1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tướng Giáp qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương-Sách tham khảo

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau khi Paris thất thủ, chính quyền thực dân Pháp bị bọn bành trướng Nhật Bản khiêu khích, bị cô lập đối với phía bên kia thế giới và chỉ còn 10.000 binh lính dưới quyền, chấp nhận để cho quân Nhật xâm chiếm miền Bắc Việt Nam và rồi năm sau chúng chiếm luôn cả miền Nam.
    Nhật Bản đã liên minh với Đức Quốc xã và Italia tạo thành phe trục. Trước Pháp bị quân Đức xâm chiếm, các thuộc địa cũng cùng chung số phận cho đến khi thành lập chế độ Vichy. Khi đã nắm chính quyền, chế độ này thực hiện chế độ chính trị hợp tác để cho quân Nhật ?oBảo hộ? Đông Dương. Dù thế nào thì chính quyền Hà Nội cũng tiếp tục điều hành đất nước theo chỉ thị của Vichy xa xôi. Mặc dù nhân vật đã chiếm mất một số vị trí, đô đốc Decoux toàn quyền Đông Dương cũng còn giữ được cho nước Pháp một số vùng cai quản trên đất nước.
    Tháng 5 năm 1941, ở hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh và cộng sự của ông quyết định thành lập một tổ chức của những người yêu nước-?onông dân, công nhân, thương gia và binh lính?-chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam. Tổ chức này có tên là Việt Nam độc lập đồng minh hội của những người đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam, bộ phận quân sự, gọi tắt là *********.
    Sau nhiều giờ thảo luận, Giáp đã làm Hồ Chí Minh khâm phục vì những hiểu biết sâu sắc về lịch sử quân sự của mình. ***** thấy được nghị lực và nhân cách bao quát của Giáp, hy vọng người thanh niên này có thể mang lại sức cho phong trào cách mạng. Nhưng luôn tỉnh táo, ***** quyết định để Giáp được thử thách trên thực địa. Vì vậy Giáp đã trải qua một phần thời gian tốt đẹp của năm 1941 để thành lập một mạng lưới huấn luyện và xây dựng những cơ sở chính trị trong tỉnh Cao Bằng, ở cực Bắc của Việt Nam. Đến cuối năm ấy, Giáp đã thành lập được 2 cơ sở, một ở Bắc Sơn và một ở Võ Nhai. Tờ tạp chí thông tin Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt Lập) đã ra đời để giữ vững liên lạc và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Giáp rất tích cực công tác, nhưng Hồ Chí Minh từ chối những bài viết dài dòng của Giáp, yêu cầu cắt bớt đi một nửa và diễn đạt giản dị hơn. Giáp đã thử nhiều lần, nhưng Giáp có khuynh hướng khuếch trương những dự định của mình nên chẳng bao giờ đáp ứng được yêu cầu (có lẽ chăng bao giờ thuộc lòng các bài viết nên có rất nhiều chỗ lặp; dù sao Giáp cũng thành công trong việc mô tả và có khi mơ mộng).
    Năm 1942, Giáp đi Kangta một chuyến đến một trường của Diên An dự các lớp với chiến tranh du kích và chính trị. Rồi đến Quảng Tây, lần này Giáp bị bọn dân tộc khiêu khích, và hoàn toàn ngược lại với tình trạng năm 1940, Giáp phải vượt biên giới để trở về Việt Nam. Đến giữa năm 1942, Giáp đến làng Pắc Bó ở Việt Bắc, cách biên giới 2 km (chỉ là một biên giới chính trị vì nhân dân ở hai phía bên này hoặc bên kia đều là dân tộc Nùng). Ở đó, trong một làng có tên là Vũ Nhai, gần thị xã Cao Bằng, phía Bắc Hà Nội có một cơ quan 40 người quan trọng đang sống trong hang động dưới sự bảo vệ của các dân tộc miền núi. Đó chính là những tổ chức đầu tiên của lực lượng quân sự trong phong trào giành độc lập Việt Nam.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    ********* gồm những chi bộ của Đảng Cộng sản đang ra sức vận động nhân dân vùng phụ cận theo chủ nghĩa cộng sản. Rất hiếm người biết tiếng Việt, Giáp và các đồng chí phải tập nói tiếng địa phương và dùng hình vẽ hướng dẫn họ hiểu được ý định của mình. Khi các toán bảo an Pháp đến gần nơi ẩn náu, họ tạm thời di chuyển đi nơi khác và thỉnh thoảng ẩn nấp trong một cái hang phía sau một con suối rất khó ra vào, hoặc trong vùng dân tộc Mán Trắng, họ chỉ uống nước suối, ăn ngô và quả chuối rừng để sống. Một hôm, họ đến Lạng Sơn và sống trong một nhà sàn trên sườn núi.
    Ở hội nghị Liễu Châu tháng 10 năm 1942, Mặt trận thống nhất Việt Nam cách mệnh đồng minh hội được thành lập để tập hợp các khuynh hướng dân tộc khác nhau, đang thảo luận về gây ảnh hưởng ở miền Bắc Việt Nam. Đó là dẫn chứng đầu tiên của chiến thuật Hồ Chí Minh khi đối mặt với sự chống đối, ông không tốn nhiều sức lực, không đẩy họ sang phía thù để thủ tiêu họ, ông liên minh với họ.
    Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tinh thần của phong trào, một nhà duy mỹ, một vị thánh (hình như ông có một số thuộc tính của một vị thánh-theo Giáp: ?oÔng là mẫu mực về kiên nhẫn, về tiết kiệm, về liêm khiết và tình thường yêu?, tất cả những đặc điểm khiến mọi người Việt Nam phải tôn kính). Giáp là con người hành động. Có lẽ sau khi đọc Mao Trạch Đông, Giáp hiểu rằng ?onhân dân có thể là tất cả?, động cơ là chìa khóa của thắng lợi về chính trị cũng như trong lĩnh vực quân sự. Trong những năm sau, Giáp đã dựa vào nhân dân, sức lực và số đông của họ để làm người thợ cả trong những trận thắng kỳ diệu. Giáp có thể đưa đông đảo nhân dân đi đè bẹp quân thù, dùng số lượng đông đảo cánh tay vào công việc xây dựng những con đường, trong những trận tấn công của số đông thay thế cho những số lượng to lớn phương tiện vật chất, Giáp yêu cầu hàng triệu và hàng triệu giờ đồng hồ dùng sức khỏe cơ bắp của đàn ông và đàn bà để đào giao thông hào, hầm hố và sửa chữa những nơi bị thiệt hại.
