1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tùy Bút Bùi Thụy Đào Nguyên

Chủ đề trong 'Văn học' bởi rongxanhag, 03/07/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Tùy Bút Bùi Thụy Đào Nguyên

    À ơi, mù u?

    Không biết những hàng cây mù u soi bóng bên dòng sông quê tôi có tự bao giờ, có lẽ từ thuở người xưa đi mở đất đã gieo trồng rồi cây bám đất sinh sôi.

    Ông nội tôi kể thời ông mới đến cù lao này, ngọn mù u đã cao xấp xỉ mái đình.Thân cây tròn thẳng, có thể cao trên chục mét ; lá mọc đối, thon dài, phía gần cuống hơi thắt lại.Hằng năm cứ vào đầu tháng hai, lẩn trong vòm lá xanh rộng là những chùm hoa trắng tinh nở rộ. Hoa mù u lớn, thơm dịu và có nhiều cánh như hoa mai. Lúc ấy, lúa cũng vừa vàng đồng, thế là hương hoa, hương lúa cùng hòa quyện theo làn gío xuân lan toả khắp nơi nơi?Rồi khoảng giữa tháng mười, quả mù u bắt đầu ửng chín. Quả căng tròn cỡ quả nhãn. Lúc này vỏ của chúng không xanh mà dần ngã sang màu vàng nhạt, và mỗi khi gió giật quả lặng lẽ xa cành ?

    Gặp những năm cơ khổ, ông nội tôi cùng những người dân trôi nổi, tìm nhặt qủa mù u đem về giã nhuyễn, xe tròn quanh mảnh tre khô thắp sáng thay đèn. Lợi ích khác là gỗ mù u còn dùng để đóng ghe, làm cột nhà; chất dầu trong quả nếu nấu cô đặc lại sẽ là thứ dùng thay xà phòng hay làm thuốc trị ghẻ lở, hấp khớp ở những nơi xa thầy, xa chợ?

    Nghe ông kể vậy nhưng mãi về sau, khi lần đầu về thăm quê nội, tôi mới có dịp ngắm kĩ càng cây mù u và còn nhặt trái nhờ nội làm đèn. Đêm ấy bên ánh đuốc chập chờn, bốc khói cay xè?Tôi không hiểu ông bà và cha tôi nghĩ gì, nhớ gì hay là do chất cay nồng ấy mà khóe mắt ai nấy đều đọng lệ?

    Nhẩm tính mới đấy đã hơn mươi năm sống xa quê. Ngày cha tôi dìu dắt vợ con lên thành phố tìm việc , tôi hãy còn khóc nhè trên tay mẹ. Kỉ niệm tuổi thơ của tôi gắn chặt với phố phường . Lẫn trong những mơ ước, buồn vui là lắm thứ ồn ào, là mùi hôi hám của cống rãnh, rác rưởi?Hình ảnh nơi chôn nhau có dòng nước mát lành, ruộng vườn xanh ngát với những con người thật thà, cần mẫn lắm lúc chỉ là nỗi nhớ mong lung ?


    Mấy hôm rày không hiểu sao chị tôi theo chồng chẳng được bao lâu, lại bế con rời bỏ chốn sang giàu ấy, trở về cùng buồn vui dưới mái gia đình . Những lúc vỗ về cho con ngủ, chị hát : ?o Con nước lên sông sâu à ơi? mù u chưa chín. Con nước lên sông sâu à ơi ?mù u đã rơi !?? mà tôi nghe ngỡ chừng như là tiếng thở than của một bước lỡ lầm ?


    Bùi Thụy Đào Nguyên
    [​IMG]
  2. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    BÔNG SÚNG TRẮNG
    Thật đáng buồn vì một số người sớm ngã qụy trước những cám dỗ. Ở đấy, tôi thật sự cảm phục trước bao tấm lòng biết sống đẹp như một loài hoa?
    Chiếc xe đò cũ kỹ, chật kín người, thở hồng hộc đưa chúng tôi đến chợ Tri Tôn, trời đã xế chiều.Cuộc chiến vừa lụi tàn nên đó đây hãy còn nguyên dấu tích đạn bom . Từ phía trái cạnh chiếc cầu sắt gỉ, chúng tôi phải sang xe ngồi thêm mươi cây số nữa , mới đến được nơi cần đến?
    Thuở ấy lối về Hòn Me, Hòn Đất (Kiên Giang ) là một con lộ trải dất đỏ lem lấm, nhỏ hẹp . Nó gập ghềnh men theo những triền đá lởm chởm, có đoạn nó uốn lượn bên một dòng kênh nhuốm phèn đỏ quạch mà ven bờ là những bụi dừa nước, ô rô, bình bát?chen chúc de ra như muốn chắn đường .
    Bấy giờ nhà việc ban ấp Hòn chỉ là một túp lều bằng tre lá, nép bên ngôi chùa Khơme cổ. Ở đấy có những hàng cây thốt nốt nâu xù xì mang chòm lá vươn cao, trông giống như tóc người ốm lâu xõa xượi.
    Ra đón chúng tôi là một người đàn ông tròn trèm 50 tuổi, dáng dong dỏng cao, mặc bộ bà đen sờn bạc.Trên gương mặt xạm khô vì nắng gió của ông hằn vài vết sẹo đã chai và cánh tay trái bị cụt gần đến khủyu.Chính dáng dấp ấy khiến lòng tôi phấp phỏng, bởi e ngại tánh ý giống như hình dạng bên ngoài .
    Đợi chiếc xe lam tuôn hết mớ đồ đạt lỉnh kỉnh , ông mới chậm rãi cho bọn tôi biết ông tên Sáu, trưởng tổ Đảng tạm kiêm nhiệm Trưởng ban ấp Hòn . Đang lúc mệt mỏi, tôi ngồi bệt xuống ghế tre rồi đảo mắt nhìn hết Hòn Đất lại Hòn Me.Vài chòm nhà dựng bằng cây tràm, lợp lá dừa nước? trống huơ, rệu rã; dăm ba thửa ruộng đầy lau cỏ khô cằn . Đêm đó một mình tôi trên vạt tràm vênh nghe tiếng ếch nhái kêu, lá khua mà lo lắng, thao thức . Phần vì lần đầu xa nhà nên tôi nhớ mẹ , nhớ em ; phần khác bởi cha tôi làm việc cho chế độ cũ , còn đang ở nơi học tập .
    Có lẽ chú Sáu đọc được ý nghĩ của tôi qua ánh mắt và bản khai lý lịch , nên chú thường đến trường, trò chuyện động viên : ?oBà con, trẻ nhỏ ấp Hòn đói chữ lắm , trông thấy các thầy cô đến ai nấy đều mừng vui. Chú nói thật lòng, những người trẻ lại có học như cháu rất cần cho xã hội , cho cách mạng ?Chú tin một khi đã mến người , mến cảnh, cháu sẽ không còn muốn rời bỏ chốn này đâu ??
    Vâng, tôi đã không rời bỏ chốn ấy ngót mười năm .Và tất cả những gì tôi có được từ chốn ấy, dù trải qua hơn hai mươi năm , mỗi lần nhớ lại vẫn không nguôi xúc cảm.
    Trong số đó, tôi nhớ thật nhiều cái không khí náo nức của ấp Hòn vào những ngày đầu độc lập . Với cánh tay còn lại, chú Sáu cùng bà con , đồng đội tất bật bất kể ngày đêm . Nào là cất trường học, lập trạm xá, đón dân hồi cư,tìm thóc giống, tháo gỡ bom min vv?mà xét kĩ việc nào cũng gấp, cũng cần có chú.
    Có lần chúng tôi nhắc chú giữ gìn sức khoẻ, chú hề hà nói : Nước nhà được giải phóng , vui lắm ! Mà lòng vui thì thân không thể bệnh . Ví có bệnh , nếu chưa theo ông bà ngay thì cũng cố làm một chút gì , kẻo phụ tình dân đã trông đợi nơi mình ??. Nghe chú Sáu nói vui mà sâu , chúng tôi chỉ còn biết ngó nhau cười theo, mà lòng cộm lên nỗi xốn xang.
    Bỗng dưng từng gốc cây, mỏm đá , con suối? xứ Hòn sao mà thân thương qúa đổi, chừng như bóng dáng các anh hùng, liệt sĩ vẫn còn lẩn khuất đó đây . Lặng ngắm những triền đồi trơ trụi bởi bom B52 cày xới, những cánh đồng quạnh quẽ chi chít hố bom; ngẫm lời chú nói càng thấm thía. Tôi tin đó không còn là lời nói mà chính là ngọn lửa ấm áp từ trái tim người Cộng sản đích thực, khi đứng trước những mất mát qúa lớn của quê hương, của đồng chí, đồng bào?
    Dù được chú xem như con cháu, nhưng quãng đời xa của chú không ai trong bọn tôi biết thật tỏ tường.Chắp nối lại lời kể của người này, người khác, chúng tôi đoán chừng cha mẹ chú ngày xưa nghèo lắm . Mới mười hai tuổi , chú phải rời nhà đi chăn bò, chăn vịt cho hội đồng Thu .
    Vừa lớn khôn chú đến với Cách mạng ,rồi được cấp trên phân công đi chăn ngỗng, làm vệ sinh ?trên Tòa Bố tỉnh . Việc lớn lộ, chú bị khảo tra đến chết đi, sống lại; nhận lãnh án tù nơi Côn Đảo ngót 8 năm.Mãn hạn, chú lại tiếp tục cầm súng cùng bà con chống càn giữ đất . Trong một lần bị giặc vây bủa, để giải nguy cho đồng đội , chú bị miễng bom cắt mất một cánh tay ?
    ?Sau ngày giải phóng , chú cùng vợ con lam lũ, giản dị như bao người dân ở ấp Hòn . Một mái lá đơn sơ nằm chon von bên ghềnh đá , vài công ruộng trũng tỉa cấy lúa , cà?Nhớ cơn lụt lớn năm 78 , như nhiều nơi khác , khắp xứ Hòn cũng trắng nước. Ruộng vườn , ao cá, vuông tôm?mất sạch ! Ai nấy đều đói lay lắt.
    Trong cảnh thừa nước, thừa mưa gió ấy, chú Sáu xăn quần chống xuồng băng đồng hơn mười cây số đến huyện vay lúa cứu dân.Biết tôi có mang, ngoài phần bo bo chú còn chia thêm hơn nửa thúng giê gạo trắng ( sau tôi mới biết đó là phần ưu tiên của chú ) . Nghĩ đến nghĩa tình này, lần nào mắt tôi cũng cay !?
    Mùa hè năm ngoái tôi có về thăm lại ấp Hòn. Xóm nhỏ khô cằn buổi nào giờ là một xã trù phú của huyện . Dọc theo con lộ trải nhựa phẳng phiu là những đồng lúa vàng mơ, những vườn xoài xanh trĩu trái . Tôi đã dành nhiều thời giờ đi thăm bà con xưa, học trò cũ; đến thắp hương trước bia mộ của các liệt sĩ. Và tôi đã đứng rất lâu bên mộ phần của chú Sáu ?" chú mất vì vết thương cũ tái phát- thầm hứa sẽ thận trọng nghĩ suy để không phải nuối tiếc những khi phải đối mặt với chông gai, với cám dỗ của cuộc đời.
    Bất giác tôi nhớ lại ngày chú dẫn chúng tôi thăm căn cứ địa hang Hòn . Bên dưới hàng chữ đỏ còn in dấu trên vách đá ?~?~Vì lí tưởng Cộng sản, vì hạnh phúc của nhân dân ?Tất cả hãy quên mình !?T?T, tôi ngờ rằng trong mắt chú có ánh trăng , khi chú say sưa nói về một miền xanh mênh mông rợp màu bông súng trắng ?
    Lời chú của người ghi chuyện : Bài viết về một địa danh có thật , con người cùng sự việc có thật .Tôi chỉ tiếc rằng nơi quê hương của những anh hùng, do khả năng viết hạn chế nên tôi chỉ miêu tả được một phần rất nhỏ những gì tốt đẹp nhất của TÌNH NGƯỜI

