ giá nào, hoặc gần như thế
    Khi nói về chiến tranh sức mạnh của nhân cách ông xuất hiện thật rõ như trong trang bài có quan hệ đến Điện Biên Phủ.
    Thường xuyên, công tác hậu cần đặt ra những vấn đề khó khăn không kém những khó khăn về tác chiến. Chính vì vấn đề cung cấp khó khăn như vậy, cho nên quân địch đã không bao giờ tưởng tượng được rằng chúng ta có thể khắc phục khó khăn ấy...
    Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Hội đồng cung cấp tiền phương, đã đem một tinh thần anh dũng và gian khổ rất cao ra phục vụ mặt trận. Từng đoàn xe hơi anh dũng đã vượt suối băng ngàn? Từng đoàn xe đạp thồ, hàng vạn chiếc, từ khắp các nơi tiến ra mặt trận, mang lương thực đạn dược để cung cấp cho quân đội giết giặc. Từng đoàn thuyền lớn nhỏ hàng nghìn chiếc, từng đoàn bè mảng, hàng vạn chiếc, vượt thác ghềnh mang lương thực đạn dược ra mặt trận...
    Từng đoàn ngựa thồ từ trên vùng dân tộc Mèo, Mán xuống, từ các địa phương lại, lũ lượt tiến ra mặt trận... Hàng vạn anh chị em dân công, thanh niên xung phong, lấy sức người mà chuyển lương thực, đạn dược, ngày đêm trèo đèo lội suối mặc máy bay của địch, mặc bom nổ chậm...
    Chưa bao gờ, người thanh niên ta đã đi đến nhiều nơi như vậy... Từ đồng bằng đến rừng núi, trên các đường lớn và các đường con, trên các dòng sông, các con suối, đâu đâu cũng nhộn nhịp hẳn lên...".
    Rõ ràng, một sự ồn ào náo nhiệt được phản ánh trong bài này.
    Từ buổi thiếu niên, ông Giáp đã nuôi chí cộng sản. Khốn khổ những quan niệm của ông rất ít thay đổi theo năm tháng-khốn nỗi vì với trí thông minh của mình, ông có thể trông thấy những tội lỗi của hệ thống chính trị và bảo đảm một cuộc đời tốt đẹp hơn cho những người yêu nước. Hình như lúc nào ông cũng tìm thấy kinh thánh treo trên cây ấy ở An Xá. Như một người cộng sản ở thời kỳ Trung đại sợ hãi những hậu quả ghê gớm của một biểu hiện tà giáo nho nhỏ, ông đã lệ thuộc đi theo con đường mác xít-lêninnít mà ***** Chí Minh truyền lại. Trong những tác phẩm của ông, ngoài chủ nghĩa cộng sản, bản thân ông không có gì để nói nhưng ông không có thể tự giải phóng khỏi sự gò bó của Bộ Chính trị.
    Thật thú vị nếu biết được ông Giáp nghĩ gì về sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông âu, sự tan rã của hiệp ước Varsovie, sự chia thành từng mẩu của Liên Xô. Tóm lại sự tan rã của trật tự xã hội chủ nghĩa thế giới mà ông đặt hy vọng vào đó.
    Quan điểm của cá nhân tôi thì ông là người khiêm tốn nhưng thiếu kiên nhẫn, thân mật nhưng dư uy nghiêm: sức nặng của lịch sử vẫn luôn luôn tồn tại. Có lẽông thiếu cái chân thành nhưng đó là nét đặc điểm Việt Nam: không bao giờ bộc lộ, luôn giữ lại cái gì đó dự bị. ông là người thay đổi tính khí đột ngột nhưng là người rất duyên dáng, và hóm hỉnh. Và ông dễ bị cuốn hút, khi đã lao vào một đề tài gì đó khó mà dừng lại.
    Còn về ?othích ăn diện" thì mỗi lần tôi gặp ông, ông đều mang một bộ quân phục ka ki cũ không huân chương hoặc huy hiệu trừ hai phù hiệu đỏ trên ve áo. Cổ và cánh tay áo đã sờn; mỗi lần ra đi người giúp việc giúp ông mặc cái áo bông cừu mà phần da đôi chỗ đen vì dùng nhiều.
