1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    Trịnh Công Sơn, Nơi Vùng Ưu Tư Thành Tiếng Du Ca


    Thái Kim Lan​
    Như một sợi chỉ luồn theo cây kim, tin Trịnh Công Sơn mất đến với chúng tôi trong buổi tưởng niệm ngày giỗ thứ 40 năm của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị tại nhà văn học nghệ thuật ở đường Lê Lợi Huế. Tối ấy anh em nghệ sĩ đến nghe bình thơ khá đông, chúng tôi, chị Hỷ Khương, Bửu Ý, Gia Phàm, Như Ngân, Xuân, Xuân Quế, tôi và một số anh chị em nghệ sĩ khác đứng xúm vào nhau, nghe sợi chỉ theo cây kim níu mình xích lại gần hơn một tí với người bạn bên mình trong nỗi nhói đau một chút nơi tim.
    Bỗng nhiên ít lời, một chút cay nơi mắt, một chút rã rời nơi vai, chúng tôi đứng như thế quây quần chôn chân, hình như có ai nói như một lời vĩnh biệt nủa buồn nửa vui: "Thôi rứa là từ nay hắn bỏ mình đi rong chơi chỗ khác... hắn bỏ đi thiệt rồi!"
    Cái tên lãng tử nhu mì này! Tiếng hát lênh đênh, "chén rượu say uống hoài", rong chơi cả một kiếp người, bây giờ dứt áo ra đi ?~lìa bầy, chim bỏ đường bay?~, thỏng tay viễn du nơi chốn nghìn trùng...
    Sơn ra đi! Cái vòng quây quần - như chúng tôi đang đứng với nhau chiều hôm ấy, nhiều đứa tóc đã rối bời sương muối - cái vòng bạn bè hay cái vòng tử sinh của thế hệ thập niên 40-60 chúng tôi, như chúng tôi đã thường đứng hay ngồi như thế mỗi khi gặp nhau ở lứa tuổi 20, như sút đi chốt mộng, chùng giây, tuột phím... cái vòng lỏng lẽo, rã rời!
    Dẫu biết rằng trong mấy mươi năm hễ ở đâu có Sơn và tiếng hát của Sơn thì cái vòng này càng nớirộng ra,như những làn sóng, khởi đầu từ một điểm xoáy nơi nào đó ở Huế, có thể nơi khúc sông Bến Ngự, hay nơi hồ Tịnh Tâm, hay ở bến Bao Vinh, hay ở đồi Vạn Niên, ở đó Sơn ném một viên sỏi là tiếng hát của mình vào đấy và làn sóng lan ra, từ thế hệ chúng tôi cho đến thế hệ trẻ ngày hôm nay, từ Huế đến Sài-Gòn, Hà Nội, Cà Mâu hay Lạng Sơn, vượt qua mấy lần đại dương và cái vòng quây quần quả đất bao la, hôm qua, ngày nay và có lẽ mai sau...
    Sơn là Tiếng Hát Trịnh Công Sơn của Mọi Người.
    Nhưng chiều hôm ấy tôi vẫn thấy - hay bởi mình muốn thấy như vậy - Sơn như vừa mới đứngdậy rangoài châm điếu thuốc, rồi sẽ trở lại ngồi giũa chúng tôi, trong vòng bạn bè, có thể chỉ là ba, hay bốn, hay mười, hay hai mươi đứa, ở Huế, tại nhà một người bạn nào đó, Chỉ, Ý, Tường, Tôn, Hùng, MLan, KLan, Điền, Hạnh, Thọ, Kỳ, Lý... ở nơi điểm xoáy sâu nhất của sông Hương, là vùng tâm tư của những người bạn đang tuổi thanh xuân, ngồi yên, ít lời, đôi môi mỏng thoáng nụ cười, mi mắt chớp sau gọng kính trên chiếc mũi thanh, lắng nghe những nỗi sôi, những phiền muộn quanh mình, như lắng nghe chính con tim mình... trong vùng tôi xin gọi là vùng ưu tư của Huế những năm 60.
    Vòng Bạn Bè
    Chính trong những năm tháng ấy lần đầu tiên tôi gặp bộ ba - chữ của HPNTường - Tường - Cường - Sơn. Nguyên do thật là rất Huế, có thể tìm thấy rải rác đâu đó trong các bài hát của Sơn.
    Một buổi chiều nắng vàng chiếu nghiêng trên nón lá, đường phố chính vắng người, không gian yên tĩnh có thể nghe thấy cả tiếng thời gian, chỉ có rộn rã tiếng guốc của mấy cô nữ sinh viên - đã có thể là BDiễm, TMai, Han, KLan hay MH, NB, DL, KL - đi dạo phố mua sách vở, tà áo lụa lướt bay trong nắng, bụi mờ đàng xa, và có một chàng trai xa lạ nào, có lẽ từ xứ Quảng ra, "chiều một mình qua phố", đang đứng ngơ ngác nhìn đường phố, bỗng tà áo lụa như có sức hút nam châm, chàng trai thấy mình thơ thẩn bước theo.
    Chiều hôm sau nghe báo có anh Tường đến thăm mượn sách, lúc ấy anh Tường tuy đã đi dạy văn nhưng học thêm môn cử nhân triết cùng khóa với tôi, anh đến với hai người bạn nữa, cái người hôm qua đi theo tà áo lụa và người kia là Sơn, "đi theo cho vui" như Sơn bảo. Chiều hôm sau nữa thì tôi cũng biết thêm là trong nhóm bạn của mình, có đứa là bạn của Sơn.
    Huế nhỏ bé là như thế ấy, người này là bạn của bạn cuả bạn của bạn... và bạn bè thành ra những vòng tròn quây quần với nhau. Chỉ cần một tiếng "Ới!" của thằng bạn ở trước ngõ là đứa trong nhà đã vội vàng với cái mũ bê-rê dắt xe đạp ra mà đi rong suốt ngày làm cho cả nhà chới với chờ cơm... HPNTường hôm ấy thao thao, vì lấy cớ đi mượn sách nên phải nói về sách. Chúng tôi trao đổi với nhau một vài đoạn về chủ nghĩa hiện sinh trong cuốn Hữu Thể và Hư Vô của J. P. Sartre, một chút về ý niệm thời gian của Heidegger, mà chúng tôi đang đọc ở trường.
    Sơn ngồi nghe chúng tôi bàn cải, phân tích, hình như Sơn không bao giờ thay đổi dáng ngồi của mình, khi nào cũng như thế, tham dự nhưng không ồn ào, hiền hậu và luôn luôn thoải mái như khi ở giữa đám bạn thân, lắng nghe, chú ý mà không chút chi cố gắng, ít tranh cãi, dễ thân thiện tự nhiên, một chút phù phiếm và mỏi mệt nơi dáng người, và ánh mắt xa xôi với những chuyện cãi vã cốt dành phần lý về mình cũng như với mục đích khoa danh mà mỗi người sinh viên Huế thời ấy thường đặt ra cho mình.
    Gió Phương Tây
    Chủ nghĩa Hiện Sinh với Heidegger, Sartre, A. Camus, phong trào điện ảnh với Jean-Luc Godard, thể điệu chanson với Juliette Greco, Francoise Hardy ở phương Tây đã đến với lớp trẻ chúng tôi trong những năm của thập niên 60 như một làn gió chướng thổi qua cái thành phố Huế, nhỏ bé, đóng khung, còn rất cổ kính trong cách nghĩ, cách làm ấy.
    Những danh từ như hiện sinh buồn chán, xao xuyến, hư vô, thời gian, hữu hạn và vô hạn, buồn nôn, thân phận con người, sự vô nghĩa của cuộc đời, nỗi hoài công phi lý của Sisyphus(1), ý niệm về siêu hình, bản thể học đã như những tiếng gõ bí ẩn vào cánh cửa tâm hồn của lớp thanh niên trẻ chúng tôi thời ấy như những mời gọi phiêu lưu vào những vùng đất lạ của tri thức. Bây giờ nhìn lại thì thấy mình dại khờ, bởi chính những tư tưởng mới này chẳng có chi là mới so với triết lý Phật giáo cả - thế nhưng lúc ấy chúng có một sức thu hút quyến rũ kỳ lạ trong cái khung cảnh đều đều êm đềm của xứ Huế, thành trì của thủ cựu và khuôn sáo, là những hàng rào ước lệ mà lớp trẻ thường hay muốn vuợt qua.
    Chúng tôi thường gặp nhau để kể cho nhau nghe về một quyển sách đã đọc, soạn bài, tranh luận. Và có lần với cây đàn ghi-ta, Sơn bắt đầu hát cho chúng tôi nghe.
    Ưu Tư và Du Ca
    Khi nghe Sơn hát tôi giật mình. Vì Sơn hát... môn siêu hình học về cuộc đời, về tình yêu đó! cái môn mà những con sâu gạo triết - như Đinh Cường vừa nhắc lại, là chúng tôi đang còn điên đầu vật lộn với nó, nhưng ngược lại, chẳng có một chút khô khan, trừu tượng, gượng ép hay kỳ quặc gì cả, Sơn đã hát triết học như một bà mẹ Huế có giọng nói hay nhất trên đời kể câu chuyện cổ tích Tấm Cám.
    Như một con ve vừa mới thoát xác lần thứ mấy mươi nghìn năm từ lòng đất của Huế, đã đi về thường xuyên trong tâm thức Huế, đã rung động và cảm ứng với trời đất Huế, với một âm điệu giản đơn thoát từ gam trầm của giọng Huế, Sơn đã trả lời trong cảm ứng vô thức những tiếng gõ cửa từ phương xa và giải thể chúng tôi ra khỏi ngõ bí của tư duy.
    Trong cái không khí sôi nổi của tuổi trẻ đô thị ham mê siêu hình, Sơn đã bắt đầu hát thay vì cãi nhau, thay vì lý luận dông dài với đám bạn bè, với cả thiên hạ, Sơn hát cho vui với anh em như Sơn thường nói, Sơn hát như một sự tham dự vào những đàm luận của bạn bè thuở đó và về sau của cả thiên hạ, mà đúng thật, Sơn hát với những ưu tư thâm kín nhất của tuổi hai mươi chúng tôi, với những tư duy của thế hệ trẻ chúng tôi và với một cách đặt vấn đề - biệt ngữ của phong trào học triết học siêu hình thời ấy, khác với những người nhạc sĩ đi trước.
    Sơn hát như cách thế cổi dép đội lên đầu đi ra khỏi giảng đường của Thiền sư Triệu Châu(2) không phải là để bỏ đi, từ chối, mà là một cách thế mở ngỏ cho sự sống như Triệu Châu.
    Hãy xem: Sơn hát đề tài có cái gì là khởi đầu, có gì là cái cuối cùng - ngõ bí của triết học đấy, nhưng với chất keo của một điệu ca bông đùa diễu cợt, và một chút ranh mãnh hiền triết của một thiền sư thỏng tay vào chợ, Sơn hát "không có chi đâu này, là có cái chết đầu tiên, không có chi đâu này, là có cái chết cuối cùng... ", hát như con bê điên cứ đánh lưỡi tùy theo cảm hứng của nó lúc chạy theo chế diễu mọi người ở trên một đường phố nhỏ của Huế. Người nghe có thấy mâu thuẫn hay không cũng phải mỉm cười, và bỗng ngộ được tính phi lý của sự đối nghịch trước sau.
    Sơn hát đề tài bản thể và hư vô và nhắc chúng tôi tìm về dòng sông Hương nhìn nước chảy, để thấy hay nghe "tay hư vô thắp nến, chiều chơi vơi lên cao, rồi dòng sông cũng qua mau, đưa người gợi mối sầu... " trong một giai điệu tiếng nước chảy ngược về nội tâm, để thấy sông không chảy mà tâm mình đang chảy. Ai định nghĩa được hư vô? Khổng tử cũng đã đến dòng sông để thể nghiệm với tiếng thở dài: Nước trôi mãi như thế ư ? Phạm Duy hát "im nghe nước chảy về đâu" trong một cảm giác buồn bã trôi xuôi. Với ý niệm hư vô, Sơn đặt lại vấn đề và giải mã sự biến đổi, sự trôi chảy của giòng sông với cảm tính triết học của mình trong âm giai sâu lắng, giữa tỉnh và mê, giữa buồn bã và giác ngộ.
    Sơn hát đề tài nỗi hoài công của Sisyphus bằng tiếng vang của vết lăng trầm... phiến đá... ưu phiền... của một cuộc đời phiêu lãng quên tuổi xanh... quê nhà xa vời vợi... cô liêu vây quanh, của mùa thu bay đi với vòng tay buồn ôm nuối tiếc và đưa ta về với khung cảnh Huế - không phải Huế thơ mộng mà là một Huế như chốn lưu đày đồng thời là quê nhà trong nỗi nhớ, bằng một tiếng than dài như xâu chuỗi âm hưởng quấn quýt luân hồi.
    Cũng phải nói thêm rằng thuở ấy, việc đi hát đối với các vị cha mẹ người Huế là một chuyện đáng nghi ngờ, nền nếp gia phong được rào lại kín cổng cao tường, không ai muốn cho con mình đi hát... hỏng đàn đúm rong chơi với những kẻ lãng tử giang hồ. Những bài hát mới do đó đối với chúngtôi thườngnhư những trái cấm.
    Cho nên bài hát đầu tiên của Sơn mà chúng tôi hát là một bài hát chuyền tay nhau : « Nhìn những mùa thu đi ».

