1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tướng Giáp qua hai cuộc chiến tranh Đông Dương-Sách tham khảo

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ khi người Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, cuộc sống của phần lớn người Việt Nam càng khó khăn hơn. Trong nửa thế kỷ từ năm 1880 đến năm 1930, diện tích ruộng đất tăng gấp bội lần. Vụ lúa thu hoạch hàng năm vượt qua 284 triệu tấn đến gần một triệu tấn rưỡi, nhưng người nông dân được ăn ít gạo hơn chưa kể đến thức ăn chẳng có gì. Các công trình thủy lợi lớn chủ yếu ở châu thổ sông Mêkông nơi yêu cầu diệntích đất đai rộng lớn. Ruộng đất không được phân phối cho những địa chủ nhỏ hoặc bần cố nông. Cuối cùng ruộng đất lại vào tay những kẻ đầu cơ người Pháp, họ bán lại với giá cắt cổ cho những người Pháp hoặc người Việt Nam lắm tiền. Hậu quả là nông dân không có ruộng phải cày cấy thuê cho địa chủ Việt Nam.
    Những cố nông này phải trả cho địa chủ sáu mười phần trăm thu hoạch mùa màng. Họ không có khả năng nuôi gia đình, phải chịu lao động cật lực hơn để có được ít cơm vào bát và tăng thêm phần lợi cho chủ.
    Số nông dân có ít ruộng cũng không khá hơn, họ phải trả cho địa chủ bốn mươi phần trăm thu hoạch mùa màng và sau khi trả nợ cho bọn thương lái Trung Quốc và bọn Pháp bóc lột, họ chỉ còn lại mười lăm phần trăm tiền đi chợ. Họ phải đi vay nợ thường xuyên và khi họ không trả được nợ thì ruộng đất của họ lại bị chiếm mất. Do đó số địa chủ nhỏ càng ngày càng thu hẹp lại. Đến cuối kỷ nguyên thuộc địa, số đại địa chủ ở Nam kỳ khoảng 2,5% dân số, chiếm giữ hơn 45% ruộng đất.
    Khi người ra nghĩ rằng chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích duy nhất cho người Pháp, thì hận thù của lịch sử lại tập trung vào những chủ kinh doanh tư nhân người Pháp và một số ít địa chủ Việt Nam được lợi nhiều từ chế độ thuộc địa: Không phải nhà nước Pháp, cũng không phải nhân dân Pháp được chia phần vào cai bánh ngọt ấy.
    Trong khi phần lớn nhập khẩu của Đông Dương (nghĩa là Việt Nam, Campuchia và Lào) từ năm 1920 đến năm 1939 đều từ Pháp sang, thì chế độ thuộc địa không bao giờ chịu tổ chức một thị trường quan trọng cho công nghiệp Pháp, lý do đơn giản vì đông đảo nông dân quá nghèo không thể tiêu thụ sản phẩm của họ. Chế độ thuộc địa chỉ đem lại lợi ích cho một số ít người, đại diện cho không đến một nửa phần trăm dân số: chỉ có 6 hoặc 7 nghìn người Việt Nam có đất ruộng quan trọng, vài nghìn viên chức Việt Nam và tất nhoên bọn thực dân làm đủ cách để nhận lấy những gì đến từ nước Pháp.
    Bắc kỳ chấp nhận qui chế bảo hộ từ thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Một vị công sứ cao cấp ở Hà Nội thực hiện quyền hành dưới danh nghĩa phó vua Việt Nam. Trung kỳ dưới chế độ bảo hộ gián tiếp: ở Huế có ngai vàng của nhà vua là kinh đô, nhưng mọi quyền hành được phân định bởi người Pháp. Nam kỳ thuộc sở hữu của người Pháp, có một quan cai trị thuộc địa.
    Ở Nam kỳ người dân phụ thuộc vào các cấp chính quyền của người Pháp nhiều hơn hệ thống quan lại nên càng chịu ảnh hưởng nước Pháp nhiều hơn. Qua nhiều năm, Nam kỳ trở nên giàu có hơn miền Bắc: ở Trung kỳ và Bắc kỳ, những địa chủ chiếm ít hơn một nửa hecta đại diện cho 68,5% dân số, còn ở miền Nam, chỉ có 33,6% dân số chiếm ít hơn một nửa hecta; năm 1930 trên toàn Đông Dương, có 6.530 địa chủ chiếm hơn 600 hécta thì tất cả đều ở miền Nam; có 8.600 dân giàu có (những người có thu nhập hơn 5.500 đôla mỗi năm) thì 8.200 ở miền Nam. Nước Pháp theo đuổi một chính sách giáo dục để đồng hóa người Việt Nam hòng gắn chặt với nước Pháp, nhưng trong số 50% dân số miền Nam thì hơn một nửa có quốc tịch Pháp.
    Dù sao cái hàng rào ngăn cách miền Bắc và miền Nam là thiên tạo, nhưng truyền thống và phong tục miền Bắc cũng rất giống với phong tục tập quán miền Nam. Có lúc nào đó, người dân miền Nam tỏ ra nông nổi ấu trĩ đối với những người láng giềng phía cho rằng họ hung hăng, khiêu khích, hằn thù, xảo quyệt và thích chính trị nhưng trước hết và trên hết vẫn còn đó những người Việt Nam kiên nhẫn chia sẻ chung với miền Bắc một cái di sản và một quá khứ, cùng dùng chung một ngôn ngữ và cùng một hận thù chống bọn can thiệp và đô hộ nước ngoài. Vì bỏ qua cái thực tế quan trọng đó nên đã dẫn đến cái chết và niềm thất vọng của hàng triệu con người.
    Nước Pháp cũng như mọi thế lực thực dân khác đều kèm theo chế độ thuộc địa những khái niệm mới về tôn giáo, văn hóa và hành chính cho nd bị đô hộ. Đối với người Việt Nam tín ngưỡng là một sự xúc phạm, văn hóa khác là một thứ không cần thiết, họ vốn có tất cả từ xa xưa trước cả chính nước Pháp. Trái lại một số hiểu biết cần thiết không được nước Pháp coi trọng như tiếp xúc với y học, pháp luật, kinh tế, ngoại giao và kỹ thuật công nghiệp.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nước Pháp đã xây dựng một nhà thờ lớn neogothique ở Hà Nội và một nhà hát lớn-một đáp lại-một đáp lại nhỏ nhoi của lâu đài Garnier-có thể biểu diễn vở Berling và Biget. Họ xây dựng một nhà hát ở sg để biểu diễn các vở của Racine và Moilere. Họ khai thông những đường phố lớn để cải tạo hai thành phố lớn này như phố phường ở Paris. Họ mang đến rượu và điện, những trò trụy lạc và tiêm chủng, những thư viện, những bếp lớn, bẫy chuột, xe hơi và báo chí, cũng như những dụng cụ của hàng nghìn, hàng nghìn người Việt Nam làm thợ nề, thợ mộc, đầu bếp, làm vườn, người giúp việc, vú em, rửa bát để cung cấp cho những người trông nom biệt thự của họ xây dựng nên.
