1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

"Tướng về hưu"- một tác phẩm sâu sắc của Nguyễn Huy Thiệp

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi ruatoto, 15/12/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ruatoto

    ruatoto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/12/2010
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    15
    I
    <FONT class=imageattach face=[/IMG]Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xoá nhoà, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng phải làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.
    Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai Đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với gì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi chốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
    Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
    Khi lớn lên, tôi chẳng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh.
    Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi.Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng, cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều rất ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
    Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được đi du ngoại. Cả những cơ ở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ thạo việ xây dựng doanh trại.
    Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng.
    Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con gái tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng.
    Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khoẻ. Ông bảo: “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi”. Tôi bảo: “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tuỳ tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nuờm nượp. Vợ tôi bảo: “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng tập tục nông thôn vẫn còn giữ.
    Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình.

    II

    Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi.
    Tôi ba mươi bảy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thuỷ, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chùng tôi có hai đứa con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
    Ngoài những người trên gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông.
    Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hoá. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ, nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố.
    Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợ gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc- giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: “Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật.
    Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân.
    Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồn tôi êm thấm. Thuỷ có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề tương đối giản dị. Thuỷ am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
  2. ruatoto

    ruatoto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/12/2010
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    15
    III

    Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình. Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!” Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!”
    Cha tôi cho mỗi người trongnhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười: “Cha bình quân!” Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành daonh trại”. Mọi người cười ồ.
    Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu.
    Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào.
    Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi: “Có chuyện gì thế?” Ông bảo: “Ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo: “Để con hỏi Thuỷ”. Vợ tôi bảo: “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì.
    Cha tôi nghỉ hưu khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư… Thí dụ: “Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v.v…”. Cha viết như thế được không?” Tôi bảo: “Được”. Vợ tôi bảo: “Không được!” Cha tôi gãi cằm: “Người ta nhờ mình”.
    Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20x 30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20x30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy lưu niệm, giá năm đồng một chục cái.
    Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ hưu, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.

    VI

    Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi *** trâu”. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã” , giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng phải bắt ông ký cược. Ông Bổng rất ức, ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả.
    Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh phải đứng ra làm chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đối”. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì”. Cha tôi bằng lòng.
    Đám cưới ngoại ô lố lă ng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăm mặc hệt nhau, đều quần , râu ria rất hãi. Đầu tiên là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
    Ừ…ê… cái con gà quay
    Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
    Tìm nơi nào có tiền
    Tiền ơi, mau vào túi ta
    Ừ… e… cái con gà rù…
    Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị khá công phu hoá thừa. Kèn clavinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí.
    Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đam hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng những ca khúc vui vẻ, quen thuộc của các ban nhạc BeatlesAbba.
    Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu. tống cổ con dâu ra cửa. Thăng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
    Vô phương, cha con tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai nhân khẩu. Vợ tôi không nói năng gì. Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.

    V

    Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: “Cha muốn nói chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: “Con có để ý công việc của Thuỷ không con? Cha cứ rờn rợn”.
    Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày, các rau thai nhi bỏ đi, Thuỷ cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc-giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?” Ông Cơ bảo: “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”.
    Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc-giê. Vợ tôi bảo: “Anh thôi hút thuốc Ga lă ng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”.
    Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây”. Tôi hỏi: “Về đâu?” Thăng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tăcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở Ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao.
  3. ruatoto

    ruatoto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/12/2010
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    15
    X

    Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh đại uý cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bắn bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông Chưởng hỏi cha tôi: “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo: “Được”.
    Ông Chưởng, đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo: “Con tôi làm đấy”. Tôi bảo: “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo: “Cô Lài chứ!” Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: “Chả phải”.Cha tôi đùa: “Thế thì do mô hình V.A.C”.
    Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi: “Thằng Tuân có thư từ gì không?” Kim Chi bảo: “Không” Cha tôi bảo: “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa”. Vợ tôi bảo: “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo: “Đừng nói thế. Nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc: “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo: “Tôi còn hai con gái cơ”. Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo: “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi ăn đi. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”.

    XI

    Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích làm thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo: “Thơ siêu nhất”. Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi còn vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo: “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo: “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình.
    Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo: “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”. Tôi bảo: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi: “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu.
    Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi: “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ: “Thôi”.
    Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi?
    Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình”. Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò đùa lắm”. Cha tôi bảo: “Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo: “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng”.
    Cha tôi bảo: “Sao tôi cứ lạc loài?”
    Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi: “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo: “Đừng đi. Mai anh sửa cái cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi oà khóc: “Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng: “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”

    XII

    Tháng năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại uý cầm thư ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết: “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, chúng tôi không ép”. Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo: “Cho vào ba lô”.
    Cha tôi đi chào làng chào nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối, cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia đá gửi về Thanh Hoá đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài đến bảo: “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài oà khóc: “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào: “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh giúp người ta sống hả con?” Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm báo chuyến này cha tôi đi không về.
    Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo: “Trong này cha có ghi chép ít nhiều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi: “Ông đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo: “Ừ”. Cái Vi hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?” Cha tôi chửi: “M ẹ mày! Láo!”


    XIII

    Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thuỷ đến xem cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng thích lắm: “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao một chum”. Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo: “Chắc còn nữa”. Lại đào. Được thêm, một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần hai chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mững rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông bảo” bằng đồng đã han gỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát nữa. Ôn Bổng bảo: “Thôi chết, tao nhớ ra rồi. Ngày xưa, tao với trùm Nhân ăn trộm ở Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuởi nào. Ông Bổng bảo: “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”.
    Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhấtcủa số phận mình”. Khổng bảo: “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi”.


    XIV

    Điện của ông Chưởng: “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày… mai táng tạinghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày”. Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy. Vợ tôi bảo: “Khoá cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”.
    Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi đã được cử hành hai tiếng đồng hồ.
    Ông Chưởng bảo: “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo: “Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo: “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi: “Theo nghi lễ quân đội hả chú?” Ông Chưởng bảo: “Cụ ra trận địa, đòi lên chốt”. Tôi bảo: “Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”.
    Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là như thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.
    Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi đem theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe.
    Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm. ông bảo: “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo: “Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm! Hoan hô đèn cù!”


    XV

    Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn.
    Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ.
  4. Voldo

    Voldo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    1.057
    Đã được thích:
    1
    Một bước ngoặt của văn học Việt Nam, đó là dấu mốc Nguyễn Huy Thiệp!
  5. DaoNamBao

    DaoNamBao Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    27/09/2013
    Bài viết:
    369
    Đã được thích:
    7
    like mạnh câu của bác này

Chia sẻ trang này