    Giáp hoàn toàn tán thành sự giác ngộ quần chúng. Phải xoay chuyển quần chúng, đưa nhân dân đi theo đúng hướng. Sau khi đã trang bị đầy đủ về tinh thần và vật chất cho quần chúng, giao cho quần chúng đánh đổ trật tự cũ xây dựng trên cơ sở những phong tục tập quán lạc hậu của các dân tộc, trên cơ sở chủ nghĩa thực dân hoặc cơ sở của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Mọi người đều phải là chiến sĩ. Mọi người, đàn ông, đàn bà, con gái, con trai, người già: đều góp phần khiêm tốn của mình vào cuộc đấu tranh. Đó là một khái niệm đơn giản và dễ hiểu. Giáp hoàn toàn thích ứng với chủ nghĩa yêu nước sâu sắc của người Việt Nam. Không phải là một ý tưởng mới, mà đó đã có từ thế kỷ 13 và những lần sau đó, càng ngày càng được tăng cường ở Việt Nam, nhân dân đặc biệt gắn bó với quá khứ và truyền thống.
    Nhưng trước hết là bản chất. Muốn tiến tới tương lai: cần phải có những con người quyết đoán, cương nghị và nhiệt tình. Nếu họ là cộng sản thì tốt nhất. Nếu họ được giác ngộ dân tộc và chống thực dân thì không có gì đáng phàn nàn: hy vọng có thể chuyển biến họ theo chủ nghĩa cộng sản. Mỗi khi đã chấp nhận như vậy, tổ chức sẽ gửi họ đến các lớp học ở cơ sở để họ giác ngộ. Giáp xây dựng xung quanh mình những người tin cẩn-những cán bộ cốt cán-tùy theo trình độ hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản: trung tâm vững chắc này đã tập họp nhiều hội viên khác. Với phương pháp hoàn toàn tự tin, Hồ Chí Minh đã đặt ra một mức cao. Những cốt cán phải là những người không thể chê trách về tinh thần, không bị cuộc sống đồi trụy của đế quốc cám dỗ. Ông bắt buộc họ phải dám làm, trung thành, tiết kiệm, thẳng thắn, công bằng, khiêm tốn và giản dị, họ phải sống chung với những người nông dân giản dị. Giáp rất thận trọng và cẩn mật trong việc chọn lựa, vì những người cộng tác với Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và cả với Giáp phải cùng làm việc hằng mấy năm trời, họ sẽ trở thành những người lãnh đạo phong trào ngày càng mở rộng trong toàn quốc, phát triển dần dần từ phạm vi hẹp đến rộng.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Về nguyên tắc yêu cầu các cán bộ cốt cán họp lại trong một vùng ít nguy hiểm để trở thành những tổ nhóm hội viên trên khắp địa bàn. Các nhóm này phát triển để trở thành những nhóm quan trọng giữ vững lấy địa bàn và mở rộng thành vùng tự do. Những vùng này là cơ sở để nhân dân chuẩn bị và nổi dậy đấu tranh tiến công quân địch. Như sau này, Giáp đã viết: ?oCuộc đấu tranh phải mạnh dần lên. Ta chiến thắng từ những thất bại nhỏ, từ trận này đến trận khác cho đến khi thời cơ đến?. Khái niệm nội bộ ấy cho phép chờ đợi đến thời cơ thuận lợi. Ngược lại với phương Tây, họ thấy cần thiết phải có hiệu quả tức thời, hiệu quả thường ám ảnh họ mãi. Đó là đức tính quan trọng của Giáp trong những thập kỷ tới. Có nhiều người bước vào cuộc chiến đấu và không hề nghĩ tới khả năng rút ra càng nhanh càng tốt, Giáp vẫn không lay chuyển những quyết định ban đầu. Do đó, chỉ hơn một năm, Giáp đã xây dựng được những cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa.
    Dưới sự chỉ đạo của Giáp, các cán bộ học tập chiến lược quân sự và chuẩn bị những chiến khu tương lai (Trong thời kỳ này, mọi người ở cơ quan đều phải tham gia công việc chung, Giáp phải rửa bát, vì công việc bếp núc của Giáp quá vụng về). Ban đêm, rét quá không ngủ được, mọi người thức dậy và ngồi quanh bếp lửa cho đến sáng. Các phòng học-lều bằng tre lợp lá-và những khu dân cư được xây dựng để tiếp nhận đông đảo người vào hội. Giáp tuyển lựa những binh sĩ đang phục vụ trong các binh đoàn Đông Dương của người Pháp để mua bán ở địa phương và canh phòng khu vực. Đến nửa năm 1943, ba trăm người trong số họ được đưa sang Liễu Châu và Quảng Tây Trung Quốc tập luyện. Ở Việt Bắc khoảng dăm chục binh sĩ mới tuyển cũng được tổ chức lại. Những binh sĩ ưu tú được giữ lại làm giáo viên. Cuối năm 1943, hàng trăm đàn ông, đàn bà gia nhập quân đội quốc gia. Đến đầu năm 1944, hai mươi nhóm khác nhau được tập họp lại.
    Vào mùa hè năm 1943, Giáp được tin vợ chết trong nhà giam Hỏa Lò Hà Nội. Cái nhà giam rất nổi tiếng mà ở Hoa Kỳ gọi dưới cái tên khách sạn Hinlton Hà Nội, vì nhiều tù binh chiến tranh Mỹ bị giam giữ ở đó. Những người cùng công tác với Giáp thời kỳ đó khẳng định Giáp nhận tin này rất bình tĩnh, nỗi đau của Giáp chỉ biểu hiện bên ngoài bằng mảnh băng đeo trên người nhiều ngày. Tuy vậy Giáp đã tuyên bố với một nhà báo vài năm sau: ?ocuộc đời tan nát?, hơn tất cả những điều khác, không còn nghi ngờ gì nữa, cái chết của người phụ nữ trẻ mà Giáp tôn thờ đã dẫn đến những tư duy sâu sắc và tin tưởng mãnh liệt của Giáp. (Người con gái của họ được đưa về An Xá để bà nội nuôi dạy. Cô ta thừa hưởng trí thông minh của bố mẹ, học tập ở Hà Nội, đỗ tiến sĩ toán lý. Năm 1987, cô nhận giải thưởng khoa học Liên Xô Kowolepxkia).
