1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Thu đến, nhớ nhạc sỹ họ Trịnh
    NGUYỄN THỤY KHA

    Hai cố nhạc sỹ VZn Cao và Trịnh Công Sơn

    Thu Hà Nội 1983 se lạnh và ẩm ướt. Thu Hà Nội nZm ấy là thu của Đại hội vZn nghệ lần đầu tiên khi cuộc chiến đã đi qua. NZm ấy, Trịnh Công Sơn chưa là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam, nhưng anh ở trong Đoàn đại biểu các nhạc sĩ thành phố Hồ Chí Minh ra mừng Đại hội Nhạc sĩ Việt Nam lần thứ III. Cùng song hành với Trịnh Công Sơn là Trần Long Ẩn. Đây là lần đầu tiên Trịnh Công Sơn chìm đắm trong không khí thu - một trong nZm đặc sản của Hà Nội (gồm có hồ nước, phở, rượu, thiếu nữ và mùa thu) và chìm đắm trong tình bạn bè đồng nghiệp Thủ đô. Những cuộc rượu kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Hồi đó còn khỏe, còn trai tráng và còn ham chơi giữa cái đói nghèo luôn rình rập. Đã có một cuộc rượu khá vui trên mái gác nhà tôi ở 60 Hàng Bông. Cuộc hôm đó có huynh trưởng VZn Cao. Xúm quanh ông là Thu Bồn, Hồng ĐZng, Trịnh Công Sơn, Ngô Thảo, Nghiêm Bá Hồng và tôi út ít nhất là Phương Thanh "Hiền cá sấu" như đang còn ngơ ngác trong "Tôi lỗi cuối cùng" với lai láng giai điệu Trịnh Công Sơn: "Đi về đâu hỡi em...".
    Bữa đấy, Trịnh Công Sơn mới thực sự nhìn thấy hết lớp lớp sóng nhà của một Hà Nội cổ kính, mới nhìn thấy những đường nét lặng lẽ dập dìu trong tranh Phái. Anh đứng đúng nơi Bùi Xuân Phái đã ngồi cùng tôi và Lê Chính ngắm chiều kinh kỳ qua chén "cuốc lủi". Và những chén rượu "cuốc lủi" lại được nâng lên. Cuộc ấy, VZn Cao say và đùa cười thật hóm. Những bài hát mùa thu của Trịnh Công Sơn cất lên tràn trề như câu thơ Nguyễn Bắc Sơn: "Men nhạc Trịnh Công Sơn chảy tràn đêm khuya". Nghe bạn bè hát mình, Sơn thầm thì: "Mình sẽ có một cái gì dành tặng mùa thu Hà Nội".
    Thu nZm sau, tôi và Nguyễn Trọng Tạo vào thành phố Hồ Chí Minh thZm Trịnh Công Sơn tại tư gia của anh trong hẻm 47C Phạm Ngọc Thạch (Duy Tân cũ). Thời ấy chuyển từ rượu đế lên vốtka Nga là "lên đời" như bây giờ họ đua nhau "lên đời" xe máy và điện thoại cầm tay. Vừa uống, Sơn vừa hát "Nhớ mùa thu Hà Nội": "Hà Nội mùa thu - cây cơm nguội vàng - cây bàng lá đỏ...". Sơn dừng lại: "Mình cũng chơi màu như Phái chứ bộ". Đến câu "Mái ngói thẫm nâu" thì anh bảo: "Cảm nhận câu này từ mái gác nhà Kha đấy!". Rồi lại hát. Rồi lại uống! Tôi thấy vui cho Sơn. Anh đã thực sự nhập vào thu Hà Nội . Sau "Nhớ mùa thu Hà Nội", Sơn hát "Huyền thoại mẹ". Nghe xong, tôi nói với anh "Huyền thoại mẹ" sẽ sớm được công chúng thích. Còn "Nhớ mùa thu Hà Nội" sẽ ngấm từ từ nhưng mà dài lâu. Với riêng tôi thì tôi thích "Nhớ mùa thu Hà Nội" hơn. Sơn tặng cho tôi và Tạo mỗi người hai bản nhạc bài "Nhớ mùa thu Hà Nội" được in roneo trên giấy đen kít. Vì thích, tôi thuộc ngay "Nhớ mùa thu Hà Nội". Mờ sáng 10/10/1984, tôi ra tới Hà Nội . Chỉ ít phút sau đã thấy bộ đội diễu binh qua phố Hàng Bông kỷ niệm 30 nZm giải phóng Thủ đô. Gần trưa, trong bộ "bò cả cây" mang từ Sài Gòn ra, tôi đến Báo VZn nghệ chơi với vợ chồng Bế Kiến Quốc. Quốc và Mai chắc chắn là hai người đầu tiên ở Hà Nội nghe giai điệu này. Viết "Nhớ mùa thu Hà Nội", ngoài tài hoa phả vào ca từ sương khói Hà Nội, Sơn còn tạo ra đoạn kết với điệu thức "đô thứ" đối với điệu thức "đô trưởng" đoạn đầu vừa lạ vừa lắng sâu: "Hà Nội mùa thu - mùa thu Hà Nội - nhớ đến một người - để nhớ mọi người". Khi hát cho Quốc và Mai nghe, tôi rất chú trọng đoạn này. Cả hai như lặng đi.
    Nhưng không ngoài dự đoán. NZm 1985, sau khi đi liên hoan ở Mát-xcơ-va về Hà Nội, Trịnh Công Sơn đã hát "Nhớ mùa thu Hà Nội" ở Nhà hát lớn mà chẳng nhận được sự tán thưởng gì. Mãi tới những nZm 90, "Nhớ mùa thu Hà Nội" mới dần dà được hát lên, rồi loang ra rộng rãi. Dù sao thì thế cũng đã là nhanh, ít ra là nhanh hơn "Mùa xuân đầu tiên" của VZn Cao, được viết ra từ nZm 1976, được dịch ra tiếng Nga và in ở Nga từ nZm 1977 mà mãi tới nZm 1993, khi VZn Cao tròn 70 tuổi, "Mùa xuân đầu tiên" mới lần đầu tiên được vang lên. Đó là những lối đi khác nhau dành cho từng tác phẩm.
    Sau "Nhớ mùa thu Hà Nội", Trịnh Công Sơn còn viết "Đoản khúc thu Hà Nội" hay không kém. Hy vọng rằng, "sẽ có một ngày...." "Đoản khúc thu Hà Nội" lại nổi tiếng như "Nhớ mùa thu Hà Nội".
    (NGUYỄN THỤY KHA)
    --------------------------------------------------------------------------------
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 04:42 ngày 05/07/2003
  2. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn

    Lặng lẽ nơi này
    Bùi Bảo Trúc

    Trịnh Công Sơn, một tài hoa hết sức đa dạng, ông viết về nhiều thể loại khác nhau từ những tình ca xót xa nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh, đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, vừa mới tạ thế tại Sài Gòn hưởng thọ 62 tuổi. Một người rất gần gủi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết, nhưng không ai biết ông bao nhiêu, ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân.
    Little Saigon Radio trân trọng xin mời quý khán giả theo dõi 10 chương trình đặc biệt về TCS với chủ đề "Nỗi Bi Phẫn Dịu Dàng" do Bùi Bảo Trúc biên tập, Vũ Kiệt và Thuỵ Trinh thực hiện với các giọng hát của Khánh Ly, Lệ Thu, Trịnh Vĩnh Trinh, Ý Lan, Thái Hiền, Tuấn Ngọc và Khánh Hà.
    Và bây giờ là kỳ thứ nhất: Trịnh Công Sơn, xin cứ coi chàng là thi sĩ.