    Bùi Thụy Đào Nguyên
  3. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Nhớ xóm Quýt , quê xa?
    ?oTháng chạp, quýt to bằng nắm tay trẻ nhỏ, da bóng lưỡng như ướt mỡ. Khi ấy gió dịu, trời ửng hồng sáng trong, nắng mới cũng vừa soi ấm vô vàn chùm quýt loà xòa, đung đưa?Đến giữa tháng, quýt chín đỏ vườn ??

    Đoạn văn trên tôi tả cảnh quê mình khi còn ngồi học lớp 5, mãi đến hôm nay vẫn còn in trong trí?
    Quê nội, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, vỏn vẹn hơn 20 hộ, nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông nhỏ thuộc dòng nước Hậu giang hiền hoà . Chốn ấy từ bao đời có tiếng vì giống quýt hồng thơm ngọt . Nhờ lẽ đó miền đất được người dân quen gọi bằng cái tên mộc mạc : xóm Quýt, dù đất đã có một tên khác khá thơ mộng: Yên Hạ .
    Năm ấy cha tôi làm ăn thua lỗ, cha như người dại; còn mẹ tôi ngồi đâu dáng cũng thẫn thờ.Cuối mùa nước nổi cha phải bán nhà để trả nợ. Ông nội lụm cụm theo chú Tám từ dưới Cần thơ lên bàn bạc, dẫn dắt gia đình tôi về lại quê hương. Với số tiền ít ỏi còn lại , cha chỉ đủ mua hơn 2 công vườn quýt, cả nhà tôi đành ở tạm trong kho chứa củi của ông .
    Tôi nhớ mãi buổi sáng hôm đó. Trời vừa bửng mắt, chú Tư đầu xóm cùng đứa cháu hè hụi vác đến mấy cây tre to, dài sọc . Chưa kịp lau mồ hôi, chú gọi vọng:?oSáu ơi, tao đem cho mấy cây tre đây??.Cảm động xiết bao khi thím Bảy ở tận Bà Vèn bơi xuồng đem lại hơn 200 lá chằm dùng để che lợp. Còn chị Phương cũng vồn vã qua làm quen tôi bằng mấy bó dây buộc chẻ từ cọng lạt vừng ?
    Vậy đó, người góp công, người giúp của . Và ngày cha mẹ tôi dựng nhà, chòm xóm thân sơ đến dùm gíup thật đông . Không chỉ có vậy, nghe theo lời chú út Võ Tòng :?o Làm nghĩa phải cho trót??, liên tiếp nhiều ngày sau , bà con tạm gác việc nhà đến làm cỏ, be bờ; tận tình chỉ vẽ cách bón phân , chiết nhánh ?
    Sau này, gia đình tôi còn chịu ơn nhiều tấm lòng đáng qúi khác như thím Tư chia sẻ cặp heo giống, chị hai Liên dạy cho chị tôi nghề dệt chiếu bông ?
    Tôi cũng không quên được đêm giao thừa năm ấy . Tiết trời lành lạnh, nhà nhà đỏ lửa, mùi bánh tét, bánh phồng tỏa ngát xóm thôn. Nhờ tiền bán Quýt, sau khi trang trải một phần nợ, mẹ tằn tiện lo được nồi thịt kho rệu , sắm cho chị em tôi mỗi người một bộ áo quần.
    Chú Chín, bạn thân thiết của cha, sai con mang đến biếu một rổ bánh ít còn bốc khói . Bác Giáo cũng đem qua chè xôi, hai lít rượu nếp cẩm thơm để cúng ông bà. Còn đám trẻ mặt mày ai nấy đều hớn hở, xênh xang với áo màu, dép mới rủ tôi lên đình xem hội? Đã lâu, tôi vẫn như còn thấy sắc mai vàng, quýt đỏ khoe tươi; đôi má chị ửng hồng, mắt cha mẹ ánh trong và dòng sông nhỏ chảy thầm thì kia cũng ấm?
    Lại có những đêm sân nhà ngập ánh trăng, hương hoa quýt thơm lừng. Các người thân hiểu gia đình tôi vừa gặp chuyện không may nên thường rủ nhau đến ngồi trước sân, đàn ca rôm rả. Già trẻ, gái trai trong xóm cũng xúm xít góp vui . Lẫn tiếng đàn cò, kìm, sáo, nhị là giọng ca mộc mạc, vụng về ?vậy mà vẫn có sức quyến rũ lạ ?
    Và cũng thật xốn xang, khác với bạn bè trên phố phường , các bạn nơi xóm Quýt như Tí Cộc, 14 tuổi, chưa học xong lớp 4; Nghĩa Đen còn ễnh bụng tuyên bố:?o Làm cỏ mướn có tiền, đi học chẳng có xu nào!?T?T. Đổi lại, các bạn ấy nói vanh vách từng loại chim : thằng chài, chích choè, thầy bói?; tháng nào mù u trổ bông , cá lên đồng , xiết nước lúc nào cho quýt chín kịp tết .
    Ngày trước làm văn, tôi hay ca ngợi thú vui nơi thôn dã, như trẻ thơ được mặc sức đùa giỡn, lặn hụp trên sông; được thi nhau vớt trái mù u để lấy dầu thắp sáng hoặc nhồi đất sét nặn voi, nắn ngựa?
    Sống lâu miệt đồng , tôi mới hiểu mọi chuyện không hoàn toàn như vậy. Sau giờ học các bạn ấy còn phải đi giăng câu, vớt bèo nuôi vịt hoặc làm cỏ, tưới cây ?nghĩa là phải lem lấm, phải đổ mồ hôi để có thêm cái ăn, cái mặc, gánh vác tiếp mẹ cha mà phần lớn đều đông con, nghèo và ít hiểu biết ?
    ?Sống nơi quê nội vui buồn như thế mấy năm , cậu Tám sắm được xe, mời cha tôi lên phụ giúp . Gia đình lại dắt díu nhau đi. Đêm trước khi xa quê, tôi lặng lẽ khóc, tuy lòng hé vui vì biết mẹ cha và chị sẽ vơi bớt nỗi nhọc nhằn . Nhưng không bùi ngùi sao được khi tôi phải xa ông bà nội, mặc dù tuổi cao vẫn hết lòng lo lắng, yêu thương con cháu; xa bà con xóm Quýt nghèo tiền nhưng giàu chữ nghĩa nhơn . Nhất là phải xa đám bạn bè hôi như cú mà thật thà như đất, xa vuông vườn tuổi thơ bé nhỏ đã cho gia đình tôi không biết bao nhiêu là hoa trái ngọt lành ?
    ***
    Tết này tôi có về xóm Quýt, quê xa . Thăm lại ông bà cùng bao người ơn đã giang tay đùm bọc gia đình tôi suốt một thời khốn khó . Tuy trên gương mặt, nếp nhăn có nhiều theo năm tháng ; nhưng qua ánh mắt tôi hiểu tấm lòng bà con vẫn đôn hậu như xưa.
    Tôi chỉ buồn, khi nhịp sống nơi thành thị ngày một sôi nổi đi lên; những cảnh đời chốn vùng sâu chưa đổi thay mấy.Vẫn nhiều những tol, lá ? nóng bức, ẩm thấp với mớ đồ đạc cũ kỹ.Vẫn là thứ ánh sáng qua nhiều trung gian , le lói buồn thiu?
    Tôi nghe đâu mấy năm trước quýt được mùa, được giá ; nhiều hộ đã sắm được xe gắn máy , tivi?Mấy năm gần đây chén cơm của họ khá bấp bênh do giá thuốc sâu, phân bón vùn vụt tăng cao, nguồn nước tưới bị ô nhiễm và sâu ?ovẽ bùa? kháng thuốc nên chồi lá cứ vàng úa , quăn queo, hoa trổ rồi lại rụng, lũ kiến vàng lũ lượt bỏ đi . Đến khi vào mùa vụ thì quýt hồng không sao cạnh tranh nổi với lê, áo nhập nên giá cả rẻ như bèo, như cho?
    Tôi cũng dành nhiều thì giờ đi thăm hỏi bạn bè . Gặp lại nhau, ai nấy đều nửa mừng nửa tủi. Sáu Đèo, Khách, Bích; con nhà kha khá còn được học . Số đông bạn đành chịu dở dang về lam lũ với ruộng vườn . Thương Tí Cộc , Tâm Hô theo cha chú làm phụ hồ tận Sông Bé, ngày tết vẫn không về được .
    Đêm đó , tôi ngồi bên nội cùng canh lửa cho nồi bánh nếp lá dừa, nghe bà kể chuyện người, chuyện đất ? Về giống quýt hồng nhờ ai mà có, về bao nổi gian lao của cha ông thuở mở đất, khai nguồn . Bà cũng phiền trách mấy đứa con của thím Sáu không chịu làm gì chỉ ham mê rượu chè, đàn đúm, ngày đêm cứ tơ tưởng số tiền đất sẽ được bồi hoàn .
    Tôi nghe mà lòng chạnh xót xa . Chợt nhớ lại ánh trăng đêm nào cùng lời ca cũ :?o Đất như người mẹ hiền tần tảo, vắt kiệt sức mình nuôi lớn các con ?? Và cũng đêm đó tôi mơ thấy những đoàn tàu chở đầy quýt đỏ, những áo màu dự lễ hội kỳ yên, nghe lại giọng hát hò trên cánh đồng lúa mới và tiếng chị tôi reo vui khi đàn kiến trở về ?.
    Lẽ ra, tôi không nên viết thêm những câu buồn bã vào cuối mẩu chuyện này. Không hiểu sao có những chiều như hôm nay, lẫn trong những kỉ niệm êm đềm nơi xóm Quýt, hình bóng chị Phương thân thiết lại cứ hiện về.Nhớ mà đau, cha chị mất sớm; rồi vì mẹ vì em, chị bằng lòng lấy chồng người Đài loan cao tuổi và nghe đâu phải lâm cảnh đắng cay, mặn nhạt ở xứ người? Những ngày nơi xóm Quýt xưa kia, chiều nào chị cũng sang nhà rủ tôi đi quét lá quýt khô để dành nhóm bếp. Có lẽ chiều nay chị âm thầm ngồi đâu đó một mình , nhớ mẹ nhớ quê, nhớ cả khói lên trời ?

    Bùi Thuỵ Đào Nguyên

    [​IMG]
    Được rongxanhag sửa chữa / chuyển vào 17:38 ngày 03/07/2007
  4. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Nhớ chùa Khải Tường