    « Nhìn Những Mùa Thu Đi » Và Huế 1963.
    Bài ca có lẽ đã bỏ trong túi lâu ngày, chưa đưọc phổ biến, đến tay chúng tôi thì mực đã nhạt nhoè, chúng tôi xúm nhau lại trên thềm xi măng của một gian phòng rộng lớn gọi là hội trường của Nha cảnh sát TNTP (Bây giờ là Ðại học Sư Phạm Huế) lúc ấy tạm sử dụng làm phòng giam những thành phần trí thức Phật tử trong phong trào đòi bình đẳng tôn giáo do việc cấm treo cờ Phật giáo vào ngày Phật Ðản 1963 và việc xe tăng cán chết 14 em trong gia đình Phật tử vào đêm Phật đản tại thành phố Huế, để tập hát, chúng tôi, sinh viên Phật tử, gia đình Phật tử, các giáo viên và giáo sư đều đồng thời bị bắt một loạt trong đêm 20. 08. 63, đêm các chùa bị tổng tấn công trên khắp miền Nam VN , có người đang ngủ ở nhà cũng bị mời vào, như trường hợp của HPNTường,- hồi ấy HPNT không nằm trong Ðoàn SVPT,- trong túi áo của anh, mảnh giấy « Nhìn những mùa thu đi » đã trở thành bài hát « cho đỡ buồn » (cũng như Sơn đã nói hát cho vui) trong suốt những ngày tháng bị giam cầm của chúng tôi.
    Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi? « tay trơn » trên nền nhà, trẻ măng là mớ tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những đợi chờ của tuổi hai mươi,- và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng « Nhìn những mùa thu đi »?
    Buổi sáng sớm, khi mưa vẫn còn rỉ rả ngoài sân, nhóm phụ nữ còn nằm trên ? » sân khấu « của hội trường ?" (hội trường là nơi tạm giam chung nam nữ những thành phần trí thức và sinh viên, học sinh Phật tử đã biểu tình, tuyệt thực chưa được định tội rõ ràng - vì tội trạng chưa được rõ ràng và được xem là những thành phần không « đáng để ý » nên chúng tôi có thể di chuyển thoải mái trong phòng và được đối xử tương đối tử tế, ban đầu có đến hơn 500 người, sau đó được thả ra dần hoặc chuyển đi nơi khác, còn lại khoảng 50, 60 mươi người, được chúng tôi lấy ghế ngăn lại làm hai trạm nghỉ : phần trên sân khấu dành cho phụ nữ cắm lều mùng mền, phần dưới sân khấu dành cho nam giới cắm trại) thì chúng tôi đã được điểm tâm bằng tiếng huýt sáo của ai đó đứng ngoài hiên nhìn mưa. « Nhìn những mùa thu đi, anh nghe buồn lên trên ấy, nhìn lá rụng ngoài sân?», buổi xế trưa bỗng nghe có ai cao giọng lê thê « Gió heo may đã về, chiều tím dâng vỉa hè nhìn mùa thu bay đi » và buổi tối có giọng ai âm thầm ở trong một góc phòng của hậu trường « và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng, nghe tháng ngày chết trong thu vàng?thương cho mình ?lạnh lùng thêm »
    Chưa bao giờ trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài hát nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp 3 tháng như thế. Bài nhạc thật là đơn giản về âm giai thể điệu, đề tài mùa thu, một đề tài quen thuộc trong thi ca rất dễ bị rơi vào sáo ngữ, đã có « Tiếng thu » của Lưu Trọng Lư không tiền khoáng hậu, đã có « Giọt mưa thu » của Ðặng thế Phong khó quên trong lòng người, « Thu vàng » của Cung Tiến âm vang, nhưng « Nhìn những mùa thu đi » đã là bước đầu thành công của cuộc hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn.
    Có thể nói hành trình ca khúc TCS thực sự bắt đầu từ « Nhìn những mùa thu đi » chứ không phải « Ướt Mi », dù « Ướt Mi » đã làm cho người ta biết đến Sơn.
    Bởi vì với « Nhìn những mùa thu đi » Sơn đã đưa chúng ta đến một cảm nhận mới, một thể cách « tân thanh » đến từ chính ý thức của người nghe : chúng ta hát « Nhìn những mùa thu đi » bằng mỗi « Cái Nhìn » mùa thu như một thể cách « mình biết riêng cho mình », một thể nghiệm riêng cho mỗi cảm nhận lời ca của mỗi một cá nhân. Chúng ta hát « Cái nhìn » của chúng ta, vào một buổi sáng mai thức dậy bỗng nghe gió heo may lùa vào khe cửa hay vào một buổi trưa nắng le lói trên vỉa hè của đường phố thưa thớt người qua lại hay vào buổi chiều tím bên song. Nỗi « Nhìn » mùa thu trở thành sự rung động mùa thu.
    Tôi nhớ đến chữ « Kiến Tính » của Huệ Năng khi ngài xây dựng quan điểm thiền học mới mẻ của mình , thay vì « Thân thị Bồ đề thụ?Tâm như minh cảnh đài » của Thần Tú, Huệ Năng đã đổi cách nhìn cuộc đời một cách vật lý so sánh thụ động bằng «Cái Nhìn » sinh động vào bản chất thực sự của sự vật trong tính chuyển đổi sáng tạo của nó « Bồ đề bổn vô thụ, Minh cảnh diệt phi đài ». Với « cái nhìn vô niệm » vào diệu dụng của « vô » và «phi » Huệ Năng đã đưa Thiền học vào một con đường dẫn đến giác ngộ đầy sinh động và sáng tạo.
    Cũng thế, trong hành trình ca khúc của Sơn, với « Nhìn » « những mùa thu đi » theo tôi nghĩ Sơn đã mở ra bằng « Cái Nhìn » của mình một thế giới âm thanh mới và khác lạ, thể cách và âm điệu sinh động vượt ra khỏi những cảm nghĩ khuôn sáo cũ, đi thẳng vào tâm thức người nghe, làm tiền đề cho tiếng hát Trịnh Công Sơn, và có lẽ đã là không phải một trùng hợp ngẫu nhiên mà trong tiếng hát TCS chữ « vô » (hư vô, vô thường) đã được ngâm nga một cách tân kỳ so với lời ca của những người đi trước và người đồng thời, ngoại trừ âm nhạc Phật giáo.
    Chỉ khác nhau ở một cách đặt vấn đề, với bài hát mùa thu bằng « Cái Nhìn » mùa thu, có thể nói hành trình ca khúc TCS đã từ giả khuôn khổ của âm nhạc Việt nam trước đó để cảm ứng được những trầm tư, thao thức và khát vọng của thế hệ của chính mình và thế hệ kế tiếp mà khởi sắc giai điệu riêng tư của mình.
    Mỗi khi nghe giai điệu ca khúc TCS, âm hưởng của tiếng ca đi vào lòng người một cách tự nhiên như dòng nước chảy, ta có thể nghe và hát mấy mươi lần một bài mà không chán, tôi cứ nghĩ rằng Sơn đã nắm được yếu tố cốt tủy của âm thanh trong lòng đất Huế, đã triển khai được âm giai trầm của tiếng Huế làm thành thể chất căn bản cho ca khúc, như có lần tôi đã nghe được một công án của Phật : « Có vị Sa môn ban đêm tụng kinh tiếng nghe rất buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì đã làm gì ? Thưa thường đánh đàn. Dây đàn dùi thì thế nào ? Thưa không kêu. Dây đàn cao thì thế nào ? Thưa mất tiếng. Cao dùi vừa phải thì thế nào ? Thưa âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ tâm trí chừng mực thì đạo phải được. » (Bài kinh số 33 trong Kinh 42 Chương, Trí Quang dịch)
    Âm điệu trong nhạc TCS cũng thế, đã tùy tâm để thể hiện âm thanh, cho nên nốt nhạc không bao giờ bức xé cũng như không bao giờ quá thấp để không có thể hát được, âm thanh chậm rãi, lưu luyến chảy vào tâm thức như một ý tưởng, một suy tư đang được ánh trăng thanh lọc khỏi những nứt rạn khô khan, cằn cỗi, gượng ép của tư tưởng mà trở thành dòng suối tâm thức tuôn chảy không ngừng.
    Nhiều đêm nằm thao thức, nghe bài ca « đi về » « xuôi ngược » dội vào tim, tôi như trực cảm rằng trong bước đầu sáng tạo, Sơn đang từ trong giảng đường đi ra, vừa đi vừa làm một tiểu luận về, nghe buồn cười nếu tôi nói tiếp, « hữu thể và thời gian » của Heidegger và « Nhìn những mùa thu đi » là một bài tiểu luận về ý niệm thời gian mà TCS đã « điểm nhãn » bằng « giai điệu rung cảm » của Huế và của tất cả những gì đã diễn biến và lưu lại trong lòng của mảnh đất đã biến thành vùng khổ nạn kể từ năm 1963.
    Tình Huế
    Ở Huế có lẽ có một mối tình thủy chung duy nhất không bao giờ tàn phai, đó là tình yêu cảnh Huế của người Huế, như núi Kim Phụng mãi mãi đứng đó mà yêu hoài sông Hương bạc tình chảy xuôi, sông núi đã un đúc mối tình keo sơn của ngưới Huế với cảnh vật quanh mình ngay từ khi nằm trong nôi nghe mẹ hát "ru con cho tới làng Hồ..." "thuyền về Đại Lược, duyên ngược Kim Long...", hay "ru em cho thoét cho muồi, để mẹ đi chợ... mua vôi chợ Quán chợ Cầu, mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh".
    Huế có lẽ là thành phố duy nhất trên quả địa cầu có cả núi và sông nằm ngay trong lòng, để cho người Huế dù cho đi xa mấy mươi năm, mấy mươi nghìn vạn dặm vẫn cứ mỏi mòn mong ngày trở lại dòng sông, trở về với núi.
    Và tình nhớ Huế hầu như trở thành một cơn "mê chiều" của cảnh thức Huế lan khắp năm châu bốn bể từ Cali cho đến Sydney cho đến Paris cho đến Muenchen, Saigon, Hanoi, và ở nơi đâu khác nữa trên địa cầu có mặt người Huế, hiện tượng Nhớ Huế như một khủng hoảng căn niên của Huế hôm nay, và trong giờ phút đứng ngay trong lòng đất Huế chính tôi cũng thấy như mình đang đứng trong một bức tranh vẽ một người đang nhớ Huế...
    Vườn cây, hoa lá, nắng mưa, mây gió, cảnh chùa đã ôm ru thời thơ ấu và tuổi niên thiếu của mỗi con người Huế, đã uốn nắn trong tâm thức sức nhạy cảm của người Huế trước thiên nhiên, đã trở thành những âm vang gợi cảm trong suốt cả đời người mỗi khi nghe mưa rơi, nghe lá đổ, nhìn nắng lên hàng cau, nghe hoa bưởi bắt đầu lên hương trong khu vườn buổi sáng...
    Huế bốn mùa đã đưa chúng tôi quanh quẩn đi những con đường Thành Nội, Đông Ba, Ngự Viên, Lê Lợi, Bến Ngự, Nam Giao, An Cựu, Vĩ Dạ, Kim Long, Linh Mụ, Tịnh Tâm, Đại Nội... Những cuộc đi dạo thơ thẩn trên những con đường nhỏ, thường là đi bộ hay đi xe đạp chậm rãi - cuộc sống ở Huế dạo ấy không có cách chi khác hơn là chậm rãi, từ từ, thong thả, hình như song song với đi học, đi dạo là một thứ giải trí không thể thiếu trong thời khóa biểu của mỗi một người Huế ở thị thành.
    Đi dạo, đi bộ, đi lang thang vì thế đối với chúng tôi đã là những cuộc hành thiền ngẫu nhiên, ở đó mỗi viên sỏi trên đường đi, một dòng nước nhỏ sau cơn mưa, mỗi chiếc lá rơi tan tác trên đường, mây chiều lãng đãng trên sông, nắng le lói trên vỉa hè, sự yên tỉnh của vườn cây, một đóa hoa vừa mới nở, một tiếng chim kêu, đã là những tín hiệu về cõi đời, về ý nghĩa của thân phận làm người, về sự phù du của thời gian và về ý nghĩa của sự đợi chờ, về tình yêu... Và mỗi cuộc đi, bên cạnh những sôi nỗi ồn ào của tuổi trẻ, thường có những bước lắng nghe, chìm đắm trong cảnh vật, đã có những chiêm nghiệm trước núi và sông, "con chim nó đậu cành tre, mưa nắng ở trọ bên trong mắt người".
    Ca khúc của Sơn, nhất là ca khúc tình yêu, thường đã mang nặng cảnh thức Huế như một nguồn sống cho ý thơ và âm điệu.
    Cho nên khi nghe nhạc của Sơn, người nghe nhất là người Huế thường có cảm giác mình đang đi trên một con đường nào đó ở quê hương, hay đang ở trên đường đi trong cơn mưa "thì thầm dưới chân ngà", trong "mùa hạ khói mây" hay "mùa đông vời vợi", để đến thăm người yêu, chỉ đến một thoáng rồi đi, chỉ để nhìn mặt hay không nhìn mặt người yêu rồi quay trở về trên đường sỏi đá bên khúc sông Bến Ngự, để vùi trong cơn sốt thương yêu "gọi thân hao gầy, gọi hồn ngất ngây".
    "Diễm xưa" là mối tình đầu của Diễm Xưa - sau Ướt Mi một thời mê say giang hồ, Diễm Xưa đã trở thành ca khúc tình đầu của Sơn và "Diễm" đã trở nên một huyền thoại "Xưa" như chuyện Từ Thức gặp tiên, như một câu chuyện tình cổ lụy cho đời và cho cả chính Sơn.
    Tình yêu đã đến với Sơn như một huyền thoại bất ngờ, như một cơn mưa đến từ cõi hoang sơ rơi trên tháp cổ, nên thật bàng hoàng. Có lần Sơn bảo, con gái Huế yêu thật lạ lùng, trong cơn đau vẫn trốn mẹ, tung mền mặc áo mưa băng qua cầu chạy như bay đến để chỉ đặt một trái cây hoặc một bông hoa trước cửa, không cần gặp người yêu, rồi ra về. Để cho người con trai sửng sờ, ngạc nhiên và lặng người trong nỗi nhớ nhung "buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, trên bước chân em âm thầm lá đổ, chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa"... nỗi nhớ vết chim gi, bay qua vùng đất rộng, ước sao bờ sông Bến Ngự nối liền. "Chiều này còn mưa sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau... hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau". Diễm ơi, Sơn ơi, những mối tình ở Huế!
    Tôi nghĩ rằng không ai cả ngoài "Diễm xưa" vẫn luôn luôn là bóng dáng người tình trong những tình khúc TCS. Trong Như Cánh Vạc Bay, Quỳnh Hương, Tình Nhớ, Hạ Trắng, Mưa Hồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Tình Sầu v.v... vẫn thấp thoáng những nét đan thanh, chấm phá của Diễm: mảnh khảnh đến gió thổi bay, vai gầy guộc như đôi cánh cò (chúng tôi thường chế diễu nhau như thế), tay gầy lêu khêu, nét xanh xao, mái tóc rối quăn ôm gương mặt trái xoan nhỏ nhắn, bóng dáng chợt đến chợt đi chợt ẩn chợt hiện như trong Liêu Trai, dáng điệu thì yếu đuối như lúc nào cũng có thể ngất đi, nhưng trong lòng thì đầy cả đam mê bão táp.
    Cái hình ảnh mảnh mai ẻo lả, lãng đãng như gần như xa, như có thực mà như không có thực ấy, khác hẳn với các khuôn mặt tình và khuôn mặt đẹp theo ước lệ trong những ca khúc tình yêu thường nghe, vẻ đẹp hao gầy mong manh trở nên nguồn cảm hứng không ngừng trong ca khúc tình yêu của TCS, xúc cảm từ một cuộc tình đam mê, trong trắng, mối tình học trò ngây thơ đầy hương sắc và ánh sáng mà Sơn chưa kịp nhận được thì đã thoáng bay.
    Nếu tình yêu cảnh Huế keo sơn bao nhiêu thì tình yêu của người con gái Huế lại càng phù du như đám mây trời, như cơn mưa mùa hạ bấy nhiêu. Hình như là một thông lệ cho những người yêu nhau ở Huế: yêu ai thì rất mực yêu ai, nhưng khi tính cuộc trăm năm với người nào thì cha mẹ hay tiếng nói của mẹ cha đã nằm sẵn trong tiềm thức của mỗi người quyết định, và thường khi quyết định một cách thực tế là không lựa chọn người mình yêu, dù "nỗi lòng anh đầy" nhưng "lời ca anh nhỏ" bé đơn sơ quá cho nên ước mơ "ngày nào mình còn có nhau xin cho dài lâu" đã phôi pha để chỉ còn "Này em em hãy phụ người, này em xin cứ phụ tôi" "em cứ phụ đời" bởi vì trời đã sinh ra con gái Huế là để "yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (Truyện Kiều, Nguyễn Du)
    Ai bảo Sơn không khổ vì yêu, thứ tình "mật ngọt trên môi" trở thành "mật đắng trong đời"? Cho cả cuộc đời, suốt cả bốn mùa mưa nắng "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói, đôi khi thấy trên lá cây ngày em đã xa tôi". Có khổ tận trong tình yêu, có đạt đạo trong nỗi khổ mới thể nghiệm được nghĩa vô thường của "yêu là chết" và có thể đồng cảm với niềm vui và nỗi khổ của những ngưòi đang yêu. Trong tất cả ca khúc tình yêu của Sơn luôn luôn có tấm tình riêng chia với tấm tình chung, như đã "yêu em" thì "yêu thêm tình phụ", như "trên lá khô" chảy ra "dòng suối" tình yêu không tuyệt vọng...
    Và đền bù lại cho những mối tình mây nổi,đã có tình bạn hữuthật chí thiết, đưa vai hứng đỡ những cơn tuyệt vọng chết người "đừng tuyệt vọng, ai ơi đừng tuyệt vọng!" "Bạn bè ở Huế thương nhau lắm, một đứa vợ la chín đứa kinh", có một nhà thơ nhận xét như vậy sau này. Cô đơn vì người tình hờn dỗi lắm khi không cô liêu bằng khi "bạn bè rời xa chăn chiếu". Và khi bạn yêu người nào thì hình như mình cũng yêu người ấy, khi bạn thất tình thì mình cũng đau khổ không kém gì nỗi đau của bạn. Trong những lúc Sơn lụy vì tình, đã nhiều lần thay bạn đi thuyết khách, giải thích, hóa ra ai yêu nhau ai giận nhau thì bạn bè đều mau mau đứng ra chịu trận như chính mình là người trong cuộc. Và chính Sơn cũng đã tâm sự với tôi như thể tôi cũng là người trong cuộc của hai người. Sơn ơi, người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai bỏ đi ai ở lại với tình, ai buồn hơn ai?
    Trong rất nhiều tìnhhuống của những năm sáu mươi ở Huế, Sơn thường đứng ngoài cuộc, trong lúc chúng tôi dấn thân trong vòng khổ nạn của Huế 1963, nhưng mãi đến hôm nay mới biết được - dù hãy còn mơ hồ - người trong cuộc hay người ngoài cuộc, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm hơn ai, và tình bạn hữu đã khắn khít như thế nào giữa người đứng trong và người đứng ngoài hàng rào dây kẽm gai.
    Mái Chùa
    Đối với người Huế, và đối với chúng tôi, yêu cảnh Huế hầu như cũng đồng nghĩa với yêu cảnh chùa ở Huế. Hình như trong tất cả những lần đi ngoạn cảnh hay đi lang thang ở Huế, vô tình hay hữu ý nơi đến cuối cùng thường là bước vào cổng chùa, đứng nghỉ nắng hay chờ tạnh mưa dưới mái tam quan hay vào xin một chén nước chè tươi đỡ khát hoặc một chén trà ướp sen cho ấm lòng, tiện thể vào chiêm ngưỡng tượng Phật, thắp hương cho vị tổ sáng lập chùa, thăm thầy trụ trì, nghe một câu chuyện thiền trong một không khí ít lời, thong thả, mát dịu.
    Thế rồi bóng nắng mời gọi, hoa trái trong vườn mời gọi, cỏ cây trong sân mời gọi là chân bước theo chân, là mắt đưa theo mắt, là tai chìu theo tai, ngẩn ngơ trong vườn sắn, vườn chè, rừng cây cổ thụ, nơi hồ sen, nơi tiếng ve kêu, nơi chùm khế sây trái, dừng lại nơi lá xanh reo, nơi suối róc rách, nơi hoa sen nở, nơi hoa mộc thơm hương - dù chỉ một vài giây vô niệm, không chủ ý - nhưng cũng đủ để thể nghiệm sự tĩnh lặng thường còn trong vạn vật, ở đó thong dong đi về không còn ngăn cách là thấy và nghe, cảm và nghĩ, xúc giác và khứu giác trong một toàn thể bao hàm tất cả những mâu thuẫn của sự trôi đi và dừng lại..
    Buổi dừng chân có thể chỉ đủ để bóng nắng nghiên trên triền đồi hay cơn mưa vừa tạnh hạt, nhưng cũng có thể để ngả lưng đợi giờ tắt cơn nắng gắt hay cơn mưa dai dẳng chưa dứt, để thấy hơn một lần hư không là nắng và vô thường là mưa.
    Hay nhiều khi có thể lưu lại chùa vào một đêm trăng sáng, nghe tiếng hòa điệu rộn ràng của trăm thức hương ***g bóng nguyệt hay cảm được tiếng kinh Phổ Môn cầu an tẩm ướt ánh trăng thấm đượm thân thể như giọt nưóc cành dương, rồi bỗng chiêm nghiệm được trong khoảnh khắc tiếng yêu đương và tiếng yêu người cũng chỉ là một, "yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ".