    1. TRỊNH CÔNG SƠN
    Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn hai thế hệ người Việt, vừa tạ thế tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi. Một người rất gần gủi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu, ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân. Sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, qua đời ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại Sài gòn. Trịnh Công Sơn quê ở Huế, nhưng ra đời ở Đắc Lắc, tiểu sử ông chỉ ghi như thế. Lặng lẽ nơi này như tựa của một bài hát ông viết, có lẽ là một tóm gọn khá đúng về một cách sống của ông.
    "Trời cao đất rộng một mình tôi đi
    Đời như vô tận một mình tôi về, một mình tôi về, với tôi"
    Từ căn nhà cũ ở Phủ Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn lên bỏ vào Sài gòn theo bạn bè Âm nhạc. Ông không ồn ào những bước đưa nhạc của mình vào đến tai người nghe. Năm 1965 tại trụ sở Sinh viên Đại học, góc đường Duy Tân - Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy, cầm chiếc Tây Ban Cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết tại Sài gòn thuở đó. Và từ đó nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa. Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy, có bài Gọi Tên Bốn Mùa. Sài gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào Hạ, những giọt thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy, cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc "Gọi Tên Bốn Mùa" lại trở về như mùa Thu cũ, một thời, một đờị
    "Em đứng lên gọi mưa vào Hạ, từng cơn mưa, từng cơn mưa, từng cơn mưa, mưa thì thầm dưới chân ngà. Em đứng mùa Thu tàn tạ, hàng cây khô, cành bơ vơ, hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô . Em đứng lên mùa Đông nhạt nhòa, từng đêm mưa, từng đêm mưa, từng đêm mưa, mưa lạnh từng ngón sương mù. Em đứng lên mùa Xuân vừa nở, nụ Xuân xanh, cành thênh thang, chim về vào ngày tuổi em trên cành bão bùng ........"
    Trịnh Công Sơn đến với người thưởng ngoạn bằng nhạc, nhưng căn bản ông là một thi sĩ. Ông như một nhạc sĩ trong một bức vẽ của Picasso, thời kỳ xanh. Người nhạc sĩ cầm cây đàn, cây đàn không có giây, dạo lên những âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi thẳng ra từ quả tim của ông. Trịnh Công Sơn cũng thế, ông viết rất dễ dàng, trong trí, trên một mảnh giấy lau tay, trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào như một thi sĩ vì chính ông là một thi sĩ. Có những bản nhạc của ông, phần bài ca là một bài thơ. Ông dùng nhạc, để nâng đỡ những bài thơ đó, và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế. Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông, đưa người nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới, hình ảnh lãng mạn mầu tao nhã (?), không còn dấu tích của giòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến, nó đưa đến sự chấm dứt của những ảnh hưởng đã ở trong nhạc Việt từ bao nhiêu năm. Đến Trịnh Công Sơn nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới. Ngôn ngữ tình yêu của ông không là ngôn ngữ của thi ca, lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn của chung quanh đầy dao động.
    "Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình
    Tóc nào hãy còn xanh, cho ta chút hồn nhiên
    Tim nào có bình yên, ta rêu rao đời mình
    Xin người hãy gọi tên!
    Khi tình đã vội quên, tim lăn trên đường mòn
    Trên giọt máu cuồng điên, con chim đứng lặng câm
    Khi về trong mùa Đông, tay nâng niu muộn màng
    Thôi chờ những rạng đông!..."
    Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông trong những chuỗi âm thanh mà nhạc dẫn dắt chúng ta đi theo ông. Người nghe vẫn thấy lấp ló ở đâu đó con người thi sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những chữ đã rất cũ, qua tay ông, được mặc cho những bộ áo mới, thì đây, chữ nghĩa đã cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới.
    "Tôi ru em ngủ
    Một sớm mùa Đông
    Em ra ngoài ruộng đồng
    Hỏi thăm cành lúa mới
    Tôi ru em ngủ
    Một sớm mùa Thu
    Em đi trong sương mù
    Gọi cây lá vào mùa..."
    Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông viết về nhiều thứ nhạc khác nhau, từ những tình ca xót xa nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh, đến những bài ngợi ca quê hương đất nước. Một ước mơ hoà bình, hiền lành của dân tộc. Ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó như nhạc tình của ông bằng những hình ảnh rất mới của thơ, đã trở thành dấu ấn của Trịnh Công Sơn. Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "khi bạn đang muốn hát về một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng e ngại, dù hạnh phúc hay dở dang, thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi".
    Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở thành những tình ca chung của tất cả, tính chất riêng tư không còn nữa.
    Diễm, trở thành không thực, chỉ còn nhớ mãi trong cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, như trong ca khúc Diễm Xưa. Nghe một lần, rồi mãi mãi không bao giờ quên được.
    "...Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
    Làm sao em biết bia đá không đau
    Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
    Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau."
    Trịnh Công Sơn ra đi là một mất mát vô cùng lớn của những người yêu nhạc Việt. Ông để lại một thế giới đẹp hơn.
    Và nói như Kiều Chinh sáng hôm nghe tin ông mất, được sống cùng thời với Trịnh Công Sơn, là một vinh hạnh.
    2. TRỊNH CÔNG SƠN, NHẠC TÌNH
    Ở trang 11 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế này: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêụ Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Ðờị
    Ông viết những dòng trên có thể trong cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.
    Có thể khẳng định rằng nếu sống vào một thời điểm khác, hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc: nhạc tình. Nhưng chiến tranh bầy ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của ông, vẫn thấy bóng dáng của khổ đau, bất hạnh. Trong bài Tình Sầu, với ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầụ..
    Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc. Nó là những bất hạnh của chia xa, của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng. Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy:
    "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về nhưng nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi ngườị"
    Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...
    Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt Mi như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu tiên của ông là bài Sương Ðêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa. Không một ai biết bài hát nàỵ Ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu trùng trùng của đời sống. Ướt Mi lần đầu tiên được hát trước công chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy . Ca khúc này biến Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.
    Tình khúc Ướt Mi là khởi đầu cho chuyến đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt Mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời cạ Phải đợi đến Diễm Xưa, và Nắng Thủy Tinh, mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.
    Mầu nắng và mầu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xôn xao, gió mây ngàn, hàng cây thắp nến... với Nắng Thủy Tinh, tình ca Việt Nam đi sang một hướng mớị Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn không ai viết thứ lời ca như thế...
    Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ tiếp tục làm mới ông mãi mãị So với Nắng Thủy Tinh, thì Như Cánh Vạc Bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này, cứ như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy ra giữa hồ hoài hoài mãi mãị Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhăc nhở về mặt hồ sóng. Náng thì hờn ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Ðặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như Cánh Vạc Bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.
    Quỳnh Hương mà ông viết trong thập niên 70 lại đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt Mi thêm một đoạn đường dài khác. Ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4 như một lời tỏ tình hân hoan...
    Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống rất đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc cháy tan nát này.
    3. TRỊNH CÔNG SƠN, NHẠC PHẢN CHIẾN
    Ở Việt Nam, thế hệ ra đời từ khoảng cuối thập niên 30 đến những năm đầu của thập niên 50 là thế hệ bất hạnh nhất.
    Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn họ là những người tử trận nhiều nhất, góa bụa nhiều nhất và mồ côi nhiều nhất. Họ vừa lớn lên, là đã đụng mặt với một trong những cuộc chiến kinh hoàng, ghê khiếp nhất lịch sử nhân loại.
    Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào giai đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những người già trong công viên, đàn bò ngu ngợ.. nhắc nhở cho ông không khí đầy súng đạn, chết chóc chung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc.
    Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ, rằng đá không đaủ Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc. Ðá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.
    Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới được quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính Chúng Ta Phải Nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường học.
    Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất, thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác.
    Vẫn viết tiếp những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá, cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu đạn, tên em cũng là vết thương khô.
    Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều người gọi là nhạc phản chiến.
    Không một người có trái tim mà không biết nhỏ lệ, mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại trong niềm thù hận mà ông gọi là "giả tạo" đó.
    Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ thương đứa con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim, thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn Ðình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước.
    Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gấm.
    Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu nàỵ Ðó là những bài hát được viết từ nhưng hân hoan lắng nghe được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đam đông chờ mong ngày hồi sinh.
    Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế, không là một taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tốt đẹp nhất của con ngườI.
    Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một cách hiền lành. Ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi tiêu diệt bên này, chôn sống bên kiạ Ông bất lực không làm gì được để chặn những viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đọa triền miên bao nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến của ông.
    Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực hiểm nghèO. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa, chừng nào còn có người hát nhạc Việt.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:13 ngày 05/07/2003
  3. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn

    Lặng lẽ nơi này
    Bùi Bảo Trúc

    Trịnh Công Sơn, một tài hoa hết sức đa dạng, ông viết về nhiều thể loại khác nhau từ những tình ca xót xa nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh, đến những bài ngợi ca quê hương đất nước, vừa mới tạ thế tại Sài Gòn hưởng thọ 62 tuổi. Một người rất gần gủi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết, nhưng không ai biết ông bao nhiêu, ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân.
    Little Saigon Radio trân trọng xin mời quý khán giả theo dõi 10 chương trình đặc biệt về TCS với chủ đề "Nỗi Bi Phẫn Dịu Dàng" do Bùi Bảo Trúc biên tập, Vũ Kiệt và Thuỵ Trinh thực hiện với các giọng hát của Khánh Ly, Lệ Thu, Trịnh Vĩnh Trinh, Ý Lan, Thái Hiền, Tuấn Ngọc và Khánh Hà.
    Và bây giờ là kỳ thứ nhất: Trịnh Công Sơn, xin cứ coi chàng là thi sĩ.