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng sự hội tụ của các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa có tác dụng điều chỉnh các hoạt động của con người. Thời cơ tốt nhất phải chuyển sang hành động ?oThời cơ tốt, một con tốt cũng thắng. Thời cơ chưa đến mà hành động không thích đáng có thể mất hai con ngựa?. Tháng 7 năm 1944, Giáp nhận định ?otình hình thế giới và hoạt động cách mạng ở tỉnh Cao Bằng có nhiều thuận lợi và cho rằng điều kiện để phát động chiến tranh du kích đã đến?. Hồ Chí Minh biết tin này đã không đồng ý. Tháng 8, ***** vội trở về Cao Bằng càng sớm càng tốt, và đã được Giáp đón tiếp long trọng.
    Hội nghị quân sự lần thứ nhất của Đảng khai mạc tháng 9 năm 1944 (Trường Chinh điều khiển hội nghị, bốn ủy viên Trung ương là Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị và Trần Đăng Ninh). Hội nghị quyết định thời cơ đã đến, bây giờ phải chuyển sang hành động. Quân giải phóng Việt Nam được tổ chức, Giáp được đề cả làm Tổng chỉ huy. Theo chỉ thị viết nguệch ngoạc trên bao thuốc lá của Hồ Chí Minh-một thói quen cũ-hội nghị cũng quyết định thành lập những đội vũ trang tuyên truyền được trang bị vũ khí. Nếu nhiệm vụ hàng đầu là tuyên truyền giác ngộ thì các đội viên cũng phải có vũ khí để chiến đấu tự vệ.
    Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập đội võ trang tuyên truyền đầu tiên: đội quân gồm ba tiểu đội và 34 chiến sĩ tất cả-31 đàn ông và 3 đàn bà. Ra quân ở chiến khu Trần Hưng Đạo, tên một vị anh hùng dân tộc Việt Nam, đội được trang bị 2 súng lục, 17 súng trường và 14 súng kíp có từ thời chiến tranh Nga-Nhật và một súng máy. Họ chụp ảnh để kỷ niệm sự kiện vinh quang này. Ở một trong những bức ảnh này, người ta thấy Giáp chân đất, mặc một bộ âu phục, đầu đội mũ phớt đen, một quả lựu đạn dắt ngang lưng, vai đeo túi bản đồ, trước một đám đông lộn xộn đang giương cao cờ hiệu và vũ trang. Ở một tấm khác, Giáp ngồi giữa đội quân và một chiến sĩ đứng gác ở cuối hàng.
    Chính Hồ Chí Minh đã tuyển lựa những thành viên của đội quân này và giao nhiệm vụ cho Giáp tổ chức và lãnh đạo chỉ huy. Với bí danh quan tư Nam, Giáp chỉ huy một đội, một người chỉ huy khác là Văn Tiến Dũng, người sau này trở thành Tổng tham mưu trưởng ở Điện Biên Phủ và kế tục sự nghiệp của Giáp ở cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong những năm bẩy mươi. Người chỉ huy thứ ba là Chu Văn Tấn, một người nhã nhặn, dân tộc Nùng sau này trở thành một vị tướng quan trọng trong quân đội nhân dân. ?oTrung đội? gồm những người chỉ huy chiến khu, người chỉ huy các nhóm và các chiến sĩ thuộc quân du kích địa phương.
    Sau khi tuyên bố nhiệm vụ chính trị của đội không phải là đánh giặc, Hồ Chí Minh chỉ thị tiếp: Chính vì mục đích tuyên truyền mà đơn vị đầu tiên này phải giàn được một thắng lợi quân sự trong tháng mới thành lập. Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Giáp đã chỉ huy đội tấn công hai đồn quân Pháp ở Phai Khắt và Nà Ngần thắng lợi. Hai sĩ quan Pháp bị giết. Quân lính của các đôn này đều trở về quê hương. Nhờ công bác binh vận vận động được quân lính của người Pháp chỉ huy, các lực lượng tấn công không bị tổn thất gì. Giáp đã viết: ?oChúng tôi đã quên rằng chúng tôi chỉ có 34 con người, nhưng chúng tôi là một đội quân gang thép, không một lực lượng nào thắng nổi. Lòng tin và ý chí đã có hiệu quả?. Vài tuần sau, đầu năm 1945, Võ Nguyên Giáp bị thương ở chân trong cuộc tấn công ở Đồng Mu.
    Tháng 4 năm 1945, Đội tuyên truyền giải phóng quân thu nhận Đội cứu quốc quân của Chu Văn Tấn, một đội quân chân trần, chủ yếu là những người dân tộc Thái và chưa có đủ chỉ huy từ khi nhận được sáp nhập với Giáp và Văn Tiến Dũng. Sự hòa nhập đã đạt đến trình độ cao. Những đội võ trang tuyên truyền khác được thành lập và đi sâu vào quần chúng. Họ bảo đảm kiểm soát được vùng đất được mở rộng hàng ngày. Sau vài tháng, cả ba loại quân xuất hiện: lực lượng chủ lực, lực lượng địa phương và dân quân tự vệ của cơ sở làng xã. Ba thứ quân này tạo thành cơ sở tổ chức các lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm sau này.
    Bây giờ những đội quân của Giáp thực hiện Nam tiến (Giáp thỉnh thoảng đi ngựa) về đồng bằng sông Hồng, nhiều đơn vị khác được thành lập. Chỉ ở Nước Hai, ba nghìn đội viên nhận nhiệm vụ; tháng 3 năm 1945 Việt Nam đã có cơ sở du kích ở sáu tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Tuyên Quang, Lai Châu và Hà Giang.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp Vichy. Như chúng vẫn thường tiến hành một cách xảo trá và tàn nhẫn, chúng bắt các sỹ quan cao cấp người Pháp ở nơi đồn trú, trong đó có người chỉ huy tiểu đoàn bộ binh lê dương thứ 5, tước vũ khí của họ sau khi đã mời họ dự tiệc ở khách sạn Metrophobe. Chúng yêu cầu tất cả quân Pháp đầu hàng. Họ từ chối, chúng chuyển sang tấn công. Ngày 12 tháng 3 chúng chém đầu viên chỉ huy quân sự Sài Gòn, tướng Lemonnic, cùng với viên công sứ Camille Auphelle, sau khi bắt buộc họ đào lấy hố chôn mình. Được tin này, trung đoàn bộ binh lê dương ?oREI? thứ 5 phải rút sang Trung Quốc, sau khi đã chiến đấu đẫm máu với quân Nhật. Những người Pháp không đi sang Trung Quốc, trong đó có đô đốc Decoux đều bị bắt vào trại tập trung tù binh (quân Nhật phá hủy không thương tiếc những gì còn sót lại của lực lượng bảo an Pháp và để lại khu tự do của người dân tộc và cộng sản ở vung nông thôn; bọn Pháp, bọn bảo an còn kiểm soát được một ít, còn bọn Nhật không kiểm soát).