    Khốn nỗi, nước Pháp lại mang theo họ cái tầm nhìn cấp trên, tính ngạo mạn đối với người bản xứ. Họ tin rằng đã làm đúng khi đưa đến đây một lối sống châu Âu và coi như đó là một phần thưởng không cần tổng kết. Nếu họ thấy được những chuyện họ đã làm gây nên nợ nần chồng chất trong chính cuộc sống của họ mà không phải trong người dân thuộc địa, thì chắc hẳn họ có thể tránh được những hậu quả tiếp theo sau này.
    Thời đại và chân giá trị đã thay đổi. Ngày nay thật dễ dàng lên án bọn thực dân, nhưng cũng cần hiểu rằng họ đã thể hiện một đầu óc lớn lao về kinh doanh. Khi bỏ nước Pháp ra đi với hai bàn tay trắng đến một đất nước xa xôi. Nhiều người đã lao động cật lực. Họ phải cố gắng thích ứng với một khí hậu khắc nghiệt làm hao tổn sức khỏe của họ. Họ có nguy cơ nhiễm các bệnh nhiệt đới vô cùng đa dạng. Họ đã chấp nhận xa gia đình trong nhiều năm và trải qua hai năm trên biển cả để đến được Việt Nam.
    Mặc dù vậy, họ đã làm được nhiều việc. Ví dụ người ta chưa thấy hết lợi ích của việc đào tạo chuyên gia: nước Việt Nam thuộc địa chỉ có hai bác sĩ cho một trăm nghìn dân, so với Philippin là 25, Nhật Bản là 16. Hơn nữa, mẫu quốc đã tỏ ra dè xẻn trong việc chi tiêu ngân sách để cai trị thuộc địa, do vậy, tiến bộ thật sự chậm chạp và hầu như không nhìn thấy.
    Nhân dân Việt Nam nhận biết nhiều tất xấu của chế độ thuộc địa Pháp đối với bản xứ, vì họ đâu phải ngớ ngẩn mặc dù nghèo và thất học. Sự chống đối ắt là không tránh khỏi.
    Năm 1908 sau khi các nhà hoạt động yêu nước bị bắt giam hàng loạt, hội Phục quốc Việt Nam ra đời. Đó là một tổ chức vô chính phủ, quá tập trung chẳng có tác động lâu dài. Năm 1927, một đảng dân tộc của Việt Nam, Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập ở Bắc kỳ do một thầy giáo 23 tuổi Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Đảng tổ chức một cuộc bạo động vũ trang trong các đồn lính Pháp hy vọng đuổi được bọn Pháp đi, nhưng đến ngày thực hiện lời kêu gọi, binh lính Việt Nam giết sỹ quan Pháp rồi lại bị họ giết hết ngày hôm sau. Trong vụ khủng bố tiếp theo hàng trăm người bị giết, hàng nghìn người khác bị bắt giam, còn Nguyễn Thái Học và mười hai nhà lãnh đạo khác bị bắt và xử tù. Việt Nam Quốc dân đảng thực tế đã bị phá vỡ ở Việt Nam, nhưng còn tiếp tục tồn tại 15 năm ở Trung Quốc hoạt động lưu vong dưới sự yểm trợ của những nhà cách mạng dân tộc ở Quảng Đông Trung Quốc.
    Năm 1929 có 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Một do Trần Văn Cung sáng lập gọi là An Nam cộng sản liên đoàn. Một đảng khác được thành lập năm 1925 gọi là Thanh niên cách mệnh đồng chí hội. Đảng này tập họp ngay được một nhóm ở Trung kỳ. Tháng 5-1930, để chống lại nạn đói đang hoành hành ở miền Trung, những người cộng sản tổ chức một cuộc nổi dậy của nông thông trên diện rộng, ?oXô viết? được thành lập trong nhiều tỉnh ở Trung kỳ, các địa chủ và quan chức Việt Nam làm việc cho Pháp đều bị giết. Pháp nắm lại quyền kiểm soát Trung kỳ mùa xuân năm 1931. Trong hai năm 1930 và 1931, 699 người Việt Nam bị bắt không xử án, 83 người bị xử tử, 546 bị giam tại chỗ và khoảng 3.000 người bị bắt đến các trại tập trung.
    Quan toàn quyền công bố với nhân dân Pháp với giọng lạc quan: ?oChủ nghĩa cộng sản có đủ lực lượng chống lại trật tự công cộng đã biến khỏi Việt Nam?. Đến cuối năm, đảng phải lúc thoái trào, trong đảng có khuynh hướng lầm lẫn địch ta: hoạt động có lúc nhằm vào dân, có lúc nhằm vào bọn thực dân. Mặc dù phong trào yêu nước đang trong tình trạng khó khăn, những người cộng sản vẫn giữ thế tấn công, vì họ càng đoàn kết và được tổ chức tốt hơn để chuẩn bị tiếp tục đấu tranh.
    Ở Hồng Kông năm 1930, do mật thám Pháp đưa tin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) bị người Anh bắt giam hai năm, nhưng đã quá muộn. Tháng Giêng, ông đã tổ chức được một hội nghị thống nhất ba nhóm cộng sản và thành lập một đảng mới Đảng Cộng sản Đông Dương (?) ở Côn Minh đồng thời có chân ở Thái Lan và Malaysia. Ông xuất bản một tờ báo mới của Đảng tờ Tiến lên. Tờ báo trở thành tiếng gọi đoàn kết binh lính ở Việt Nam. Đảng cộng sản Đông Dương được tổ chức ở trong nước và ngoài nước. Đảng chia đất nước thành 3 miền Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, rồi đến các khu, tỉnh và huyện. Đảng tập hợp những người có cùng lợi ích chung: nông dân, công nhân, sinh viên, phụ nữ, người già; ở nước ngoài có đại diện ở Côn Minh và ở phía Đông đến Thượng Hải. Sự trong sạch của chủ nghĩa, sự gắn bó với tổ chức, kỷ luật sắt và lời thề danh dự không phản bội, tạo thành một mẫu mực của Đảng để thử thách với thời gian mà không có thay đổi lớn.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuối năm 1931 có khoảng một nghìn năm trăm đảng viên **********************, đồng thời cũng có đến hàng chục nghìn người cảm tình đảng. Người Pháp rất dè chừng những người yêu nước Việt Nam, vì người Việt Nam rất căm thù bọn thực dân Pháp, trong khi những người cộng sản được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và hứa hẹn với nhân dân sẽ có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục bất công. Năm 1932 hòng thoa dịu phong trào, người Pháp cho ra đời một đảng chính trị đầu tiên tổ chức ở Sài Gòn, đảng mới xây dựng đã chịu ảnh hưởng của một tổ chức tôn giáo nhỏ-giáo phái Cao Đài-giáo phái này từ chối hoạt động chính trị và đảng cũng biến mất. Trong những năm trước chiến tranh thế giới II, Đảng cộng sản Đông Dương là tổ chức cách mạng duy nhất ở Việt Nam, mà đảng viên có kỷ luật và lý tưởng nghiêm chỉnh. Họ đại diện cho lực lượng mạnh nhất của phong trào đấu tranh đòi độc lập.