    1. TRỊNH CÔNG SƠN
    Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ của hơn hai thế hệ người Việt, vừa tạ thế tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi. Một người rất gần gủi mà cũng rất xa chúng ta. Ông là người mà ai cũng biết nhưng cũng không ai biết ông bao nhiêu, ngoài gia đình và một vài người bạn rất thân. Sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, qua đời ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại Sài gòn. Trịnh Công Sơn quê ở Huế, nhưng ra đời ở Đắc Lắc, tiểu sử ông chỉ ghi như thế. Lặng lẽ nơi này như tựa của một bài hát ông viết, có lẽ là một tóm gọn khá đúng về một cách sống của ông.
    "Trời cao đất rộng một mình tôi đi
    Đời như vô tận một mình tôi về, một mình tôi về, với tôi"
    Từ căn nhà cũ ở Phủ Cam, Huế, Trịnh Công Sơn lớn lên bỏ vào Sài gòn theo bạn bè Âm nhạc. Ông không ồn ào những bước đưa nhạc của mình vào đến tai người nghe. Năm 1965 tại trụ sở Sinh viên Đại học, góc đường Duy Tân - Hồng Thập Tự, người thanh niên có cái vẻ rất thư sinh, gầy gò ấy, cầm chiếc Tây Ban Cầm bước lên bục, sau đôi lời giới thiệu rất ngắn và giản dị của một người trong ban tổ chức, cất lên tiếng hát chưa mấy ai biết tại Sài gòn thuở đó. Và từ đó nhạc Việt Nam không bao giờ còn như cũ nữa. Trong số những ca khúc ông hát hôm ấy, có bài Gọi Tên Bốn Mùa. Sài gòn hôm ấy vừa xong một cơn mưa. Cơn mưa vào Hạ, những giọt thì thầm, cành khô bơ vơ, buổi chiều xao xác, tuổi thơ, tin buồn... Không khí ấy, cứ nghe lại vài ba đoạn trong ca khúc "Gọi Tên Bốn Mùa" lại trở về như mùa Thu cũ, một thời, một đờị
    "Em đứng lên gọi mưa vào Hạ, từng cơn mưa, từng cơn mưa, từng cơn mưa, mưa thì thầm dưới chân ngà. Em đứng mùa Thu tàn tạ, hàng cây khô, cành bơ vơ, hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô . Em đứng lên mùa Đông nhạt nhòa, từng đêm mưa, từng đêm mưa, từng đêm mưa, mưa lạnh từng ngón sương mù. Em đứng lên mùa Xuân vừa nở, nụ Xuân xanh, cành thênh thang, chim về vào ngày tuổi em trên cành bão bùng ........"
    Trịnh Công Sơn đến với người thưởng ngoạn bằng nhạc, nhưng căn bản ông là một thi sĩ. Ông như một nhạc sĩ trong một bức vẽ của Picasso, thời kỳ xanh. Người nhạc sĩ cầm cây đàn, cây đàn không có giây, dạo lên những âm thanh mà chỉ ông nghe thấy, vì nó đi thẳng ra từ quả tim của ông. Trịnh Công Sơn cũng thế, ông viết rất dễ dàng, trong trí, trên một mảnh giấy lau tay, trong một tiệm nước, bất cứ chỗ nào như một thi sĩ vì chính ông là một thi sĩ. Có những bản nhạc của ông, phần bài ca là một bài thơ. Ông dùng nhạc, để nâng đỡ những bài thơ đó, và ông cũng dùng thơ để dẫn những đoạn nhạc đi. Nhạc của ông không khúc mắc là vì thế. Ngôn ngữ thơ trong phần lời ca của ông, đưa người nghe vào một thế giới với những hình ảnh hoàn toàn mới, hình ảnh lãng mạn mầu tao nhã (?), không còn dấu tích của giòng nhạc bước đi từ thời tiền chiến, nó đưa đến sự chấm dứt của những ảnh hưởng đã ở trong nhạc Việt từ bao nhiêu năm. Đến Trịnh Công Sơn nhạc Việt mới đi hẳn về một chiều mới. Ngôn ngữ tình yêu của ông không là ngôn ngữ của thi ca, lãng mạn Việt Nam trước đó. Đó là một thứ ngôn ngữ để nói về tình yêu trong một nỗi bất an, một không gian bất ổn của chung quanh đầy dao động.
    "Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình
    Tóc nào hãy còn xanh, cho ta chút hồn nhiên
    Tim nào có bình yên, ta rêu rao đời mình
    Xin người hãy gọi tên!
    Khi tình đã vội quên, tim lăn trên đường mòn
    Trên giọt máu cuồng điên, con chim đứng lặng câm
    Khi về trong mùa Đông, tay nâng niu muộn màng
    Thôi chờ những rạng đông!..."
    Có thể nói Trịnh Công Sơn làm thơ bằng âm nhạc. Âm nhạc chỉ là một phương tiện để chuyên chở thơ của ông trong những chuỗi âm thanh mà nhạc dẫn dắt chúng ta đi theo ông. Người nghe vẫn thấy lấp ló ở đâu đó con người thi sĩ của ông. Chữ nghĩa thi ca của ông không cầu kỳ, cũng không khuôn sáo. Những chữ đã rất cũ, qua tay ông, được mặc cho những bộ áo mới, thì đây, chữ nghĩa đã cũ, nhưng nghe qua Trịnh Công Sơn thì lại rất mới.
    "Tôi ru em ngủ
    Một sớm mùa Đông
    Em ra ngoài ruộng đồng
    Hỏi thăm cành lúa mới
    Tôi ru em ngủ
    Một sớm mùa Thu
    Em đi trong sương mù
    Gọi cây lá vào mùa..."
    Trịnh Công Sơn là một tài hoa hết sức đa dạng. Ông viết về nhiều thứ nhạc khác nhau, từ những tình ca xót xa nghe tê dại, đau đớn, những tình khúc bất hạnh, đến những bài ngợi ca quê hương đất nước. Một ước mơ hoà bình, hiền lành của dân tộc. Ông nói hộ cho một hai thế hệ những điều đó như nhạc tình của ông bằng những hình ảnh rất mới của thơ, đã trở thành dấu ấn của Trịnh Công Sơn. Ông quan niệm như thế này về nhạc tình: "khi bạn đang muốn hát về một bản tình ca là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi, đừng e ngại, dù hạnh phúc hay dở dang, thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi".
    Và bởi thế, những tình khúc mà ông viết, đã trở thành những tình ca chung của tất cả, tính chất riêng tư không còn nữa.
    Diễm, trở thành không thực, chỉ còn nhớ mãi trong cơn đau vùi, buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua, như trong ca khúc Diễm Xưa. Nghe một lần, rồi mãi mãi không bao giờ quên được.
    "...Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
    Làm sao em biết bia đá không đau
    Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
    Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau."
    Trịnh Công Sơn ra đi là một mất mát vô cùng lớn của những người yêu nhạc Việt. Ông để lại một thế giới đẹp hơn.
    Và nói như Kiều Chinh sáng hôm nghe tin ông mất, được sống cùng thời với Trịnh Công Sơn, là một vinh hạnh.
    2. TRỊNH CÔNG SƠN, NHẠC TÌNH
    Ở trang 11 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, Trịnh Công Sơn viết về hai nỗi ám ảnh trong đời ông như thế này: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêụ Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Ðờị
    Ông viết những dòng trên có thể trong cuối thập niên 90, khi 127 ca khúc được thu thập in lại thành tuyển tập. Nhưng nhìn lại những nhạc phẩm mà người ta được nghe của ông, thì tình yêu là ám ảnh lớn hơn tất cả các đề tài khác của Trịnh Công Sơn.
    Có thể khẳng định rằng nếu sống vào một thời điểm khác, hòa bình hơn, hạnh phúc hơn, Trịnh Công Sơn đã chỉ viết một loại ca khúc: nhạc tình. Nhưng chiến tranh bầy ra cho ông một bất hạnh lớn. Bất hạnh đó kéo ông về những đau đớn triền miên của dân tộc. Những đau đớn bất hạnh đó không cho ông được phép thản nhiên để ca ngợi tình yêu, và vì thế mà trong tình ca của ông, vẫn thấy bóng dáng của khổ đau, bất hạnh. Trong bài Tình Sầu, với ông, tình yêu, ngay cả những lúc dịu dàng nhất, cũng vẫn như những khổ đau của trái phá, con tim mù lòa, vết cháy trên da thịt, cơn bão qua địa cầụ..
    Trịnh Công Sơn cứ bị kéo trở lại với những bất hạnh như thế, nên những tình ca ông viết cũng không là những bài ngợi ca hạnh phúc. Nó là những bất hạnh của chia xa, của những thương tích khổ đau, tuyệt vọng. Chính Trịnh Công Sơn cũng nói rõ điều ấy:
    "Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về nhưng nỗi niềm tuyệt vọng, và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi ngườị"
    Nên ông mong có được tin vui từ gạch đá dẫu mai nơi này người có xa người, hãy hát tình ca, hãy yêu nhau dẫu đang chênh vênh bên bờ của nguy khốn, hạnh phúc và thương đau cứ hãy trao cho nhau...
    Trịnh Công Sơn, thủy chung vẫn chỉ ở với nhạc tình. Bài ca đầu tiên và cuối cùng của ông đều là những tình ca. Trong một chiều dài một nửa thế kỷ sáng tác, từ những năm 1950 đến cuối thập niên 90, Trịnh Công Sơn viết nhiều nhất vẫn là nhạc tình. Bản tình ca đầu tiên không phải là bài Ướt Mi như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho biết ca khúc viết cho tình yêu đầu tiên của ông là bài Sương Ðêm mà nay ông chỉ còn nhớ được cái tựa. Không một ai biết bài hát nàỵ Ông cho biết nó đã thất lạc với những biển dâu trùng trùng của đời sống. Ướt Mi lần đầu tiên được hát trước công chúng là tại phòng trà Văn Cảnh bởi tiếng hát của Thanh Thúy . Ca khúc này biến Trịnh Công Sơn thành một tên tuổi nổi tiếng lập tức.
    Tình khúc Ướt Mi là khởi đầu cho chuyến đi rất dài, trên đó, ông để lại cho người thưởng ngoạn nhiều tình ca khác. Nhưng Ướt Mi, tuy thế, không phải là ca khúc viết về tình yêu hay nhất của ông. Nó vẫn còn những nét sơ phác cả về nhạc lẫn lời cạ Phải đợi đến Diễm Xưa, và Nắng Thủy Tinh, mức độ trưởng thành về nhạc và sự chín tới của lời ca mới thấy rõ nơi nhạc Trịnh Công Sơn.
    Mầu nắng và mầu mắt, chiếc bóng nghiêng, bàn tay xôn xao, gió mây ngàn, hàng cây thắp nến... với Nắng Thủy Tinh, tình ca Việt Nam đi sang một hướng mớị Ngôn ngữ dùng làm lời ca là ngôn ngữ của thi ca, mới từ âm thanh đến ý nghĩa. Trước và sau Trịnh Công Sơn không ai viết thứ lời ca như thế...
    Trong chiều dài sáng tác của Trịnh Công Sơn, ông cứ tiếp tục làm mới ông mãi mãị So với Nắng Thủy Tinh, thì Như Cánh Vạc Bay lại hoàn toàn đi sang một lối khác. Cái đau đớn, chết chóc không còn nữa, nhưng niềm tuyệt vọng thì còn nguyên. Câu cuối của bài hát này, cứ như những vòng sóng trên mặt hồ, chạm vào bờ, rồi lại chạy ra giữa hồ hoài hoài mãi mãị Những sợi tóc từ đó mãi mãi là nhăc nhở về mặt hồ sóng. Náng thì hờn ghen, mưa thì làm buồn đôi mắt. Ðặc tính thơ hiện ra rất rõ trong Như Cánh Vạc Bay, làm khía cạnh thơ lấn hẳn phần nhạc.
    Quỳnh Hương mà ông viết trong thập niên 70 lại đưa nhạc của ông đi xa khỏi cái bờ bến đầu tiên của Ướt Mi thêm một đoạn đường dài khác. Ông nhẹ nhàng như những bước nhún nhẩy của nhịp 2/4 như một lời tỏ tình hân hoan...
    Bông hoa quỳnh ông đem tặng người yêu dấu cũng là món quà người nhạc sĩ viết tình ca để lại cho chúng ta, cho đời sống, đời sống rất đẹp mà ông chỉ cho chúng ta tìm lại được trong thế giới nắng hạn đã có lúc bốc cháy tan nát này.
    3. TRỊNH CÔNG SƠN, NHẠC PHẢN CHIẾN
    Ở Việt Nam, thế hệ ra đời từ khoảng cuối thập niên 30 đến những năm đầu của thập niên 50 là thế hệ bất hạnh nhất.
    Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn họ là những người tử trận nhiều nhất, góa bụa nhiều nhất và mồ côi nhiều nhất. Họ vừa lớn lên, là đã đụng mặt với một trong những cuộc chiến kinh hoàng, ghê khiếp nhất lịch sử nhân loại.
    Trịnh Công Sơn mới bước vào tuổi biết nghĩ, là lúc chiến tranh cũng đang sửa soạn đi vào giai đoạn khốc liệt nhất. Trong những cái ốc đảo nhỏ của những thành phố ông đã ở đó, âm thanh của cuộc chiến vẫn vọng về, tiếng nổ của đại bác đã thay cho tiếng ru hằng đêm, những đứa bé côi cút lõa lồ, những người già trong công viên, đàn bò ngu ngợ.. nhắc nhở cho ông không khí đầy súng đạn, chết chóc chung quanh. Chỉ là gỗ, là đá mới không cảm thấy được những khổ đau, bất hạnh của đất nước, của dân tộc.
    Mà làm sao người ta có thể biết chắc được rằng gỗ, rằng đá không đaủ Bia đá cũng còn biết đau như ông đã viết trong một ca khúc. Ðá còn vậy huống chi con người trước những tang tóc, đau thương của đồng loại.
    Từ một người chỉ muốn được một đời viết và hát nhạc tình, ngợi ca tình yêu, thì cuộc chém giết hàng ngày chung quanh ông đã bắt ông phải nói lên những khát vọng hòa bình, của chúng ta, của cả dân tộc Việt. Không phải chỉ bên này, hay chỉ bên kia mới được quyền nói, kêu gọi, đòi hỏi hòa bình, mà chính bạn, tôi, chúng ta, như trong ca khúc nhan đề Chính Chúng Ta Phải Nói, ca khúc một thời trên môi tuổi trẻ Việt Nam ở các sân trường học.
    Năm 1968, khi chiến tranh ở giai đoạn khốc liệt nhất, thì đó cũng là năm nhạc của Trịnh Công Sơn đi sang một hướng đi khác.
    Vẫn viết tiếp những ca khúc lãng mạn ngợi ca những mối tình đến rồi lại đi, nhưng ngay trong các tình khúc ấy, tiếng đạn bom, trái phá, cũng đã trùng khắp, con phố xưa đầy dấu đạn, tên em cũng là vết thương khô.
    Trịnh Công Sơn bắt đầu viết những ca khúc được nhiều người gọi là nhạc phản chiến.
    Không một người có trái tim mà không biết nhỏ lệ, mà không biết khóc cho cả một dân tộc, cho anh, cũng như cho em đang quằn quại trong niềm thù hận mà ông gọi là "giả tạo" đó.
    Trịnh Công Sơn viết về giọt nước mắt của người mẹ thương đứa con, thương sông, thương rừng, thương đất, thương mây, thương chim, thương đêm, giọt nước mắt không tên, bài hát cảm động nghe muốn khóc. Nguyễn Ðình Toàn, một lần, khi giới thiệu giọng hát Khánh Ly, đã gọi đó là giọng hát đi rao giảng những bất hạnh của dân tộc, giọng hát để tang cho đất nước.
    Khánh Ly chỉ là người đem những điều Trịnh Công Sơn viết xuống và chuyển đúng được những điều ông gửi gấm.
    Tập nhạc ông đặt tên là Kinh Việt Nam, xuất bản năm 1968, theo chính lời ông viết ở trang đầu, là tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương, là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu nàỵ Ðó là những bài hát được viết từ nhưng hân hoan lắng nghe được trong lòng người, là nỗi hân hoan của đam đông chờ mong ngày hồi sinh.
    Nếu đó là nhạc phản chiến, thì tất cả chúng ta đều có đầy đủ lý do và chính nghĩa để chống lại chiến tranh. Phản chiến, như thế, không là một taboo, một cấm kỵ nữa, mà là một ước ao tốt đẹp nhất của con ngườI.
    Trịnh Công Sơn chống lại chiến tranh, giết chóc một cách hiền lành. Ông không đòi xương máu, ông không đòi trả thù, ông không đòi tiêu diệt bên này, chôn sống bên kiạ Ông bất lực không làm gì được để chặn những viên đạn bay, để nâng dậy hòa bình khốn khổ cho dân tộc đầy đọa triền miên bao nhiêu năm. Ước mơ tội nghiệp đó nghe được trong tất cả những ca khúc phản chiến của ông.
    Trịnh Công Sơn, trong thế đứng khó khăn, thế đứng dựa vào nhân bản và dân tộc đó, ông đã giữ được cho đến lúc qua đời mặc dù trong đời sống, đã có lúc ông bị buộc phải đi trên sợi dây cheo leo, dưới chân là bờ vực hiểm nghèO. Nhưng lòng yêu quê hương, lòng thương người của ông, những giọt nước mắt cho người mẹ ngồi chờ, cho người lính ngồi chờ trên đồi, cho chúng ta, là những điều sẽ còn mãi trong lòng cả một xứ sở, một dân tộc trong nhiều năm nữa, chừng nào còn có người hát nhạc Việt.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:13 ngày 05/07/2003
  4. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn (2)
    4. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ TÔN GIÁO

    Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với các loại nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con ngườị Vì thế, nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường và chùa chiền.
    Ðầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người Bỉ cũng có biệt hiệu khác là Soeur Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành công trong thế giới nhạc Pop với hai bài Entre Les Étoiles và Dominique, hai bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi nghe nhạc Pop ưa thích ngaỵ Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ.
    Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời trang.
    Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường. Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen, tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm mang tựa đề Phúc Âm Buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy không khí của tôn giáọ Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngữ đó như một cái cớ để giàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chữ nghĩa lấy từ trong tân ước được ***g vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. Ông biến những chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Ðã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Ðốc là tôn giáo của ông.
    Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Trịnh Công Sơn cho biết đạo Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên, càng lớn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn giáo.Ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc mong manh, phù du.
    Bài Ðóa Hoa Vô Thường, một ca khúc đẫm hương thiền lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quí. Ðời sống phù du bỗng bình an vô thường.
    Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra để nói về tình yêụ Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để tạo một không gian đầy tôn giáọ Bài Nguyệt Ca là một ca khúc như thế.
    Ðiều đó cho thấy là bao giờ, thủy chung, Trịnh Công Sơn cũng vẫn là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho dẫu thời gian, không gian có đổi thay.
    5. NHỮNG RU KHÚC
    Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể giàn xếp được, dẫu cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữạ Ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất cha. Ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên những đoạn đường dài nhất.
    Những bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca khúc ông viết sau này. Trong bài Tình Yêu Tìm Thấy, người ta nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa, mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng thấy quê nhà...
    Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh mang theo của bà mẹ là những bài hát rụ Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy rất nhiều trong các ca khúc của ông.
    Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên.
    Ðời sống của người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãị Và đó là lý do Trịnh Công Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. Ông viết để trở về với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấy trong khi đi qua những con đường đầy những gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào.
    Ru Ta Ngậm Ngùi là những an ủi, vuốt ve cho chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. Ông muốn được trở lại ngủ trong vòng nôi,trong tiếng ru ấy.
    Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì người ta càng cần đến nhiều hơn những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy,một cách kinh hoàng khi những tiếng đại bác thay thế cho tiếng ru hàng đêm: đại bác ru đêm vọng về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
    Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru khúc.
    Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên.
    Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho ông bằng những du khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh Công Sơn. Ít ra cũng phải trên hai chục bài. Ông ngậm ngùi ru chính ông. Ông ru tình, ông ru đờị Ông ru đời đã mất. Ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa đông, rồi lại một sớm mùa xuân. Ông ru mãi, ru hoàị Ông ru những tháng âm u, ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùị Những lời tỏ tình cũng được ***g vào một điệu ru như trong ca khúc Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng.
    Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?
    6. THÂN PHẬN CON NGƯỜI
    Tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng xuất bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Ðó là lần đầu tiên một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn: 127 bản.
    Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông đã viết, đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuộc đời sáng tác của ông. Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy, ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc nàỵ
    Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh, nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên Ðời Hiu Quạnh và bản nhạc cuối của tập nhạc là bản Yêu Dấu Tan Theo, và chính tựa của hai ca khúc in ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông muốn để lại.
    Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác. Mở tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, người ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại quốc như The New York Times, The Washington Post, Reuters, AFP, AP... đều nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này, người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nàọ Những ca khúc như Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói, Ngày Mai Ðây Bình Yên, Ta Ðã Thấy Gì Trong Ðêm Nay, Sao Mắt Mẹ Chưa Vui, Nước Mắt Cho Quê Hương, Ca Dao Mẹ, Người Già Em Bé, Du Mục... đều không có mặt.
    Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm 60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn cả bài Nối Vòng Tay Lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam nối biển xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa... Và chính tựa đề của bài hát này, Nối Vòng Tay Lớn, đã được dùng để đặt tên cho chương trình đưa các sinh viên du học về nước thăm nhà hồi trước năm 1975, rồi cũng chính bài hát này, sau khi được hát lên trên làn sóng điện đài phát thanh Sài Gòn trong ngày đầu tiên khi CS tiến vào Sài Gòn, đã tạo ra không biết bao nhiêu ngộ nhận cho ông cho đến bây giờ vì rất ít người biết rõ hoàn cảnh đưa tới việc có tiếng hát của ông trong ngày hôm đó.
    Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.
    Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêụ Và những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và thân phận.
    Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bầy ra một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như ông đã kể:
    "Trên quê hương còn lại, ta đi qua nửa đời chưa thấy được ngày vuị.." (Những Ðôi Mắt Trần Gian).
    Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày qua đi mỗi ngày một xót xa... "Ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hôn mê."
    Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam.
    Trịnh Công Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như Chim Ưu Phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ trong bản nhạc:
    Tôi như con chim nhỏ
    Bay về rất ngẩn ngơ
    Trên nhân gian chia lìa
    Lòng đầy những oán thù
    Tôi như chim xa lạ
    Ðứng nhìn những ngày qua
    Trong tim tôi bất ngờ
    Một lời than rất nhỏ
    Tôi như con chim buồn
    Bay về lúc chiều hôm
    Thôi quên đi thiên đường
    Một đời tôi mãi tìm
    Tôi như con chim bệnh
    Thiếu hạnh phúc trần gian
    Có những tháng mùa đông
    Ngồi khóc rất âm thầm
    Tôi như chim ưu phiền
    Bay về cuối dòng sông
    Con sông mang tin buồn
    Nằm chờ những đóa hồng
    Tôi như chim vô vọng
    Linh hồn rất mong manh
    Trong tim tôi có lần
    Một mùa ôi rất lạnh...
    Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùạ
    Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhận xét Trịnh Công Sơn vừa mới lớn lên cũng thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào.
    Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa, chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Ðứa bé ra đồng đạp trái mìn nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay không...
    Trong đời sống như vậy, thế hệ mất tuổi trẻ, không hạnh phúc của ông bỗng tìm thấy một phát ngôn nhân, một tiếng nói nói lên, thay mặt họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này Em Có Nhớ.
    Cùng thời với ông, Thanh Tâm Tuyền kêu lên thảng thốt:
    Sao tuổi trẻ quá buồn,
    Như con mắt giận dữ
    Sao tuổi trẻ quá buồn
    Như bàn ghế không bầỵ..
    Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. Ông khóc cho họ, đau cho họ, rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ.
    Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi, bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngàỷ "Dù ta như con đường dài vắng người.. Hãy cứ vui chơi cuộc đời.."

    7. TRỊNH CÔNG SƠN, TIẾNG RÉO GỌI VỀ VỚI CA DAO
    Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến điểm cao nhất, số người chết ở cả hai phía đều lên đến những con số làm kinh động lương tri của nhân loạị Việt Nam là một quốc gia đang trên đường tan rã. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt sang một bên.
    Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh nồi da xáo thịt khốc liệt. Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả dối. Thế hệ đó như sắp đánh mất quá khứ và căn cước của họ sau bao nhiêu đổi thay, đổ vỡ, quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn tan nát không thể trở về. Một nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ.
    Thì đúng vào thời gian đó, bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của sinh viên.
    Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó, thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc sống tốt đẹp cũ trong có một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ, như chỉ còn lại trong những trang giấy cũ của bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
    Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn, không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, nhưng ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc nàỵ Kết quả là bài ca mang nhiều hối thúc, giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một câu trong bài, câu: "... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm hờn..."
    Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến tranh, bom đạn.
    Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa.
    Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm vang ầm tiếng súng, mang trong tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngàỵ
    Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. Ông kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh, là những khổ đau của cả một dân tộc.
    Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm Ðình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng... qua đến Trịnh Công Sơn thì không còn nữạ Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nộị.. trong Tình Ca Của Người Mất Trí.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:18 ngày 05/07/2003
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn (2)
    4. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ TÔN GIÁO