    Chùa Khải Tường được xây dựng vào thế kỷ XVIII, nằm trên gò đất cao thuộc trung tâm Bến Nghé xưa. Chùa thuộc ấp Tân Lộc, huyện Bình Dương, thành Gia Định (ở vị trí nay là Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh ,số 28 Võ Văn Tần ,quận 3,TpHCM)
    Năm 1791, Hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng) ra đời nơi hậu liêu chùa khi chúa Nguyễn Ánh về đây tị nạn binh Tây Sơn. Năm 1804, Cao Hoàng (Nguyễn Ánh) nhớ chuyện cũ. Để tạ ơn đức Phật đã che chở cho ông những tháng năm bôn tẩu, nên từ Huế, vua gửi vào dâng cúng chùa một tượng Phật Thích Ca lớn, cao 2,5m bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng (nay đang được trưng bày trong Viện bảo tàng lịch sử, bên trong Thảo cầm viên T.p HCM) .
    Năm 1832, Minh Mạng cho trùng tu chùa, kỷ niệm nơi sinh ra ông, vàng son tráng lệ một thời. Năm 1858, thực dân Pháp đánh phá cửa Hàn (Đà Nẵng). Năm sau lại vào tấn công Gia Định, giặc chia quân đóng rải rác tại Trường Thi, đền Hiển Trung và các chùa: Khải Tường, Kiểng Phước, Cây Mai v.v..
    Riêng chùa Khải Tường, viên quan ba Pháp tên Barbé nhận nhiệm vụ dẫn quân vào chiếm giữ.Y cho đem tượng Phật ra sân, cưỡng bức các sư phải rời chùa. Khi ấy, quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào Nam lập chiến tuyến Kỳ Hòa chống Pháp, và đêm 6-12-1860, binh ta phục kích giết chết tên quan ba này. Năm 1867, chùa bị giặc Pháp tháo gỡ, tượng Phật phải dời đi nhiều nơi, sau cùng được đem trưng bày tại nơi đã nói trên .Còn tấm biển ?oQuốc ân Khải Tường tự? được gìn giữ tại chùa Từ Ân (số 23 đường Tân Hóa, Q.6, TP. Hồ Chí Minh).
    Nói thêm, trước thiệt hại này,quân Pháp rất căm tức nên chúng ra tay cướp tấm bia đá do vua Tự Đức cho chở từ Huế về Gò Công để dựng ở mộ ông ngoại mình là Phạm Đăng Hưng, làm bia mộ Barbé ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (cũ).Mãi cho đến trung tuần tháng 7 năm 1998, tấm bia mới được dựng lên đúng địa chỉ, tính ra tấm bia đá mang hai tên người chết một Pháp một Việt này đã luân lạc đúng 140 năm !
    Và tên tuổi của chùa Khải Tường cùng tên quan ba Pháp còn được loan truyền qua câu chuyện dưới đây:
    Thời bấy giờ, ở Gia Định có một người con gái xinh đẹp, không rõ họ tên, chỉ nghe người làng thường gọi là cô Hai. Nhà cô làm nghề nông cũng vào hạng đủ ăn. Trong đám trai làng cô đặt nhiều tình cảm vào Trí. Trí, tên một chàng trai nhà nghèo học hành dang dở. Vì vậy lòng anh chỉ dám ước mơ hình bóng của cô?
    Năm thực dân Pháp vào đánh Gia Định, quân nhà Nguyễn từ Biên Hòa kéo vào kháng cự. Trong đó có một viên Lãnh binh lớn tuổi tên Sắc. Nhìn thấy sắc đẹp cô gái, hắn dạm cưới với một số tiền khá to và cha mẹ cô đã bằng lòng. Cô gái đành phải quên niềm riêng, rồi cô cũng như bao người dân yêu nước thưở ấy mang lòng căm thù giặc, nên vừa làm bổn phận người vợ vừa hết lòng giúp đỡ quân ta bằng cách thu gom lúa gạo cho đại đồn Phú Thọ.

    Phần Trí, để khuây nỗi đau riêng, anh hăng hái gia nhập vào lực lượng nghĩa quân.Vì việc chung, thỉnh thoảng cô và Trí vẫn đối mặt nhau. Viên Lãnh binh Sắc, tính tình vốn hà khắc không biết thương lính yêu dân. Một lần thua trận y bị quan trên khiển trách, sẵn mang tâm trạng buồn bực, nên khi nghe quân mật báo việc Trí thường thân mật với vợ mình, y ***g lộn ghen tức.
    Thế là hắn cho người giả danh cô gái mời Trí tới nhà bàn công việc gắp khi nàng Hai đang tắm trong căn nhà vắng vẻ. Do dàn xếp tình huống từ trước nên tên chồng nhanh chóng rời nơi ẩn nấp bước ra tri hô, ghép tội lăng loàn và cho lính đóng bè thả trôi sông cả hai người?
    Một hai hôm sau viên quan ba Barbé, đóng binh ở chùa Khải Tường đã nói ở phần trên, đang đi săn. Bất ngờ y gặp một bè chuối trôi trên đó có một người đàn ông và một người đàn bà. Tất cả đều trần truồng, bị buộc nằm sát vào nhau. Theo dòng, hai con sấu lớn hung hãn, quẫy đuôi bám riết đuổi theo bè. Hắn nổ súng, sấu sợ hãi lặn mất.Khi bè được vớt lên, người con trai(Trí) bị sấu cắn cụt mất một chân, đã chết.Phần người con gái (nàng Hai) còn thoi thóp thở.
    Sau khi được chăm sóc thuốc thang, ăn uống đầy đủ, nhan sắc cô gái ngày càng hấp dẫn trong đôi mắt viên sĩ quan này.Nàng giả vờ như yêu hắn, dùng lời ngon ngọt để xin về nhà và hứa sẽ cùng cha mẹ vào ở luôn trong bót đồn?
    Gặp nàng Hai về, tên Lãnh binh càng cảm thấy nhục nhã, xốn mắt. Nhưng hắn không dám ra tay đánh đập vì sau lần xử tội đó, cô đã không còn là vợ hắn nữa.Dù vậy, sẵn lòng hiểm ác hắn cho bắt cô gái rồi cáo buộc tội thông đồng, mãi dâm với giặc. Sắc cho lột truồng cô gái giam dưới hố sâu, cho ăn xương cá và cơm hẩm.May sao Trương Định đi tuần ngang, thấy bọn lính soi đuốc nhìn xuống hố, cười ầm ĩ. Quản Định lệnh cho đem cô gái lên và nghe biết hết mọi chuyện ngang trái này?
    Nơi chùa Khải Tường, Barbé thẫn thờ uống rượu chờ đợi cô gái. Hôm đó, trời vừa sụp tối, bọn lính canh chạy vào báo tin có một bà lão và cô gái khi nọ xin vào gặp quan lớn. Hắn mừng rỡ phóng ngựa một mình ra đón. Còn cách cô gái chừng mười thước, quân Việt mai phục hai bên đường ào ào ra. Ngựa bị giáo dài đâm ngã quỵ, nó hất Barbé té xuống và một ánh gươm loáng lên, đầu viên quan ba Pháp lìa khỏi cổ...
    Hơn hai tháng sau, viện binh của Pháp từ Thượng Hải kéo đến Sài Gòn rầm rộ. Sau vài trận ác liệt, chiến lũy Kỳ Hòa bị hạ.
    Sau những ngày mịt mù khói lửa ấy, không ai tìm thấy cô gái nơi đâu, chẳng biết sống hay đã chết... Nhưng trong dân gian còn truyền tụng mãi hình ảnh người thiếu phụ bị thả bè trôi sông và rồi đã góp công giết giặc...
    Chú Tư Ấn, làm nghề giăng câu ở Ba Bần, nói: chuyện ?oNàng Hai Bến Nghé? người ta đã soạn thành tuồng cải lương rồi, nhưng chú cũng xin góp thơ:
    ?oChuyện trăm năm cũ
    Phật cũng thăng trầm (*)
    Riêng lòng son đó
    Ra ngoài sắc, không?
    BÙI THỤY ĐÀO NGUYÊN
    - Tài liệu tham khảo: ?oGia Định xưa? của Sơn Nam.