    Có lẽ trong tất cả những người thanh niên trẻ của thế hệ chúng tôi, Sơn là người đã bắt gặp được sự đốn ngộ bất ngờ ấy sớm hơn ai cả, không phải nghĩa "sớm" của "trước sau" mà là đã "từ bao giờ" không ai hay - trong vòng tay của người mẹ mộ đạo Phật ru đứa con đầu lòng, của gia đình thành tâm thương Phật anh em có nhau khắn khít, của cả mấy đời người Huế thương chùa, của cả mảnh đất thần kinh thâm u miệt mài hai chữ tu tâm - nên đến bây giờ, chĩ cần một chút "run rẩy" của lá là đã chuyển động "Phật tâm viên tròn thể tánh" trong ý nghĩa đơn giản nhất: chứng ngộ, thấy được chữ "thương ai" (ta và người= từ bi) viết đậm nét trên chiếc lá "hư không".
    Mỗi ca khúc của Sơn vì thế - như ít có nơi những kẻ đi trước và những người đồng thời với Sơn trên lãnhvực âm nhạc có thể nghe và cảm nhận như những công án thiền về cuộc đời, mà mỗi câu hỏi siêu hình về nó đều bị trả đũa bằng một hay hai điều tầm thường, vớ vẩn trong chính cuộc đời; ở đó chữ nghĩa mất hết tính cách ước lệ, qui luật văn phạm, sự vô nghĩa nằm sát bên có nghĩa. Có ai không bất ngờ khi nghe câu hỏi đạo đức "Sống trong đời sống phải có một tấm lòng, để làm chi em có biết không?" được Sơn phổ thành bài ca với câu trả lời: "Để cho nước cuốn đi", cũng chẳng khác chi công án thiền: "Ý nghĩa thật sự của Bồ Đề Đạt Ma đi về phương Đông là gì?" Trả lời: "Cây trắc bá trong sân!" Trong bài ca, vô nghĩa đứng cạnh có nghĩa mà vẫn không nghịch lý, người nghe không thấy chõi tai mà ngược lại cảm thấy cảm xúc lăn tròn theo tiếng hát, và trong chuỗi âm thanh theo đuổi nhau, mọi nghịch lý, phi lý làm cho con người nghẹt thở của một Sisyphus hì hục lăn tản đá cuộc đời đều được giải tỏa bằng một hơi thở dài trút hết ưu phiền của tiếng hát lênh đênh.
    Mỗi tiếng mỗi chữ trong các ca khúc trở thành những đơn thể của tâm thức trong tính cách hiện sinh duy nhất, tràn đầy sinh động của chúng đã được Sơn sử dụng một cách sáng tạo như những phương tiện "tiếng vỗ của một bàn tay"(3) nhằm đánh thức âm hưởng nội tâm của mỗi người nghe, từ đó người nghe có thể đưa thêm vào bàn tay của mình để gây âm thanh cho chính cảm xúc của mình. Và tiếng ca, từ những cọng lá khô không lời, những viên sỏi vô tri im tiếng, bỗng xôn xao "cây lá vào mùa", bỗng lao xao sóng vỗ bờ xa...
    Những ý niệm, những ngôn từ trong đạo Phật - hư vô, hư không, cõi tạm, vô thường, cõi đi về, tiền kiếp, từ bi... thường được xem như những món "cơm chay" khắc khổ, đã được Sơn hóa giải rất tài tình trong lời ca theo nguyên tắc suốt cả 49 năm Phật không thuyết một lời nào, bỏ hết tất cả những chất khô cứng đóng khung của ngôn ngữ dù đó là lời kinh, chúng được lắng nghe và linh cảm trong bản chất âm giai nội tâm đối đãi nguyên sơ nhất của chúng. "Tôi đã lắng nghe im lặng dòng sông... tôi đã lắng nghe im lặng ngọn đồi... tôi đang lắng nghe im lặng của tôi... tôi đã lắng nghe im lặng thở dài". Bài hát sâu lắng như một buổi toạ Thiền quán sát hơi thở.
    Hư vô, cõi tạm do đấy được xử dụng như tiếng thô "đục" của mõ và "thanh" bổng của chuông, hai phương tiện của nghe kinh ngộ đạo đơn sơ nhất, căn cứ vào tầng rung cảm âm thanh bẩm sinh của mỗi con người, nói nôm na là tiếng lòng của mỗi người mà âm vang của tiếng mõ và tiếng chuông có thể làm nở "đoá hoa vô thường", có thể chở ta ra đi viễn xứ và mang chúng ta trở lại quê nhà.
    Có thể nói tính cách tân kỳ của ca khúc TCS nằm ở chỗ trong khi Sơn chuyển ý niệm sắc không vào âm nhạc, Sơn đã làm mềm chúng bằng cách dựa vào giai từng cơ bản đối đãi giữa giải thoát và cõi trần cát bụi, trong tương quan chuyền qua đối lại giữa đục - thanh, trầm - bổng của mõ và chuông, từ đó tùy tâm mà chuyển đổi và ứng dụng tất cả những phương tiện khác của âm nhạc - tứ đại cảnh, ru em, hò hay điệu blue buồn hoặc điệu soul của phong trào tân nhạc Âu châu chẳng hạn, để sáng tạo nên thể cách riêng tư của mình. Trong tất cả dòng chảy của âm nhạc TCS, sự tĩnh lặng thoát ra từ âm thanh "chuông mõ" luôn luôn làm nền tảng cho sự cảm nhận nét nhạc của mỗi bài ca, dù cho bài ấy có dồn dập đến đâu.
    Chính nhờ nguyên tắc đối đãi, mà lời và nhạc của Sơn luôn luôn biến chuyển không ngừng, trong nắng hư vô đã thấy tóc em dài, đường xa áo bay, và lời ru của mẹ lời ru cho em thường dẫn ta đi vào cõi đời thường như một cõi đời mộng, để cho mộng thực luân lưu trong nội tâm quyện tròn thành một lời êm diụ như tiếng kinh dỗ dành giấc ngủ.
    Có thể so sánh sức mạnh sáng tạo trong thơ nhạc của TCS với một công án của Hakuin, thiền sư và họa sĩ ngộ đạo nhất của Nhật Bản:
    Tay không mà có cầm cán mai;
    Đi bộ mà ngồi lưng trâu;
    Người đi qua trên cầu,
    Cầu trôi, nước chẳng trôi!
    Cái cầu cố định hóa mềm dưới chân, nỗi ưu tư hóa mềm trong tiếng du ca. Trong cái nhìn của người nghệ sĩ, năm căn hay lục căn được cởi bỏ mọi giới hạn, để chỉ còn tự do sáng tạo, ở đó nghe là nhìn "đôi khi thấy trong gió bay lời em nói", ngửi là nghe, vị giác cũng là nghe, "tôi đã lắng nghe im lặng mặt người", mà Hakuin (Thiền sư Bạch Ẩn) gọi là phạm trù "kikan" của mỗi công án, phạm trù của cơ cấu mềm dẻo và tự do. Trong cái nghe sáng tạo, tiếng rơi thô kệch của hòn đá rớt xuống cành mai bỗng hóa thành tiếng chim ca thánh thót hát khúc qua đời! Đứng dưới mái chùa, TCS đã trả lời Sisyphus bằng một công án như thế!
    Một Niềm Vui, Một Giọt Nước Mắt
    Trong tất cả các bài hát của Sơn, có một bài duy nhất mà tôi ít thích nghe cũng như ít thích hát, đó là bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui sáng tác sau 1975. Không phải vì âm điệu buồn tẻ hay lời ca không hay, nhưng vì mỗi khi nghe hát bài này tôi lại nhớ đến Sơn của lần gặp lại năm 1977, khi tôi trở về Huế thăm nhà sau 12 năm du học.
    Trở về Huế sau mười mấy năm xa cách, tôi đã gặp lại một Huế thật là - người Huế thường chỉ tình trạng này bằng bốn chữ tả chân... "xanh xương mét máu", một Huế đang giật mình, một Huế đang run sợ kinh hãi cho ngày mai, bên cạnh một Huế rất nghèo, rất khổ. Đi trên đường phố ít ai ngẩng đầu lên, có trao đổi một nụ cười với ai thì nỗi gượng gạo nơi người ấy đã ngăn vành môi bên kia không cho cười hết miệng.
    Khác hẳn với một Huế ngày trước mà mỗi nụ cười là ánh sáng thân hữu hiếu khách, mà mỗi cái nhìn có phản chiếu sự trong trẻo của nước sông Hương trên khúc sông Linh Mụ mời gọi tha nhân đi sâu vào một câu chuyện mới làm quen, Huế 1977 mà tôi gặp lại là một Huế lơ đãng, sầu hận và nghi ngờ, một Huế bị phá sản hết mọi thiết tha.
    Hãi kinh và ngơ ngác đọng trong mắt, trên nét mặt của mỗi người những vũng sâu thâm quầng. Lần trở về Huế năm ấy cho tôi một nỗi bơ vơ còn hơn những nỗi bơ vơ ở xứ người, vì đâu đâu hình như ai chẳng tin ai, ai cũng nghi ngờ lẫn ai, ai cũng oán hờn với ai, ai cũng sợ ai.
    Chỉ có một niềm vui duy nhất: gặp lại gia đình và gặp lại bạn cũ. Trong khoảng thời gian mấy mươi ngày ở Huế, Sơn là người bạn đến thăm tôi nhiều lần nhất. Khác với ngày trước thường đi bộ ba,bộ bốn,lần này Sơn đến một mình. Vẫn dáng người gầy, mũ caskette nâu như năm nào, gọng kính trên mũi thanh, ánh mắt thân thiện như chưa bao giờ có một khoảng trống vắng trong tình bạn. Chúng tôi kể cho nhau nghe những điều đã làm đã học trong mười mấy năm không gặp.
    Tuy xa nhau rất lâu, nhưng hình như lúc nào Sơn cũng có mặt không những chỉ cho riêng tôi mà cho thế hệ chúng tôi, ở những nơi xa xôi nhất như cái thành phố Âu châu mà tôi đang ở. Nhạc tình, nhạc về chiến tranh và hòa bình của Sơn trong những năm trước 1977 đã nở rộ và âm vang đến cộng đồng người Việt khắp năm châu. Ở nơi quê người chúng tôi đã hát nhạc của Sơn như nỗi ưu tư của mình về số phận của đất nước và con người Việt Nam, về nỗi khổ chiến tranh, về khát vọng hoà bình.
    Khác với những ca khúc khích động xuống đường thời ấy như "dậy mà đi', "cỏ cú", ca khúc về cuộc chiến của Sơn thường gây ý thức, đặt vấn đề hay trình bày vấn đề, hoàn cảnh, số phận để mỗi một người chúng ta lấy quyết định mà hành động. Và khi đã lấy quyết định rồi thì tự mình gánh lấy trách nhiệm của mình, chứ không thể đổ tội cho bài ca. Bởi thế tôi nghĩ rằng những trách cứ về Sơn, buộc tội Sơn có hơi vội vàng do sự ngộ nhận bản chất thật sự của những ca khúc TCS mà có lẽ trong một dịp khác phải được phân tích và đánh giá lại một cách trung thực.
    Trở lại 1977. Cả một công trình sáng tác nhạc mười mấy năm đang bị đe dọa phải chối bỏ, kiểm soát, tự phê bình, Sơn đã tâm sự với tôi nỗi khó khăn cho một người nghệ sĩ trong hoàn cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa đang được thực hành trong tính cách tuyệt đối, khai trừ mọi ý kiến khác biệt. Đã kể cho tôi nghe những buổi "đi thực tế", những lần phải viết bài tự phê bình về tác phẩm của mình, và Sơn bảo, họ không đồng ý với mình nhưng họ bảo mình viết rất hay. (Không biết những tài liệu ấy ngày nay có còn không?) Tôi đã ngạc nhiên trước những nhận xét sắc bén của Sơn, mà hồi trước vì nghe HPNTường thao thao, tôi cứ đinh ninh là Sơn đơn giản.
    Sơn đã chạm mặt với hai vấn đề: ý thức con người trong Xã Hội Chủ Nghĩa và lý thuyết Mác-xít. Vấn nạn thứ nhất làm cho một người nghệ sĩ chân chính phải kinh hoảng là sự không thành thực với chính mình - thành thật với chính mình là điều kiện tiên quyết cho sự đạt đạo trong sáng tác nghệ thuật. Trong hai năm trường Sơn đã chạm mặt với một hiện tượng mà Sơn gọi là nhị trùng bản ngã - danh từ lần đầu nghe ở Sơn, bên ngoài nói một đằng mà bên trong nghĩ khác, mà cả hai, bên trong và bên ngoài đều được chủ nhân của chúng tưởng là đúng một cách giáo điều như nhau, chứ không phải một mặt đúng thì mặt kia phải sai, không, giáo điều là sự tin tưởng cả hai thứ sai đều đúng !
    Vấn nạn thứ hai là sự tò mò siêu hình cố hữu, Sơn hỏi tôi ở Âu châu đã có triết gia nào dùng lý luận để bác bỏ lý thuyết Mác-xít một cách toàn diện, tương tự như Marx đã phê bình Hegel. Câu hỏi thắc mắc triết học này đã biểu lộ nỗi lo âu trí thức của một người nghệ sĩ thức tỉnh. Không băn khoăn lo âu sao được khi ở đâu cũng bị vây quanh bởi những bích chương giáo điều quá vĩ đại và hằng ngày phải điểmtâm bằng những buổi phát thanh ca ngợi chủ nghĩa như kinh nhật tụng và những buổi học tập lý thuyết Mác-Lê loại trừ mọi phê phán? Lo âu cho sức sáng tạo của mình bị tắt nghẽn khi phải đánh đổi sự yên tâm trí thức về chân lý bằng quyết đoán giáo điều nông cạn và hời hợt.
    Một lần khác trong một cuộc đi xem triển lãm tranh tại Huế, Sơn chỉ cho tôi một bức tranh hiện thực được giải nhất, vẽ cảnh công nhân cùng với mọi tầng lớp nhân dân đang lao động, người nào cũng vai u thịt bắp mặt mày hồng hào, em bé thì bụ bẫm. Nỗi khổ của nghệ sĩ miền Nam nằm ở nơi "người người hồng hào, em bé bụ bẫm" ấy! Vì nếu vẽ hiện thực thực sự thì chỉ tìm thấy thực tế "đói dơ xương" đầy rẫy. Phải sống trong một ảo tưởng lạc quan nào đó mới có thể vẽ hay hát hiện thực "mơ mộng ngây thơ" trong hoàn cảnh Việt Nam thời ấy. Cho nên không vẽ được, không sáng tác được.Cho nên khổ!
    Không có bài hát nào của Sơn trong quá khứ được ban giam khảo văn học nghệ thuật thời ấy cho lọt sổ. Nhạc Sơn bị cấm phổ biến.
    Sáng tác theo chiều hướng qui định đã như một cực hình, mà không sáng tác - lẽ sống của người nghệ sĩ, thì như cây giữa mùa xuân rụng lá. Trong một hoàn cảnh như thế Sơn đã chọn lựa sáng tác và bắt đầu lượm từng chiếc lá xanh vừa rụng xuống chắp lại lên cành với bài Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui.
    Trong đêm họp mặt bạn bè cũ nhân cuộc trở về Huế của tôi (hôm ấy có mặt bộ ba của thời trước - Sơn, HPNTường, Đinh Cường và những bạn cũ, cùng một vài khách mới, Sơn đã hát cho chúng tôi nghe ngoài những bài hát cũ, bài hát vừa mới sáng tác nói trên. Về âm điệu và lời ca, thoạt nghe, thì cảm thấy bài hát thật là bỡ ngỡ nếu được nhìn trong toàn thể ca khúc TCS.
    Đến 1977 ca khúc TCS đã lớn mạnh và đạt đến trình độ tinh luyện, xuất thần về âm giai cũng như về ý nhạc, cho nên khi nghe Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui tôi có cảm tưởng đau đớn là Sơn đang tập đi lại những bước nhạc ấu trĩ trong sự nghiệp ca nhạc của mình, như "kìa đàn vịt ngoi dưới ao hồ" hát hồi lớp Năm, đang phải quên tình sầu, tình nhớ, mưa hồng, cõi tạm để hiện thực trong những niềm vui không có thực, đang phải tập đi những bước đoạn trường để qua cái cầu Xã Hội Chủ Nghĩa.
    Và không những chỉ Sơn,tấtcả những nghệ sĩ miền Nam đều đã phải trải qua cay đắng ấy, trong khi họ gần nửa đời người sáng tác, họ phải bắt đầu lại từ đầu với một cảm giác đang bị cặp mắt của ban kiểm duyệt văn hoá quan sát ở sau lưng.
    Ai nói Sơn ca ngợi niềm vui (trong lúc mọi người đang buồn đang đói) trong bài hát này? Người ấy đã nghe quá vội, chỉ nghe chữ "vui" mà không nghe chữ "chọn" đi trước. Ai vui thì nói tôi vui như bài "vui ca lên nào anh em ơi" còn một người đang ngồi "chọn" niềm vui thì người ấy chưa vui, bởi vì trong lúc chọn, "cái vui" còn là một đối tượng bên ngoài chứ chưa phải là niềm vui bên trong, cái vui nghẹn ngào, mới chỉ là một nửa, mới chỉ là "vui gượng kẻo mà" đó thôi. Âm hưởng của chữ "vui" sau chữ "chọn" nghe như có vết lăn của giọt nước mắt không nức nở của nàng Kiều!
    Trong hoàn cảnh bấy giờ có người bảo không thể tìm ra một niềm vui nào cả và trách Sơn tại sao có thể xa thực tế, đi nói chuyện vui trong lúc cả nước khổ, ngược lại đài phát thanh Huế ngày nào cũng kể ra hàng vạn tin vui, và người ta trách Sơn sao chỉ chọn một niềm vui, và chọn một con đường để đi, trong lúc vui đã có và đường đã sẵn?
    Trả lời chất vấn thứ hai, Sơn hát "tôi chọn một niềm vui" ấy là thái độ tích cực đó chứ, tích cực nhưng không giáo điều vì sự chọn lựa là của tôi và như thế tôi trung thành với tôi, trả lời chất vấn thứ nhất, Sơn cho thấy sự bất bình thường của việc đi chọn một niềm vui như đi lựa một chiếc áo chưa mặc, như đi mua vé xem hát mà chưa đi. Trong Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui vẫn có chữ vui, nhưng là nỗi vui được chọn lựa trong cảnh ngộ "dùi mài một thân" của người nghệ sĩ phải tìm một niềm vui để sống, phải chọn một con đường để đi giữa "gió trúc mưa mai", chọn và tìm cho được mỗi ngày một niềm vui thật sự giữa những niềm vui nhị trùng bản ngã không phải là dễ.
    Và niềm vui mà Sơn kể ra lại không dính líu chi với những niềm vui loan ra của các đài phát thanh của cả nước thời bấy giờ cả, mà là những niềm vui tìm được trong cảnh thức Huế đã ghi đậm một thời: những bông hoa, những nụ cười, "tôi chọn gió trời mời em giữ lấy", chọn tiếng ru con để chờ nắng đầy, chờ cơn mưa tới và "nhìn gió quê hương ngồi nghĩ đời mình".
    Tôi nhớ nàng Kiều trong "Nỗi lòng đòi đoạn xa gần, chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau" đã nhớ về quê cũ với những kỷ niệm đầm ấm khó quên như một niềm vui an ủi cho hiện tại và cảm được tâm trạng của Sơn trong những năm sau 1975 một phần nào: Chọn ở lại trên mảnh đất quê hương như là một nhu cầu tất yếu của người nghệ sĩ - có con ve nào hát được tiếng hát trung thực của nó khi bay khỏi vùng đất mà nó vừa thoát xác? - Chọn cho được một con đường riêng cho mình để sáng tác mà không phản bội với chính mình. Chỉ với những niềm vui trong "giấc hương quan" mà đó là "gió quê hương" của tâm thức Huế, tác giả của Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui khi "nghĩ lại đời mình" đã tạo cho cuộc đời mới của mình một mảnh đất sáng tạo dù cho hạn hẹp, ở đó anh có thể chọn một niềm vui như một thứ tự do dù cho chỉ là khoảnh khắc phù du như gió, như mưa, như nắng nhưng lại trung thực với con tim, bởi lẽ "đất nước đang cần một trái tim" trung thực như thế.
    Ngày rời Huế lúc chia tay Sơn đã đem đến tặng ba bài hát viết tay trên trang giấy học trò - hồi ấy giấy viết tốt hầu như không có, bài hát nói trên, và hai bài Con Chim Nó Đậu Cành Tre, Em Đi Qua Chuyến Đò hai sáng tác mới phối hợp điệu dân ca và nhạc soul mà Sơn rất đắc ý. Hành lý mang theo hôm ấy là tình bạn hữu và một nỗi xao xuyến lo âu cho người ở lại. Ở nơi xa mỗi khi nghe ai hát những bài hát ấy tôi lại thấy xót xa với niềm vui như một giọt nước mắt khô không chảy ấy.
    Trong những năm kế tiếp, sau một khoảng thời gian bặt tiếng, nhạc của Sơn như một luồng nước ngầm chảy đến miền Bắc và chinh phục mọi tầng lớp thính giả, mặc dù bị cấm phổ biến, trong những chuyến xe đò từ Nam ra Huế, ra Bắc, du khách bỗng nghe ấm lòng khi nghe Tình Nhớ, Quỳnh Hương như cuộc trùng phùng bằng hữu bất ngờ, thấp thoáng, quấn quýt bên tai.
    Tiếng hát TCS đã trở thành tiếng hát của mọi người. (Sự thành công của Sơn sau 1977 là việc nghiên cứu trong tương lai.) Sơn thường bảo "đời đã đãi ngộ" Sơn đó, tôi thì nghĩ, không chỉ do thế, chính trái tim chân thật đầy đạo vị của Sơn đã gặp gỡ trái tim của mọi người dù Bắc hay Nam, hữu hay tả, đó là nguồn suối thành công của Sơn.
    Trái Tim Trung Thực Từ Bi - Lẽ Sống Văn Hoá