    Nhạc tôn giáo ít khi tiến được ra ngoài những bức tường của thánh đường hay sân chùa để được trình tấu và thưởng thức cùng với các loại nhạc phổ thông và thời trang khác. Lý do là vì cấu trúc của loại nhạc này quá cổ điển, và ngôn ngữ quá tôn nghiêm. Tính chất tôn nghiêm đó khiến cho khó có thể nói về tình yêu, thứ tình cảm thuần khiết và giản dị nhất của con ngườị Vì thế, nhạc tôn giáo vẫn tiếp tục ở mãi trong những bức tường thâm nghiêm của giáo đường và chùa chiền.
    Ðầu thập niên 60, The Singing Nun, một nữ tu người Bỉ cũng có biệt hiệu khác là Soeur Sourire, với cây Tây Ban cầm, đã rất thành công trong thế giới nhạc Pop với hai bài Entre Les Étoiles và Dominique, hai bài hát mang rất nhiều hình ảnh tôn giáo, nhưng lại được những người trẻ tuổi nghe nhạc Pop ưa thích ngaỵ Hai nhạc phẩm lời ca viết bằng tiếng Pháp cũng được ưa chuộng ở các nước nói tiếng Anh. Những rào cản cũ bị dẹp bỏ.
    Cùng lúc, Trịnh Công Sơn cũng đem dùng một số những từ ngữ mà trước đó được giữ trong một nơi chốn khác hơn là ngôn ngữ âm nhạc thời trang.
    Những chữ phúc âm, lời buồn thánh... dẫu chuỗi hình ảnh đi kèm vẫn là của tình yêu lãng mạn, nhưng đó là lần đầu tiên những loại từ ngữ này được dùng trong những bản nhạc không mang không khí của giáo đường. Trịnh Công Sơn đem thứ ngôn từ đó ra ngoài, biến chúng trở thành thân quen, tình tứ. Chiều chủ nhật, thiên thần, ăn năn... những từ ngữ vang vọng tiếng chuông, tiếng phong cầm ấy được nối tiếp sau đó không bao lâu bằng nhạc phẩm mang tựa đề Phúc Âm Buồn, cũng lại là một thứ từ ngữ nghe là thấy không khí của tôn giáọ Nhưng Trịnh Công Sơn chỉ dùng những từ ngữ đó như một cái cớ để giàn trải những tình cảm lãng mạn của ông. Không khí mà chữ nghĩa lấy từ trong tân ước được ***g vào hai bản tình ca của Trịnh Công Sơn. Ông biến những chữ trước đó luôn luôn gây những ấn tượng trang nghiêm lạnh buốt thành những ngôn từ gần gũi hơn, thân mật hơn. Ðã có lúc người ta tưởng đạo Cơ Ðốc là tôn giáo của ông.
    Trong một cuộc phỏng vấn mới đây, Trịnh Công Sơn cho biết đạo Phật đã ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của ông. Nhưng lớn lên, càng lớn, và càng nhìn ra những khổ hạnh trong đời sống, những bất công, những đau đớn cuộc chiến mang lại, Trịnh Công Sơn càng thấy ra những lời gọi của tôn giáo.Ông tìm được an ủi, trong tuyệt vọng, ông tìm được vỗ về trong hạnh phúc mong manh, phù du.
    Bài Ðóa Hoa Vô Thường, một ca khúc đẫm hương thiền lại là một ca khúc hạnh phúc nhất của ông. Trong đó, sự cứu rỗi đón lấy ông giữa những trang kinh thơm mùi sen cao quí. Ðời sống phù du bỗng bình an vô thường.
    Trịnh Công Sơn dùng hình ảnh từ những trang kinh ra để nói về tình yêụ Nhưng rồi ông cũng lại dùng những lời ca tầm thường nhất để tạo một không gian đầy tôn giáọ Bài Nguyệt Ca là một ca khúc như thế.
    Ðiều đó cho thấy là bao giờ, thủy chung, Trịnh Công Sơn cũng vẫn là một nhạc sĩ viết tình ca, loại nhạc sẽ ở mãi với con người cho dẫu thời gian, không gian có đổi thay.
    5. NHỮNG RU KHÚC
    Trịnh Công Sơn, năm 1995, khi thân mẫu qua đời, đã viết đầy kín một trang giấy những suy nghĩ của ông về cái ngày đau buồn đó. Với ông, chuyện mất mẹ là một chuyện không thể thỏa hiệp, không thể giàn xếp được, dẫu cho người con có bao nhiêu tuổi đi chăng nữạ Ông sống rất lâu với mẹ, từ khi mất cha. Ông bị ảnh hưởng rất nhiều nơi mẹ. Thế nên sự ra đi của người mẹ, mới là điều không thể thỏa hiệp được với ông như ông nói ở trên. Chính những bài hát ông nghe được của mẹ đã tiếp tục theo ông mãi trên những đoạn đường dài nhất.
    Những bài hát mẹ hát để ru những người em đã trở thành những hạt mầm mọc lên những ca khúc ông viết sau này. Trong bài Tình Yêu Tìm Thấy, người ta nghe được câu này về những bài hát ru ấy: Tiếng ru mẹ hát những năm xưa, mãi là lời ca dao bốn mùa, tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá, góc phố nào cũng thấy quê nhà...
    Ông rời nhà đi học ở một thành phố lạ, hình ảnh mang theo của bà mẹ là những bài hát rụ Và ông nhắc đến những bài hát ru ấy rất nhiều trong các ca khúc của ông.
    Những bài hát ru của Việt Nam là những vỗ về, là những dỗ dành, là những an ủi, là những vuốt ve đầu tiên của những đứa bé. Vòng tay thơm, giọng hát ấm áp của người mẹ đem lại cảm giác an toàn cuối cùng cho người ta trước khi bị đẩy ra thế giới có khi rất hung bạo ở ngoài cửa. Trịnh Công Sơn tìm thấy trong những bài hát ru ấy một chỗ trú ẩn rất bình yên.
    Ðời sống của người thanh niên trẻ lần đầu tiên sống xa những bức tường an toàn của ngôi nhà cũ ở Huế khiến ông cứ tìm cách để trở về với nó mãị Và đó là lý do Trịnh Công Sơn viết rất nhiều ru khúc trong chu trình sáng tác của ông. Ông viết để trở về với đoạn đời hạnh phúc, an toàn ấy trong khi đi qua những con đường đầy những gập ghềnh của thế giới ông vừa tiến vào.
    Ru Ta Ngậm Ngùi là những an ủi, vuốt ve cho chính mình trong niềm cô đơn tội nghiệp. Ông muốn được trở lại ngủ trong vòng nôi,trong tiếng ru ấy.
    Những bài hát ru đem lại cho người nghe cảm giác an toàn hạnh phúc. Và cuộc đời càng đưa tới những bão táp nghiệt ngã, thì người ta càng muốn tìm trở lại nơi trú ẩn cũ. Những bài hát ru của thời thơ ấu cho ông nơi trú ẩn đó. Chiến tranh càng khốc liệt, thì người ta càng cần đến nhiều hơn những nơi trú ẩn, những nơi trú ẩn an toàn nhất của thời thơ ấu, đó là những bài hát ru trong lòng người mẹ. Trịnh Công Sơn nhìn thấy,một cách kinh hoàng khi những tiếng đại bác thay thế cho tiếng ru hàng đêm: đại bác ru đêm vọng về thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
    Ông thấy phải thay những tiếng nổ đó bằng những ru khúc.
    Những bài hát để ru những anh và những em, những người già, và những em bé, ru đất nước và dân tộc, ru cho những đau thương, những bất hạnh ngủ yên.
    Trịnh Công Sơn, trong khi đi tìm sự bình yên cho ông bằng những du khúc ông viết, thì cũng đem lại những an ủi, vỗ về cho nguyên một thế hệ của ông. Có thể nói không một nhạc sĩ nào viết nhiều ru khúc như Trịnh Công Sơn. Ít ra cũng phải trên hai chục bài. Ông ngậm ngùi ru chính ông. Ông ru tình, ông ru đờị Ông ru đời đã mất. Ông ru người yêu ngủ trong buổi sớm mùa đông, rồi lại một sớm mùa xuân. Ông ru mãi, ru hoàị Ông ru những tháng âm u, ru những chia xa, những phụ rẫy, ngọt bùị Những lời tỏ tình cũng được ***g vào một điệu ru như trong ca khúc Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng.
    Còn một cách tỏ tình nào hơn bài hát ru đó?
    6. THÂN PHẬN CON NGƯỜI
    Tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng xuất bản cuối năm 1998 là một tập nhạc đồ sộ ở con số bản nhạc được chọn để in. Ðó là lần đầu tiên một tập nhạc có con số ca khúc lớn như thế của Trịnh Công Sơn: 127 bản.
    Nhưng đó không phải là tất cả những bản nhạc ông đã viết, đã cho phổ biến và đã được hát lên, được nghe trong cuộc đời sáng tác của ông. Thông thường thì tác giả nào chẳng muốn in toàn bộ sáng tác của mình, hay ít ra, thì cũng là tất cả những tác phẩm ưng ý nhất, vào một tập. Trịnh Công Sơn cho biết, trong cuộc đời sáng tác của ông, đã viết trên 500 nhạc phẩm, con số mà những người biết ông đều nghĩ là một con số quá khiêm tốn. Nhưng trong số ấy, ông cũng chỉ chọn 127 bài để in trong tập nhạc nàỵ
    Tuy được sắp xếp theo thứ tự của tự mẫu La Tinh, nhưng tình cờ, ca khúc đầu tiên lại là Bên Ðời Hiu Quạnh và bản nhạc cuối của tập nhạc là bản Yêu Dấu Tan Theo, và chính tựa của hai ca khúc in ở đầu và cuối tập nhạc cho thấy những suy nghĩ cuối đời của ông về tác phẩm ông muốn để lại.
    Những bản nhạc trong tuyển tập đều không ghi ngày viết và không được xếp theo thứ tự tháng năm sáng tác. Mở tập Những Bài Ca Không Năm Tháng, người ta thấy ngay một điều: đó là sự thiếu vắng của những ca khúc vẫn thường được gắn liền với tên tuổi của ông. Những bản tin của báo chí hay các hãng thông tấn ngoại quốc như The New York Times, The Washington Post, Reuters, AFP, AP... đều nhắc đến ông như một nhạc sĩ phản chiến. Nhưng trong tập nhạc cuối cùng này, người đọc không thấy có bất cứ một bản nhạc gọi là nhạc phản chiến nàọ Những ca khúc như Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói, Ngày Mai Ðây Bình Yên, Ta Ðã Thấy Gì Trong Ðêm Nay, Sao Mắt Mẹ Chưa Vui, Nước Mắt Cho Quê Hương, Ca Dao Mẹ, Người Già Em Bé, Du Mục... đều không có mặt.
    Mà những ca khúc đó, đều là những bài hát không thể không có trong những sinh hoạt của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm 60 và 70, những bài hát đóng góp lớn trong việc làm thành tên tuổi ông. Và luôn cả bài Nối Vòng Tay Lớn, bài hát từ nhiều năm nay luôn luôn đi liền với tên ông. Bài hát được hát lên rất nhiều như ước vọng nối lại sơn hà, nối thành phố với nông thôn, nối người chết linh thiêng vào đời, nối Bắc với Nam nối biển xanh với sông gấm, nối rừng núi với biển xa... Và chính tựa đề của bài hát này, Nối Vòng Tay Lớn, đã được dùng để đặt tên cho chương trình đưa các sinh viên du học về nước thăm nhà hồi trước năm 1975, rồi cũng chính bài hát này, sau khi được hát lên trên làn sóng điện đài phát thanh Sài Gòn trong ngày đầu tiên khi CS tiến vào Sài Gòn, đã tạo ra không biết bao nhiêu ngộ nhận cho ông cho đến bây giờ vì rất ít người biết rõ hoàn cảnh đưa tới việc có tiếng hát của ông trong ngày hôm đó.
    Trịnh Công Sơn không đưa những bài hát này vào tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.
    Trong một câu ông viết ở đầu tập nhạc, ông khẳng định: Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêụ Và những bài ca ông cho in trong tuyển tập chỉ còn là những bài hát về tình yêu và thân phận.
    Trịnh Công Sơn viết những ca khúc về thân phận hết sức buồn bã. Ngay cả trong những bài hát ông viết về tình yêu, ông cũng bầy ra một nỗi buồn chán, tuyệt vọng. Trong suốt những năm trưởng thành của ông, những gì xẩy ra trên quê hương mà ông chứng kiến, chỉ là những điều buồn phiền như ông đã kể:
    "Trên quê hương còn lại, ta đi qua nửa đời chưa thấy được ngày vuị.." (Những Ðôi Mắt Trần Gian).
    Những bạn bè rời xa, những cuộc tình bỏ đi, ngày qua đi mỗi ngày một xót xa... "Ở cuối chân trời Việt Nam, những tia nắng nghèo nàn và bệnh hoạn từ một mặt trời hết sinh khí sắp đi vào hôn mê."
    Ông đã viết như thế năm 1968 ở đầu tập nhạc Kinh Việt Nam.
    Trịnh Công Sơn đã sống những ngày vô cùng tuyệt vọng như thế, như trong ca khúc Như Chim Ưu Phiền mà nhịp đi buồn bã của thơ năm chữ còn rất rõ trong bản nhạc:
    Tôi như con chim nhỏ
    Bay về rất ngẩn ngơ
    Trên nhân gian chia lìa
    Lòng đầy những oán thù
    Tôi như chim xa lạ
    Ðứng nhìn những ngày qua
    Trong tim tôi bất ngờ
    Một lời than rất nhỏ
    Tôi như con chim buồn
    Bay về lúc chiều hôm
    Thôi quên đi thiên đường
    Một đời tôi mãi tìm
    Tôi như con chim bệnh
    Thiếu hạnh phúc trần gian
    Có những tháng mùa đông
    Ngồi khóc rất âm thầm
    Tôi như chim ưu phiền
    Bay về cuối dòng sông
    Con sông mang tin buồn
    Nằm chờ những đóa hồng
    Tôi như chim vô vọng
    Linh hồn rất mong manh
    Trong tim tôi có lần
    Một mùa ôi rất lạnh...
    Trịnh Công Sơn lớn lên, nhìn chung quanh chỉ thấy những tin buồn, những tin buồn như ông có lần viết là đã mang "từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người" trong ca khúc Gọi Tên Bốn Mùạ
    Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhận xét Trịnh Công Sơn vừa mới lớn lên cũng thốt lời siêu thoát như một đạo sĩ đầu râu tóc bạc chống gậy trúc dưới một chân núi nào.
    Nhưng thân phận ấy cũng không phải chỉ là của riêng ông, mà là của cả dân tộc và đất nước đau khổ ông đang sống với những lìa xa, chết chóc, vong thân, tù ngục, đầy đọa triền miên. Ðứa bé ra đồng đạp trái mìn nổ chậm chết không toàn thây, bờ môi như vẫn còn thầm hỏi có thiên đường hay không...
    Trong đời sống như vậy, thế hệ mất tuổi trẻ, không hạnh phúc của ông bỗng tìm thấy một phát ngôn nhân, một tiếng nói nói lên, thay mặt họ, về những bất hạnh của cuộc sống, những hoài nghi ngay cả về những bàn tay cứu rỗi của cả Phật lẫn Chúa như trong bài Này Em Có Nhớ.
    Cùng thời với ông, Thanh Tâm Tuyền kêu lên thảng thốt:
    Sao tuổi trẻ quá buồn,
    Như con mắt giận dữ
    Sao tuổi trẻ quá buồn
    Như bàn ghế không bầỵ..
    Thân phận buồn bã của tuổi trẻ trong cuộc chiến trở thành một ám ảnh không bao giờ rời Trịnh Công Sơn. Ông khóc cho họ, đau cho họ, rồi lại quay về an ủi, vỗ về họ.
    Nhưng còn khúc hát nào buồn hơn trong vỗ về an ủi, bảo cho mọi người vui lên mà đau đớn như bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngàỷ "Dù ta như con đường dài vắng người.. Hãy cứ vui chơi cuộc đời.."