    Năm 1936, sau khi Chính phủ Mặt trận bình dân ở Pháp chấp nhận một số quyền dân chủ cho nhân dân thuộc địa, bộ máy của Đảng cộng sản hoàn toàn được xây dựng lại, tuyên truyền rộng rãi ảnh hưởng trong tầng lớp trí thức, giai cấp cônn nhân, nông dân và tổ chức ra mặt trận. Ở Bắc kỳ, đảng hoạt động dưới danh nghĩa Mặt trận dân chủ Đông Dương do hai nhân vật chưa ai biết lúc bấy giờ: Phạm Văn Đồng-Thủ tướng tương lai và Võ Nguyên Giáp-Đại tướng tương lai, lãnh đạo.
    Du nhập vào Việt Nam chiến tranh và tính chất dân tộc, nhân dân Việt Nam là một dân tộc có tác phong công nghiệp, thông minh và dũng cảm, nhưng thể hình bé nhỏ: đàn ông cao trung bình 1,55 mét và cân nặng 54 đến 58 kilô; đàn bà nhỏ nhắn hơn, ít người cao quá 1,45 mét và cân nặng không quá 45 kilô.
    Nhân dân gần 90% dân tộc người Việt cũng như người miền Nam Trung Quốc, đó là người Mông Cổ. Còn lại 10% là những dân tộc bị người Việt đẩy ra khỏi vùng châu thổ và bắt buộc sống trên vùng rừng núi. Các dân tộc này còn bé nhỏ hơn người Việt-người Pháp gọi là dân miền núi-Những năm ba mươi, có khoảng một triệu người gồm khoảng 33 họ tộc như Giơrai, Ê đê, Nùng, Mèo, Thái (người Thái có Thái trắng, Thái đen ngày xưa phân biệt bằng màu sắc váy của phụ nữ Thái).
    Miền Nam có 12 đến 13 triệu dân, trong số đó một triệu là người Trung Quốc, 350.000 người Campuchia và từ 500.000 đến 750.000 người miền núi. Miền Bắc cũng phân bố dân số tương tự như miền Nam, với tỷ lệ người Trung Quốc và người miền núi tương đương.
    Những bộ tộc người miền núi sống hoang sơ. Người Việt Nam cho rằng họ thuộc thời kỳ đồ đá. Ở phía Bắc họ nói tiếng gốc Trung Quốc, trong khi ở phía đông nam họ nói tiếng gốc Mon-Khmer, với một số từ vay mượn của Trung Quốc. Các tộc họ này gắn với linh hồn đồ vật họ thờ cúng.
    Lúc ban đầu, tiếng Việt rất lạ tai đối với người phương Tây, một loại ngôn ngữ nghe như tiếng chim ríu rít, âm họng, mũi, khàn, viết cùng một dạng chữ với người Trung Quốc có đến hàng nghĩ từ. Năm 1627, một vị giáo mục, cha Alexansde Rhodes đã đến Việt Nam trong một phái đoàn tôn giáo ở Nam kỳ hay đúng hơn ở Faifo một chi nhánh của Bồ Đào Nha. Ông học tiếng Việt vài tháng và sau hơn 1 hoặc 2 năm, ông đã chuyển chữ nôm thành chữ quốc ngữ thành công bằng cách dùng chữ latinh. Ngày nay người phương Tây có thể đọc tiếng Việt được nhưng phát âm khá phức tạp. Hơn nữa một số từ có đến bảy nghĩa tùy theo lúc sử dụng vào lúc cần nhấn mạnh.
    Về tổng thể Việt Nam có một số vấn đề đặc hữu cần dùng nhiều dự án lớn: 90% lao động phải làm việc để nuôi sống còn lại của dân số. Về địa lý hai phần ba đất nước là rừng núi, chỉ còn 5% đất đai trồng trọt được, gần như ít ruộng đất cày cấy được nhất trong các nước trên thế giới. Còn 75% dân số ở châu thổ sông Hồng; dưới thời thuộc Pháp, châu thổ cũng là nơi có nhiều địa chủ nhất châu Á: 98% nông dân cày cấy ruộng của họ, nhưng 60% tá điền không có đến nửa hécta. Trong nửa thứ hai của thế kỷ XX hàng nghìn người bị đàn áp và giết vì đấu tranh chống bất công này.
    Trong những năm 30, tôn giáo có vai trò quan trọng trong cuộc sống của nhân dân Việt Nam. Tuy vậy, thiên chúa giáo là một sản phẩm nhập cảng, nhân dân không tin tưởng (đến 1850 các con chiều đều bị khắc chữ ?otà đạo? vào má trái bằng sắt nung đỏ). Gần 10% dân số theo đạo thiên chúa phần lớn là dân miền Bắc. Trong những năm50, khi Ngô Đình Diệm chiếm quyền tổng thống miền Nam, mới làm đảo lộn vị trí đạo thiên chúa ở miền Nam. Đạo Phật tự thân có mâu thuẫn: một mặt đối với chính trị không có gì quan trọng, nhưng mặt khác đối với thân phận con người lại rất quan trọng, đó là quan hệ chính trị. Trong những năm tiếp theo, chính sách của tổng thống nên Phật giáo mới xâm nhập vào đời sống chính trị ở miền Nam.
    Đó là nơi chàng trai Võ Nguyên Giáp trưởng thành. Nhìn chung, mỗi người đều lo công việc của mình theo phong tục truyền thống-vâng lời, trật tự, tự lập, gia đình, tươi cười và lễ phép. Nhưng trong dân chúng tiềm ẩn một lòng căm thù sâu sắc, yêu cầu dùng cách mạng bạo lực để đấu tranh đòi hỏi một nền độc lập mà nhân dân được hưởng đầy đủ các quyền lợi hợp pháp.
    Đối với người Việt Nam, lịch sử không phải là cơn ác mộng làm cho họ phải thức giấc; mà đó là món quà dâng lên tổ tiên, đó là sự hiện diện của tổ tiên. Tổ tiên đã đấu tranh cho độc lập, con cháu sau này cũng phải tiếp tục chiến đấu như vậy để khỏi phục lòng tin của tổ tiên.
    Niềm tin ấy cộng với lòng yêu nước, sự tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản đã hình thành một quyết tâm lạ kỳ, một trí tuệ chiến thắng trong một tổ hợp không thể dập tắt được.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Người Pháp quay trở lại
    Nếu nổi dậy là một nghệ thuật, thì nghệ thuật ấy có mục đích tạo cho cuộc đấu tranh một hình thức phù hợp với địa vị chính trị.