    (*) Ý nói tượng Phật.
    [​IMG]
  5. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Đô đốc Bùi Thị Xuân
    nỗi ngậm ngùi bên cửa Nhật Lệ
    -?oNếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ(1) không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà??
    Triều vua Quang Trung có vài nữ tướng, trong số đó nổi bật hơn cả là Đô đốc Bùi Thị Xuân.
    I.Tiểu sử: Bùi Thị Xuân (裴氏~;?- 1802) Quê ở làng Phú Xuân, xã Bình Phú huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.Chưa rõ tên cha mẹ, chỉ biết bà là cháu thái sư Bùi Đắc Tuyên. Bà là người phụ nữ xinh đẹp, nhờ sớm học võ với đô thống Ngô Mạnh nên bà rất giỏi võ nghệ, nhất là môn song kiếm.
    Chuyện kể rằng, trên đường đến Tây Sơn tụ nghĩa Trần Quang Diệu (2) đã đánh nhau với một con hổ lớn, hung dữ. Nhân đi qua đấy, bà Xuân đã rút kiếm xông vào cứu trợ. Quang Diệu bị hổ vồ trọng thương nên phải theo bà về nhà chữa trị. Sau hai người thành gia thất rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc.Nhờ vào tài nghệ về chiến thuật, binh bị cộng với lòng dũng cảm; vợ chồng bà nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ dậu 1789 và so tranh quyết liệt với quân Nguyêfn Ánh hơn 10 năm ?
    Người ta còn kể, khi đến với Nguyễn Huệ, người con gái trẻ đẹp làng Xuân Hòa này không chỉ tòng quân một mình mà còn dẫn theo một đội nữ binh do mình đào tạo và một đoàn voi rừng đã được bà rèn luyện thuần thục.Trước khi gia nhập quân Tây Sơn, bà đã tự phong là ?oTây Sơn nữ tướng?. Sau này bà được hội kiến với Nguyễn Huệ, Huệ cũng thừa nhận bà rất xứng đáng với danh xưng đó; và vương còn ban tặng thêm bốn chữ ?oCân quắc anh hùng?.
    Giữa lúc Tây Sơn đang rất thành công với các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao và phát triển kinh tế thì đột ngột vào ngày 29/7/1792, Quang Trung (Nguyễn Huệ) mất, để lại nhiều thương tiếc.
    Cũng từ đây triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh ( Quang Toản) còn nhỏ, bất tài nên đã không giữ được việc triều chính, bị họ ngoại chuyên quyền, dẫn đầu số đó là cậu họ Thái sư Bùi Đắc Tuyên, làm cho các đại thần kết bè phái, quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi, khiến lòng dân vốn đã sống quá nhiều năm trong cảnh máu lửa càng thêm oán ghét cảnh phân tranh, loạn lạc...Và đây thật sự là một cơ hội vàng cho đối phương.
    Vì vậy, tức thì Nguyễn Ánh xua quân chiếm lại Quy Nhơn vào năm 1799. Bùi Thị Xuân cùng chồng một mặt tham gia củng cố triều chính, một mặt chỉ huy quân sĩ giữ lũy Trấn Ninh, chống lại quân Nguyễn.Tuy nhiên trước sức tấn công mạnh mẽ của Nguyễn vương, các thành luỹ của Tây Sơn nhanh chóng bị mất. Bà Xuân cùng chồng con bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An .
    Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí:
    Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời: Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với Chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Ánh gằn giọng: Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà đáp: Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà?
    Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân.Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi dày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế,ở đó khoảng 200 tướng lĩnh của nhà Tây Sơn đã hiên ngang ra pháp trường )
    Theo tư liệu của một giáo sĩ phương Tây De La Bissachère viết năm 1807- người có dịp chứng kiến - đã miêu tả buổi hành hình được tóm lược như sau:
    ?oĐứa con gái trẻ của bà ( Bùi Thị Xuân) bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến .Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy.Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách : Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta !?Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau đít con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời?Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo??(3&4).
    II.Những tư liệu liên quan :
    (1)Trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng:
    Tóm tắt theo Sử sách, bà Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ, từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi.Lúc bấy giờ Nguyễn vương cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân.Nào ngờ vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh.Ngay lúc đó bà cũng nhận được tin Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng . Trước tình thế đang thắng thành bại này đội quân của bà bỏ cả vũ khí, đạn dược để chạy tháo thân?
    Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế.Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa?

    *Trích thêm tư liệu cùng đề tài trong web vn thu quan :
    Bùi Thị Xuân đánh lũy Trấn Ninh, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp.
    Trong bài Bùi phu nhân ca của cụ Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì có đoạn rằng:
    Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
    Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào
    Hoàng hôn thành dốc bi già động
    Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
    Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
    Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc
    Thùy ngôn cân quắc bất như nhân ?
    Dĩ cổ phương kim tam đinh túc
    Nghĩa là:
    Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra.
    Gió xuân thổi máu bay thẩm đẩm tấm chinh bào
    Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn
    Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung
    Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân.
    Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà
    Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
    Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc
    Ðây là tác giả tả Bùi nữ tướng lúc đánh thành Ðâu Mâu (Trấn Ninh)
    Thành sắp hạ được thì có tin thủy quân Nhật Lệ bị quân nhà Nguyễn đánh tan. Nguyễn Quang Toản hoảng hốt ra lệnh lui binh. Không sao cản được, Bùi nữ tướng đành phải mở đường máu để lui binh?
    (2)Trần Quang Diệu ( T.???>1746?"1802) .
    Hiện có 2 ý kiến khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu. Một là ở xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định; và hai là ở xã Tú Sơn, huyện Đức Lân, tỉnh Quảng Ngãi.
    Ông tham gia phong trào Tây Sơn từ đầu .Năm 1789,ông được Nguyễn Huệ cử làm Đốc trấn Nghệ An, xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô. Những năm 1790 - 91,ông chỉ huy các cuộc đánh dẹp lực lượng chống đối do Lê Duy Chỉ cầm đầu. Năm 1792, Quang Trung mất, ông giữ chức Thái phó, là một trong "Tứ trụ triều đình để giúp vua Cảnh Thịnh(Nguyễn Quang Toản). Tuy vua mới hay nghe lời gièm pha nhưng vợ chồng ông vẫn tận tình giúp nhà Tây Sơn.Có thể nói thời bấy giờ, ông là chủ tướng quan trọng nhất trong việc đánh dẹp thế lực Nguyễn Ánh.
    Năm 1800?"1801, ông vây kinh thành Quy Nhơn cũ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) vừa mới bị quân Nguyễn Ánh đánh chiếm. Trận vây thành rồi bị cầm chân kéo dài gần một năm ở đây, tạo thời cơ tốt cho Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân rồi bắt sống Quang Toản.( tướng thủ thành của nhà Nguyễn là Võ Tánh tự vẫn chứ không giao thành ) Lực lượng của Nguyễn Ánh sau đó phản công ngày càng ác liệt .Cuối cùng Quang Diệu và vợ con đều bị bắt sống và bị giết

    Những bậc cao niên nhất trong tộc đã kể rõ rằng, sau khi ông chịu án, có hai người hầu thân cận đã lén đánh cắp được chỉ một mảnh áo nhỏ dính máu của ông để mang về táng trong ?omộ gió??
    (3)Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi.