    7. TRỊNH CÔNG SƠN, TIẾNG RÉO GỌI VỀ VỚI CA DAO
    Năm 1967, chiến tranh Việt Nam leo thang lên gần đến điểm cao nhất, số người chết ở cả hai phía đều lên đến những con số làm kinh động lương tri của nhân loạị Việt Nam là một quốc gia đang trên đường tan rã. Tất cả mọi giá trị, mọi truyền thống đều bị đem ra thử thách, để rồi bị gạt sang một bên.
    Thành thị, nông thôn bốc cháy trong lửa của chiến tranh nồi da xáo thịt khốc liệt. Một thế hệ lớn lên không có được một ngày thanh bình, những nét tốt đẹp nhất của dân tộc bị thay thế bằng thù hận, bom đạn, tuyên truyền xảo trá, chiêu bài giả dối. Thế hệ đó như sắp đánh mất quá khứ và căn cước của họ sau bao nhiêu đổi thay, đổ vỡ, quê hương chỉ còn là những đống gạch vụn tan nát không thể trở về. Một nền văn minh khác đang đe dọa tiến vào, xóa đi những truyền thống cũ.
    Thì đúng vào thời gian đó, bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng được hát lên lần đầu tiên ở một hội quán nhỏ ở Sài Gòn của sinh viên.
    Người nghe, cái thế hệ thiệt thòi và tội nghiệp đó, thế hệ không được biết hòa bình bỗng được chỉ cho thấy cái họ sắp đánh mất. Cuộc sống tốt đẹp cũ trong có một thời gian ngắn, đã trở thành quá xa lạ, như chỉ còn lại trong những trang giấy cũ của bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
    Trịnh Công Sơn có thể dùng một thể nhạc chậm hơn, không cần phải đầy nét hối hả để viết bài Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, nhưng ông chọn một nhịp nhanh hơn để viết ca khúc nàỵ Kết quả là bài ca mang nhiều hối thúc, giục giã hơn. Và có lẽ ít có một ca khúc nào tạo được nhiều xúc động như một câu trong bài, câu: "... Em chưa hát ca dao một lần, em chỉ có con tim căm hờn..."
    Nguyên một thế hệ xa lạ hẳn với ca dao vì chiến tranh, bom đạn.
    Dòng nước ngọt với những lục bát vỗ về tình tứ, những an ủi, những tỏ tình, những lẳng lơ tuyệt đẹp thế hệ này không biết. Nhiều tiếng nói cất lên để báo động: dân tộc sắp đi tới một hành động phá sản tự sát văn hóa.
    Trịnh Công Sơn, bằng ca khúc Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, đã lên tiếng nhắc thế hệ của ông, cái thế hệ đi trong đêm vang ầm tiếng súng, mang trong tim những căm hờn, yêu quê hương nay đã không còn, rằng họ chưa được hát ca dao một lần, họ cũng quên mất xưa kia Việt Nam không như Việt Nam mà họ đang phải sống từng ngàỵ
    Tiếng réo gọi của bài hát thật là khủng khiếp. Ông kéo người nghe lại gần, rồi chỉ cho thấy quê hương khốn khổ ấy, nơi những địa danh, những tên thành phố chỉ còn là nhắc nhở về những cái chết, là nỗi bất hạnh, là những khổ đau của cả một dân tộc.
    Những hình ảnh quê hương đất nước thanh bình mà các nhạc sĩ lớp trước vừa vẽ ra được như trong các ca khúc của Nguyễn Văn Khánh, Phạm Ðình Chương, Phạm Duy, Lam Phương, Văn Phụng... qua đến Trịnh Công Sơn thì không còn nữạ Những hình ảnh của một thời thanh bình ấy được thay bằng những cái chết không manh áo, ngoài đồng, trên sông, lòng đèo, ở Ba Gia, ở Chu Prong, ở Huế, Sài Gòn, Hà Nộị.. trong Tình Ca Của Người Mất Trí.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:18 ngày 05/07/2003
  6. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn (3)
    Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một quê hương Việt Nam đang bốc cháy, để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu cứụ.. "Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc nàỵ Lương tâm con người đang trên đà bị phát mãi" Ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế.
    Ca khúc tiếp theo, Lại Gần Với Nhau là những lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần lại nhaụ
    Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữạ Ông ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội một quá khư hiển linh."
    Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình: "Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam..." Ông viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng sông góp thành hội trùng dương. Huế Sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho lá trầu, miếng cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một người, mà của cả một dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta
    8. TRỊNH CÔNG SƠN, NỖI CÔ ÐƠN GIỮA ÐÁM ÐÔNG
    Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám đông ấỵ Ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm ra được lối thoát, trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất nhiều suy nghĩ của ông không được chia xẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt trôi mọi thứ. Ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn Có Bao Ngày, ông mới tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng nhất với những vỗ về an ủi cho mình. Ông nhắc rất nhiều đến những đêm tối, những hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc.
    Ðó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình. Ðó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh." Ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.
    Những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận một người đang đi qua một cuộc chiến thảm khốc với những tư tưởng không ở giữa dòng nước càng ngày càng đẩy ông ra ngoài đám đông mặc dù ông vẫn đang ở giữa quê hương đau khổ. Sự mỏi mệt hiện rõ trong thái độ chán cả những chuyến đi tưởng để thoát khỏi cái quanh quẩn của cái đường vòng kín không lối rạ
    Ông không đồng ý và chấp nhận một đời sống tự hủy đang diễn ra chung quanh.
    Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết. Ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi.
    Trong Một Cõi Ði Về, câu: "...Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà..." chỉ một câu này, cũng đủ để bầy ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều tiếng động.
    Thái độ cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự Tình Khúc. Ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động. Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.
    Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc tình. Bài Tình Xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình Nhớ và Tình Sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của ông. Và trong Tình Xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá, gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. Ông dùng hơn một tình khúc để nói về sự cô đơn đó. Và tình yêu, tưởng là điều đem lại những vỗ về an ủi cho ông, thì cũng lại phản bội, lọc lừạ Những dòng sông trở thành biểu tượng của chuyến bỏ đi, cơn mưa thành lời hẹn thề, thành phố hoang vu khi cuộc tình đi qua, tình cúi đầu trong tiếng buồn rơi đều.
    Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó.
    Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.
    9. TRỊNH CÔNG SƠN, NHỮNG ÐỂ LẠI
    Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne của hội họa Ý, nhà thơ Z là Ðỗ Phủ của thi ca Ðại Hàn... thì người nghe có ngay một số khái niệm về các ông XYZ ngaỵ Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so sánh. Các ông Solzhenitsyn, Cezanne, Ðỗ Phủ lớn hơn các ông XYZ chẳng hạn.
    Và cũng có những trường hợp ngược lại.
    Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca -- folk singer -- của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
    Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến tranh của người nhạc sĩ nàỵ Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn. Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác.
    Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến -- anti war songs -- và phản kháng-- protest songs -- cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin' In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin' In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm của các ca khúc Chính Chúng Ta Phải Nói, Người Già Em Bé, Nước Mắt Cho Quê Hương hay Ðại Bác Ru Ðêm.
    Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ. Ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm bằng Người Con Gái Việt Nam Da Vàng hay Tình Ca Người Mất Trí.
    Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Ðất này là đất của anh, đất này là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền tây đến biển đầy bọt trắng miền đông, đất này được tạo ra cho chúng ta... không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội của Trịnh Công Sơn. Huế Sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng hực...
    Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của Íll Never Fall In Love Again, của Raindrops Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển tập Những Ca Khúc Không Ngày Tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông.
    Một đóa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe Những Tàn Phai.
    Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.
    Có một chi tiết nhỏ về những ca khúc của Trịnh Công Sơn, đó là với một số lượng sáng tác lớn như thế và được phổ biến rộng rãi như thế, chỉ có một hay hai bài, có phần chắc là không quá hai bài, bị đem ra đặt cho những lời ca khác nhảm nhí.
    Ðó có phải là một thái độ yêu mến trong khi vẫn còn dành cho tác giả rất nhiều tôn trọng của những người yêu nhạc, sống cùng thời với ông không?
    Chúng tôi nghĩ là có.
    10. TRỊNH CÔNG SƠN, NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY
    Ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca như trong bài Cát Bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấỵ Ít người nghĩ đến cái chết, đến sự trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy.
    Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm. Ông viết Cát Bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụị... Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay...
    Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "... trong xuân thì thấy bóng trăm năm...". Ông luôn luôn nhìn thấy cái chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa ".
    Có lẽ những năm chiến tranh, sự ra đi quá sớm của người cha, những bất trắc của đời sống làm ông luôn luôn được -- và cũng như bị -- nhắc nhở và ám ảnh về cái chết.
    Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những Bài Ca Không Năm Tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Ðời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời"
    Ðó lại là những điều viết xuống của một người nói rất nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngàỵ Thí dụ:
    ...Hãy cứ vui như mọi ngày
    Bên trời còn nắng
    Lá trời còn xanh
    phố còn người đông...
    Rồi ông lại viết Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người trong Ðể Gió Cuốn Ði, một bài hát đọc thấy tấm lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết thạ
    Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca dao để viết bài Ở Trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước nhún nhẩỵ Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không. Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ thường, lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những í a của dân ca miền Bắc.
    Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. Ông ít khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt. Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát chắc phải rất chính xác. Bài Như Một Lời Chia Tay đã được thu thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậỵ Nhưng ca khúc này, hát lên bằng giọng của ông, lại mang một nét khác nữa. Ông hát mà như gửi lại những điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn sách. Lời ca của bài Như Một Lời Chia Tay đọc lên, không cần phải nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. Ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời, ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mỏng manh cuối trời, coi đó như một lời giã biệt. Ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông, người nghe thấy đươc sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.
    Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ. Ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với chúng ta mãi mãị Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.
    Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì ông để lại.
    Ðó là món quà âm nhạc ông để lạị Ðó là một món quà mà thỉnh thoảng lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được một món quà quí giá như thế.
    Cám ơn Trịnh Công Sơn