    Võ Nguyên Giáp
    Lịch sử Việt Nam chỉ là một dãy dài những cuộc náo động. Quân đội tiến và lùi. Những đợt sóng binh sĩ vấy máu nối tiếp nhau vỗ vào lũy tre làng, đập vào hòn đá tảng của giai cấp nông dân, hôm nay, ngày mai và ngày kia nữa, để lại phía sau những xác người và động vật, những bát cơm vơi đi; binh sĩ ngã xuống như một giấc mơ và chỉ xuất hiện lại ở thế hệ mai sau: một cơn ác mộng tái diễn và mờ mờ ảo ảo bất ngờ xuất hiện trong một đêm sâu. Theo dòng tuổi tác, người Việt Nam đã biết giáo, gươmg, mút kê, súng trường, súng máy và lựu đạn; trong vòng 30 năm lại đây họ có thể bị giết hoặc bị thương vì mìn nhảy, lựu đạn có cánh, bom sát thương, napalm, tên lửa và tên lửa điều khiển bằng lade, và họ cũng có thể bị tiêu diệt vì loại mìn mặt đất có thể di chuyển cả những quả núi và đẩy đi ở độ cao mười nghìn mét trong bầu trời xanh, sáng sủa và im lặng.
    Ba trăm năm trước, nước Việt Nam bị chia thành hai hoặc ba phần: chia thành hai khoảng năm 1600 và thành ba trong thời kỳ các triều Vua Tây Sơn (1788-1802), được thống nhất đầu thế kỷ XIX để rồi lại bị người Pháp xâm chiếm Nam kỳ trước tiên và những năm sau họ áp đặt cho các tỉnh giàu có này một chế độ đô hộ khác với Trung kỳ và Bắc kỳ. Khi đề cập đến tương lai của Đông Dương cũng như của Việt Nam, Đồng minh quyết định cắt từ vĩ tuyến 16 trở lên, trong kế hoạch chờ đơi những quyết định tiếp theo. Những người họp hội nghị Potsdam tháng 7 năm 1945 hy vọng các vùng bị bảo hộ sẽ nhanh chóng giành được độc lập, còn miền Nam trước mắt vẫn giữ nguyên chế độ thuộc địa và sẽ giành độc lập sau.
    Những quyết định của hội nghị Potsdam bắt nguồn từ ác cảm sâu sắc của Tổng thống Roosevelt đối với chế độ thuộc địa. Niềm tin này không phải căn cứ vào thực tế sinh động của thế giới trong những năm 40 mà vì một nguyên tắc cơ bản của chính sách ngoại giao xuất phát từ cuộc nổi dậy chống quân Anh trước đây một trăm năm mươi năm. Không hiểu hết sự bất bình đối với quyết định của ông, Roosevelt đã biếu Việt Nam cho Tưởng Giới Thạch người lãnh đạo phong trào dân tộc Trung Quốc. Quà tặng bị từ chối một cách nhã nhặn: Tưởng nói rằng: ?oNgười Việt Nam không phải là người Trung Quốc; họ luôn luôn khác hẳn chúng tôi; họ luôn nuôi chí căm thù lịch sử; họ không bao giờ hòa nhập vào Trung Quốc và sẽ khó khăn cho việc cai trị họ?.
    Về phía mình, sau khi quân Đức rút đi, tướng De Gaulle đã thành lập được một Chính phủ lâm thời ở Paris. Miễn cương ông chấp nhận ý tưởng chia cắt Đông Dương, nhưng không nghi ngờ gì về tương lai của Đông Dương: người Pháp sẽ quay lại ngay sau khi người Nhật rút đi.
    Trong thời gian Đức xâm chiếm châu Âu, những thuộc địa của Pháp là mồi ngon cho quân Nhật. Sau những trận đánh dồn dập ở Thái Bình Dương, quân đồn trú Nhật Bản được nhiều năm sung sướng, nhàn nhã. Nhưng chiến tranh ở châu Âu kết thúc, các quân đồn trú này phải chịu đựng toàn bộ sức nặng của một cuộc tấn công tổng lực của quân đội Đồng minh (quân Pháp không được tiết lộ về vũ khí nguyên tử cầu viện). Một khi người Nhật bị bại trận, các đội quân Nhật rút đi, nước Pháp tuyên bố quyền sở hữu đối với các thuộc địa trước chiến tranh. Biết rằng quân Trung Quốc không dễ dàng chấp nhận sự có mặt của quân Pháp ở Đông Dương như người Mỹ, De Gaulle đành chịu để cho quân Tưởng vào Bắc kỳ, Trung kỳ và quân Anh vào Nam kỳ để giám sát quân Nhật rút lui.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Vào lúc này, ngày 28 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp cùng binh sĩ của ông vượt cầu Doumer (Long Biên) cái cầu nhô lên trên mặt nước đỏ nâu của sông Hồng Hà và tiến vào Hà Nội. Ba mươi nghìn lính Nhật đang đóng quân trong thành phố và vùng ven đô không cản trở. Họ biết rằng cuộc trở về của đoàn quân sẽ có thể làm tăng thêm tình trạng hỗn độn của thành phố, vì đoàn quân sẽ kích động và hướng dẫn toàn thể nhân dân nổi dậy chống lại các lực lượng nước ngoài: bọn chiếm đóng Nhật Bản cũng như các quan chức mất tinh thần cuối cùng của chính quyền Pháp. Trước hết, vì nhân dân muốn được làm chủ đất nước.
    Hàng nghìn người xuất hiện trên các đường phố lân cận và phá tan hàng rào của Bắc Bộ phủ, chỗ ở cũ của công sứ Bắc kỳ. Giáp kể: ?oCuộc nổi dậy được nhanh chóng mở rộng và trong khoảng mười ngày chính quyền của thuộc địa và phong kiến không còn nữa. Các đội quân trở thành những đơn vị của giải phóng quân, của các lực lượng tự vệ và vô số đội du kích. Cách mạng đến như một luồng gió xoáy. Nỗi nhục nhã và nỗi đau của cuộc đời nô lệ hầu như bị quét sạch hoàn toàn trong ba ngày, chính quyền cách mạng thật kỳ lạ: nó làm cho nhân dân sống lại. Đêm qua, thành phối còn bị tê liệt vì đói, vì dịch bệnh và sợ hãi. Giờ đây, mỗi đường phố, mỗi ngõ chật ních người. Hàng nghìn, hàng nghìn người biểu tình trên các đường phố cách mạng được thành lập. Chính quyền nhân dân cách mạng được thành lập. Trộm cắp biến mất, không tìm thấy người ăn xin. Rất nhiều lá cờ đỏ sao vàng tô thắm màu hồng sáng chói nhà cửa và đường phố. Cách mạng thật sự là ngày hội của những người bị áp bức. Đó là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin trong một nước thuộc địa và nửa phong kiến? (Những chặn đường lịch sử, trang 233. Nhà xuất bản chính trị quốc gia).