    (4)Người đời sau có́ thơ vịnh bà:
    Vận nước đang xoay chuyê?n
    Quâ?n thoa cũng vẫy vu?ng
    Liê?u thân lo cứu chúa
    Công trận quyết thay chô?ng.
    Khảng khái khi lâm nạn!
    Kiên trinh lúc khốn cu?ng
    Ngàn thu gương nữ liệt
    Gương sáng hãy soi chung
    Và viết về bà (trích ?oCòn mãi đến bây giờ?. bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường) :
    Các gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh đã bị Gia Long giết sạch.
    Bà sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây Sơn
    Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng (nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà) ?bà còn giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ ?onhất đẳng điền? tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục héc-ta để lấy lúa nuôi quân?
    ?Chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng .
    ?Đó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm?Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quầm áo.Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ mười tám cho đến bây giờ !?
    III.Lời kết :
    Thật lòng nếu không đọc được bài bút ký của Hoàng Phủ vừa nêu trên, chắc tôi không có ý định tìm hiểu thêm về Bùi Thị Xuân và soạn lại đề tài đã được nhiều người luận bàn rồi. Nhưng chẳng hiều sao khi đọc trong sách sử đến đoạn Nguyễn Ánh dụ hàng vợ chồng Bùi Thị Xuân nhiều lần mà không được, khiến tôi nảy ra băn khoăn : Vua Nguyễn có ?omàu mè? không khi tánh vua vốn là người hay sợ, hay nghi kỵ người tài, nhất là vợ chồng bà đã từng là kẻ khác phía và đã bao lần khiến quan quân nhà Nguyễn phải điêu đứng ?
    Và ta nên hiểu chuyện Nguyễn Ánh dành cho gia đình họ những hình phạt quá thảm khốc như thế nào đây? Bởi lẽ nếu nhà vua sẵn tấm lòng khoan thứ; thật tâm mến mộ hiền tài, nhân cách ấy thì dù không chiêu hàng được, theo tôi, vua cũng sẽ lấy cái cớ ?oTrần Quang Diệu tha chết cho cả bọn tướng sĩ và còn sai người làm lễ liệm táng Võ Tánh & Ngô Tùng Châu tại thành Qui Nhơn vào năm 1801? để dòng tộc họ không bị giết sạch, gia đình họ được chết toàn thây hay chí ít ra cô con gái vô tội vừa vào độ tuổi xuân thì có được một con đường sống?
    Và ?ođó là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ?hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm?Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc??.Những câu văn giản dị này sao mà có sức gây nhói lòng người . Ngẫm chồng là Thái phó, vợ là Đô đốc, quyền lực nằm trong tay một thời gian dài, ấy vậy mà ?onhà cửa, của cải đơn sơ đến không ngờ?, chẵng đáng cho những người hôm nay tìm đọc về bà rồi sống tốt hơn sao ??
    Phụ chú: Tư liệu (cần xác minh thêm)
    Tương truyền Võ Văn Dũng và Bùi Thị Xuân có chung một nguồn gốc. Thời chúa Nguyễn (1533- 1775), hai anh em Lê Kim Bảng và Lê Kim Bôi gốc người Nghệ An vào lập nghiệp ở vùng Phú Phong. Để tránh sự chú ý của chính quyền về gốc tích của mình, họ hẹn nhau khi sanh con, cải sang họ mẹ. Sau Lê Kim Bảng lấy con gái họ Bùi ở Phú Phong, sinh hạ Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Thu và Bùi Thị Nhị, không có con trai. Lê Kim Bôi làm rể nhà họ Võ ở Phú Mỹ (?) sinh được con trai, Võ Văn Dũng là con út . Vậy Bùi Thị Xuân và Võ Văn Dũng là chị em thúc bá.
    Một thuyết khác cho rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân là ái nữ của Bùi Đắc Chí và gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, quê quán ở ấp Xuân Hòa khách hộ, thôn An Hòa, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, bà được theo đòi nghiên bút, lại khéo tay nổi tiếng viết chữ đẹp và công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Tuy vậy, địa thế và phong thổ ảnh hưởng rất lớn đến con người, quê hương bà chỉ có phía tây liền với Phú Phong, còn phía đông lấy suối làm ranh giới, nam giáp núi, bắc giáp sông; bà được hun đúc bởi đất hiểm nên không theo nếp nữ nhi thường tình mà thích võ hơn văn?
    Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
    [​IMG]
    Tượng Bùi Thị Xuân tại bảo tàng Quang Trung
    Được rongxanhag sửa chữa / chuyển vào 04:20 ngày 04/07/2007
    Được rongxanhag sửa chữa / chuyển vào 04:23 ngày 04/07/2007
  6. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn phụ trách web
    Mình muốn tạo chung cho mình 1 đề tài thôi và nó sẽ bao gồm tùy bút, truyện, biên khảo....Như thế này có phạm qui không ?
    Riêng bài biên khẳo (thí dụ như bài Bùi Thị Xuân mình đã post) thường dài vì nó chứa nhiều tư liệu. Vậy mình nên post lên cả bài hay chỉ nên giới thiệu + link để bạn nào quan tâm sẽ đến blog của mình ở yahoo đọc, để đỡ hao tốn tài nguyên của web này
    Xin bạn cho ý kiến . Thân
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
  8. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Bùi Hữu Nghĩa,
    Trong buổi ?ochiều mưa gió? của nơi vương triều Nguyễn
    Thủ Khoa Nghĩa là con người hiếu thảo, thương yêu vợ con; liêm chính, cương trực ở chốn quan trường. Đặc biệt ông luôn tha thiết với dân, với nước; bao giờ cũng rèn luyện & xem trọng hai chữ :làm người?

    I.Tóm tắt tiểu sử:

    Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh năm Đinh Mão 1807 (năm Gia Long thứ sáu) tại Rạch Bà Đồ, thôn Long Tuyền, phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh; nay thuộc phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ.Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm 1872 ( năm Tự Đức thứ 26), thọ 65 tuổi, an táng tại phần đất thuộc địa phận phường An Thới, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ hiện nay?
    Ông là một thi sĩ có tài, được liệt vào một trong bốn con rồng vàng ở Đồng Nai qua lời truyền tụng trong dân gian :
    ?oĐồng Nai có bốn rồng vàng,
    Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn,Nghĩa thi?.
    ***
    Bùi Hữu Nghĩa (BHN)là con ông Bùi Hữu Vị, sinh sống bằng nghề chài lưới.Ngay thời nghèo khó, ông đã nổi tiếng hiếu học, có chí cao :
    ?oChở cá giang hồ trăm chợ đủ,
    Ghe che phong nguyệt bốn mùa dư?
    (Hạ bạc)
    Thuở trai trẻ, ông được gia đình cho lên ở trọ nhà ông thủ hộ Nguyễn Văn Lý, làng Mỹ Chánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, Biên Hòa, thọ giáo với thầy Nguyễn Phạm Hàm, tục gọi là Đồ Hoành.