    Bùi Bảo Trúc

    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:20 ngày 05/07/2003
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bùi Bảo Trúc viết về Trịnh Công Sơn (3)
    Trịnh Công Sơn viết về đất nước như một hành động đòi lấy quyền để nói, để nhắc nhở cho thế hệ của ông, trước ông và sau ông về một quê hương Việt Nam đang bốc cháy, để báo động trận hỏa hoạn, để hét lên lời cầu cứụ.. "Hố thẳm đã mở ra dưới chân dân tộc nàỵ Lương tâm con người đang trên đà bị phát mãi" Ông viết ở đầu cuốn Kinh Việt Nam như thế.
    Ca khúc tiếp theo, Lại Gần Với Nhau là những lời gọi thảm thiết, gọi anh, gọi chị, gọi em, gọi mọi người ngồi lại, ngồi gần lại nhaụ
    Trịnh Công Sơn nói với một người bạn rằng ông không thể sống ở ngoài Việt Nam, bất kể đó là một Việt Nam thế nào đi chăng nữạ Ông ôm lấy quê hương tơi tả rách nát chờ một ngày đất nước đứng dậy, vực lại quá khứ huy hoàng cũ. Cũng ở tập nhạc in năm 1968, ông viết: "Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội một quá khư hiển linh."
    Trịnh Công Sơn không viết về quê hương thanh bình: "Em không biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam..." Ông viết về quê hương của những ngày sắp tới, khi ba thành phố nắm tay nhau, ba dòng sông góp thành hội trùng dương. Huế Sài Gòn Hà Nội nói lên ước mơ của những trái tim đau sắp kiệt lực, những chờ đợi cho những con đường nở hoa, cho lá trầu, miếng cau cổ tích trùng phùng. Ước mong đó không thể là của một người, mà của cả một dân tộc bị đầy đọa khốn cùng. Trịnh Công Sơn đã nói lên tất cả những điều đó cho những người anh em của ông, chúng ta
    8. TRỊNH CÔNG SƠN, NỖI CÔ ÐƠN GIỮA ÐÁM ÐÔNG
    Trịnh Công Sơn trong suốt nhiều năm, lúc nào cũng có đông bạn bè ở chung quanh nhưng ông lại là người hết sức cô đơn ở giữa đám đông ấỵ Ông cứ loay hoay với những mệt mỏi của cuộc chiến tranh mãi không tìm ra được lối thoát, trong khi những tiếng động của cuộc chiến vẫn vọng về cắt ngang những đời sống, những tương lai, những cuộc tình, những bạn bè, tuổi trẻ của thế hệ cùng thời với ông. Càng nghĩ tới những chuyện đó, ông càng thấy rất nhiều suy nghĩ của ông không được chia xẻ. Nhịp quay của đời sống cuốn theo, nuốt trôi mọi thứ. Ông vừa thấy bất lực trước chung quanh nghiệt ngã, vừa cảm thấy lúc nào ông cũng một mình. Chỉ những khi bóng tối che ngang, lúc có những tiếng gọi thì thầm của trăm năm, như đoạn mở đầu của bài Còn Có Bao Ngày, ông mới tìm thấy được ở ban đêm, ở bóng tối chỗ ẩn náu, nơi trở về an toàn, tịch lặng nhất với những vỗ về an ủi cho mình. Ông nhắc rất nhiều đến những đêm tối, những hoàng hôn, những đêm khuya trong nhạc.
    Ðó là những lúc để ông nhìn ngắm lại cuộc đời mình. Ðó cũng là lúc ông "đau đớn nhận ra rằng cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh." Ông viết như thế ở trang 275 của tuyển tập Những Bài Ca Không Năm Tháng.
    Những suy nghĩ về cuộc đời, về thân phận một người đang đi qua một cuộc chiến thảm khốc với những tư tưởng không ở giữa dòng nước càng ngày càng đẩy ông ra ngoài đám đông mặc dù ông vẫn đang ở giữa quê hương đau khổ. Sự mỏi mệt hiện rõ trong thái độ chán cả những chuyến đi tưởng để thoát khỏi cái quanh quẩn của cái đường vòng kín không lối rạ
    Ông không đồng ý và chấp nhận một đời sống tự hủy đang diễn ra chung quanh.
    Ông là người đi lạc trong một thành phố tưởng là quen thân lắm. Nhưng thực ra, Trịnh Công Sơn không thuộc vào một nơi nào hết. Ông cứ đứng ở bên ngoài, tự chọn cho thế đứng không nhập cuộc, hai vai hai vầng nhật nguyệt, thư thái trên con đường chỉ một mình đi.
    Trong Một Cõi Ði Về, câu: "...Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ. Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà..." chỉ một câu này, cũng đủ để bầy ra tất cả sự cô đơn khủng khiếp ông phải đối mặt mỗi ngày trong đời sống rất nhiều tiếng động.
    Thái độ cô đơn đứng ngoài một mình không tham dự và nhập cuộc của Trịnh Công Sơn còn được thấy rõ hơn trong bài Tự Tình Khúc. Ông thấy mình là đứa bé ngồi nhìn thế kỷ qua đi, vẫn không thấy được nơi nương tựa, vẫn cứ chỉ là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho riêng mình. Bài ballad viết về sự cô đơn ấy đầy những hình ảnh xót xa hết sức bi thảm và cảm động. Trên cái vực thẳm ngó xuống lòng sâu của cô đơn, ông ngồi một mình.
    Căn bản, các sáng tác của Trịnh Công Sơn là nhạc tình. Bài Tình Xa là một ca khúc ông viết cùng thời gian với Tình Nhớ và Tình Sầu để thành một trilogy trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của ông. Và trong Tình Xa, sóng được cho dội vào đời buốt giá, gió cát phù du bay về để nói về nỗi cô đơn của ông. Ông dùng hơn một tình khúc để nói về sự cô đơn đó. Và tình yêu, tưởng là điều đem lại những vỗ về an ủi cho ông, thì cũng lại phản bội, lọc lừạ Những dòng sông trở thành biểu tượng của chuyến bỏ đi, cơn mưa thành lời hẹn thề, thành phố hoang vu khi cuộc tình đi qua, tình cúi đầu trong tiếng buồn rơi đều.
    Sự cô đơn đã là một cơn đau suốt đời của Trịnh Công Sơn. Nhưng chính ông đã lựa chọn để sống với nó.
    Cũng như Socrates, ông thà sống khốn khổ còn hơn.
    9. TRỊNH CÔNG SƠN, NHỮNG ÐỂ LẠI
    Nhiều so sánh đã được đưa ra để tạo ấn tượng về một sự việc ít ai biết với một sự việc đã quen thuộc với nhiều người. Thí dụ khi nói nhà văn X là một Solzhenitsyn của văn chương Pháp, họa sĩ Y là một Cezanne của hội họa Ý, nhà thơ Z là Ðỗ Phủ của thi ca Ðại Hàn... thì người nghe có ngay một số khái niệm về các ông XYZ ngaỵ Nhưng cũng rất nhiều khi những so sánh này lại là những bất công đáng kể với những tiêu chuẩn được đem ra dùng để so sánh. Các ông Solzhenitsyn, Cezanne, Ðỗ Phủ lớn hơn các ông XYZ chẳng hạn.
    Và cũng có những trường hợp ngược lại.
    Joan Baez, một nữ ca sĩ nhạc dân ca -- folk singer -- của nhạc Mỹ, khi được giới thiệu với Trịnh Công Sơn, đã đưa ra một so sánh lập tức: Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam.
    Việc Joan Baez làm cũng dễ hiểu: cô tạo được sự nghiệp ca hát phần lớn là nhờ nhạc của Bob Dylan, những ca khúc chống chiến tranh của người nhạc sĩ nàỵ Nhưng cô chưa biết được đủ về Trịnh Công Sơn. Nguyên số lượng ca khúc mà Trịnh Công Sơn viết đã nhiều hơn số ca khúc của Bob Dylan. Mà đó mới chỉ nói về số lượng sáng tác.
    Như vậy sự so sánh có bất công cho Trịnh Công Sơn. Bob Dylan viết một số nhạc phản chiến -- anti war songs -- và phản kháng-- protest songs -- cùng một số đề tài khác. Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, phản kháng, nhưng chủ yếu là tình ca, những đề tài khác là quê hương, thân phận con người, trong đó, triết lý và tôn giáo là những nét nổi bật. Bài nổi tiếng nhất của Bob Dylan là ca khúc Blowin' In The Wind, bài hát nói về chiến tranh, bom đạn, chết chóc, ước mơ hòa bình được coi như bài hát đầu môi của các phong trào phản chiến hồi thập niên 60. Nhưng Blowin' In The Wind vẫn chưa tới được mức bi thảm của các ca khúc Chính Chúng Ta Phải Nói, Người Già Em Bé, Nước Mắt Cho Quê Hương hay Ðại Bác Ru Ðêm.
    Pete Seeger là một nhạc sĩ dân ca hàng đầu của Mỹ. Ông cũng viết nhiều ca khúc chống chiến tranh, và một trong những bài nổi tiếng của ông được hát rất nhiều trong những sinh hoạt chống chiến tranh của thập niên 60 là bài Where Have All The Flowers Gone. Pete Seeger lớn tuổi hơn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan nên không được đem ra so sánh. Nhưng cùng những ý tưởng và hình ảnh thì Where Have All The Flowers Gone chưa bi thảm bằng Người Con Gái Việt Nam Da Vàng hay Tình Ca Người Mất Trí.
    Pete Seeger cũng viết về nước Mỹ, This Land Is Your Land, nhưng lòng yêu thương đất nước: Ðất này là đất của anh, đất này là đất của tôi, từ rừng hồng mộc miền tây đến biển đầy bọt trắng miền đông, đất này được tạo ra cho chúng ta... không thể cảm động như Huế Sài Gòn Hà Nội của Trịnh Công Sơn. Huế Sài Gòn Hà Nội có tiếng hối thúc, réo gọi, hừng hực...
    Trịnh Công Sơn viết tình ca nhiều hơn Burt Bucharach mặc dù số lượng mà tác giả của Íll Never Fall In Love Again, của Raindrops Keep Falling On My Head, Alfie, Anyone Who Had A Heart cũng đã nhiều. Nhiều nhưng chưa thể vượt quá con số 127 bài mà Trịnh Công Sơn chọn để in trong tuyển tập Những Ca Khúc Không Ngày Tháng sau khi đã bỏ ra ngoài một số rất lớn những ca khúc viết về các đề tài khác của ông.
    Một đóa quỳnh không bao nhiêu người biết, qua những khuông nhạc của Trịnh Công Sơn, nó biến thành một lời tỏ tình. Những bước chân trở về của người phụ nữ không may mắn, làm công việc rất bất hạnh của xã hội đã thành một tình khúc bi thảm, bài Nghe Những Tàn Phai.
    Những chi tiết vừa kể cho thấy đem những tên tuổi khác để so sánh với Trịnh Công Sơn là một việc vừa sai lầm vừa bất công.
    Có một chi tiết nhỏ về những ca khúc của Trịnh Công Sơn, đó là với một số lượng sáng tác lớn như thế và được phổ biến rộng rãi như thế, chỉ có một hay hai bài, có phần chắc là không quá hai bài, bị đem ra đặt cho những lời ca khác nhảm nhí.
    Ðó có phải là một thái độ yêu mến trong khi vẫn còn dành cho tác giả rất nhiều tôn trọng của những người yêu nhạc, sống cùng thời với ông không?
    Chúng tôi nghĩ là có.
    10. TRỊNH CÔNG SƠN, NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY
    Ở tuổi hai mươi mấy, ít người viết những lời ca như trong bài Cát Bụi. Và cũng không nhiều người viết di chúc hay những chữ khắc trên mộ bia cho mình ở cái tuổi ấỵ Ít người nghĩ đến cái chết, đến sự trở về với những hạt cát, những hạt bụi của nguyên thủy.
    Trịnh Công Sơn đã làm công việc ấy một cách quá sớm. Ông viết Cát Bụi năm ông chưa tới 30 tuổi, như thể ông nhìn thấy sự ra đi ngay trong sự sống qua những hạt bụị... Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi... ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay...
    Rồi vài chục năm sau, ông lại viết: "... trong xuân thì thấy bóng trăm năm...". Ông luôn luôn nhìn thấy cái chết ở sự sống, trong hạnh phúc có bất hạnh, trong hôm nay có ngày mai, "dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ, dưới chân ngày cỏ xót xa đưa ".
    Có lẽ những năm chiến tranh, sự ra đi quá sớm của người cha, những bất trắc của đời sống làm ông luôn luôn được -- và cũng như bị -- nhắc nhở và ám ảnh về cái chết.
    Cuối năm 1992, trong những dòng viết ở cuối tập nhạc Những Bài Ca Không Năm Tháng Trịnh Công Sơn viết: "mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm... Ðời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời"
    Ðó lại là những điều viết xuống của một người nói rất nhiều đến cái chết. Thực sự, ông là người rất yêu đời sống như lời ca của bài Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngàỵ Thí dụ:
    ...Hãy cứ vui như mọi ngày
    Bên trời còn nắng
    Lá trời còn xanh
    phố còn người đông...
    Rồi ông lại viết Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người trong Ðể Gió Cuốn Ði, một bài hát đọc thấy tấm lòng của ông với đời sống bằng nhịp 3/4 thư thả mà thiết thạ
    Có lúc ông quay ra đùa cợt với cuộc đời, mà ông coi chỉ là nơi ông ở trọ. Mượn chút hơi dân ca, ông nhờ không khí lục bát trong ca dao để viết bài Ở Trọ bằng nhịp 2/4 vừa lẳng lơ vừa lý lắc những bước nhún nhẩỵ Coi mọi thứ tình yêu, cuộc sống chỉ là vô thường, lúc có lúc không. Toàn bài nghe như những công án Thiền. Bài ca lời lẽ giản dị, có lúc tươi tắn lạ thường, lại là những tư tưởng rất Phật giáo, được kéo xuống gần gũi hơn nhờ những í a của dân ca miền Bắc.
    Trịnh Công Sơn viết nhạc cho người khác hát. Ông ít khi hát nhạc của mình trước đám đông mặc dù ông có giọng tốt. Thêm nữa, là người viết những ca khúc ấy, ông hát chắc phải rất chính xác. Bài Như Một Lời Chia Tay đã được thu thanh bởi ít nhất là hai giọng hát mà ông rất tin cậỵ Nhưng ca khúc này, hát lên bằng giọng của ông, lại mang một nét khác nữa. Ông hát mà như gửi lại những điều đã đi qua đời ông cho người nghe, như đóng lại trang cuối cùng của cuốn sách. Lời ca của bài Như Một Lời Chia Tay đọc lên, không cần phải nghe ông hát cũng đủ tạo xúc động. Ông xếp lại đời sống, ông cám ơn cuộc đời, ông nhìn lại những cuộc tình, ông nhớ lại bông hoa mỏng manh cuối trời, coi đó như một lời giã biệt. Ý của lời ca thì bi đát, nhưng nghe qua giọng của ông, người nghe thấy đươc sự bình thản của ông khi từ biệt cuộc sống.
    Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi, giã từ nơi ông ở trọ. Ông biết trước chuyến đi về nơi vĩnh hằng. Nhưng ông cũng sẽ còn ở lại với chúng ta mãi mãị Chúng ta mãi mãi nhớ ông, biết ơn ông, biết ơn ông đã nói hộ chúng ta những điều khó nói nhất, biết ơn ông đã vỗ về an ủi cuộc đời chúng ta trong những lúc hân hoan hạnh phúc cũng như những lúc sầu thảm bất hạnh.
    Ba trăm năm nữa sẽ còn người hát và nghe những gì ông để lại.
    Ðó là món quà âm nhạc ông để lạị Ðó là một món quà mà thỉnh thoảng lắm, có khi là vài trăm năm Việt Nam mới được một món quà quí giá như thế.
    Cám ơn Trịnh Công Sơn

