1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tương lai của ngành công nghiệp công nghệ sinh học

Chủ đề trong 'Công nghệ Sinh học' bởi kiemhptlhk, 14/03/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kiemhptlhk

    kiemhptlhk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/03/2004
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Tương lai của ngành công nghiệp công nghệ sinh học

    Tương lai của ngành công nghiệp công nghệ sinh học
    Báo cáo "Sự phát triển vượt bậc: Báo cáo công nghệ sinh học toàn cầu năm 2002" do Tổ chức Ernst &Young mới đa ra gần đây đã dự báo một sự tăng trưởng mạnh của ngành công nghiệp công nghệ sinh học trên thị trường thế giới. Báo cáo nghiên cứu một cách đầy đủ về một số nhà lãnh đạo công nghệ sinh học nổi tiếng nhất thế giới và ngành công nghiệp công nghệ sinh học ở hơn 25 nước.
    Báo cáo nghiên cứu tình hình của các nước đóng góp hơn 79% vào GDP của thế giới. Các nghiên cứu cho thấy, trong khi Mỹ và châu Âu tập trung vào các sản phẩm dùng trong chẩn đoán và thuốc chữa bệnh cho người, thì Canađa và khu vực châu Á -Thái Bình Dơng lại theo đuổi những lợi ích của công nghệ sinh học cơ bản.
    Sự tăng trưởng mạnh nhất của ngành công nghiệp công nghệ sinh học thế giới trong năm 2001 đã được thúc đẩy một phần nhờ tài trợ vốn mạo hiểm ở trong nước và nước ngoài. Kinh phí này đã hỗ trợ bù vào khoản thiếu hụt do suy giảm thị trường Nhà nước, chào bán cho công chúng ban đầu ở Mỹ và châu Âu chỉ tăng có 383 triệu USD năm 2001, so với hơn 10 tỷ USD năm 2000.
    Trong khi ngành công nghệ sinh học của Mỹ tăng gần 8 tỷ USD về tài trợ bằng vốn cổ phần, các hãng công nghệ sinh học châu Âu bảo đảm được hơn 2 tỷ USD và các hãng công nghệ sinh học Canađa tăng khoảng 900 triệu USD. Mặc dù sự phát triển vốn không sáng sủa lắm, ngành công nghiệp công nghệ sinh học đã tăng hơn 10 tỷ USD vốn liên doanh và được tài trợ bằng vốn cổ phần tư nhân và Nhà nước, là năm hoạt động tốt thứ hai của ngành, sau năm 2000.
    Nhờ hai năm tài trợ tốt hơn hẳn, các hãng công nghệ sinh học trên thế giới có dự trữ tiền mặt lớn, có thể giúp vượt qua sự biến động của thị trường không tránh khỏi. Vị thế tiền mặt mạnh của ngành công nghiệp cũng tạo cho các hãng công nghệ sinh học vị thế tốt hơn trong đàm phán thiết lập quan hệ đối tác về công nghệ và đàm phán về các thoả thuận cấp giấy phép với nhau và với các hãng dược lớn có quan tâm để thay thế các dược phẩm thành công mà chưa được cấp bằng sáng chế và bù đắp cho các sản phẩm đang bị suy giảm.
    Các hãng công nghệ sinh học cũng tìm các phương thức khác để đạt khối lượng sản phẩm lớn và để không bị phụ thuộc bằng cách tăng cờng số lượng các hãng liên minh ngoài bang (xuyên biên giới), sáp nhập, mua lại các hãng và các công ty chuyên sản xuất sản phẩm dựa trên kết quả của các công trình nghiên cứu và phát triển. Đã có hơn 480 hoạt động hợp tác giữa các hãng công nghệ sinh học và các hãng dược phẩm và có gần 550 quan hệ đối tác giữa các hãng công nghệ sinh học. Xu thế này dẫn đến tăng cường sự ngang bằng tỷ giá giữa các ngành công nghiệp công nghệ sinh học và dược phẩm, ví dụ nh vụ Hãng Angen đã mua Hãng Immunex với 16 tỷ USD.
    Theo báo cáo, ngành công nghiệp công nghệ sinh học trên thế giới có tới 4284 hãng (662 hãng Nhà nước; 3662 hãng tư nhân) ở 25 quốc gia. Năm 2001, các hãng Nhà nước có thu nhập 35 tỷ USD, chi 16 tỷ USD cho nghiên cứu và triển khai và sử dụng hơn 188.000 nhân công. 73% thu nhập này thuộc về các hãng ở Mỹ, các khu vực công nghệ sinh học đang nổi lên ở châu Âu, Canađa và châu Á - Thái Bình Dương hiện đang có sự tăng trưởng mạnh về số lượng các hãng vì các công nghệ hấp hẫn ngày càng có xu thế mở đường từ các phòng thí nghiệm nghiên cứu để trở thành các hãng do tư nhân tài trợ.
    Nghiên cứu cho thấy công nghệ sinh học là một lĩnh vực đang nổi trội ở châu Á - Thái Bình Dơng, sự phát triển mở rộng đáng chú ý là ở các nước như Ôxtrâylia, Trung Quốc, Ấn Độ và Singapo. Khu vực này có hơn 500 hãng công nghệ sinh học.
    Ứớc tính, đến năm 2005, thị trường công nghệ sinh học châu Âu có thể tăng gấp đôi giá trị hiện nay, đạt tới 100 tỷ USD. Sự tăng trưởng này sẽ nhờ vào các hãng và các nhà đầu tư có kinh nghiệm tìm tòi các công nghệ có triển vọng, nhân tài và thị trường mới ở ngoài biên giới nước họ.
    (Nguồn: Biotech Industry Future, Tech Monitor, 10/2002)

Chia sẻ trang này