    Tháng 2 năm Ất Vị (1835) BHN đậu giải nguyên tại Trường thi Gia Định và được ông Lý tỏ ý gả con là Nguyễn Thị Tồn cho, nhưng ông xin khất lại chờ thưa qua cha mẹ. Một thời gian sau, BHN được bổ làm Tri huyện phủ Phước Long tỉnh Biên Hòa và chính thức kết hôn với Nguyễn Thị Tồn.
    II.Vụ án ở Láng Thé, Trà Vinh :
    Là một người áo vải xuất thân nhưng trọng liêm sỉ, BHN bước chân vào quan trường trong ?obuổi chiều mưa gió?nơi một vương triều rẽ chia, bất lực?; với ít nhiều hụt hẩng.Và ông đã sớm nhận ra số lớn quan viên chỉ là ?olục lục thường tài cũng một mòi?; họ luôn chực hờ thâu tóm lợi riêng, không mấy ai đáng mặt là rường cột của nước nhà:
    ?oĐành cột không nên rường chẳng hạp,
    Phải cơn nước lụt dấn thân bừa"
    (Cây dừa)
    Hoặc:
    ?oRường soi cột trổ chưa nên mặt,
    Cao lớn làm chi bần hỡi bần!"
    (Cây bần)
    Trong khi đó vận mệnh của cả dân tộc đang chơ vơ bên bờ vực:
    ?o Non nước hãy còn đương bấy bá,
    Đất trời sao nỡ khiến lay vay."
    (Ngọa bịnh ngâm thơ)
    Giữa lúc đang ngán ngẫm, triều đình chuyển BHN về trấn nhậm phủ Trà Vang, một nơi rất xa kinh kỳ. Và chính những điều trái tai gai mắt ở đây đã đẩy gia đình ông vào bi kịch.
    Thuở ấy phủ Trà Vang (Trà Vinh) thuộc tỉnh Vĩnh Long, dưới quyền cai quản của Tổng đốc Trương Văn Uyển và Bố chánh Truyện. Là một kẻ sĩ tự vượt khó lập thân, ông tỏ ra ?odị ứng? với đám quan lại dốt nát, tha hóa nhưng leo cao nhờ thân thế, nhờ luồn cúi. Tệ hơn nữa là bọn họ chỉ lo gây bè kết phái, cấu kết nhau bày vẽ hòng sách nhiễu dân lành vốn đã thừa khốn khó trong buổi loạn ly?
    Một lần do tánh cương trực,BHN đã cho lính đánh đòn một cậu công tử xấc xược với ông, vốn là em vợ Bố chánh Truyện và đã chuốc lấy mối hiềm thù?
    Nhắc lại chuyện cũ thời còn các chúa Nguyễn, Trà Vang đã là một địa bàn cộng cư của cả người Kinh, người Hoa nhưng đông nhất là người Khơ-me Những lúc bôn tẩu vì quân Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Ánh được những người gốc Khơ-me ở đây giúp đỡ lương thực; lại có một số dân vào lính lập được công lao, nên khi thống nhất đất nước, vua Gia Long (Nguyễn Ánh ) nhớ ơn, xuống chiếu miễn thuế khai thác thủy sản cho vùng này.
    Vậy mà, vào năm 1848 có một số người gốc Hoa đã lót tay bằng ?ophong bì? với những quan trên ở Vĩnh Long như Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện để ?omua thầu? độc quyền khai thác cá tôm ở rạch Láng Thé, đẩy người dân Khơ-me vốn nghèo thêm lâm vào cảnh trắng tay.
    Lẽ ra đây chỉ là một vụ việc nhỏ, có thể giải quyết một cách ôn hòa, nhưng do cái tâm luôn hướng về dân nghèo và quá bất bình trước việc làm khuất lấp, thỏa thuận ngầm của các quan trên, nên khi các hương mục Khơ-me kéo đến khiếu kiện ở dinh môn, BHN đã có bút phê vào đơn một câu gây hậu quả hết sức nghiêm trọng:
    -?oViệc tha thuế thủy lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ ban cho dân Thổ, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà dám đứng bán rạch ấy, thì có chém đầu nó cũng không sao!?.
    Đám dân nghèo gốc Khơ-me từ lâu bị dày xéo như giun dế, nghe lời phán xử, bèn hè nhau đến phá đập của những người gốc Hoa và hai bên xảy ra một cuộc xô xát đẫm máu làm thiệt mạng 8 người gốc Hoa.Thế là, bọn quan tỉnh đã sẵn mối hiềm khích từ trước nên nhân cơ hội này cho bắt một số người có liên quan và bắt luôn BHN tạm giam ở Vĩnh Long rồi giải về Gia Định, đệ sớ lên triều đình tố cáo ông đã kích động dân Khmer làm loạn, lạm phép giết người.
    Cho dù bị giá họa, bị đẩy vào ngõ cụt ; ông vẫn an nhiên với một tấm lòng ?o uy vũ bất năng khuất?:
    ?oMù mịt bởi mây che bóng nguyệt,
    Âm thầm vì trống lấp hơi còi?
    (Bị giam ở Vĩnh Long)
    Và khi hay tin triều đình kết tội chết cho chồng, bà Nguyễn Thị Tồn, vợ ông nhờ người em bạn dì là Quản Kiệm tìm cách tạm lùi ngày thi hành chiếu chỉ để bà có đủ thời giờ quá giang ghe bầu từ Định Tường (Tiền Giang ) vượt vô vàn hiểm nguy, sóng gió ra tận Huế đánh trống , đội đơn kêu oan
    Bấy giờ, Phan Thanh Giản đang làm Thượng thư bộ Lại ở triều đình. Bà Thủ khoa tìm đến tư dinh cụ Phan trình bày sự lộng quyền của các quan tỉnh Vĩnh Long, rồi nghe theo lời khuyên, bà đến Tam pháp ty gióng trống ?okích cổ đăng văn? kêu oan cho chồng, nêu cao một tấm gương ?oLiệt phụ khả gia? như lời ban tặng của bà Từ Dụ thái hậu.
    Sau sự kiện chấn động này, BHN được vua Tự Đức tha tội chết, song phải chịu ?oquân tiền hiệu lực?, nghĩa là phải làm lính ở Vĩnh Thông (Châu Đốc), đoái công chuộc tội.Vậy là sau gần mười năm làm quan, ông vì đám quan lại tha hóa ám hại nên gần như mất sạch.
    Nhưng đối với cái mất mát nơi chốn quan trường BHN không một lời than vãn, thì trước sự ra đi vĩnh viễn của người vợ hiền dám ra tận kinh đô kêu oan cho chồng, đã khiến ông đau đớn tột cùng.
    Chuyện kể, sau khi cứu được chồng, bà Thủ khoa từ kinh đô về đến quê hương của bà ở Biên Hòa, vì hao tổn nhiều tâm lực, khác phong thổ nên bà lâm bịnh nặng rồi mất và được an táng tại đó. Lúc bấy giờ Thủ khoa Nghĩa đang ở biên ải xa xôi nên khi đến nơi thì việc tống táng đã xong, ông đành làm bài văn tế muộn, một cặp câu đối( một Hán, một Nôm) với những lời lẽ hết sức chân thật, thống thiết :
    Cặp đối chữ Hán:
    ?oNgã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ
    Khanh bệnh, ngã bất dược; khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu?.
    (Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ/ Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng).
    Cặp đối chữ Nôm :
    ?oĐất chẳng phải chồng, bao nỡ thịt xương gởi đó,
    Trời mà mất vợ, thử xem gan ruột mần răng!
    Trích văn tế khóc vợ :
    ?oPhụng lìa đôi chếch mác, đừng nói sửa sang giềng mối, khi túng thiếu manh quần tấm áo, biết lấy ai mà cậy nhờ;
    Gà mất mẹ chít chiu, đừng nói nhắc biểu học hành, khi lạt thèm miếng bánh đồng hàng, biết theo ai mà thỏ thẻ?.
    Và một bài thi : Đề mồ nhà vợ
    ?oĐã chồng ba năm mới đặng thăm,
    Màng loan đâu vắng bặt hơi tăm
    Gió đưa, đâu thấy hình dương liễu,
    Đêm vắng, ai hoài tiếng sắc cầm.
    Chồng nhớ vợ, lòng tơ bối rối,
    Con thương mẹ, lụy ngọc tuôn dầm .
    Có linh chín suối đừng xao lãng,
    Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm ?T?T?