    Lần cuối gặp Sơn tại Saigon vào tháng 9 năm 2000, tôi đến thăm Sơn với ý định nhờ Sơn phổ nhạc cho vở kịch của B. Brecht do tôi dịch và Minh Ngọc làm đạo diễn.
    Một sự tình cờ, hôm ấy Thầy TS cũng đến chơi, lại nghe có Ðinh Cường ở Mỹ về cũng sắp đến. Chúng tôi ba người ngồi nói chuyện với nhau đợi Cường, và một đề tài cố hữu lại được đề cập - một cách thoải mái - chuyện làm văn hoá tại Viêt Nam.
    Sơn nói với Thầy TS, - hôm nay mới thấy là một ngẫu nhiên lạ lùng ?" như một kết luận cho hành trình ca khúc của mình : nên làm văn hoá và có thể làm văn hóa trên đất nước này, có thể sống văn hóa trên đất nước này miễn là mình vẫn trung thành với chính mình, với con tim của mình, với cảm xúc sáng tạo của mình, và với tình thương, thì sẽ thuyết phục được thiên hạ và có niềm vui.
    Rồi chỉ vào mình Sơn bảo : NHƯ SƠN, nói không một chút tự cao mà nhân hậu như một thiền sư đã chứng ngộ mọi sự khổ của cuộc đời., mọi nỗi vui của cuộc đời, với ly rượu cố hữu (khổ nạn và đam mê của Sơn) trong tay.
    Tôi nghĩ đến cách thế ?o Cởi dép đội lên đầu mà đi ? của Thiền sư Triệu Châu (4), câu trả lời duy nhất có thể cứu sự sống qua bao nhiêu tranh luận ý thức hệ, bao nhiêu giáo điều chủ nghĩa, bao nhiêu sự chém giết đày đọa hận thù lẫn nhau mà Việt nam đã trải qua và thế hệ của chúng tôi đã trầm luân trong ấy.
    Ngoảnh mặt lại nhìn thì đến bây giờ chúng tôi chỉ có Tiếng Hát Trịnh Công Sơn như tiếng của cõi lòng thế hệ 40 - 60.
    Vĩnh Biệt
    Ngày đưa đám Sơn, anh em ở Huế, một số vào Sài-Gòn, một số người ở lại Huế, trong đó có tôi. Nghe báo tin ra hàng ngày là đám tang sẽ rất lớn, người ái mộ đem hoa đến không kể xiết, bỗng chùn chân không muốn đi.
    Ở lại Huế, hội văn nghệ tổ chức lễ truy điệu, bạn hữu, người ái mộ đến rất đông, nhưng cũng có người không đến. Hỏi tại sao. Trả lời, tui không tới, không đi mô hết, tui đã từng thao thức nhiều đêm với hắn ở trên chùa, thời nhỏ đã từng lăn lóc với hắn trong vườn dâu trong bụi sắn, chừ tui ở nhà tui khóc với hắn, tui nói với hắn là đủ rồi - một chiêu bằng hữu kiểu Huế kỳ quái! không phải khóc cho Sơn mà với Sơn, không phải điếu văn cho Sơn mà nói với Sơn trong nỗi "bạn bè rời xa chăn chiếu". Ô hay, sao nỗi cô liêu bỗng vô tận thế này?
    Ngày đưa đám Sơn,tôi đã đi lại những con đường ở Huế, đường qua Trường Tiền đường lên Bến Ngự, vòng xuống Ngự Viên, những con đường chúng tôi đã đi thời thanh xuân, bỗng vấp chân trên đường, hòn đá lăn rơi khô khan như tiếng đất rơi tiễn biệt trên một quan tài, những viên sỏi đá! một thời tuổi xuân! đã muốn nhìn vô tri đồng nghĩa với chữ TÂM, với chữ THƯƠNG!
    Sơn ơi, nơi cõi "đêm chưa qua mà ngày chưa tới" trong kinh Bát Nhã có phải "ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau"!
    Thái Kim Lan
    GHI CHÚ
    (1) Sisyphus: nhân vật trong huyền thoại Hy Lạp, con của Aiolos và nữ hoàng Korinth, nổi tiếng là tinh ranh quỉ quyệt đã dám bắt thần chết trói lại để cho con người khỏi phải chết, sau đó bị trừng phạt vì tội ấy suốt đời phải lăn một tảng đá lên núi, nhưng khi đến nơi thì tảng đá lại rớt xuống, và Sisyphus lại phải bắt đầu lại công việc lăn đá lên núi.
    (2) và (4) Công án Triệu Châu: "Một hôm trong tự viện của Hoà Thượng Nam Tuyền, tăng chúng ở đông và tây đường tranh nhau một con mèo. Nam Tuyền cầm con mèo giơ lên nói: "Đại chúng nếu có ai nói được (đắc đạo) thì cứu mạng cho mèo, bằng nói không được (đạo bất đắc) thì ta sẽ chém mèo vậy!" Chúng chẳng ai nói được, Nam Tuyền bèn chém mèo. Chiều đến, Triệu Châu về, Nam Tuyền đem chuyện kể lại cho Triệu Châu. Triệu Châu bèn cởi giầy đội lên đầu rồi đi ra. Nam Tuyền nói: "Nếu như có ông ở đó, hẳn đã cứu được mạng cho mèo rồi."
    (3) Công án Thiền nổi tiếng của Hakuin - Hãy Lắng Nghe Tiếng Vổ của Một Bàn Tay: "Khi ta vổ hai tay vào nhau, ta nghe tiếng vổ tay hay là nghe tiếng vổ của một bàn tay?"
    Được temely sửa chữa / chuyển vào 06/07/2002 ngày 18:32
  2. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4

    Chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đa tình, chắc là nhiều ngừơi không còn lấy làm lạ. Nhiều người đã viết về những người đẹp của họ Trịnh, nhưng rõ ràng và đầy đủ, chắc ít ai hơn được Nguyễn Đằc Xuân.
    Cách dây 1 năm Minh có viết : Đã đành rằng, "yêu nhạc xin đừng tìm hiểu người làm nhạc" (để tránh thất vọng). và đời tư nghệ sĩ nào mà không có mặt xấu mặt tốt, mặt kín mặt nổi, ngừơi ngoài thiết tưởng không nên xen vào và phê phán.
    Nhưng nhiều người nghe nhạc TCSơn và đồng cảm với nỗi cô đơn của ông. Theo Minh, ông TCS chỉ cô đơn trong tâm tưởng, chứ ngoài đời thực, quanh ông luôn có bóng dáng những giai nhân, chắc là kể không xiết. Minh nghĩ là, riêng về phương diện này, nếu thiếu một chút mơ mộng thì thay vì đồng cảm hoặc thương xót (có được dùng chữ này không ?) ông, nên nghĩ tới những người bạn gái đã đi qua đời ông. Họ chắc chắn phải chịu nhiều gò bó của luân lý không tên & thua thiệt, mất mác hơn ông, lại bị tiếng thị phi dè bỉu của dư luận, thoảng đôi khi còn bị trách móc bởi ngừơi nhạc sĩ mau yêu và mau thất vọng này. Họ lại không có tài làm thơ làm nhạc (để có thể trút bớt tâm sự mình và được đời thông cảm, như ông). Vậy mà có ngừơi vẫn rất chung tình.
    Ôi, thương thay cho số phận "những giòng sông nhỏ", khi lời hẹn thề là những cơn mưa, lại còn bị đời cho giông bão
    Xin lỗi, nêu có ai đó không đồng ý với Minh.