    Về những gì có liên quan đến sức khoẻ và những bệnh tật của ông, chỉ có dấu hiệu không bình thường mà tôi quan sát được là chứng máy mắt trái thỉnh thoảng.
    Không có gì chứng tỏ ông ốm đau; ông còn đặc biệt nhanh nhẹn đối với một người ở lứa tuổi ông. Cho đến mùa hè 1991, ông đã hoàn thành một ngày dài làm việc với tư cách Chủ tịch hội đồng Khoa học kỹ thuật mà nhiệm vụ là thoát khỏi sự chậm chế trong Khoa học kỹ thuật của Việt Nam.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đoạn kết
    Một số người đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ không còn nữa. Decastries mất năm 1991 ở tuổi 85 với bao kỷ niệm. Già nua, bệnh tật và mất trí, Langlais đã thực hiện một bước nhảy cuối cùng từ cửa sổ cao tầng năm 1988. (Khi biết tin, các chiến hữu của ông đã đến dự lễ tang đúng theo nghi lễ của ông). Tràn ngập vinh quang và uy tín, Bigeard sống dưới bóng nhà thờ Toul: ở tuổi 65, cặp mắt vẫn linh lợi, ông ta vẫn tiếp tục đi bộ hàng ngày 7 km và bơi 10 lần chiều dài bể bơi.
    Hàng triệu và hàng triệu cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn sống mãi với ít mếu vinh quang. Nụ cười của Nixon vẫn còn đó. Westmoreland cũng vậy vốn là lính nhảy dù, thọ 77 tuổi, đôi mắt đầy nghị lực trước những lời chỉ trích nặng nề mà ông là đối tượng. ông ngồi yên như một người lính già. (Westmoreland được khen thưởng trên mức ông ta đáng được nhận ở Việt Nam: ông ta đã chơi khá hay nước cờ và ông chấp nhận thua trận).
    Mac Namara cũng vậy vẫn còn mãi, yên lặng như một nấm mồ. Lyndon B.Johnson chết năm 1973 ở tuổi 65, bối rối và cô đơn: một người hết sức cố gắng để hành động đúng, nhưng ông đã nhầm.ông Giáp vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Thắng lợi là một trường lực mạnh mẽ của tâm hồn. Về nhiều phương diện, ông đã đúng.
    Bây giờ tôi chuẩn bị tạm biệt Hà Nội, người ta yết cầu tôi gửi một chai Uytki làm quà chia tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi thực hiện với một nỗi lo lắng khôn nguôi: vì điều đó đối với tôi, là một sự xúc phạm đối với ông, một trong những nhân vật vĩ đại của thế kỷ 20, chắc gì ông đã cần đến một người ngoại quốc vãng lai tặng một chai rượu.
    Mặt tích cực là những con người mà tôi đã gặp đã làm việc với họ thì thật thân tình và cởi mở, lịch lãm và hợp tác. Khắp nơi người ta trông thấy hàng trăm trẻ em ăn mặc sạch sẽ, tươi cười trò chuyện ồn ào.
    Nhưng đối với tôi, quyển sách này tràn đầy kịch tinh, những bộ xương của hàng triệu người của nhiều quốc gia khác nhau, nhưng phần lớn là Việt Nam, đang yên nghỉ trong những rừng rậm bị cày xới vì bom đạn ở Đông Dương. Tên tuổi của hàng chục nghìn người trong số học được khắc vào bia đá của nhiều vùng ở nước Pháp, ở đảo Coóc ở khu phố trung tâm của lính lê dương, được khắp lên trên một vòng cung dài bằng đá cẩm thạch đen, cái biển trưng của thất bại gồm tượng đài Lincoln ở Washington, và trong trái tim, khối óc của tất cả những ai đã phải chịu mất mát họ.
    Bristol, Anh quốc, tháng 10 năm 1991
    ----------------------------
    Hết sách rồi các bác

Chia sẻ trang này