    III.Lúc ?oquân tiền hiệu lực?ở Vĩnh Thông, Châu đốc:
    Biên giới phía Tây Nam vào những năm sau 1835 là nơi hai dân tộc luôn va chạm nhau về quyền lợi, về đất đai? Do vậy, lực lượng biên phòng của hai phía thường xuyên va chạm.Trong một lần đối đầu,BHN và một số lính bị bắt. Nhiều người Khơ-me ở Láng Thé (Trà Vinh) hay tin kéo đến cấp trên của đối phương, kể hết đầu đuôi vụ án ngày nào và họ còn tha thiết xin thế mạng. Nhờ vậy, ông được phóng thích và đưa về Tịnh Biên (An Giang)?
    Và chính ở nơi biên cương hoang vắng này, hơn bao giờ hết, BHN càng thấm thía hai chữ ?ocông danh?của riêng mình, rồi càng buồn bã vì nạn dân, nạn nước :
    Qua Hà Âm cảm tác
    Mịt mịt mây đen kéo tối sầm
    Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm
    Đống xương vô định sương phau trắng
    Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
    Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
    Đèn trời leo lét dặm u lâm
    Nghĩ thương con tạo sao dời đổi
    Dắng dỏi(vang động ) đêm trường tiếng dế ngâm?.
    Như trong bài viết của tôi về Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa cũng sống trong thời kỳ phong kiến Việt Nam có nhiều biến cố.Nổi bật là cuộc đối đầu giữa dân tộc ta với thực dân bên ngoài. Là cuộc sống quá đổi bần hàn của người dân, vì giặc ngoại xâm, thiên tai gây mất mùa triền miên; vì nạn sưu thuế cao và bọn tham quan cường hào khiến loạn lạc xảy ra nhiều nơi ( các cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Dương, Lê văn Khôi, Nông Văn Vân, Lê Duy Cự vv..)
    Trước thực tại rối ren đó, một số quan lại yêu nước như Nguyễn Tư Giản, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông ?cùng những trí thức nặng lòng với non sông như Hồ Huấn Nghiệp , Nguyễn Hữu Huân, Phan văn Trị , Học Lạc vv?sinh lòng ngao ngán bởi một triều đình chỉ giỏi nghi kỵ, thâu tóm, đàn áp?nhưng lại tỏ ra hèn nhát, bất lực, không đoàn kết được dân tộc.
    Cho nên, mặc dù có nhiều cuộc kháng chiến anh dũng của những Trương Định, Nguyễn Trung Trực,Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân ?và một số trung thần dốc sức chống đỡ như Tôn Thất Hiệp, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu ?Nhưng cuối cùng, đất nước ta cũng mất dần vào tay ngoại xâm .
    [​IMG]
  9. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    IV. Tâm trạng BHN qua vài tác phẩm tiêu biểu của ông:
    Có thể nói những áng thơ văn của họ Bùi cũng như nhiều kẻ sĩ yêu dân yêu nước thời kỳ vừa kể trên, ít nhiều đều bộc lộ nỗi đau xót này. Xin trích vài bài để ta cùng cảm thông những gì luôn nung nấu nơi tim ông :
    Thời Cuộc
    Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây
    Đâu để giang sơn đến thế này
    Ngọn lửa Tam Tần phừng đất cháy,
    Chòm mây Ngũ quý* lấp trời bay
    Hùm nương non rậm đang chờ thuở,
    Cáo loạn vườn hoang thác có ngày
    Một góc cảm thương dân nước lửa,
    Đền Nam trụ cả há lung lay.
    (*2 điển tích Tàu, dùng mô tả đất nước bị chia cắt, loạn lạc )
    Và:
    Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?
    Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba
    Hẳn hoi ít mặt đền ơn nước ,
    Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà
    Đá sắt ôm lòng cam với trẻ
    Nước non có mắt thấy cho già
    Nam kì chi thiếu người trung nghĩa,
    Báo quốc cần vương dễ một ta !
    Rõ ràng một người sẵn có tấm lòng như vậy khó ?ođội đầu? hoài một triều đình như vậy. Thế nên năm 1862, khi triều đình ký hòa ước cắt ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp, ông bất mãn xin từ quan, ôm ấp chí cao khiết :
    Thú câu
    Danh lợi màng bao chốn cửa hầu
    Thanh nhàn quen thú một nghề câu
    Giăng đường chỉ mảnh dòng khơi lộng,
    Thả miếng mồi thơm vực cạn sâu
    Khói nước Ngũ hồ tình cả đẹp,
    Gió trăng kho cũ cảnh riêng mầu
    Bá vương hội cả dầu chưa gặp,
    Thao lược này ai biết đặng đâu?
    Về lại rạch Bà Đồ quê cũ, ông mở trường dạy học, bốc thuốc , làm thơ, soạn tuồng và giao du với những bè bạn đồng chí hướng của mình như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Phan Tôn, Phan Liêm, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự?
    Theo sách Biên Hòa sử lược, dù đã từ quan, nhưng BHN đâu nỡ ngồi nhìn nhân dân lầm than, đất nước bị giày xéo, nên ngoài mặt ông lo việc dạy học, nhưng bên trong ông thầm tham gia nhóm Văn Thân do Thủ khoa Huân lãnh đạo chống thực dân.Khi khởi nghĩa bị phá tan, ông bị giặc bắt giam vào nhà tù Vĩnh Long (1868).Sau nhờ Tôn Thọ Tường can thiệp nên ông mới được tha.
    Nói gọn lại BHN là một viên quan cương trực, thương dân nghèo, bênh vực nguời hiền lành nên bị bọn quan lại biến chất trù dập. Là một nhà thơ yêu nước, ông đã dùng ngòi bút của mình mượn đề tài vịnh vật, vịnh sử để phê phán bọn bán nước , bọn xôi thịt và gửi gắm nỗi lòng mình .
    Tuy đôi lúc trong thơ văn ông, cũng như nhiều nhân sĩ cùng thời không sao tránh khỏi nỗi buồn hiu hắt của một nhà nho cảm thấy bất lực trước ?ocổ xe vận mệnh? của non sông, của dân tộc đang trượt dài:
    -?Tu mi tự đắc bá phu trưởng
    Tái thượng sa đà niên hựu niên
    (Vĩnh Thông đồn trấn)
    Dịch nghĩa :
    Kẻ mày râu lấy làm đắc chí hơn được nhiều người,
    Thế mà phải lần lữa ở cửa ải hết năm này đến năm khác
    -Biên châu nhất trạo tri hà vãng
    Tháp thượng đàm tâm tửu mãn tôn
    (Thu cảm )
    Dịch nghĩa :
    Con thuyền chèo một mái không biết đi đâu
    Trên mui thuyền ngồi tâm sự, rượu đầy chén
    -An đắc sơn hà y cựu nhật ,
    Càn khôn túy lúy nhất tao ông
    Dịch nghĩa :
    Ước gì non sông trở lại như ngày cũ,
    Ta sẽ say tràn trời đất, làm một thi ông
    (Tức Sự )
    Và Tự thuật :
    I. Râu tóc giục ta già,
    Gan ruột khó bày ra
    Mong cùng cảnh xuân cả,
    Ước Bắc Đẩu chiếu qua?
    II.Mưa đổ, trời như thủng
    Triều dâng nước chảy tràn
    Đường đời bùn nước lấm,
    Vườn tược cỏ mọc lan
    Muỗi như sấm quanh gối,
    Ếch tựa trống chiều ran
    Tóc sương thương đời lụi,
    Rượu một chén sầu tan .
    (Bài thơ dài, nên chỉ chép phần
    dịch thơ của Nhà thơ Vũ Đình Liên )?
    V.Tạm kết chuyện :