    Ngày 15 tháng 4 năm 1945, Giáp quyết định thành lập những vùng chiến tranh du kích trong 6 tỉnh trên để rồi đến ngày 4 tháng 6 tập trung thành một vùng tự do. Nhiều đơn vị quân đội đã có tập trung thành giải phóng quân dưới sự chỉ huy của Giáp với quân hàm Đại tướng. Thời kỳ này ********* đã có đến 5.000 hội viên. Cũng như cán bộ cốt cán, nam nữ hội viên ********* tự nguyện và có quan hệ với nhân dân nơi họ sinh sống. Họ long trọng thề; hết lòng tôn trọng nhân dân, bảo vệ nhân dân, được dân tin yêu và thật sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân. Giáp nhấn mạnh đoàn kết giữa chiến sĩ và cộng đồng nhân dân là rất cần thiết: ?oMột cuộc kháng chiến lâu dài yêu cầu tất cả phải được giáo dục giác ngộ, đấu tranh cho lý tưởng, trong đó nhân dân là trung tâm. Không có dân chúng ta không có tin tức, chúng ta không giữ được bí mật, không phát động được những trận tấn công bất ngờ. Nhân dân bày ra mưu kế và chúng ta giúp họ thực hiện. Nhân dân tìm kiếm cho chúng ta những chiến sĩ giao liên, che giấu chúng ta, bảo vệ những hoạt động bí mật của chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta và săn sóc các thương binh của chúng ta?.
    Tháng 5, trên đèo Chan, bộ đội của Giáp tấn công vào đồn quân Nhật và giết hết bọn người đó. Sâu hơn về phía Nam, làng Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang được tổ chức khu căn cứ của Trung ương, là nơi quyết định kế hoạch tương lai. Chính ở đó giữa tháng 5 và tháng 8 năm 1945, một đơn vị lính Mỹ ?oDeer Team? thuộc OSS, tiền thân của CIA đến để giải giáp quân đội Nhật, gặp Giáp mà họ gọi bằn tên M.Nam. Sau đó, một đơn vị khác do sỹ quan tham mưu Allison Thomas chỉ huy nhảy dù xuống vùng này, trước khi tiếp tế vũ khí và đạn dược cho *********. Ba trăm năm mươi chiến sĩ quân đội Giáp phục vụ cho OSS (Quan năm Peter Dewey của OSS là sỹ quan bị thương đầu tiên trong số 60 nghìn binh sĩ Mỹ bị thương ở Việt Nam: Một chiến sĩ bảo vệ ********* bắn nhầm vào xe của ông ta).
    Một nghịch lý tró trêu của lịch sử: người Mỹ đã cung cấp vũ khí hiện địa cho ********* đầu tiên và dạy cho quân đội ********* sử dụng vũ khí đó. Theo viên sỹ quan tham mưu Archimedes Patti phụ trách Deer Team: ?oSau khi được người Mỹ hướng dẫn sử dụng tên lửa, phóng lựu, súng trường, súng máy? Giáp đã tiến công nhiều tiền đồn của quân Nhật cùng với người của chúng ta. Thật đúng là chúng ta đã liên minh với ********* để chống lại quân Nhật?. Chỉ trong vòng một tháng người Mỹ đã huấn luyện được hại trăm cán bộ chỉ huy tương lai của *********. Họ được lựa chọn bất kỳ và họ đã tạo nên cái tình trạng sẽ gặp trong những năm 60. Mặc dầu việc cung cấp chỉ khiêm tốn ít ỏi, nhưng vũ khí đó cũng bảo đảm lợi thế hơn hẳn của ********* trong thời kỳ khó khăn đó. Có lẽ sai lầm nếu khẳng định rằng Giáp được OSS huấn luyện như một vài câu chuyện huyền thoại được truyền đi ở một số nơi.
    Ngày 17 tháng 7 năm 1945, Giáp chỉ huy 500 chiến sĩ ********* tấn công một đồn lính Nhật ở Tam Đảo có khoảng dăm chục tên: bộ đội của Giáp đã giết 8 tên và bắt số còn lại, chúng thuộc sư đoàn bộ binh Nhật bản số 21.
    Ngày 16 tháng 8, hơn sáu chục đại biểu dự Đại hội quốc dân ********* ở đình Tân Trào. Một Chính phủ lâm thời được thành lập, Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Ngày 17 tháng, bộ đội của Giáp tiến công và giải phóng thành phố Thái Nguyên. Các đội quân bắt đầu hoạt động vũ trang có tổ chức, Giáp vừa là sỹ quan chỉ huy vừa là huấn luyện viên. Đến nửa tháng 8, Giáp được tin bộ đội đã đến gần Hà Nội. Ngày 28, ông dẫn đầu đoàn quân tiến về giải phóng Hà Nội.
    Chặng đầu lịch sử đấu tranh giải phóng của Việt Nam đã khép lại. Trong thời điểm phấn đấu này, không ai có thể đoán biết được thời gian phải chờ đợi cho đến khi kết thúc chiến tranh. Một cuộc chiến tranh kết thúc. Rồi một cuộc chiến tranh khác nữa kết thúc.
    Chiến sĩ Giáp là ai? Tầm cỡ nào? Phải chăng như một số người Giáp chỉ là một sỹ quan có tầm hiểu biết của một Tổng chỉ huy được phong hàm đại tướng một hai ngày. Hoặc phải chăng là một người đã từng nghiên cứu sâu sắc khoa học quân sự trước khi hành nghề mới và có thể nhanh chóng vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực hành có hiệu quả như ta đã biết. Thành công đó trước hết của ông, hoặc ông không phải là một ngôi sao đích thực trong những thắng lợi bị quên lãng trong các phẩm vô danh? Ông ở vị trí nào trong các khái niệm của chiến sĩ của ông? Ông đã là nhà tư duy quân sự đến độ nào?
    Chỉ có nhân dân Việt Nam giúp cho chúng tôi trả lời được câu hỏi này, bởi vì không có một vị tướng nào, dù xuất sắc hoặc may mắn đến mấy cũng không thể một mình thu được thắng lợi. Chính là bản chất nhân dân được quân đội tuyển chọn, và động cơ mãnh liệt giành chiến thắng của quân đội.
    Làm sao giải thích được người Việt Nam có thể chiến đấu dai dẳng trong một thời gian dài với bấy nhiêu sức lực? Tại sao cuối cùng họ đã thắng hai nước lớn?