    Gửi các bạn bài viết dứơi đây của ND Xuân, về vài người đẹp của TCS.

    Tương truyền, năm 1964, Trịnh Công Sơn có sáng tác 1 trường ca mang tên Dã Tràng Ca để trình diễn tại trường Sư Phạm Qui Nhơn, sau này trường ca này bị thất lạc. Mới đây, Nguyễn Đắc Xuân đã tìm lại được trường ca ấy. Tại trang web Đặc Trưng, các bạn có thể xem bài viết của ND Xuân : " Tìm được Trường ca "Dã Tràng" của Trịnh Công Sơn" http://dactrung.com/nhac/loica.asp?id=4163&dang=ver&cochu=10 . Tại Đặc Trưng, cũng có thể xem toàn bộ 7 bài trong trường ca Dã Tràng với đầy đủ nốt nhạc, và nhiều bài víêt giá trị của Trịnh Công Sơn và ngừơi khác về ông, cùng lời nhạc của khoảng 200 bài nhạc của ông.

    Riêng bài viết dưới đây, bạn nào múôn xem thêm hình ảnh các giai nhân,có thể vào : http://dactrung.com/forum/topic.asp?ARCHIVE=&TOPIC_ID=3874 họăc [http://www.sgtt.com.vn/cacsobaotru...y sửa chữa / chuyển vào 06:52 ngày 06/07/2003
  3. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4

    Chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đa tình, chắc là nhiều ngừơi không còn lấy làm lạ. Nhiều người đã viết về những người đẹp của họ Trịnh, nhưng rõ ràng và đầy đủ, chắc ít ai hơn được Nguyễn Đằc Xuân.
    Cách dây 1 năm Minh có viết : Đã đành rằng, "yêu nhạc xin đừng tìm hiểu người làm nhạc" (để tránh thất vọng). và đời tư nghệ sĩ nào mà không có mặt xấu mặt tốt, mặt kín mặt nổi, ngừơi ngoài thiết tưởng không nên xen vào và phê phán.
    Nhưng nhiều người nghe nhạc TCSơn và đồng cảm với nỗi cô đơn của ông. Theo Minh, ông TCS chỉ cô đơn trong tâm tưởng, chứ ngoài đời thực, quanh ông luôn có bóng dáng những giai nhân, chắc là kể không xiết. Minh nghĩ là, riêng về phương diện này, nếu thiếu một chút mơ mộng thì thay vì đồng cảm hoặc thương xót (có được dùng chữ này không ?) ông, nên nghĩ tới những người bạn gái đã đi qua đời ông. Họ chắc chắn phải chịu nhiều gò bó của luân lý không tên & thua thiệt, mất mác hơn ông, lại bị tiếng thị phi dè bỉu của dư luận, thoảng đôi khi còn bị trách móc bởi ngừơi nhạc sĩ mau yêu và mau thất vọng này. Họ lại không có tài làm thơ làm nhạc (để có thể trút bớt tâm sự mình và được đời thông cảm, như ông). Vậy mà có ngừơi vẫn rất chung tình.
    Ôi, thương thay cho số phận "những giòng sông nhỏ", khi lời hẹn thề là những cơn mưa, lại còn bị đời cho giông bão
    Xin lỗi, nêu có ai đó không đồng ý với Minh.


    Gửi các bạn bài viết dứơi đây của ND Xuân, về vài người đẹp của TCS.

    Tương truyền, năm 1964, Trịnh Công Sơn có sáng tác 1 trường ca mang tên Dã Tràng Ca để trình diễn tại trường Sư Phạm Qui Nhơn, sau này trường ca này bị thất lạc. Mới đây, Nguyễn Đắc Xuân đã tìm lại được trường ca ấy. Tại trang web Đặc Trưng, các bạn có thể xem bài viết của ND Xuân : " Tìm được Trường ca "Dã Tràng" của Trịnh Công Sơn" http://dactrung.com/nhac/loica.asp?id=4163&dang=ver&cochu=10 . Tại Đặc Trưng, cũng có thể xem toàn bộ 7 bài trong trường ca Dã Tràng với đầy đủ nốt nhạc, và nhiều bài víêt giá trị của Trịnh Công Sơn và ngừơi khác về ông, cùng lời nhạc của khoảng 200 bài nhạc của ông.

    Riêng bài viết dưới đây, bạn nào múôn xem thêm hình ảnh các giai nhân,có thể vào : http://dactrung.com/forum/topic.asp?ARCHIVE=&TOPIC_ID=3874 họăc [http://www.sgtt.com.vn/cacsobaotru...y sửa chữa / chuyển vào 06:52 ngày 06/07/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    1 topic hay den nhu vay, ma minh khong biet. so ali dua to pic nay xuong trang cuoi nhi. alm toim khong tham gia duoc. may ma moi co nguoi gui nen no dua len trang dau. va khong the khong co HOME nay tham gia duoc.
    TRINH CONG SON-CUOC VIEN DU VAO THE GIOI MOI
    1-4 , 1 ngay ma doi voi chung ta-nhung nguoi yeu nhac trinh. no0 khong don thuan la 1 ngay ca thang tu nua ma no con la ngay mat cau trinh.trinh da ra di vao coi vinh hang, quay tro ve lam cat bui.anh da lam 1 cuoc vien du ,1 cuoc vien du ma anh da can nhan duoc tu nhung ngay xa xam , mit mu . anh da <<ve lai noi cuoi troi lam mat troi>>(phoi pha)
    phai chang cuoc song doi voi anh <<da cho anh lam ngay bat hanh>>the nen anh phai luon dan vat, luon phan van, cai phan van cua 1 kiep nguoi tron ven luon diu anh vao nhung ****** <<toi thuong roi vao nhung con hon me truoc giac ngu. o bien gioi do toi thuong hot hoang thay minh lo lang giua su song va cai chet.nhung giay phut nhu the vo chup lay toi moi dem .khi quanh toi moi nguoi da yen ngu>>(trich nhat ki trinh). nhung giac mo vat va , giac mo trong nhung ngay lang thang tim 1 cho nau than cho rieng minh::<<1 lan nam mo toi thay toi qua doi, du that le roi long khong buon may.giat minh tinh ra, o nang len roi>>(ben doi hiu quanh). cai giac mo kinh hoang tan ta theo thoi gian dam tham den the . cai dan vat cua giai dieu cua nhung ca tu cu vat kiep anh trong nhung con dau quan quai de roi 1 ngay kia. 1 ngay day nang va ngot gio anh da tro lai lam 1 chu<<ngua hong da moi vo chet tren doi que huong>>(xin mat troi ngu yen)
    TCS oi!!!sao anh lai ra di som vay?bay gio doi voi chung ta no khong con la <<thi du >> nua:<<thi du bay gio toi phai di . toi phai di , tay chia li cung doi song nay.co chieu hom dua chan toi ve bien gioi moi.nghe ra quanh toi dem dai. co con ai trong yen vui ve yeu dau ngoi. roi le.du nguoi tu day.>>anh da ra di. ra di that roi.
    <<vang tcs da di , da chim vao giac ngu ma tao hoa roi day se ban tang cho moi nguoi trong chung ta 1 lan .anh chang con gi de nuoi tiec. anh chang con gi de luu luyen. co chang cung chi la nhung niem phan van. cung chang biet noi gi hon chung ta chi con biet khe hat 1 doi cau ma anh da tung hat<<nhu 1 loi chia tay>>, 1 loi nhan nhu rang<< du den roi di, toi cung xin ta on nguoi>> . trinh oi! mat troi cuoi ngay oi!!<<xin mat troi hay ngu yen >>nhe va <<nguoi hay nho mang theo hanh trang qua quang troi vang chan may dia dang>>hanh trang ay nhe nhang thoi nhung cung vo tan lam. do la tat ca nhung tinh yeu ma ban be , nhung lop nguoi tu di vang va chung toi da va se mai mai danh choanh tieng hat cua con son ca ve hot choi tren ngon co lau phan nguoi>>
    TCS oi!! chung toi cam on anh nhieu lam.va chung toi xin duoc hat mai ve anh, hat ve 1 nguoi hat rong, 1 con son ca be nho nhung khong he nho nho be.
    << hat bui nao hoa kiep than toi
    de 1 mai toi tro ve cat bui
    oi cat bui met nhoai......>>>
    CAT BUI. CAT BUI!!!!!!!!!!!!!!!!!
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    1 topic hay den nhu vay, ma minh khong biet. so ali dua to pic nay xuong trang cuoi nhi. alm toim khong tham gia duoc. may ma moi co nguoi gui nen no dua len trang dau. va khong the khong co HOME nay tham gia duoc.
    TRINH CONG SON-CUOC VIEN DU VAO THE GIOI MOI
    1-4 , 1 ngay ma doi voi chung ta-nhung nguoi yeu nhac trinh. no0 khong don thuan la 1 ngay ca thang tu nua ma no con la ngay mat cau trinh.trinh da ra di vao coi vinh hang, quay tro ve lam cat bui.anh da lam 1 cuoc vien du ,1 cuoc vien du ma anh da can nhan duoc tu nhung ngay xa xam , mit mu . anh da <<ve lai noi cuoi troi lam mat troi>>(phoi pha)
    phai chang cuoc song doi voi anh <<da cho anh lam ngay bat hanh>>the nen anh phai luon dan vat, luon phan van, cai phan van cua 1 kiep nguoi tron ven luon diu anh vao nhung ****** <<toi thuong roi vao nhung con hon me truoc giac ngu. o bien gioi do toi thuong hot hoang thay minh lo lang giua su song va cai chet.nhung giay phut nhu the vo chup lay toi moi dem .khi quanh toi moi nguoi da yen ngu>>(trich nhat ki trinh). nhung giac mo vat va , giac mo trong nhung ngay lang thang tim 1 cho nau than cho rieng minh::<<1 lan nam mo toi thay toi qua doi, du that le roi long khong buon may.giat minh tinh ra, o nang len roi>>(ben doi hiu quanh). cai giac mo kinh hoang tan ta theo thoi gian dam tham den the . cai dan vat cua giai dieu cua nhung ca tu cu vat kiep anh trong nhung con dau quan quai de roi 1 ngay kia. 1 ngay day nang va ngot gio anh da tro lai lam 1 chu<<ngua hong da moi vo chet tren doi que huong>>(xin mat troi ngu yen)
    TCS oi!!!sao anh lai ra di som vay?bay gio doi voi chung ta no khong con la <<thi du >> nua:<<thi du bay gio toi phai di . toi phai di , tay chia li cung doi song nay.co chieu hom dua chan toi ve bien gioi moi.nghe ra quanh toi dem dai. co con ai trong yen vui ve yeu dau ngoi. roi le.du nguoi tu day.>>anh da ra di. ra di that roi.
    <<vang tcs da di , da chim vao giac ngu ma tao hoa roi day se ban tang cho moi nguoi trong chung ta 1 lan .anh chang con gi de nuoi tiec. anh chang con gi de luu luyen. co chang cung chi la nhung niem phan van. cung chang biet noi gi hon chung ta chi con biet khe hat 1 doi cau ma anh da tung hat<<nhu 1 loi chia tay>>, 1 loi nhan nhu rang<< du den roi di, toi cung xin ta on nguoi>> . trinh oi! mat troi cuoi ngay oi!!<<xin mat troi hay ngu yen >>nhe va <<nguoi hay nho mang theo hanh trang qua quang troi vang chan may dia dang>>hanh trang ay nhe nhang thoi nhung cung vo tan lam. do la tat ca nhung tinh yeu ma ban be , nhung lop nguoi tu di vang va chung toi da va se mai mai danh choanh tieng hat cua con son ca ve hot choi tren ngon co lau phan nguoi>>
    TCS oi!! chung toi cam on anh nhieu lam.va chung toi xin duoc hat mai ve anh, hat ve 1 nguoi hat rong, 1 con son ca be nho nhung khong he nho nho be.
    << hat bui nao hoa kiep than toi
    de 1 mai toi tro ve cat bui
    oi cat bui met nhoai......>>>
    CAT BUI. CAT BUI!!!!!!!!!!!!!!!!!
  6. Nguoinuocngoai

    Nguoinuocngoai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/03/2002
    Bài viết:
    577
    Đã được thích:
    0
    Đã không dưới một lần, khi trong lòng đang rất thanh thản, ngồi nghe một bài hát của bác Trịnh, mà tự dưng lòng trở nên mơn man với bao cảm giác khó tả....
    Âm điệu nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại mang theo một sự thiết tha và sâu lắng đến tê người... Chắc sẽ chẳng bao giờ tôi có thể quên được những giai điệu, những hình ảnh mà Trịnh Công Sơn đã đem lại cho tôi qua những bài hát của ông.
    "Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
    Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ. "
    Miền quê của tôi không hiền hoà như trong câu hát này, cũng không có một tiếng gọi nào mỗi khi tôi trở về đó, và điều đó cũng thật là dễ hiểu khi trong tôi không hề có sự xáo trộn nào mỗi khi trở về làng quê của mình, cũng sẽ không có những cái giật mình giống như trong câu hát. Nhưng bỗng dưng khi nghe đoạn nhạc này, tôi bỗng như đang hình dung ra một làng quê của mình với bao nhiêu khát khao đang vẫy gọi.... Ở đó, có một người ngày ngày vẫn gọi thầm tên tôi, vẫn ước ao tôi trở về nơi đó dù chỉ là một lần bất chợt... Ở nơi đó, tôi sẽ có thể lặng người đi trong bao nhiêu nỗi buồn, có thể oà khóc khi trong lòng hoàn toàn bình yên đến trống trải.... Và ở nơi đó.... có cánh đồng cỏ xanh rì... nơi tôi sẽ dừng lại nghỉ chân và cất lên tiếng hát...
    "Rồi một lần kia khăn gói đi xa
    Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ "
    Giống như hai cái tôi trong một con người đang trò chuyện và tâm sự với nhau vậy, cái tôi thứ nhất quyết tâm ra đi, cứ nghĩ rằng sẽ quên được nỗi mong nhớ về nơi quê nhà, cũng vẫn là cái tôi thứ nhất tưởng mình đang bình yên, nhưng mới bàng hoàng nhận ra cái tôi thứ hai trong con người thì đã quỵ ngã từ bao giờ, đã nhỏ những giọt nước mắt thương nhớ tự bao giờ....
    " Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà.
    Đường thật bình yên lòng không gì nhớ
    Giật mình nhìn quanh , ồ phố xa lạ..."
    Con người luôn phải đối diện với những hỷ, nộ, ái , ố... cũng giống như cái cô đơn, cái hạnh phúc, cái đau khổ, cái thương yêu, cái v.v và v.v... Ai lại không từng đi trên đường cô đơn một mình? Ai lại không từng đi trên đường với những nỗi niềm yêu thương bên cạnh? Ai lại không từng đi trên con đường của riêng mình với sự bình yên, không vương vấn? Và ai lại chẳng một lần lạc lối trên con đường không phải của riêng mình? Đến lúc đó, liệu có đúng là sẽ phải "giật mình nhìn quanh, ồ phố xa lạ .."???
    Và rồi con người , xét cho cùng, vẫn có phần "con" trong đó, sẽ vẫn say sưa, cuồng nhiệt, mơ mộng, đau khổ khi phải nếm trải những gì của cuộc sống.... Nhưng tất cả những điều đó, cũng chỉ là những gì mỗi một con người trong thế giới chúng ta đều phải trải qua để hiểu được giá trị của cuộc sống... Rồi ... ngày mai trời sẽ lại sáng.... sau một cơn mê dài, hẳn khi tỉnh giấc anh sẽ mong muốn nhìn được tia nắng mặt trời, để hiểu ra rằng, tất cả những gì đã qua, chỉ là một cơn mơ.... một giấc mơ trong hàng ngàn vạn giấc mơ đã ru mình khôn lớn...
    " Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
    Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời
    Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
    Giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên rồi ."