    Tôi muốn chép lại mấy câu cuối cũng do tôi viết ở bài Nhớ Nguyễn Thông để làm đoạn kết cho bài viết về một nhân cách lớn phải nhỡ nhàng trong buổi nhiều mưa gió này.Bất ngờ chú Bảy tạt qua nhà có ghé mắt xem và ngỏ ý góp thơ.Vì vậy tôi chép nguyên văn mấy câu của chú ra đây; vừa để bạn đọc cảm thông tình ý của một người nuôi cá da trơn, vừa để xin kết thúc chuyện:
    Đọc thơ Bùi Hữu Nghĩa, cảm tác
    Người xưa làm thơ
    Sẻ chia phận đời cùng cực
    Để nói lên?
    Mặc vua chúa buộc ràng
    Thơ hôm nay
    Xin đừng giống phim Hàn Quốc,
    Giả dối khóc cười, thừa thãi hợp tan?
    Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn
    *Thêm vài tư liệu liên quan :
    1. BHN để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như :Kim thạch kỳ duyên (tuồng), Quan công thất phủ hạ bì, Hạ ám mộ cảnh, Văn tế vợ,Thơ khóc vợ, Tây du, Mậu tùng vv?
    Riêng vở tuồng ba hồi ?oKim Thạch kì duyên? mang nội dung thuật lại cuộc tình duyên đầy sóng gió giữa chàng Kim Ngọc & nàng Thạch Võ Hà . Qua đó ông ca ngợi tình yêu chung thủy, đấu tranh với cái ác, khinh ghét kẻ tham vàng bỏ ngãi,?Cùng với các vở của Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, vở tuồng này đánh dấu sự chuyển biến của tuồng VN cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20.
    2.Theo sách Biên Hòa sử lược:
    -Sau khi vợ mất và BHN hãy còn làm lính ở Vĩnh Thông, ông có làm lễ đính ước với Lưu Thị Chỉ, con ông xã trưởng Lưu Văn Dự, người ở tại nơi đấy.Nhưng không dè khi ông được lệnh đi sang Xiêm (1857,?), bên đàng gái vội bội ước đem hôn thê của ông gã cho Đề Đinh, thế người chị tên Lưu Thị Ý (Hoán ) cho ông.Vì lẽ đó BHN soạn tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên nhằm khéo chỉ trích lòng dạ mau đổi thay của những con người này.
    -Nơi đặt phần mộ của BHN bây giờ, khi xưa là vườn Vĩnh Lộc của Đốc Phủ Dương Tấn Hỹ. Và tấm bia mộ ông có khắc mấy chữ:
    ?oĐại Nam Hiển khảo
    Giải nguyên Bùi phủ Quân chi mộ
    Nam: Bùi Hữu Tú kĩnh lập?
    -Và tại chùa Nam Nhã (nơi từng lưu dấu chân của Phan Bội Châu, Cường Ðể, Ngô Gia Tự); đình Bình Thủy (đều ở phường Bình Thủy,Tp Cần thơ) đều có ba bài vị thờ ông và hai người vợ của ông .
    3.Do rạch Bình Thủy có hình tựa con rồng nằm, nên từ lâu người dân nơi đây còn gọi là Long Tuyền, đấy một làng cổ tiêu biểu ở miền tây Nam bộ. Hiện nơi này còn nhiều đồ cổ, kiến trúc xưa; và phong cảnh cây trái xum xuê, nếp sinh hoạt của dân, phảng phất ít nhiều hương vị cũ?
    4. Tài liệu tham khảo :
    -Hợp tuyển thơ văn VN 1858-1920.Nxb Văn Học 1984
    -Theo www.sokhcn.cantho.gov.vn
    -Theo Phương Huy, báo Điện tử Cần Thơ
    -Biên Hòa sử lược toàn biên, Lương Văn Lựu, 1973
  10. rongxanhag

    rongxanhag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/04/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    ĐN vui vì các anh chị trả lời sớm.Nhưng Nguyên không thấy công cụ nào để sửa tên chủ đề.
    Vậy phiền anh chị xóa đề mục :Tùy bút BTDN, thay bằng:Bài viết của BTDN cho chính xác hơn, giúp N nhé.
    Thân

Chia sẻ trang này