    Hiểu được nhân dân, người ta hiểu được quân đội, người ta giải thích được thắng lợi.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nước Việt Nam ra đời
    Lịch sử của chúng tôi bao giờ cũng chỉ biết đấu tranh. Đấu tranh chống quân xâm lược nước ngoài, hầu như lúc nào cũng mạnh hơn chúng tôi, đấu tranh chống chọi với thiên nhiên. Vì không đi đâu được nữa, chúng tôi đã tự tạo cho mình một hệ thống thần kinh cực kỳ ổn định. Chúng tôi không bao giờ hoảng sợ. Mỗi khi có tình thế mới chợt đến, nhân dân lại tuyên bố: ?oKìa, mọi chuyện lại bắt đầu!?.
    Phạm Văn Đồng
    Đặc điểm hình thể nước Việt Nam là những dãy núi cao rừng rậm khó vượt qua chiếm giữ biên giới phía tây. Ở phía Bắc cũng núi cao rừng rậm bao quanh lấy châu thổ sông Hồng để tạo thành biên giới với Trung Quốc và Lào; ở giữa những dãy núi ấy uốn cong về phía đông: sườn núi kéo ra tận biển ở nhiều nơi. Cuối cùng chúng vòng về phía tây và thấp dần xuống phía nam vẽ nên đường biên giới Campuchia. Dọc theo chiều dài biên giới, rất nhiều động vật hoang dã sống dày đặc trên những ngọn đồi nóng và ẩm có tán lá cây dày che khuất ánh sáng: nào hổ, nào voi, nào báo, nào gấu và cả muỗi rừng mang vi trùng sốt rét. Chính những chướng ngại núi non ấy ở giữa đã ngăn cách con người miền Bắc và miền Nam không gần gũi nhau được.
    Con sông Hồng bắt nguồn từ Trung Hoa. Nó chảy qua mười ba trăm kilômét trước khi đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Hà Nội ở hai bên bờ sông. Hải Phòng là bến cảng ở cửa sông. Lưu lượng nước sông đổ ra biển khoảng bốn nghìn mét khối nước trong một giây, đến mùa mưa khối lượng tăng lên bốn mươi lần. Hai bên bờ sông có đê cao nên trước có những chỗ cao hơn Hà Nội vài ba chục centimét: hằng năm, đê thường bị vỡ và dẫn đến lũ lụt khủng khiếp kèm theo đói kém mất mùa từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.
    Ở phía Nam biển Đông là một vịnh rộng nhưng không sâu ở giữa những dãy núi. Trải qua hàng thế kỷ, phù sa sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Tạng chảy dài bốn nghìn năm trăm kilômét, lấp dần vịnh tạo nên một vùng châu thổ rộng lớn và màu mỡ với những dòng kênh cắt ngang, có khả năng cho thuyền bè đi lại trên bốn nghìn tám trăm kilômét (Hiện nay đất liền vẫn lấn ra biển mỗi năm dăm chục mét). Theo dòng chảy, sông Mêkông vẽ nên biên giới Thái Lan và Lào, chảy qua Campuchia rồi chia thành hai nhánh chính và nhiều nhánh phụ vào một hồ lớn ở Campuchia và tràn vào đất Việt Nam. Sông Mêkông ít nguy hiểm hơn sông Hồng: hiếm thấy lụt lội và đói rét ở miền Nam.
    Trải dài theo sườn Đông của châu Á, khí hậu Việt Nam chịu ảnh hưởng của gió màu, gió đầy mây mang đến theo mưa bão tàn phá dọc ven biển. Về mùa hè, khí hậu miền Bắc và miền Nam gần giống nhau, nhiệt độ trung bình ở Hà Nội là 30,C, ở Sài Gòn là 32,C, nhưng mùa đông nhiệt độ trung bình ở Hà Nội là 16,C trong khi ở Sài Gòn là 27,C. Trên những vùng cao ở miền Bắc hiếm khi có tuyết, mùa khô hoàn toàn không có tuyết, ngay cả sườn núi Phăng Xi Păng, đỉnh cao nhất của Việt Nam cao 3.150 mét. Trong những tháng mưa của mùa hè, lượng mưa trung bình ở Sài Gòn và Hà Nội là 178 milimét nước, gần gấp 3 lần lượng mưa hàng năm ở Parí và gấp 2 lần ở New York.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trước khi người Việt giành độc lập, hệ thống xã hội thuộc chế độ phong kiến phương Bắc: những quan thái thú và con cháu họ thu tóm quyền lực toàn bộ trên các lĩnh vực: tôn giáo, quân sự và hành chính: họ chiếm giữ ruộng đất và biến nông dân thành nông nô của họ. Đứng đầu thiên triều là một vị vua, người đã chiến thắng tất cả các đối thủ. Vua chia đất nước thành vùng lãnh thổ quân sự có các quan thái thú đứng đầu, duy trì một chế độ bảo hộ rộng rãi của Trung Quốc mà không can dự vào phong tục địa phương.
    Cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân chống lại người Trung Quốc là cuộc nổi dậy của chị em Bà Trưng năm 39 sau Công Nguyên. Trưng Trắc là một phụ nữ quý tộc có chồng bị quân Trung Quốc giết vì nổi loạn. Em là Trưng Nhị dẫn đầu nhiều lãnh chúa và quân của họ tấn công quân Trung Quốc. Sau khi đánh dẹp được quân Trung Quốc, hai chị em cưỡi voi dẫn đầu đoàn người Việt Nam reo hò, tuyên bố làm Vua nước Việt Nam độc lập. Nhưng vương quốc của hai bà chỉ tồn tại ba năm: Vua nhà Hán đã phái một đội quân đi lập lại trật tự cho Trung Quốc. Hai bà đã nhảy xuống một dòng sông ở Hà Nội tự tử. Ở đó còn đền thờ để ghi nhớ công ơn hai Bà.
    Đầu thế kỷ thứ X, trận thất bại năm 939 đã kết liễu nền đô hộ của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam đã chọn năm đó là năm mở đầu nền độc lập của mình. Nhưng chủ quyền của Việt Nam phải trả giá bằng máu. Quân Trung Quốc quay trở lại năm 1057, phải bốn năm chiến đấu oanh liệt mới đẩy lùi được bọn chúng. Năm 1257, một đạo quân Mông Cổ tiến vào Hà Nội, nhưng cũng phải rút quân. Một đạo quân khác đánh chiếm châu thổ sông Hồng năm 1284 và ba năm tiếp theo một đạo quân nữa. Nhưng tất cả quân Nguyên xâm lược đều bị quân đội Việt Nam đánh bại.