    "Sống có gì vui, chết có gì buồn ", đó là triết lý của nhà Phật, còn với chúng ta, hạnh phúc trong cuộc sống là được nghe nhạc Trinh và hoà mình vào những giai điệu, những hình ảnh mơ màng, huyền diệu( và cả thực tế nữa) cho đến khi nào chúng ta còn có thể hiểu được giá trị cuộc sống của chúng ta qua những bài hát của Trịnh.
    -------------------------------
    Đây là bài đầu tiên tôi viết về nhạc Trịnh, có thể đây chỉ là những dòng suy nghĩ của riêng tôi, nhưng cũng mong mọi người ghé mắt đọc và cho tôi ý kiến, để tôi biết được, tôi có hiểu sai chút nào không?
    Thân!!!
    ------------------------------------
    Hãy nói với ta lời thì thầm bát ngát,
    Lời nói tin yêu từ đáy trái tim anh
    Để ta biết ta không là vô nghĩa
    Trong cuộc sống đời thường anh khẽ bước ngang qua...
    Được nguoinuocngoai sửa chữa vào 16/06/2002 23:20
  7. Nguoinuocngoai

    Nguoinuocngoai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/03/2002
    Bài viết:
    577
    Đã được thích:
    0
    Đã không dưới một lần, khi trong lòng đang rất thanh thản, ngồi nghe một bài hát của bác Trịnh, mà tự dưng lòng trở nên mơn man với bao cảm giác khó tả....
    Âm điệu nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại mang theo một sự thiết tha và sâu lắng đến tê người... Chắc sẽ chẳng bao giờ tôi có thể quên được những giai điệu, những hình ảnh mà Trịnh Công Sơn đã đem lại cho tôi qua những bài hát của ông.
    "Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
    Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ. "
    Miền quê của tôi không hiền hoà như trong câu hát này, cũng không có một tiếng gọi nào mỗi khi tôi trở về đó, và điều đó cũng thật là dễ hiểu khi trong tôi không hề có sự xáo trộn nào mỗi khi trở về làng quê của mình, cũng sẽ không có những cái giật mình giống như trong câu hát. Nhưng bỗng dưng khi nghe đoạn nhạc này, tôi bỗng như đang hình dung ra một làng quê của mình với bao nhiêu khát khao đang vẫy gọi.... Ở đó, có một người ngày ngày vẫn gọi thầm tên tôi, vẫn ước ao tôi trở về nơi đó dù chỉ là một lần bất chợt... Ở nơi đó, tôi sẽ có thể lặng người đi trong bao nhiêu nỗi buồn, có thể oà khóc khi trong lòng hoàn toàn bình yên đến trống trải.... Và ở nơi đó.... có cánh đồng cỏ xanh rì... nơi tôi sẽ dừng lại nghỉ chân và cất lên tiếng hát...
    "Rồi một lần kia khăn gói đi xa
    Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ "
    Giống như hai cái tôi trong một con người đang trò chuyện và tâm sự với nhau vậy, cái tôi thứ nhất quyết tâm ra đi, cứ nghĩ rằng sẽ quên được nỗi mong nhớ về nơi quê nhà, cũng vẫn là cái tôi thứ nhất tưởng mình đang bình yên, nhưng mới bàng hoàng nhận ra cái tôi thứ hai trong con người thì đã quỵ ngã từ bao giờ, đã nhỏ những giọt nước mắt thương nhớ tự bao giờ....
    " Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà.
    Đường thật bình yên lòng không gì nhớ
    Giật mình nhìn quanh , ồ phố xa lạ..."
    Con người luôn phải đối diện với những hỷ, nộ, ái , ố... cũng giống như cái cô đơn, cái hạnh phúc, cái đau khổ, cái thương yêu, cái v.v và v.v... Ai lại không từng đi trên đường cô đơn một mình? Ai lại không từng đi trên đường với những nỗi niềm yêu thương bên cạnh? Ai lại không từng đi trên con đường của riêng mình với sự bình yên, không vương vấn? Và ai lại chẳng một lần lạc lối trên con đường không phải của riêng mình? Đến lúc đó, liệu có đúng là sẽ phải "giật mình nhìn quanh, ồ phố xa lạ .."???
    Và rồi con người , xét cho cùng, vẫn có phần "con" trong đó, sẽ vẫn say sưa, cuồng nhiệt, mơ mộng, đau khổ khi phải nếm trải những gì của cuộc sống.... Nhưng tất cả những điều đó, cũng chỉ là những gì mỗi một con người trong thế giới chúng ta đều phải trải qua để hiểu được giá trị của cuộc sống... Rồi ... ngày mai trời sẽ lại sáng.... sau một cơn mê dài, hẳn khi tỉnh giấc anh sẽ mong muốn nhìn được tia nắng mặt trời, để hiểu ra rằng, tất cả những gì đã qua, chỉ là một cơn mơ.... một giấc mơ trong hàng ngàn vạn giấc mơ đã ru mình khôn lớn...
    " Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
    Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời
    Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
    Giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên rồi ."