    Sự náo động say sưa ấy không chỉ vì việc giải phóng khỏi ách bóc lột dai dẳng của chính quyền Pháp và sự chiếm đóng ngu xuẩn của quân Nhật mà còn bắt nguồn tự sự hoảng sợ. Vì miền Bắc, đang khổ sở vì nạn đói khủng khiếp. Quân Nhật quyết định tống giam các viên chức người Pháp chịu trách về công tác thủy lợi, đặc biệt dọc theo bờ sông phía Nam Hà Nội, để việc trông coi mực nước vào tay những công dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm. Những trận mưa lớn đến, họ mở cống rộng quá, hàng núi nước vượt qua đê không được củng cố giữ gìn chu đáo, phá hoại hết ruộng đất, hủy hoại hết mùa màng của tám tỉnh trong mười bốn tỉnh ở miền Bắc bị ngập lụt.
    Nạn đói đã cướp đi mạng sống của năm, sáu trăm nghìn người. Giá gạo tăng quá mức, đặc biệt ở Hà Nội và nhân dân không bao giờ được ăn no, nằm chết đói trên đường. Giáp viết: ?oNước lên cao trên tất cả các sông ngòi. Các con đê do chính quyền thuộc địa bỏ mặc đã bị dòng nước phá hủy, sáu tỉnh của vùng châu thổ, vựa lúa của miền Bắc Việt Nam bị ngập lụt? (Sđd, trang 222).
    Tình trạng hôn độn là không tránh khỏi: một mặt những viên chức người Pháp đang tiếp tục bị giết trong các trại giam, còn mặt khác người Nhật coi như người điều hành đất nước lại đang trong trạng thái mơ hồ, không có sự lãnh đạo của Tokyo, hai quả bom nguyên tử ngày 6 và 9 tháng 8 đã kết liễu chính quyền ở đó. Điều phải làm ngay hiện nay là đưa ********* lên nắm chính quyền hợp pháp để lấp chỗ trống, trước khi bọn Nhật hoặc quân Đồng minh có thời gian hoạt động.
    Về đến Hà Nội, sau khi bố trí xong các quân đội, Giáp đến ở nhà một người cảm tình ở phố Hàng Ngang, ở đó Giáp được tin Hồ Chí Minh đang trên đường về Hà Nội, do một phân đội biệt động Quang Trung của Giải phóng quân hộ tống, nhưng phải nằm trên cáng vì tình trạng sức khỏe kém. Trước đây ít lâu, Giáp đã có một đêm thức bên cạnh Hồ Chí Minh nằm trên giường bệnh bằng tre trong một lán nhỏ ở Tân Trào, và bây giờ ông đang trở về Hà Nội. Giáp kể: ?oHồ Chí Minh đã một mình bôn ba khắp các miền của trái đất, sau khi rời khỏi cái nhà tranh nhỏ ở Kim Liên, cách Hà Nội 300 kilômét, ông phải mất hơn ba mươi năm mới đến được Hà Nội (Sđd, trang 221). Vài ngày trước đây, Hà Nội chỉ có chợ đen, cuộc sống rất bấp bênh, không có đủ xe bò để chở người chết đói đi chôn chung vào những hố ở vùng ngoại ô. Ngoài các cửa ô, từng đoàn người bị đói từ nông thôn kéo vào. Họ không đứng vững trên đôi chân, cuộc sống như chiếc lá vàng trên cây mùa đông. Chỉ cần người cảnh sát đẩy nhẹ là họ đổ xuống và không bao giờ đứng dậy được nữa? (Sđd, trang 222).
    Hôm sau ngày 29 tháng 8 năm 1945, trong khi các quan Nhật vênh váo lượn quanh khách sạn Metropole vừa đi vừa gõ roi ngựa vào đôi dày da, hết hy vọng về mệnh lệnh từ Tokyo, và binh sĩ của họ vừa hút thuốc lá vừa chờ đợi trong các trai lính gần thành nội-nơi đồn trú của lính Pháo trước đây-thì ***** Chí Minh nắm quyền kiểm soát Việt Nam và thành lập Chính phủ đầu tiên của Cụ.
    Hy vọng người Pháp chấp nhận một sự đã rồi, và có thể tập hợp những nhóm yêu nước khác nhau dưới sự lãnh đạo của Cụ, ***** Chí Minh đã mời vào Chính phủ những thành viên không mác xít, độc lập và thiên chúa giáo. Võ Nguyên Giáp được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, bộ quan trọng nhất chịu trách nhiệm phát hiện nguyên nhân của những vụ lộn xộn và bắt đầu cải tạo xã hội theo những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản: hết chiến tranh, ***** muốn đưa Giáp vào con đường hoạt động chính trị. Chu Văn Tấn người chỉ huy đội cứu quốc quân, đang chỉ huy một phân đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (?-Không bít có phải do sách in sai hay do người dịch, em cứ để nguyên như trong sách vậy).
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 2 tháng 9, trước vài trăm nghìn người gồm một nửa dân số thành phố ồn ào và náo nhiệt, tập hợp ở Quảng trường Ba Đình, trên lễ đài ***** Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, nhắc lại những câu nói lịch sử của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ: ?oMọi người có quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc?. Cụ đã yêu cầu một người lính Mỹ của OSS viết vào một mảnh giấy cho Cụ. Võ Nguyên Giáp đọc một bài diễn văn dài về những vấn đề chính trị, kinh tế và những vấn đề khác, đề cập cả đến những chính sách đối ngoại nhấn mạnh đến quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc. Giáp còn nói thêm: Mỹ là người bạn tốt của Việt Nam.
    Sau này, Giáp đã tả cảnh này:
    ?oHà Nội tưng bừng máu đỏ. Một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ những rặng cây, đỏ những mặt hồ. Biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt-Pháp-Anh, hoa chăng khắp các đường phố: ?oNước Việt Nam của? người Việt Nam?, ?Độc lập hay là chết?, ?oủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh?. Các nhà máy, các hiệu buôn to nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp. Mọi hoạt động buôn bán, sản xuất của thành phố tạm ngưng. Đồng bào thủ đô già, trẻ, gái, trai đều xuống đường. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra mắt đồng bào như một lãnh tụ đầu tiên xuất hiện trước đông đảo quần chúng. Đó là một cụ già gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áo kaki cao cổ, đi dép cao su trắng. Hai mươi bốn năm làm *************, trong những ngày lễ lớn của dân tộc, trong những cuộc đi thăm nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất hiện với một hình ảnh giản dị không thay đổi. Vẫn bộ quần áo vải trên ngực không một tấm huy chương, y như lần đầu Bác đã ra mắt đồng bào?.
    Ngày 7 tháng 9, sau nhiều cuộc thảo luận với Giáp xung quanh một ngọn lửa trại, ***** đổi tên giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn-quân đội nhân dân-và tuyên bố thành lập một Bộ Tổng tư lệnh gồm những sỹ quan ưu tú và phụ trách việc điều hành toàn bộ quân đội. Bộ Tổng tham mưu này phải: ?othống nhất, bí mật, linh hoạt, chính xác và nhanh chóng, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù?. Có 3 bộ phận riêng biệt:
    -Một Tổng cục Chính trị thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp chặt chẽ mọi mặt đời sống quân sự của Đảng, tổ chức hệ thống chính trị viên ở mọi cấp chỉ huy cho đến trung đội.