    Đến thế kỷ XX, Võ Nguyên Giáp viết: ?oSự kết hợp giữa bộ đội chủ lực và các lực lượng địa phương bắt nguồn từ chiến lược hai mặt trận phía trước và phía sau cùng tấn công quân địch của cha ông ta để lại. Thọ binh là quân chủ lực, thương binh là các đội quân chủ làng xã do các lãnh chúa phong kiến tổ chức ra để duy trì chế độ phong kiến là một nội dung cơ bản để thực hiện các trận tiến công của quân đội Việt Nam với quân Pháp và quân Mỹ.
    Tướng chỉ huy cuộc nổi dậy trong các thời kỳ trung cổ khó khăn trên là Trần Hưng Đạo, ngày nay được tôn thờ như một trong những vị anh hùng kiệt xuất của lịch sử Việt Nam. Giáp viết: ?oĐó là một vị anh hùng dân tộc đã dạy bảo về sự thống nhất của dân tộc: ?ogiặc vào nhà, đàn bà cũng đánh?. Đó là một sự thật xúc động nhưng rất gần gũi trong cuộc sống và đấu tranh của đất nước và những cuộc đấu tranh yêu nước đã từ lâu là những cuộc nổi dậy của nhân dân, những cuộc đấu tranh của nhân dân?.
    Năm 1407, quân Trung Quốc đời nhà Minh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Những ông chủ mới ra sức khai thác đến cạn kiệt các nguồn lợi của đất nước, lại định ra những phép tắc khắc nghiệt để hòng phá hoại tinh thần dân tộc Việt Nam: giấy căn cước được cấp phát cho mọi công dân để tăng cường kiểm soát; các trường học chỉ có thể dạy tiếng Trung Hoa; việc thờ cúng tổ tiên bị bãi bỏ; các nhà văn không được viết sách; phần lớn các tác phẩm bị thu về Trung Quốc hoặc bị đốt; phụ nữ phải ăn mặc như trang phục phụ nữ Trung Quốc và đàn ông phải để tóc dài. Đúng là các phép tắc trên tỏ ra không có tác dụng và còn tăng thêm các khuynh hướng dân tộc. Cuối cùng quân Minh cũng phải rút lui về, để lại trong nhân dân Việt Nam một mối căm thù trong thời gian dài. Nhưng hòa bình-như đã chứng minh trong các thời kỳ-chỉ là một khoảng cách giữa hai cuộc chiến tranh: đất nước phải chịu đựng những thời kỳ xung đột nội bộ của thủ lĩnh các bộ lạc chống đối nhau. Thời cơ thuận lợi các thủ lĩnh thành lập nên những triều đại trên cả hai vùng châu thổ và miền Trung nối liền Nam Bắc.
    Đến thế kỷ XVII, các nước châu Âu bắt đầu bành trướng chủ nghĩa thực dân. Đông Nam châu Á là vùng đất rất thèm khát của chủ nghĩa đế quốc, nhưng lại khó khăn trong việc buôn bán với Việt Nam. Vì ở đó đang tồn tại ba học tộc: Tây Sơn, Trịnh và Nguyễn. Tất cả ba đều muốn có vũ khí hiện đại để đánh bại lẫn nhau và đều muốn buốn bán với châu Âu. Họ đã cho phép những người truyền đạo kèm theo các nhà buôn. Năm 1672 các cuộc chiến tranh nội bộ tạm châm dứt, tình thế đã thay đổi.
    Những quan hệ với phương Tây bị kịch liệt phản đối: một chi nhánh của Hà Lan thành lập năm 1637 ở Hà Nội đến năm 1700 bị đóng cửa; người Anh đến năm 1762 phải cuốn gói sau 25 năm. Chi nhánh của người Pháp mở ra 1680 cũng cùng chung số phận. Sau năm 1700, chỉ có người Bồ Đào Nha là có thể đứng chân ở một điểm. Về phía mình, các quan lại thấy quyền lực bị vi phạm vì sự truyền bá đạo cơ đốc, bắt đầu giết các tu sĩ và con chiên Việt Nam lúc bấy giờ có khoảng 10% dân số. Trong khoảng 400 năm, ảnh hưởng của người ngoại quốc đối với Việt Nam rất hạn chế.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đối với Võ Nguyên Giáp ?onước Việt Nam là một trong những cái nôi của nhân loại. Các dân tộc Việt Nam có tiếng nói riêng, họ đã tổ chức được một nền kinh tế theo hệ thống chính trị xã hội, tạo lập được những phong tục đạo đức và văn hóa và phát triển như một ý thức hệ dân tộc?. Một điều chắc chắn là nhân dân Việt Nam đặc biệt đoàn kết thống nhất. Vì hai lý do cơ bản: phần lớn đất nước có đến hàng triệu gia đình đã tiến hóa qua các thế kỷ và đã biết di dân, ở Việt Nam chỉ có vài trăm dòng học kết hợp với những dân tộc khác nhau như họ Ngô và họ Nguyễn: con người luôn là thành viên của một đại gia đình thuộc cùng một dòng họ. Mặt khác những truyền thống đạo Nho đã đưa vào đây 2.500 năm, thái độ với quan chức và sự chia sẻ trách nhiệm cùng theo một mẫu mực giống nhau. Quyền hành thuộc về người đứng đầ bộ lạc, ông ta giao quyền cho các quan chức, các quan giao quyền cho hội đồng làng xã, và hội đồng truyền đạt đến gia đình. Đạo đức của mọi người là bắt buộc phải tuân theo quyền hành của người chủ gia đình.
    Đất nước có đến hàng triệu làng xã, một số làng gồm nhiều xóm. Hội đồng làng xã gồm những công dân quan trọng nhất như các địa chủ và quan lại nghỉ hưu, chỉ giải quyết những công việc xảy ra ở địa phương: xử lý tội phạm, thành lập sổ thuế và thu thuế, và các công việc lao động công ích. Hầu như làng nào cũng có quỹ hội tự cấp mà người dân đóng góp để thanh toán các chi phí tang ma. Cũng có những hội bách nghệ: thợ rèn, thợ mộc, thợ nề lập nên những quy tắc nghề nghiệp, cũng như hội phật tử của phụ nữ già cả tuổi quá 50 hoặc những phụ nữ quá chồng 40 tuổi.