    "Sống có gì vui, chết có gì buồn ", đó là triết lý của nhà Phật, còn với chúng ta, hạnh phúc trong cuộc sống là được nghe nhạc Trinh và hoà mình vào những giai điệu, những hình ảnh mơ màng, huyền diệu( và cả thực tế nữa) cho đến khi nào chúng ta còn có thể hiểu được giá trị cuộc sống của chúng ta qua những bài hát của Trịnh.
    -------------------------------
    Đây là bài đầu tiên tôi viết về nhạc Trịnh, có thể đây chỉ là những dòng suy nghĩ của riêng tôi, nhưng cũng mong mọi người ghé mắt đọc và cho tôi ý kiến, để tôi biết được, tôi có hiểu sai chút nào không?
    Thân!!!
    ------------------------------------
    Hãy nói với ta lời thì thầm bát ngát,
    Lời nói tin yêu từ đáy trái tim anh
    Để ta biết ta không là vô nghĩa
    Trong cuộc sống đời thường anh khẽ bước ngang qua...
    Được nguoinuocngoai sửa chữa vào 16/06/2002 23:20
  8. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn -hoằng pháp bằng âm nhạc
    Chí Anh
    Thôi rồi, những nhịp đập của một trái tim từng yêu thương nhất và cũng từng cô đơn nhất! Thôi rồi, những khát vọng cháy bỏng của tình yêu, và cũng thôi rồi, những dằn vặt khổ đau trần thế! Có chăng, chỉ còn lại những giai điệu Orpheus (*) đầy quyến rũ và cũng đầy day dứt như xoáy vào tâm hồn người nghe những vấn nạn muôn thuở của thân phận kiếp người.
    Thực vậy, sáng tác của Trịnh Công Sơn rất đa dạng và phong phú. Nhưng, nhìn chung toàn bộ những ca khúc của anh đã toát lên một chủ đề nhất quán, ấy là chủ đề về thân phận con người gắn liền với thân phận quê hương đất nước. Bởi vậy dù hát về tình yêu, về chiến tranh, hay về quê hương nòi giống; ở anh vẫn khắc khoải một nỗi lo âu trước vực thẳm cuộc đời; trước nỗi cô đơn không thể cứu vãn; trước sự phi lý của tồn tại, và trên hết là tâm trạng lưu đày trong cõi tạm!
    Nói chung, đó là những vấn đề căn bản của những trào lưu triết học hiện sinh phương Tây, cũng tương tự như những vấn đề Sinh - Lão - Bệnh - Tử của đạo Phật khái quát về đời người. Nó phản ánh tâm trạng khủng hoảng của con người, đặc biệt là giới trí thức đang bị mất phương hướng trong một thế giới tan rã, phân liệt bởi hai cuộc đại chiến. Chính trên cái nền triết lý này, vào những năm 60 ở nước Anh đã xuất hiện nhóm nhạc rock hay nhất của mọi thời đại: nhóm The Beatles với những tên tuổi tiêu biểu lừng danh như John Lennon, Paul McCartney v.v... Họ nổi tiếng vì đã phản ánh được tâm trạng bức xúc của thời đại bằng những ca từ đầy tính triết lý, và nhất là bằng nghệ thuật âm nhạc độc đáo, vô song của họ được biểu hiện trên cả hai mặt sáng tác và biểu diễn. Cùng thời gian đó, khi mà cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã lên đến đỉnh cao, thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam, trong đó có Trịnh Công Sơn và lớp bạn bè của anh thuộc tầng lớp trí thức trẻ luôn bị ám ảnh bởi cái chết - một chủ đề kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh. Trong một bối cảnh như vậy, thân phận con người đương nhiên là một vấn nạn, một chủ đề tư tưởng mang tính triết lý, và nếu như nó đã được đề cập, phân tích, lý giải từ Ðông sang Tây bởi những nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng hàng đầu của thế giới thể hiện bằng những tác phẩm văn chương, thơ ca, cùng những luận văn triết học siêu việt, thì ta thấy ở Trịnh Công Sơn cũng giống như nhóm Beatles, anh đã thể hiện bằng âm nhạc. Tuy nhiên, ở Beatles mang nặng ảnh hưởng hiện sinh, cổ vũ cho tự do, cho sự sống hết mình của thế hệ trẻ, biểu hiện ở tinh thần phản kháng, tinh thần nổi loạn chống lại cái phi lý của hiện hữu, được xem như mục đích của tồn tại. Tiêu biểu cho tinh thần này là câu nói của nhà văn hiện sinh nổi tiếng A. Camus: ?oTôi đã nổi loạn, vậy thì tôi tồn tại?. (Je me révolte, donc je suis).
    Trong khi ở Trịnh Công Sơn là sự ảnh hưởng của triết lý đạo Phật, vốn nhạy cảm về tính hữu hạn của đời người trong quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử, trong dâu bể vô thường! Chính điều này đã chi phối mạch tư duy âm nhạc của anh để làm nên một phong cách Trịnh Công Sơn với những ca khúc nổi tiếng tiêu biểu như Cát bụi, Diễm xưa, Biển nhớ, Bên đời hiu quanh, Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Phôi pha, Dấu chân địa đàng, Như cánh vạc bay, Ðóa hoa vô thường, Một cõi đi về v.v...
    Chỉ với những tiêu đề của chùm ca khúc trên cũng đã phần nào nói lên tính triết lý của tác giả. Tuy nhiên, tính triết lý không chỉ biểu hiện ở nội dung những ca từ vốn đã rất nổi tiếng ở anh mà còn được kết hợp một cách nhuần nhuyễn với những giai điệu cực kỳ điêu luyện thường được viết trên nền của một giọng thứ (mineur) u hoài, man mác gợi lên một sự trầm tư không dứt về ý nghĩa tồn tại của đời người trên tuyến tính thời gian, mà xét đến cùng, chỉ là một tiến trình từ chiếc nôi đến nấm mồ, không thể nào nghịch đảo ?oDưới vành nôi mọc từng nấm mộ? (Cỏ xót xa đưa). Bởi vậy khi nghe Trịnh Công Sơn, chúng ta thường bắt gặp một cái nhìn đầy ưu tư về thân phận!
    Ưu tư? - phải chăng vì nó vượt lên trên những giá trị thường nhật, nó chạm tới những vấn đề vĩnh cửu, nó chạm tới nỗi đau hiện hữu của con người, mà đạo Phật gọi là Khổ đế (Dukkha). đế đầu tiên và quan trọng nhất trong Tứ diệu đế nổi tiếng của đạo Phật. Có thể nói toàn bộ những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một cuốn tiểu thuyết trường thiên minh họa cho chủ đề triết lý này, mà mỗi bài ca là một khúc đoạn trường luôn để lại những vết thương, bắt đầu từ vết thương đầu tiên, ấy là sự ra đời của con người, mà anh đã cảnh báo trong lời ru"... Trẻ thơ ơi, tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người? (Gọi tên bốn mùa). Sinh là khởi điểm của một kiếp luân hồi, nếu như tự nó không phải điều đáng buồn - thì cũng chẳng có gì đáng gọi là vui. Trong một tác phẩm thấm nhuần tinh thần Phật giáo là Cung oán ngâm khúc, nhà thơ Nguyễn Gia Thiều đã viết về sự ra đời bằng những câu thơ đầy triết lý:
    ?oThảo nào khi mới chôn rau (nhau)
    Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
    Khóc vì nỗi thiết tha thế sự
    Ai bày trò bãi bể nương dâu
    ?
    Và trước Nguyễn Gia Thiều gần hai thế kỷ, trong vở kịch nổi tiếng ?oVua Lia? - nhà viết kịch lừng danh William Shakespeare từng viết: ?oCon người không cất tiếng cười khi chào đời, mà khóc thét lên, bởi nó quá hãi hùng khi phải bước vào cái sân khấu mênh mông đầy bất ổn của những kẻ mê cuồng!?. Cũng với tinh thần triết lý trên, nhà thơ Byron nổi tiếng của nước Anh thế kỷ thứ XIX từng viết: ?oCon người có thể chữa lành mọi vết thương cơ thể, nhưng không bao giờ chữa lành được vết thương của sự ra đời? (nguyên văn tiếng Anh: One can heal all physical hurt, but can never heal the hurt of birth). Chúng ta thấy hầu như các danh nhân cổ, kim, Ðông, Tây đều đã nhìn nhận nỗi khổ của đời người đúng như lời dạy của Ðức Phật được khái quát thành Khổ đế.
    Người ta thường nói: ?oVăn tức là người? (style c'est l'homme) mà theo triết lý đạo Phật thì con người chỉ là sự lộ thể tất yếu của Nghiệp, điều này đúng với bất kỳ ai trong chúng ta một khi đã có mặt trên cõi đời này. Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Ban Mê Thuột, nhưng lớn lên ở quê nhà, thành phố Huế, trong khung cảnh tĩnh lặng của chùa Hiếu Quang, nơi gia đình gửi anh vào vì hoàn cảnh và dường như nhìn thấy nơi bản thể anh có căn nghiệp tu hành. Nhưng, những năm tháng ở chùa chỉ còn lưu dấu trong âm nhạc của anh bằng cái nhìn sâu thẳm và hư vô trước cuộc đời.
    Toàn bộ tuổi trẻ của anh là những cuộc trốn tránh quân dịch, uống thuốc xổ để lọt qua những vòng khám tuyển và hậu quả là một thể trạng ốm yếu với những căn bệnh dai dẳng đeo bám anh, cho đến giờ phút cuối của cuộc đời. Cũng chính vì trốn tránh quân dịch mà anh đã theo học một lớp sư phạm ngắn hạn ở Qui Nhơn, để rồi lên Bảo Trọng, Lâm Ðồng làm giáo viên kiêm hiệu trưởng ở một trường tiểu học vẻn vẹn có ba lớp trong một ấp chiến lược heo hút của người Thượng. Ðây là một trong những thời kỳ cô đơn nhất, còn để lại nhiều dấu ấn trong những tác phẩm nổi tiếng của anh. Và cũng chính ở cuối thời kỳ này đã đưa đến cuộc gặp gỡ định mệnh với ca sĩ Khánh Ly vào năm 1967 tại Ðà Lạt. Khi ấy Khánh Ly mới ngoài hai mươi tuổi, tuy chưa nổi tiếng như sau này, nhưng chị đã được giới sành điệu biết đến như một giọng ca thể hiện hay nhất tác phẩm của những nhạc sĩ tiền chiến từng một thời vang bóng như Lê Thương, Ðặng Thế Phong, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh v.v...
    Sau cuộc gặp gỡ đó, hai người đã quyết định hạ sơn, chấm dứt thời kỳ mai danh ẩn tích đầy khổ hạnh ở chốn cao nguyên hoang dã. Trở về với không khí âm nhạc sôi động của thành đô khi đó, giọng hát liêu trai của Khánh Ly đã mau chóng chắp cánh cho những giai điệu diễm kiều của Trịnh Công Sơn để cùng thăng hoa trên bầu trời âm nhạc, làm nên một cuộc phối ngẫu kỳ diệu nhất giữa hai tài năng sáng tác và biểu diễn trong lịch sử ca khúc Việt Nam. Thành công rực rỡ của họ đã được giới mộ điệu ghi nhận trong cuốn băng để đời Sơn ca số 7.
    Tiếp theo là một giai đoạn sáng tác đầy hứng khởi và sung mãn của anh, thể hiện một tinh thần nhập thế, hòa mình với thời cuộc để chia sẻ với hoàn cảnh đau thương của đất nước trong hàng loạt những tác phẩm rất ấn tượng được gọi tên là Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam. Thành công của giai đoạn này đã khiến anh và Khánh Ly trở thành thần tượng của giới trẻ, đặc biệt là sinh viên và trí thức. Vinh quang của Trịnh Công Sơn đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam và lên đến đỉnh cao vào năm 1972. Trong một cuộc thi hát quốc tế được Hãng truyền hình NHK tổ chức tại Osaka - Nhật Bản, bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc da vàng được trình diễn qua giọng ca tuyệt vời của Khánh Ly đã đoạt giải Ðĩa hát vàng (Gold disc), có số phát hành trên hai triệu đĩa. Kể từ đó tên tuổi của Trịnh Công Sơn được ghi trong Từ điển bách khoa của nước Pháp (Encyclopédie de tout les pays du monde) như là một người đã hát lên nỗi đau thương của nhân loại trong chiến tranh qua những khúc ca mà đúng ra phải gọi là những lời kinh nguyện cầu cho những linh hồn khổ đau và tuyệt vọng!
    Cuộc đời con người như được gọt ra từ một khối đá huyền bí, cho dù có mài giũa đến mấy, những đường vân tiền nghiệp vẫn mãi mãi hiện lên. Là một Phật tử, Trịnh Công Sơn rất tin ở điều này và dường như nó đúng với những gì mà anh đã trải qua trong cuộc đời. Theo họa sĩ Trịnh Cung, một trong những người bạn thân nhất của anh cho biết, đến ngày 30-4-1975 Trịnh Công Sơn đã quyết định ở lại, mặc dù trước đó một người bạn của anh là ký giả nổi tiếng Ðỗ Ngọc Yến cùng đi với một nhà báo Mỹ đến gặp anh để đưa ra lời mời là đã có chuyến bay dành chỗ cho anh cùng gia đình đi Hoa Kỳ. Nhưng anh đã từ chối, và đến trưa ngày 30-4 lịch sử, anh đã lên Ðài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn và kêu gọi văn nghệ sĩ hãy ở lại với quê hương, đất nước. Một trang đời mới đang đón chờ anh, và sau đấy anh đã trở ra Huế để dấn thân vào một cuộc sống mới đầy cam go, thử thách. Trải qua hai năm lao động, học tập ở Cồn Tiên - một vùng đất hoang vu đầy bom mìn chưa tháo gỡ, anh kể lại có lần ra đồng làm việc, một con trâu đi trước anh chỉ vài mét đã dẫm phải mìn và chính cái chết của nó đã cứu sống anh. Với anh, thời kỳ này là một dấu lặng dài đã giúp anh có thể điềm tĩnh nhìn lại mình qua những biến cố lịch sử.
    Sau những sự kiện trên, anh đã trở về Sài Gòn vào năm 1979, sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng cho đến thập kỷ của những năm 80 được xem là thời kỳ khởi sắc trở lại trong cuộc đời sáng tác của anh. Hàng loạt những ca khúc mới lại ra đời, tiêu biểu như: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại mẹ, Ðóa hoa vô thường, Lặng lẽ nơi này, Em còn nhớ hay em đã quên, Nhớ mùa Thu Hà Nội, Tôi ơi đừng tuyệt vọng v.v... Anh đã tỏ ra vui hơn trong nhiều ca khúc mới. Nhưng nhìn chung, vẫn là một Trịnh Công Sơn ?otriết gia? luôn cố tìm hiểu thân phận cái tôi còn đầy duyên nợ trần thế của anh.
    ?oTôi là ai mà còn trần gian thế?
    Tôi là ai mà yêu quá đời này!?
    (Trích ca khúc ?oTôi ơi, đừng tuyệt vọng
    ?).
    Con người Trịnh Công Sơn được thể hiện rất rõ qua những ca khúc tiêu biểu của anh, chẳng hạn như Một cõi đi về là tác phẩm anh rất tâm đắc, nên đã dịch lời sang tiếng Anh với đầu đề My own lonely world (Cõi đơn độc riêng của tôi). Ðiều này cho thấy anh thường xuyên ở trong một tâm trạng cực kỳ cô đơn, và có nhiều nỗi buồn trong cuộc đời.
    Tuy nhiên, nhờ ở căn cơ, tâm đạo, bản lĩnh và trình độ tu chứng nên anh đã hóa giải được những hệ lụy nhân sinh, để biến những nỗi buồn, sự cô đơn thành những khúc ca như một thứ phúc âm độ nhật cho đời và qua đó tìm ra Một cõi đi về cho riêng mình cũng như cho mọi người. Bởi vậy âm nhạc của anh bao giờ cũng mang tính triết lý, một thứ triết lý mang sắc thái Phật giáo Thiền tông đã hòa tan một cách tự nhiên trong mỗi ca từ, mỗi âm điệu của tác phẩm. Có thể vì vậy mà nhiều người xem anh như một thiền sư - một thiền sư hoằng pháp bằng lời ca tiếng hát, ứng với cái nghiệp của một thời ở chùa từ những ngày niên thiếu xa xưa của chính anh.
    Trịnh Công Sơn thường khiêm tốn nói về mình: ?oTôi chỉ là kẻ hát rong đi qua miền đất này để hát lên linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo?. Qua câu nói tưởng như hư vô này là một thông điệp đầy minh triết mà anh muốn nhắn gửi với chúng ta rằng ?oTrong cái mong manh tạm bợ của cuộc sống trần gian, mọi danh lợi đều chỉ là phù du, hư ảo. Con người chớ nên vì nó mà tự đầy đọa mình trong những phi lý của hận thù, tranh chấp, của đố kỵ, ghét ghen!? Hôm nay anh đã giã từ miền đất vừa đi qua, nhưng tinh thần nhân bản của anh sẽ còn lại mãi mãi.
    Trong những ngày diễn ra lễ tang anh, những tác phẩm nổi tiếng của anh đã trở thành những khúc Requiem (Khúc nguyện hồn) để cầu siêu cho chính anh. Ðặc biệt là Cát bụi và Một cõi đi về đã được diễn tấu qua tiếng kèn saxo alto đầy xúc động của Trần Mạnh Tuấn. Và sự xúc động đã lên đến cao trào trong một khung cảnh thật ấn tượng, khi một đoàn các nhà sư xếp hàng dài trước linh cữu để thắp hương tưởng niệm anh, thay cho những lời cầu kinh, họ cùng cất tiếng đồng ca Một cõi đi về... Không khí bi thương của tang lễ bị dồn nén như bỗng òa vỡ. Hầu như mọi người đều bật khóc. Một tình thương mênh mang đã bao trùm lên tất cả! Qua tiếng hát nghẹn ngào của các nhà sư, giai điệu bi thiết của Một cõi đi về thực sự trở thành khúc nguyện hồn không chỉ cho người nhạc sĩ cô đơn vừa nằm xuống, mà còn cho tất thảy mọi chúng sinh mà anh hằng gắn bó, yêu thương! Có thể nói Trịnh Công Sơn đã phát Bồ đề tâm qua thơ ca và âm nhạc trong tác phẩm bất hủ của mình để độ cho tất cả mọi chúng ta - những ai còn lận đận trong Một cõi đi về.
    Sau hết, nhân dịp giỗ đầu của nhạc sĩ (1-4-2001 - 1-4-2002), chúng tôi xin được qua bài viết còn sơ lược này để thắp lên một nén hương nguyện cầu cho vong linh anh tìm thấy sự yên tĩnh đời đời ở cái thế giới mà mọi chúng ta ai ai rồi cũng sẽ lần lượt tựu về. Với ý nghĩa đó, con người không vĩnh biệt nhau, mà chỉ tạm biệt.
    Ðâu đây vẳng lại dư âm những lời ca như từ một cõi giới xa xăm vọng về ?oTrên hai vai ta đôi vừng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về...?.
    (*)Nhạc sĩ trong thần thoại Hy Lạp nổi tiếng bởi giọng hát và giai điệu quyến rũ
    blue[/size=10]
  9. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn -hoằng pháp bằng âm nhạc
    Chí Anh
    Thôi rồi, những nhịp đập của một trái tim từng yêu thương nhất và cũng từng cô đơn nhất! Thôi rồi, những khát vọng cháy bỏng của tình yêu, và cũng thôi rồi, những dằn vặt khổ đau trần thế! Có chăng, chỉ còn lại những giai điệu Orpheus (*) đầy quyến rũ và cũng đầy day dứt như xoáy vào tâm hồn người nghe những vấn nạn muôn thuở của thân phận kiếp người.
    Thực vậy, sáng tác của Trịnh Công Sơn rất đa dạng và phong phú. Nhưng, nhìn chung toàn bộ những ca khúc của anh đã toát lên một chủ đề nhất quán, ấy là chủ đề về thân phận con người gắn liền với thân phận quê hương đất nước. Bởi vậy dù hát về tình yêu, về chiến tranh, hay về quê hương nòi giống; ở anh vẫn khắc khoải một nỗi lo âu trước vực thẳm cuộc đời; trước nỗi cô đơn không thể cứu vãn; trước sự phi lý của tồn tại, và trên hết là tâm trạng lưu đày trong cõi tạm!
    Nói chung, đó là những vấn đề căn bản của những trào lưu triết học hiện sinh phương Tây, cũng tương tự như những vấn đề Sinh - Lão - Bệnh - Tử của đạo Phật khái quát về đời người. Nó phản ánh tâm trạng khủng hoảng của con người, đặc biệt là giới trí thức đang bị mất phương hướng trong một thế giới tan rã, phân liệt bởi hai cuộc đại chiến. Chính trên cái nền triết lý này, vào những năm 60 ở nước Anh đã xuất hiện nhóm nhạc rock hay nhất của mọi thời đại: nhóm The Beatles với những tên tuổi tiêu biểu lừng danh như John Lennon, Paul McCartney v.v... Họ nổi tiếng vì đã phản ánh được tâm trạng bức xúc của thời đại bằng những ca từ đầy tính triết lý, và nhất là bằng nghệ thuật âm nhạc độc đáo, vô song của họ được biểu hiện trên cả hai mặt sáng tác và biểu diễn. Cùng thời gian đó, khi mà cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã lên đến đỉnh cao, thế hệ trẻ ở các đô thị miền Nam, trong đó có Trịnh Công Sơn và lớp bạn bè của anh thuộc tầng lớp trí thức trẻ luôn bị ám ảnh bởi cái chết - một chủ đề kinh điển của chủ nghĩa hiện sinh. Trong một bối cảnh như vậy, thân phận con người đương nhiên là một vấn nạn, một chủ đề tư tưởng mang tính triết lý, và nếu như nó đã được đề cập, phân tích, lý giải từ Ðông sang Tây bởi những nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng hàng đầu của thế giới thể hiện bằng những tác phẩm văn chương, thơ ca, cùng những luận văn triết học siêu việt, thì ta thấy ở Trịnh Công Sơn cũng giống như nhóm Beatles, anh đã thể hiện bằng âm nhạc. Tuy nhiên, ở Beatles mang nặng ảnh hưởng hiện sinh, cổ vũ cho tự do, cho sự sống hết mình của thế hệ trẻ, biểu hiện ở tinh thần phản kháng, tinh thần nổi loạn chống lại cái phi lý của hiện hữu, được xem như mục đích của tồn tại. Tiêu biểu cho tinh thần này là câu nói của nhà văn hiện sinh nổi tiếng A. Camus: ??oTôi đã nổi loạn, vậy thì tôi tồn tại???. (Je me révolte, donc je suis).
    Trong khi ở Trịnh Công Sơn là sự ảnh hưởng của triết lý đạo Phật, vốn nhạy cảm về tính hữu hạn của đời người trong quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử, trong dâu bể vô thường! Chính điều này đã chi phối mạch tư duy âm nhạc của anh để làm nên một phong cách Trịnh Công Sơn với những ca khúc nổi tiếng tiêu biểu như Cát bụi, Diễm xưa, Biển nhớ, Bên đời hiu quanh, Ở trọ, Biết đâu nguồn cội, Phôi pha, Dấu chân địa đàng, Như cánh vạc bay, Ðóa hoa vô thường, Một cõi đi về v.v...
    Chỉ với những tiêu đề của chùm ca khúc trên cũng đã phần nào nói lên tính triết lý của tác giả. Tuy nhiên, tính triết lý không chỉ biểu hiện ở nội dung những ca từ vốn đã rất nổi tiếng ở anh mà còn được kết hợp một cách nhuần nhuyễn với những giai điệu cực kỳ điêu luyện thường được viết trên nền của một giọng thứ (mineur) u hoài, man mác gợi lên một sự trầm tư không dứt về ý nghĩa tồn tại của đời người trên tuyến tính thời gian, mà xét đến cùng, chỉ là một tiến trình từ chiếc nôi đến nấm mồ, không thể nào nghịch đảo ??oDưới vành nôi mọc từng nấm mộ??? (Cỏ xót xa đưa). Bởi vậy khi nghe Trịnh Công Sơn, chúng ta thường bắt gặp một cái nhìn đầy ưu tư về thân phận!
    Ưu tư? - phải chăng vì nó vượt lên trên những giá trị thường nhật, nó chạm tới những vấn đề vĩnh cửu, nó chạm tới nỗi đau hiện hữu của con người, mà đạo Phật gọi là Khổ đế (Dukkha). đế đầu tiên và quan trọng nhất trong Tứ diệu đế nổi tiếng của đạo Phật. Có thể nói toàn bộ những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một cuốn tiểu thuyết trường thiên minh họa cho chủ đề triết lý này, mà mỗi bài ca là một khúc đoạn trường luôn để lại những vết thương, bắt đầu từ vết thương đầu tiên, ấy là sự ra đời của con người, mà anh đã cảnh báo trong lời ru"... Trẻ thơ ơi, tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người??? (Gọi tên bốn mùa). Sinh là khởi điểm của một kiếp luân hồi, nếu như tự nó không phải điều đáng buồn - thì cũng chẳng có gì đáng gọi là vui. Trong một tác phẩm thấm nhuần tinh thần Phật giáo là Cung oán ngâm khúc, nhà thơ Nguyễn Gia Thiều đã viết về sự ra đời bằng những câu thơ đầy triết lý:
    ??oThảo nào khi mới chôn rau (nhau)
    Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
    Khóc vì nỗi thiết tha thế sự
    Ai bày trò bãi bể nương dâu
    ???
    Và trước Nguyễn Gia Thiều gần hai thế kỷ, trong vở kịch nổi tiếng ??oVua Lia??? - nhà viết kịch lừng danh William Shakespeare từng viết: ??oCon người không cất tiếng cười khi chào đời, mà khóc thét lên, bởi nó quá hãi hùng khi phải bước vào cái sân khấu mênh mông đầy bất ổn của những kẻ mê cuồng!???. Cũng với tinh thần triết lý trên, nhà thơ Byron nổi tiếng của nước Anh thế kỷ thứ XIX từng viết: ??oCon người có thể chữa lành mọi vết thương cơ thể, nhưng không bao giờ chữa lành được vết thương của sự ra đời??? (nguyên văn tiếng Anh: One can heal all physical hurt, but can never heal the hurt of birth). Chúng ta thấy hầu như các danh nhân cổ, kim, Ðông, Tây đều đã nhìn nhận nỗi khổ của đời người đúng như lời dạy của Ðức Phật được khái quát thành Khổ đế.
    Người ta thường nói: ??oVăn tức là người??? (style c'est l'homme) mà theo triết lý đạo Phật thì con người chỉ là sự lộ thể tất yếu của Nghiệp, điều này đúng với bất kỳ ai trong chúng ta một khi đã có mặt trên cõi đời này. Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Ban Mê Thuột, nhưng lớn lên ở quê nhà, thành phố Huế, trong khung cảnh tĩnh lặng của chùa Hiếu Quang, nơi gia đình gửi anh vào vì hoàn cảnh và dường như nhìn thấy nơi bản thể anh có căn nghiệp tu hành. Nhưng, những năm tháng ở chùa chỉ còn lưu dấu trong âm nhạc của anh bằng cái nhìn sâu thẳm và hư vô trước cuộc đời.
    Toàn bộ tuổi trẻ của anh là những cuộc trốn tránh quân dịch, uống thuốc xổ để lọt qua những vòng khám tuyển và hậu quả là một thể trạng ốm yếu với những căn bệnh dai dẳng đeo bám anh, cho đến giờ phút cuối của cuộc đời. Cũng chính vì trốn tránh quân dịch mà anh đã theo học một lớp sư phạm ngắn hạn ở Qui Nhơn, để rồi lên Bảo Trọng, Lâm Ðồng làm giáo viên kiêm hiệu trưởng ở một trường tiểu học vẻn vẹn có ba lớp trong một ấp chiến lược heo hút của người Thượng. Ðây là một trong những thời kỳ cô đơn nhất, còn để lại nhiều dấu ấn trong những tác phẩm nổi tiếng của anh. Và cũng chính ở cuối thời kỳ này đã đưa đến cuộc gặp gỡ định mệnh với ca sĩ Khánh Ly vào năm 1967 tại Ðà Lạt. Khi ấy Khánh Ly mới ngoài hai mươi tuổi, tuy chưa nổi tiếng như sau này, nhưng chị đã được giới sành điệu biết đến như một giọng ca thể hiện hay nhất tác phẩm của những nhạc sĩ tiền chiến từng một thời vang bóng như Lê Thương, Ðặng Thế Phong, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Khánh v.v...
    Sau cuộc gặp gỡ đó, hai người đã quyết định hạ sơn, chấm dứt thời kỳ mai danh ẩn tích đầy khổ hạnh ở chốn cao nguyên hoang dã. Trở về với không khí âm nhạc sôi động của thành đô khi đó, giọng hát liêu trai của Khánh Ly đã mau chóng chắp cánh cho những giai điệu diễm kiều của Trịnh Công Sơn để cùng thăng hoa trên bầu trời âm nhạc, làm nên một cuộc phối ngẫu kỳ diệu nhất giữa hai tài năng sáng tác và biểu diễn trong lịch sử ca khúc Việt Nam. Thành công rực rỡ của họ đã được giới mộ điệu ghi nhận trong cuốn băng để đời Sơn ca số 7.
    Tiếp theo là một giai đoạn sáng tác đầy hứng khởi và sung mãn của anh, thể hiện một tinh thần nhập thế, hòa mình với thời cuộc để chia sẻ với hoàn cảnh đau thương của đất nước trong hàng loạt những tác phẩm rất ấn tượng được gọi tên là Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam. Thành công của giai đoạn này đã khiến anh và Khánh Ly trở thành thần tượng của giới trẻ, đặc biệt là sinh viên và trí thức. Vinh quang của Trịnh Công Sơn đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam và lên đến đỉnh cao vào năm 1972. Trong một cuộc thi hát quốc tế được Hãng truyền hình NHK tổ chức tại Osaka - Nhật Bản, bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc da vàng được trình diễn qua giọng ca tuyệt vời của Khánh Ly đã đoạt giải Ðĩa hát vàng (Gold disc), có số phát hành trên hai triệu đĩa. Kể từ đó tên tuổi của Trịnh Công Sơn được ghi trong Từ điển bách khoa của nước Pháp (Encyclopédie de tout les pays du monde) như là một người đã hát lên nỗi đau thương của nhân loại trong chiến tranh qua những khúc ca mà đúng ra phải gọi là những lời kinh nguyện cầu cho những linh hồn khổ đau và tuyệt vọng!
    Cuộc đời con người như được gọt ra từ một khối đá huyền bí, cho dù có mài giũa đến mấy, những đường vân tiền nghiệp vẫn mãi mãi hiện lên. Là một Phật tử, Trịnh Công Sơn rất tin ở điều này và dường như nó đúng với những gì mà anh đã trải qua trong cuộc đời. Theo họa sĩ Trịnh Cung, một trong những người bạn thân nhất của anh cho biết, đến ngày 30-4-1975 Trịnh Công Sơn đã quyết định ở lại, mặc dù trước đó một người bạn của anh là ký giả nổi tiếng Ðỗ Ngọc Yến cùng đi với một nhà báo Mỹ đến gặp anh để đưa ra lời mời là đã có chuyến bay dành chỗ cho anh cùng gia đình đi Hoa Kỳ. Nhưng anh đã từ chối, và đến trưa ngày 30-4 lịch sử, anh đã lên Ðài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn và kêu gọi văn nghệ sĩ hãy ở lại với quê hương, đất nước. Một trang đời mới đang đón chờ anh, và sau đấy anh đã trở ra Huế để dấn thân vào một cuộc sống mới đầy cam go, thử thách. Trải qua hai năm lao động, học tập ở Cồn Tiên - một vùng đất hoang vu đầy bom mìn chưa tháo gỡ, anh kể lại có lần ra đồng làm việc, một con trâu đi trước anh chỉ vài mét đã dẫm phải mìn và chính cái chết của nó đã cứu sống anh. Với anh, thời kỳ này là một dấu lặng dài đã giúp anh có thể điềm tĩnh nhìn lại mình qua những biến cố lịch sử.
    Sau những sự kiện trên, anh đã trở về Sài Gòn vào năm 1979, sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng cho đến thập kỷ của những năm 80 được xem là thời kỳ khởi sắc trở lại trong cuộc đời sáng tác của anh. Hàng loạt những ca khúc mới lại ra đời, tiêu biểu như: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại mẹ, Ðóa hoa vô thường, Lặng lẽ nơi này, Em còn nhớ hay em đã quên, Nhớ mùa Thu Hà Nội, Tôi ơi đừng tuyệt vọng v.v... Anh đã tỏ ra vui hơn trong nhiều ca khúc mới. Nhưng nhìn chung, vẫn là một Trịnh Công Sơn ??otriết gia??? luôn cố tìm hiểu thân phận cái tôi còn đầy duyên nợ trần thế của anh.
    ??oTôi là ai mà còn trần gian thế?
    Tôi là ai mà yêu quá đời này!???
    (Trích ca khúc ??oTôi ơi, đừng tuyệt vọng
    ???).
    Con người Trịnh Công Sơn được thể hiện rất rõ qua những ca khúc tiêu biểu của anh, chẳng hạn như Một cõi đi về là tác phẩm anh rất tâm đắc, nên đã dịch lời sang tiếng Anh với đầu đề My own lonely world (Cõi đơn độc riêng của tôi). Ðiều này cho thấy anh thường xuyên ở trong một tâm trạng cực kỳ cô đơn, và có nhiều nỗi buồn trong cuộc đời.
    Tuy nhiên, nhờ ở căn cơ, tâm đạo, bản lĩnh và trình độ tu chứng nên anh đã hóa giải được những hệ lụy nhân sinh, để biến những nỗi buồn, sự cô đơn thành những khúc ca như một thứ phúc âm độ nhật cho đời và qua đó tìm ra Một cõi đi về cho riêng mình cũng như cho mọi người. Bởi vậy âm nhạc của anh bao giờ cũng mang tính triết lý, một thứ triết lý mang sắc thái Phật giáo Thiền tông đã hòa tan một cách tự nhiên trong mỗi ca từ, mỗi âm điệu của tác phẩm. Có thể vì vậy mà nhiều người xem anh như một thiền sư - một thiền sư hoằng pháp bằng lời ca tiếng hát, ứng với cái nghiệp của một thời ở chùa từ những ngày niên thiếu xa xưa của chính anh.
    Trịnh Công Sơn thường khiêm tốn nói về mình: ??oTôi chỉ là kẻ hát rong đi qua miền đất này để hát lên linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo???. Qua câu nói tưởng như hư vô này là một thông điệp đầy minh triết mà anh muốn nhắn gửi với chúng ta rằng ??oTrong cái mong manh tạm bợ của cuộc sống trần gian, mọi danh lợi đều chỉ là phù du, hư ảo. Con người chớ nên vì nó mà tự đầy đọa mình trong những phi lý của hận thù, tranh chấp, của đố kỵ, ghét ghen!??? Hôm nay anh đã giã từ miền đất vừa đi qua, nhưng tinh thần nhân bản của anh sẽ còn lại mãi mãi.
    Trong những ngày diễn ra lễ tang anh, những tác phẩm nổi tiếng của anh đã trở thành những khúc Requiem (Khúc nguyện hồn) để cầu siêu cho chính anh. Ðặc biệt là Cát bụi và Một cõi đi về đã được diễn tấu qua tiếng kèn saxo alto đầy xúc động của Trần Mạnh Tuấn. Và sự xúc động đã lên đến cao trào trong một khung cảnh thật ấn tượng, khi một đoàn các nhà sư xếp hàng dài trước linh cữu để thắp hương tưởng niệm anh, thay cho những lời cầu kinh, họ cùng cất tiếng đồng ca Một cõi đi về... Không khí bi thương của tang lễ bị dồn nén như bỗng òa vỡ. Hầu như mọi người đều bật khóc. Một tình thương mênh mang đã bao trùm lên tất cả! Qua tiếng hát nghẹn ngào của các nhà sư, giai điệu bi thiết của Một cõi đi về thực sự trở thành khúc nguyện hồn không chỉ cho người nhạc sĩ cô đơn vừa nằm xuống, mà còn cho tất thảy mọi chúng sinh mà anh hằng gắn bó, yêu thương! Có thể nói Trịnh Công Sơn đã phát Bồ đề tâm qua thơ ca và âm nhạc trong tác phẩm bất hủ của mình để độ cho tất cả mọi chúng ta - những ai còn lận đận trong Một cõi đi về.
    Sau hết, nhân dịp giỗ đầu của nhạc sĩ (1-4-2001 - 1-4-2002), chúng tôi xin được qua bài viết còn sơ lược này để thắp lên một nén hương nguyện cầu cho vong linh anh tìm thấy sự yên tĩnh đời đời ở cái thế giới mà mọi chúng ta ai ai rồi cũng sẽ lần lượt tựu về. Với ý nghĩa đó, con người không vĩnh biệt nhau, mà chỉ tạm biệt.
    Ðâu đây vẳng lại dư âm những lời ca như từ một cõi giới xa xăm vọng về ??oTrên hai vai ta đôi vừng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về...???.
    (*)Nhạc sĩ trong thần thoại Hy Lạp nổi tiếng bởi giọng hát và giai điệu quyến rũ
    blue[/size=10]
  10. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Trịnh công Sơn vẽ tranh
    Lê Bảo Hoàng
    [​IMG]
    TCS , Montreal 1992​
    Năm 1992, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ Việt Nam qua thăm thành phố Montréal. Trong hơn sáu tháng cư trú tại nhà những người em, Trịnh công Sơn đã đi loanh quanh thăm viếng từng đường gân thành phố, từng đọt cây bén xuân,từng cánh hoa mở hạ và từng búp tuyết khai đông. Một số thời gian còn lại, Trịnh Công Sơn vừa dành cho bè bạn vừa dành cho việc sáng tác. Khác với thường lệ, Trịnh công Sơn không viết một ca khúc nào trong suốt thời gian, anh hít thở không khí an hòa của Montréal. Màu sắc của cây cỏ, âm thanh của chim và người, đã rũ rê anh, bỏ hàng giờ ngồi trước gía vẽ. Một vài ngụm remi martin, ấm áp, một vài cú điện thoại thân tình, cùng với sơn cọ đã dẫn dắt anh lang thang cùng những hình ảnh, những suy tưởng chợt vung vãi, chợt cô đọng sống động trên mặt vải.
    Ngoài âm nhạc, Trịnh công Sơn đã đến với hội họa khác lâu. Có thể đây là kết quả sau những năm dài chơi thân cùng với những họa sĩ tài hoa Ðinh Cường, Trịnh Cung... Sự nghiệp mới này của Trịnh Công Sơn được gầy dựng sau năm 1975. Hiện nay, tại quốc nội, Trịnh Công Sơn đã hiển nhiên thành một họa sĩ bên cạnh nhiều tay cầm cọ khác. Nhiều cuộc triển lãm của anh đã mở cửa để chào đón khách thưởng ngoạn. Và điều căn bản, là hình như tranh của anh đã được khá đông giới mộ điệu đón nhận. Trong một phòng tranh tại Tự Do Art Gallery,Sàigòn, hồi tháng 8 vừa qua,tranh của Trịnh Công Sơn đứng bên cạnh với những họa phẩm của Ðinh Cường, Bửu Chỉ. Nhận xét về tranh anh, Cô Long Nghi (cháu nhà văn Nhã Ca) viết trên báo Lao Ðộng:
    " Mơ mộng và hư ảo, thế giới tranh của Trịnh Công Sơn là cuộc hội ngộ lý thú của màu sắc và âm thanh ngọt ngào, đầy huyễn tượng. Dư âm của nhạc pop trữ tình, giàu chất triết lý, cùng ký ức và tâm sự của đời sống nhạc sĩ lảng vảng trong không gian bán trừu tượng của Kiều Ca Kỹ, Cha Con Hát Xẩm, Bóng Thơ và kể cả bức tranh trừu tượng Thế Giới Ảo"
    Trả lời một câu hỏi của nhà báo Phạm Thị Ngọc Liên:
    - Ngoài sáng tác âm nhạc anh còn vẽ, vẽ rất nhiều. Phải chăng hội họa là một cõi trú khác của anh ngoài cõi trú âm nhạc?
    Trịnh Công Sơn trả lời:
    -Ðúng !Hội họa là Cõi Trú Thứ Hai của tôi, bên cạnh Cõi Trú Âm Nhạc. Khi ngôn ngữ và âm thanh bất lực thì màu sắc lên tiếng để an ủi và ru dỗ tôi.
    Chúng tôi là những người thưởng ngoạn họa phẩm, gần như thuần túy bằng xúc cảm. Không quen xem tranh bằng đôi mắt giải thích, trước những công trình tạo hình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhận ra đó là những bài thơ, hơn là những ca khúc. Những bài thơ giàu đường nét, sắc màu và vô cùng bao la. Ngôn ngữ dưới nét cọ của Trịnh công Sơn rõ ràng có âm điệu hài hòa, điều này làm giảm được khoảng cách giữa họa sĩ với người thưởng ngoạn, ngay cả những họa phẩm trừu tượng của anh.
    Giới thiệu sự việc Trịnh Công Sơn vẽ tranh tại Montréal, không có mục đích mời xem những tác phẩm hội họa của Trịnh Công Sơn, mà chỉ nói đến cái duyên của một tên tuổi trong giới sáng tạo Việt Nam có lưu lại một chút kỷ niệm với một thành phố lớn trên thế giới. Cái duyên này không phải chỉ dành riêng cho Trịnh Công Sơn, mà cái duyên văn nghệ còn dành cho thành phố Montréal của xứ sở Canada nữa.
    Lê Bảo Hoàng
    http://www.digital-info.com/luanhoan/phutrang/htm/tcson.htm
    Xem thêm : http://www.vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2003/04/3B9C66C3/
    blue[/size=10]
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 01:57 ngày 05/07/2003

Chia sẻ trang này