    -Một Bộ Tổng tham mưu bao gồm các cơ quan huấn luyện, kế hoạch tác chiến và thông tin liên lạc.
    -Một Tổng cục Hậu cần bao gồm vận tải (lúc đầu chưa có xe thì dùng phương tiện bằng tay) và cung cấp thực phẩm, vũ khí và trang bị (kể cả sửa chữa) cùng công tác quân y.
    Ngày 8 tháng 9, một hệ thống giáo dục quần áo (bình dân học vụ) ưu tiên 2, được thành lập để chuẩn bị cho nhân dân đi vào cuộc sống mới. Nhiệm vụ là giáo dục cho đại đa số quần chúng cơ sở tinh thần yêu nước. Từ trước đến bây giờ, mục đích chính của tuyên truyền là làm cho quần chúng nổi dậy đồng loạt, còn hiện nay là thấm nhuần việc thành lập một quốc gia cộng sản. Mao Trạch Đông đã công bố lý luận cơ bản: ?oPhải thuyết phục dần dần quần chúng bằng kết hợp với khủng bố tinh thần, vừa hăm dọa, vừa thuyết phục và dùng áp lực số đông. Việc lãnh đạo không có gì quan trọng như những giải quyết đầu tiên ấy?. Người Việt Nam cũng có những giải quyết ấy, nhưng không thiếu sự lãnh đạo mạnh mẽ trong những năm tiếp theo.
    Phải nghĩ đến bao nhiêu việc phải lo đến bao nhiêu vấn đề cẩn trọng, những tuần lễ đầu tiên hết sức bận rộn. Nói cách khác, ***** Chí Minh hết sức lợi dụng những điều kiện đó; còn quân Nhật hết sức sung sướng, được rời bỏ mảnh đất này. Giáp nói rằng: ?oBọn chỉ huy Nhật không muốn dùng quân của họ để lập lại trật tự? và họ không đủ khả năng quan tâm đến chỗ trống mà quân Pháp để lại khi ra đi vì chính bọn họ gây nên. Nắm lấy thời cơ, Chính phủ Hồ Chí Minh tổ chức ấn định các qui tắc, thành lập cảnh sát đầu tiên, áp dụng các luật lệ và xây dựng cơ sở của xã hội, ***** giành cho dân tộc miền núi một số đại biểu trong đại hội quốc dân. Sau đó khoảng chục nghìn người trong số họ được gọi về Hà Nội để nhận một tổ chức: họ sẽ trở thành thầy giáo, bác sĩ và chuyên gia chính trị.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mồng 9 tháng 9 năm 1945, thực hiện quyết định của hội nghị Potsdam, 152.000 binh sĩ của quân đội quốc gia Trung Quốc thuộc các quân đoàn 53, 60, 62 và 93 cùng với các sư đoàn độc lập 23, 39 và 93 do tướng Lư Hán chỉ huy vược bg, tiến sâu về phương nam để cuối cùng đóng lại quanh Hà Nội. Có rất nhiều lính Trung Quốc, họ xuất hiện như nạn châu chấu phá hoại đồng ruộng, chỉ làm tăng thêm sự thiếu hụt lương thực. Ở miền Nam, quân Anh cũng không thể mất thời gian tiến vào với những bước dài: ngày 12 một bộ phận sư đoàn Ân Độ số 20 do tướng Donglad Gracey chỉ huy tiến vào Sài Gòn (trong tổ chức quân đội Anh, có một số đơn vị người Anh và một số đơn vị người Ấn Độ do sỹ quan Anh chỉ huy lãnh đạo).
    Đáng tiếc là người Anh đã cử đến đây một vị tướng của quân đội Ấn Độ, mặc dù lúc này đang có một vị đô đốc chỉ huy tối cao của tất cả lực lượng Anh quốc ở Đông Nam Á Loris Mountbattes có đủ thẩm quyền và được đánh giá cao đang ở trong tình huống thuận lợi đòi hỏi phải đối xử tế nhị. Vị tướng này đã quen đối xử với nhân dân thuộc địa nên có thể bị thành kiến: những tình cảm của ông dẫn đến việc nâng đỡ người Pháp và giúp họ thiết lập lại vương triều ở đây. Nếu sự việc rõ ràng và khách quan hơn, có thể sự kiện sẽ xảy ra khác đi. Vì vậy khi một phái bộ Việt Nam đại diện Chính phủ Hà Nội đến gặp ông, ông khinh khỉnh chỉ cửa vào, tỏ ra rất khó chịu về cuộc tiếp xúc nhỏ này và ông nhanh chóng mời họ ra ngoài.
    Với thái độ khách quan Mountbattes đã ra lệnh cho Gracey tước vũ khí quân Nhật, giữ gìn trật tự; không phải thiết lập lại ?ovương triều của người Pháp?. Nhưng vì sức ép của quan năm Cédile, cao ủy Pháp ở Đông Dương, Gracey không hoàn thành nhiệm vụ. Ông ban hành luật quân sự, và lính Nhật đang bị giam giữ, sử dụng họ để kiểm soát nhân dân một đất nước không thể kiểm soát nổi.
    Giáp kể:
    ?oĐồng minh đã quyết định chia Đông Dương thành hai khu vực để tiến vào tước vũ khí quân đội Nhật Bản khi Nhật đầu hàng. Việc giải quyết quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào do quân đội Anh phụ trách; từ vĩ tuyến 16 trở ra sẽ do quân đội Tưởng Giới Thạch chịu trách nhiệm. Đương nhiên, trong việc hệ trọng đó, dân ta không được hỏi ý kiến. Do áp lực của Mỹ, Pháp đã bị gạt ra ngoài?
    Trong nửa đầu tháng 9, gần 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào hầu khắp các tỉnh miền Bắc như một bệnh dịch?
    Phái bộ Anh do tướng Gracey cầm đầu đến Sài Gòn, những đơn vị quân Anh, Ấn đầu tiên thuộc sư đoàn 20 theo đường biển lần lượt cập bến Sài Gòn. Chúng ra lệnh cho bọn Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố và đòi các lực lượng của ta phải nộp vũ khí. Ngay từ ngày đầu, quân Anh đã lộ rõ bộ mặt can thiệp.
    Ngày 20 tháng 9, tướng Gracey ra bản Thông báo số 1. Y khẳng định quyền duy trì trật tự của quân Anh, y ra lệnh cấm mang vũ khí và tuyên bố những ai vi phạm các quy định của y sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, kể cả xử bắn.
    Bọn Anh tới chiếm trại giam, thả tất cả những tên Pháp, nhảy dù xuống nb sau này khởi nghĩa bị ta bắt và giữ lại đó. Một ngàn rưỡi lính lê dương Pháp của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 đã được bọn Anh đưa ra khỏi trại tù binh Nhật và trang bị lại. Sáng sớm ngày 23 tháng 9 bọn binh lính Pháp của trung đoàn 11 cùng một đơn vị lê dương mới từ Pháp sang được quân Anh, quân Nhật yểm trợ đổ xô ra các ngả đường. Chúng đánh chiếm các đồn cảnh sát của ta và bắn giết đồng bào. Những tên lính lê dương ở thuộc địa và những tên thực dân Pháp trước đây mấy tháng, ngon ngoãn đầu hàng quân Nhật đã tỏ ra vô cùng dã man trong việc tàn sát ngược đãi những người dân tay không? Trong không khí căm thù sôi sục, các chiến sĩ tự vệ và đồng bào Sài Gòn lập tức chiếm các vị trí chiến đấu, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược?? (Sđd, trang 254,255).