    Mỗi làng còn có một tổ chức nghĩa hương giúp đỡ các gia đình cô đơn, nghèo túng ở châu thổ sông Hồng. Nông dân trồng trọt tạo thành một quỹ dự phòng. Số dôi ra được án đi, tiền lãi cứu tế người nghèo. Mùa màng thất bại, gạo được phân phát đồng đều cho người dân làng. Cũng có những hội chơi như chọi gà, đánh cá. Làng xã là một thực tế tồn tại về tổ chức xã hội và kinh tế.
    Gia đình là đơn vị quan trọng, đơn vị hành chính cơ bản. Chính gia đình chứ không phải cá nhân đóng thuế. Chính gia đình chứ không phải thành viên trong gia đình là đối tượng thống kê. Họ là một nhóm người cùng lao động tạo thành một đơn vị kinh tế ?o1 bếp, 1 đèn?. Là nơi thờ cúng tổ tiên. Là nơi phân xử mọi tranh chấp. Họ tôn trọng lệ làng (luật lệ quốc gia hiếm thấy được đi vào cuộc sống, một vài trường hợp luật lệ cũng phụ thuộc vào tình hiếu thảo trong gia đình: Khi cha mẹ già yêu cầu có mặt con ở nhà thì một người con bị giam giữ cũng có thể được trả tự do).
    Về phương diện lịch sử, người Việt Nam biết tôn trọng tín ngưỡng của người khác. Hệt hống xã hội của họ dựa trên cơ sở đạo đức chứ không phải tôn giáo. Họ ưa chuộng công bằng trong xử thế. Họ cố gắng phấn đấu cho hạnh phục trên trần thế mà không quan tâm mơ tưởng ở thiên đường cao xa. Họ đã không phải hoàn toàn là tín đồ của Phật giáp, Nho giá hoặc Đạo giáo. Họ thực hiện những nguyên tắc chung của cả 3 tôn giáo: lòng tin ở tính thiện của con người, tin ở sự giải thoát của chính mình nhờ tự biết mình và nhờ tìm kiếm sự hài hòa trong bản thân mình để đạt được ?o3 con đường đều dẫn đến một mục đích?. Không có mệnh lệnh của giáo hội, không có giáo sĩ, họ tôn thờ trí tuệ của tổ tiên theo những tục lệ do già làng điều khiển. Ở vùng nông thôn, người ta chôn người chết bên bờ ruộng để cho linh hồn của người chết hòa nhập vào cơ thể muôn đời con cháu mai sau qua hạt gạo củ khoai. Đối với chùa chiền miếu mạo, mỗi làng thường có một đình thờ thần thành hoàng, đồng thời là nơi trung tâm sinh hoạt của nhân dân.
    Cũng có phong tục còn bí ẩn. Người Việt Nam quan niệm rằng trong xã hội có những phần tử chống đối cần phải tránh xa còn hơn là kiểm soát chúng. Khi một tổ chức không còn lý do để tồn tại công khai thì phải rút vào bí mật: hoạt động bí mật không những cần thiết cho tổ chức mà cả đối với hội viện, ít ai biết được ban lãnh đạo hội.
    Người Việt Nam thường dùng nhiều tên gọi trong cả đời mình (khai sinh có 3 tên: tên thứ nhất là họ ví dụ Nguyễn, tên thứ hai chỉ giới của con người: văn có nghĩa là đàn ông. Ba là một phụ nữ đã có chồng. Cô là phụ nữa chưa chồng. Tên thứ hai là tên chính thức của mỗi cá nhân: Yên, Đồng, Giáp, Thục một phụ nữ có thể đổi tên khi cưới chồng, có người vẫn dùng tên cũ. Vì sự dễ dãi về tên họ như vậy, cho nên có những người dấu tên và do đó có khi còn lẫn lộn về họ tên. Hồ Chí Minh có không ít hơn 23 bí danh là trường hợp đặc biệt. Vì vậy hàng chục năm trong cuộc đời của Người vẫn còn bí ẩn.
    Bí ẩn và bí mật càng được kính trọng hơn. Quyền lực khó đạt được nhưng dễ mất đi, tốt hơn hết là tránh xa những truyện bí mật. Càng ít tìm tòi càng có nhiều dịp thành công. Những người khác không cần phải biết rõ vị trí của mình. Không có câu truyện nào thực sự chuẩn xác (ở Việt Nam không ai ngăn cấm việc thay đổi lập trường, miễn là phải có 1 thời hạn nhất định). Một con người nhiều mưu mẹo, giả dối, thích những hoạt động bí mật có khi lại được kính nể.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Năm 1788 quân Trung Quốc định sang xâm lược nhân cơ hội một cuộc khủng hoảng nội bộ mới. Nhưng họ bị quân Tây Sơn đánh bại ở miền Bắc đất nước, miền mà người Việt Nam gọi là Pắc Bó. Trong khi quân Tây Sơn đang phải chống chọi với quân Trung Quốc ở miền Bắc để bảo vệ nền độc lập của Việt Nam, thì ở miền Nam quân của chúa Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp đã kiểm soát được Sài Gòn và châu thổ sông Mêkông Nam bộ. Nhiều thủy thủ Pháp và nhân viên quản lý hành chính người Pháp đã được một cố đạo cố vấn hàng đầu của Nguyễn Ánh tuyển mộ. Nguyễn Ánh lên làm vua ở Huế năm 1802 gọi là vua Gia Long và thống nhất Bắc Trung Năm dưới cái tên cũ Việt Nam. Các vua đời sau trị vì đến năm 1954 đời vua cuối cùng là vua Bảo Đại.
    Đầu thế kỷ 19, người Pháp đang mải lo cuộc chiến tranh của Napoléon ở châu Âu. Trước năm 1985 họ vẫn chưa tìm được một thị trường cho nền kỹ nghệ phát triển của họ. Đến mùa hè năm đó, 2.500 quân Pháp dùng mười bốn tàu thủy nhỏ cập cảng Đà Nẵng, ở miền Trung Việt Nam. Tất nhiên một sự chống đối kịch liệt ngăn cản họ tiến sâu vào hơn nữa.
    Muốn cưỡng bức nhà vua chấp nhận một cơ sở mới của người Pháp ở Đà Nẵng; phải chiếm được thành phố Huế, nhưng họ không dùng đường biển được. Không có tàu đáy phẳng để ngược dòng sông Hương, người Pháp đành dùng biện pháp phong tỏa. Các cơn bão nhiệt đới nhanh chóng tàn sát hàng loạt quân lính Pháp, người nhiễm bệnh vượt qua số người bị thương trong chiến đấu: đã đến lúc phải có phương án giải quyết. Tháng 2 năm 1860 họ để lại một đồn canh nhỏ rồi lên tàu tiến về phía Nam chiếm Sài Gòn. Chưa đứng chân được một năm họ lại buộc phải ra đi. Năm sau họ mới trở lại thành phố. Tháng 6 năm 1861 quân viện từ Trung Quốc giúp họ kiểm soát được 3 tỉnh lân cận.