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hai tuần sau, đầu tháng mười, hai đại đội bộ binh Pháp, một đơn vị Commando và một trung đoàn xe bọc thép do tướng Leclerc chỉ huy đến Sài Gòn. Vài ngày sau, Chính phủ Anh cho rằng người Pháp phải nắm lại quyền lực ngày càng tốt: ở Luân Đôn và NewDelli người ta vừa được tin lực lượng bé nhỏ của tướng Gracey không thể làm chủ được tình thế. Vấn đề là sức bật của người Pháp, còn người Anh càng rút lui sớm càng tốt. Gracey chuyển tiếp tin tức đến tướng Leclerc. Và đầu tháng mười một, đô đốc d?TArgenlieu đến Sài Gòn với nhiệm vụ cao ủy Đông Dương.
    Vài tháng sau, tháng 2 năm 1946, trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 2 (2.REI) đổ bộ vào Sài Gòn và đưa ngay vào Trung kỳ. Và trong 3 tháng hành quân khốc liệt chống bộ đội *********, trung đoàn mất hai trăm ba mươi người chết hoặc bị thương. Đến tháng tư, những đơn vị còn lại là trung đoàn bộ binh lê dương ngoại quốc số 5 (5.REI)-trung đoàn thoát khỏi tay quân Nhật khi chúng bắt giam người Pháp-từ Trung Quốc trở về được thành lập lại ở Sài Gòn. Cùng tháng ấy, những sĩ quan Anh cuối cùng cuốn gói: họ được thay thế bằng quân Pháp mang vũ khí và quần áo Anh quốc lượn khắp Sài Gòn với những đội hình mà người ta gọi là: ?oDo Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp?.
    Tướng Philippe Marie Leclerc vốn là một nhà quý phái, ông đã đổi tên (trước là Jean de Hantecloque) năm 1940 để đến gặp De Gaulle ở Luân Đôn tránh cho gia đình ở Pháp khỏi bị bọn quốc xã trả thù. Ông đã xây dựng được một đội quân (một quân đoàn) bổ sung vào lực lượng quân Pháp tự do ở Tachd, là vị chỉ huy đặc biệt trên cánh đồng Tunisie và dứng đầu sư đoàn xe bọc thép số 2 vào Paris tháng 8 năm 1944. Thieny d?TArgenlieu đã phục vụ trong hải quân Pháp trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Thời gian ở giữa hai cuộc chiến tranh đó, ông ở trong một tu viện thuộc dòng Carmel. Giáp gọi ông là ?oLinh mục hoàn tục?. Đó là một con người khô khan, thiếu nhiệt tình, bè phái, với con mắt nhìn cuộc đời cứng nhắc. Một trong những ủy viên hội đồng của ông ta đã mỉa mai nói đó là một trong những người tinh anh xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Việc nhanh chóng bổ nhiệm ông ta tỏ ra là một sai lầm đau xót.
    Leclerc và d?TArgenlieu bắt đầu tăng cường các đội quân Pháp và vội vàng gọi các viên chức ở các thuộc địa khác ở Viễn Đông đến, họ địnhh lập lại trật tự ở Nam kỳ trước khi xảy ra chiến tranh. Trong bốn tháng tiếp quân đội Pháp giao chiến nhiều trận với quân khởi nghĩa, ổn định được Sài Gòn và một số vùng châu thổ sông Mêkông. Tháng 2 năm 1946 d?TArgenlieu tuyên bố rằng miền Nam đã được dẹp yên. Người vn lãnh đạo quân khởi nghĩa ở miền Nam Trần Văn Giàu dẫn vài nghìn người đi gặp các lực lượng của Giáp ở phía Bắc, để lại một số cán bộ vững vàng để thành lập trung tâm của cuộc nổi dậy sắp tới trong các làng mạc.
    Cuộc hành quân về phương Bắc không phải dễ dàng. Việc di chuyển ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng rất giống như ngày nay. Đi từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ cách nhau hơn năm trăm kilômét ngày nay phải đi mất hai ngày rưỡi, phải vòng qua những đoạn đường cái sụt hỏng, phải khai thông một số lối đi giữa những đàn trâu bò ì ạch do trẻ em dẫn dắt, phải vòng vèo qua các phụ nữ hốc hác, chân trần gồng gánh với chiếc đòn gánh trên vai vừa đi vừa bóp còi vược các xe đạp, xe bò kéo và xe tải của thời đại cũ. Năm 1945 dẫn hàng nghìn binh sĩ từ Nam ra Bắc cách nhau tám trăm kilômét phải mất nhiều tuần lễ. Cuối cùng đoàn người của ông Giáp cũng nhập vào quân đội lớn mạnh của Giáp.
    Đến tháng mười, Giáp cùng với nhà ngoại giao Pháp Jean Sainteny từ Pháp qua làm nhiệm vụ cao ủy Bắc kỳ đến Sài Gòn để gặp Leclerc. Hai con người không hiểu nhau, suốt buổi nói chuyện, ông Leclerc luôn tỏ thái độ coi thường, nhìn lơ láo và không tỏ chút chân thành mà lại hoàn toàn bất lịch sự khi ông ta phải đàm phán với một con người nhỏ nhắn buồn cười mặc một chiếc quần rộng thùnh thình, đầu đội mũ quá khổ. Đó là một cách đánh giá sai lầm thô lỗ đi đến hậu quả nặng nề: Leclerc không thể ở lại Đông Dương lâu nữa, người Pháp vừa chuốc lấy thất bại khi chống đối con người thứ ba của Chính phủ Hồ Chí Minh.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cuộc chiến tranh bắt đầu
    Không phải một cuộc chiến tranh chống một đội quân, mà đó là một cuộc chiến tranh chống toàn bộ một dân tộc.
    Tướng Philippe Leclerc
    Thực tế Việt Nam hiện nay vẫn bị chia cắt làm hai. Điều đó không phải được quyết định vì những giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi việc đàm phán cho tương lai của Việt Nam như hội nghị Potsdam đã quyết định, mà vì việc ra đi vội vàng của quân Anh, trước khi đàm phán bắt đầu khiến cho quân Pháp quay trở về Nam kỳ, và kiếm được các cương vị cũ của họ ở đó. Không phụ thuộc những gì xảy ra ở miền Bắc, miền Nam vẫn bị chia cắt trong gần ba mươi năm.