    Chủ nghĩa bảo thủ truyền thống của vua quan cản trở việc đất nước sử dụng vũ khí hiện đại để chống lại quân xâm lược nước ngoài. Tháng 6 năm 1862 thua trận, nhà vua phải bỏ Sài Gòn và 3 tỉnh. Một năm sau, người Pháp đặt chế độ bảo hộ ở Campuchia, và thành lập cái gọi là liên bang Đông Dương, do một đoàn thuyền đóng ở Sài Gòn điều khiển.
    Bốn năm sau, tất cả miền Nam Việt Nam gọi là Nam kỳ thuộc về tay người Pháp, họ thiết lập chế độ thuộc địa ở đó.
    Tháng 4 năm 1882, Sài Gòn đưa một lực lượng quân sự ra Hà Nội. Mười sáu tháng sau, một hiệp ước ký kết quy định quyền lực của người Pháp trên toàn bộ Việt Nam, Bắc kỳ ở miền Bắc, Trung kỳ ở miền Trung đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Trên giấy tờ, Việt Nam đã bị chiếm nhưng phải mười bốn năm sau người Pháp mới có thể kiểm soát toàn bộ đất nước.
    Năm 1893 họ chiếm nước Lào và bổ sung vào Liên bang Đông Dương (họ chiếm Campuchia và Lào với danh nghĩa ngày xưa hai nước này chịu sự kiểm soát của Việt Nam-chỉ thời kỳ trung cổ xa xưa nước Lào mới bị vua Xiêm cai trị).
    Như vậy, người Pháp đã có một vương quốc ở phương Đông.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thế kỷ thứ XX
    Chúng tôi đánh thắng, không phải da chúng tôi bằng thép, xương chúng tôi bằng đồng mà chính vì chúng tôi là những con người công bằng, trung trực, kiên nhẫn, mạnh mẽ, không chịu khuất phục và đầy lòng tự ái.
    Lê Duẩn
    Quá trình xâm lược của bọn thực dân đã diễn ra không có gì khó khăn, vì dân cuhngs không đông lắm, 80% sống trong những làng mạc hẻo lánh, mà hầu như dân chưa bao giờ ra khỏi làng. Việc giao thông đi lại rất khó khăn, đường sá không được rải nhựa (thường không thể đi lại trong thời gian có gió mùa); hơn nữa ra ngoài đường để làm gì khi làng đã cung cấp đủ mọi thứ cần thiết trong cuộc sống? Quyền lực trung ương thì ở xa, còn lòng tồn tại ngay trong bản thân mình: sau khi đánh chiếm ba thành phố lớn bọn thực dân buộc dân chúng hàng tháng trời không được thay đổi gì, dù họ có muốn. Và khi dân chúng đã nhận biết, họ có thể làm gì được? Cuộc sống cứ trôi đi theo thể thức truyền thống. Những cuộc nổi dậy chậm chạp và khó nhận thấy.
    Song đã có nhiều thay đổi: ví dụ như hạt muối mọi người cần dùng phải đóng thuế, ai phản đối bị bắt giam. Kết quả là thiếu thốn và giá cả tăng gấp 10 lần thời kỳ tiền thuộc địa. Nông dân được khuyến khích trồng cây nha phiến để chế biến thuốc phiện. Quốc gia độc quyền bán cho người tiêu dùng Việt Nam và nước ngoài.
    Sau một thế hệ, bọn thực dân Pháp ở Nam kỳ đã làm cho miền Nam giàu có thịnh vương so với nền kinh tế nghèo nàn của trung ương. Nhưng đến năm 1897, một quan toàn quyền mới làm thay đổi căn bản mọi thứ. Muốn biến Việt Nam thành một thị trường có kiểm soát để giao lưu hàng hóa Pháp và một nguồn cung cấp quý về gạo, than và cao su, Paul Doumer đã phớt lờ quy chế bảo hộ đối với Bắc kỳ và Trung kỳ, thiết lập quyền lực trực tiếp của người Pháp trên toàn bộ đất nước Việt Nam, áp đặt nền chính trị lao động công ích: đường sắt, cảng, đường bộ, kênh đào, cầu cống? và cải thiện một bước hạ tầng cơ sở của đất nước. Ông tuyển dụng hàng nghìn người Pháp để thực hiện quyền cai trị, trả công cho số công chức ít ỏi của Việt Nam số tiền phụ cấp quá thấp so với người Pháp cùng làm một công việc.
    Trong chín trăm năm độc lập trước khi Pháp đô hộ, nền kinh tế Việt Nam hầu như dựa hẳn vào nông nghiệp. Cũng có những người thợ, người đánh cá và thợ mỏ nhưng phần lớn nhân dân làm nghề nông cày lúa để nuôi sống gia đình. Việc trao đổi buôn bán trong nước cũng như ngoài nước là không đáng kể. Rõ ràng những ngành nghề là không cần thiết vì phần lớn làng mạc và cả đất nước có thể sinh sống tự cấp tự túc trừ những lúc xảy ra đói kém. Giai cấp địa chủ không phát triển để có thể cạnh tranh quyền lực với vua quan. Khi người Pháp đưa vào cách khai thác các nguồn lợi của Việt Nam, có thể làm xuất hiện một giai cấp nào đó, thì các vua quan hiểu rằng những cải cách kinh tế có thể đe dọa quyền lực của họ và họ quyết bám lấy trật tự cũ.
    Về phần mình, người Pháp không muốn làm đảo lộn xã hội vốn có, dù có phương án có thể được chấp nhận, do đó nền kinh tế ở nông thôn cứ giữ nguyên như vậy hàng thế kỷ mà không có thay đổi gì. Các nhà buôn muốn giữ giá nhân công bản xứ ngang mức nền kinh tế nông thôn nhưng bán sản phẩm ngang mức kinh tế thành thị. Họ rất ít chịu kỹ nghệ hóa đất nước trong khi hàng trăm người Việt Nam được đưa sang mẫu quốc để xuống dưới hầm lò. (Và có đến hàng chục nghìn người trong đó đã đến làm việc ở nước Pháp trong chiến tranh thế giới).

Chia sẻ trang này