    Ở miền Bắc, Chính phủ Hồ Chí Minh đang suy nghĩ thực thi quyền lực và nhân dân tỏ ra ủng hộ Cụ, còn những người Pháp thì có ý kiến khác. Dưới con mắy họ, quyết định của hội nghị Potsdam dựa trên giả thiết có một sự thỏa thuận chung về tương lai của Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc: họ không hiểu nổi một dân tộc thuộc địa lại có thể chiếm lấy quyền lực để làm chuyện đã rồi như dân tộc Việt Nam. Ở Paris chính phủ nổi giận về hoàn cảnh của học lúc bấy giờ-quyết tấm khôi phục cương vị trước chiến tranh của họ ở Việt Nam bị ***** Chí Minh chống lại-còn ở Hà Nội các viên chức người Pháp vừa được giải phóng khỏi trại giam cảm thấy nhục nhã trước cảnh tưởng người Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hành chính một cách vụng về, vì họ chẳng có kinh nghiệm mà cũng chẳng biết yêu cầu của công việc. Người Việt Nam rất nghi ngờ ý định của người Pháp, nhưng không dùng vũ lực đuổi chúng đi được, họ bí mật tăng cường quân đội bằng cách đưa giấu vũ khí qua các cảng hoặc chế tạo lấy trong các công binh xưởng.
    Tháng 11 năm 1945, hy vọng người Pháp công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là chính quyền hợp pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng như muốn dẹp bớt bọn nổi loạn-nhất là bọn quốc dân đảng được quân Tưởng yểm trợ, Cụ tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Cụ khẳng định đất nước Cụ có đảng của Cụ. Cụ xóa bỏ thuế muối, thuế thân đáng ghét, cấm sử dụng thuốc phiện, quốc gia độc quyền sản xuất rượu. Cụ lôi kéo cả giới giáo sĩ đạo thiên chúa và để chứng tỏ dân chủ có thể thực hiện ở Việt Nam. Cụ kêu gọi tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc.
    Ngày 6 tháng Giêng năm 1946 gần 90 phần trăm cử tri đi bỏ phiếu-các ứng cử viên ********* được số phiếu tuyệt đối. Ông Giáp về tỉnh nhà để tham gia ứng cử và bầu cử, ông đã trúng cử với tỷ lệ 90% số phiếu. ***** đã bảo đảm cho Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đồng minh hội 67 ghế ở Quốc hội, cuối cùng họ chỉ đạt được 48. Và muốn chứng minh lòng chân thành của mình, Cụ chỉ giữ lại 3 Bộ trưởng của Đảng Cộng sản Sài Gòn cũ trong số 12 bộ trưởng của Chính phủ của Cụ. Ông Giáp bị đánh giá quá cứng nhắc và không mềm dẻo với bọn quân Tưởng nên không còn giữ ghế Bộ trưởng nội vụ và được cử làm chủ tịch hội đồng quân sự.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Không phải là một chức vụ tầm thường. Tháng 3 năm 1945, ********* có khoảng 1.000 người có vũ khí đã kiểm soát được tám trăm nghìn dân trong vùng tự do và một phần ba Bắc kỳ với ba chục nghìn kilômét vuông đất đai. Tháng 6, Giáp đã thành lập được đơn vị tiểu đoàn đầu tiên; tháng 8 Giáp chỉ huy năm nghìn binh sĩ vào Hà Nội, vào cuối 1945 hơn năm chục nghìn người khác đã được tuyển chọn.
    Nhiệm vụ đầu tiên của ông Giáp là trang bị vũ khí cho các binh sĩ mới. Ông đã dùng tiền quyên góp trong ?otuần lễ vàng? do ***** đề xướng khi Cụ về Hà Nội-để mua ba chục nghìn súng trường và hai nghìn súng máy của Hồng quân Trung Quốc. (***** yêu cầu đồng bào đóng góp tiền bạc và của cải cho Chính phủ, vì ngân khố đang trống không. Phần lớn tiền quyên góp được-khoảng hai mươi triệu đồng bạc-phải cung cấp cho tướng Lư Hán để quân Tưởng không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và để cho ***** được rảnh tay hoạt động). Ông Giáp đã phái Nguyễn Văn Cam và Trần Văn Giàu-sau này là lãnh đạo miền Nam-đến Hồng Kông và Bang Kok để đổi vàng, thuốc phiện và gạo lấy vũ khí đưa bí mật qua các cảng nhỏ ở miền Nam.
    Ông Giáp còn tổ chức sản xuất vũ khí trong những ?onhà máy? nguyên thủy và các xưởng rèn. Ở Thái Nguyên, một nghìn năm trăm chiến sĩ Việt Nam cùng làm việc với hàng trăm tù binh chiến tranh Nhật Bản thuộc số vài nghìn lính đào ngũ của quân đội hoàng gia đã đi theo *********: nỗi nhục đầu hàng là tội lỗi không thể tha thứ trong đạo luật của Võ sĩ đạo của các chiến binh Nhật Bản. Có lẽ vì vậy họ không muốn trở về đất nước họ. Ở Thái Nguyên mỗi ngày có thể sản xuất được 50 súng trường và 10 súng ngắn, mỗi tháng sản xuất được 3-4 súng máy phỏng theo kiểu các vũ khí hiện có trong kho.
    Nhà máy thứ hai ở Quảng Ngãi. Ba trăm đàn ông và đàn bà làm việc ở đó dưới sự điều hành của một sĩ quan tham mưu Nhật Bản đào ngũ tên là Saito. Còn một xưởng ở Phú Thọ và một ở Tháp Mười, năm trăm công nhân làm việc với những người Nhật Bản và có cả vài người Đức thuộc quân lê dương ngoại quốc đào ngũ. Có một dãy núi ở Trung kỳ và miền Nam. Một vài công nhân Trung Quốc sản xuất vũ khí ở Trà Lĩnh trên biên giới Việt Trung. Ngoài ra còn có nhiều xưởng thợ thủ công của làng xã cũng sản xuất các phụ tùng của vũ khí mà không thể thực hiện sản xuất hàng loạt được. Giáp đã dùng mọi nơi lớn hoặc nhỏ thuận lợi để sản xuất vũ khí. Đó là một dẫn chứng về tài năng kỳ lạ của ông Giáp trong việc tổ chức, sử dụng và tuyển chọn những người dưới quyền.
    Ở các tỉnh, các cán bộ tuyển chọn thanh niên để thành lập bộ đội địa phương. Bộ đội địa phương cũng tổ chức thành đơn vị thông thường nhưng không phải trả lương? (Cho đến năm 1950, dân thường không có ai phải tái ngũ, sau đó thì sĩ quan phải tái ngũ). Mặc dù ***** đang hết sức cố gắng để thành lập một Chính phủ được người Pháp công nhận dù cho tương lai sắp tới sẽ như thế nào ông Giáp cũng muốn: ?ođộng viên, tổ chức và trang bị cho nhân dân để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh nhân dân?. Dù sao ngày ngày 26 tháng 3 Giáp cũng đã đọc một bài diễn văn ca ngợi quân đội Pháp: người ta có thể nghĩ rằng khi có điều kiện ông Giáp có thể trở thành nhà ngoại giao.

Chia sẻ trang này