    Bùi Bảo Trúc

    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:20 ngày 05/07/2003
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Một cõi đi về
    Trương Quang Lục

    Một buổi sáng tôi đến thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nhà riêng. Anh đang hồi phục sau cơn bệnh thập tử nhất sinh tại Bệnh viện Chợ rẫy cách nay hơn một tháng. Câu chuyện chân tình, cởi mở:
    - Anh Sơn à, ca khúc "Một cõi đi về" anh viết đã lâu chưa?
    - Đã khá lâu rồi, vào khoảng cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhưng từ năm 1980 mới phổ biến.
    - Suy nghĩ của anh khi viết "Một cõi đi về"?
    - Có một cõi đến và một cõi về. Đến với đời từ hư vô và một ngày nào đó trở lại với hư vô. Biết được trời đất và biết mình để giữ được lòng thanh thản trong chốn đi đi về về ấy... ai cũng có một cõi đi về, vì vậy xin có lời chúc bình an cho cuộc hành hương dành riêng cho mỗi người trong cuộc đời này.
    - Tôi cảm thấy ở đây có mang một chút ít "thiền".
    - Đúng như vậy.
    Một cõi đi về cũng như hầu hết các bản tình ca của Trịnh Công Sơn thường ngậm ngùi, xót xa, có khi day dứt, quặn đau như anh từ thổ lộ: "Đã rất nhiều năm, trong những ca khúc của tôi, tôi tình nguyện làm kẻ kể lại những câu chuyện buồn của thế giới quanh tôi và của riêng mình. Có lẽ đây cũng là số mệnh". Tuy buồn đau như vậy, nhưng thật kỳ lạ giai điệu và ca từ trong tình ca của Trịnh Công Sơn bao giờ cũng rất đẹp, mượt mà, trau chuốt "như thể" cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra", với những lời, ý đẹp độc đáo đến bất ngờ" - nhạc sĩ Văn Cao từng nói về tình ca Trịnh Công Sơn như vậy.
    Trương Quang Lục
    Báo SGGP Thứ Bảy
    ------------------------------------

    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:21 ngày 05/07/2003
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7

    Một cõi đi về
    Trương Quang Lục

    Một buổi sáng tôi đến thăm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nhà riêng. Anh đang hồi phục sau cơn bệnh thập tử nhất sinh tại Bệnh viện Chợ rẫy cách nay hơn một tháng. Câu chuyện chân tình, cởi mở:
    - Anh Sơn à, ca khúc "Một cõi đi về" anh viết đã lâu chưa?
    - Đã khá lâu rồi, vào khoảng cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhưng từ năm 1980 mới phổ biến.
    - Suy nghĩ của anh khi viết "Một cõi đi về"?
    - Có một cõi đến và một cõi về. Đến với đời từ hư vô và một ngày nào đó trở lại với hư vô. Biết được trời đất và biết mình để giữ được lòng thanh thản trong chốn đi đi về về ấy... ai cũng có một cõi đi về, vì vậy xin có lời chúc bình an cho cuộc hành hương dành riêng cho mỗi người trong cuộc đời này.
    - Tôi cảm thấy ở đây có mang một chút ít "thiền".
    - Đúng như vậy.
    Một cõi đi về cũng như hầu hết các bản tình ca của Trịnh Công Sơn thường ngậm ngùi, xót xa, có khi day dứt, quặn đau như anh từ thổ lộ: "Đã rất nhiều năm, trong những ca khúc của tôi, tôi tình nguyện làm kẻ kể lại những câu chuyện buồn của thế giới quanh tôi và của riêng mình. Có lẽ đây cũng là số mệnh". Tuy buồn đau như vậy, nhưng thật kỳ lạ giai điệu và ca từ trong tình ca của Trịnh Công Sơn bao giờ cũng rất đẹp, mượt mà, trau chuốt "như thể" cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra", với những lời, ý đẹp độc đáo đến bất ngờ" - nhạc sĩ Văn Cao từng nói về tình ca Trịnh Công Sơn như vậy.
    Trương Quang Lục
    Báo SGGP Thứ Bảy
    ------------------------------------

    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 06:21 ngày 05/07/2003
  10. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    NHƯ MỘT LỜI TIỄN BIỆT...

    "ngồi bên dòng sông nhớ đời mình
    chiều đã vàng phai trên đầu non
    đàn chim về thăm những cánh hồng
    hỏi tiếng ngàn năm trên cỏ xanh"

    (Trịnh Công Sơn)
    ... Như lời của dòng sông đã nhắn gởi, như lời của định mệnh đã gởi trao, một lần thì thầm với anh, trong quạnh hiu, trong tiếng thở dài, nói về cho hết một đời, một trăm năm để nhớ, một kiếp phù sinh để đếm, của một kiếp phận làm người... như Câu Chuyện Giòng Sông và tiếng ngỏ lời bất tận của một Hermann Hesse.
    Đêm nay và những ngày mai, nơi vũ trụ vẫn còn chuỗi thời gian đang lộng gió, anh sẽ không còn được nghe tiếng nói của dòng sông để nhớ lại đời mình. Anh đã ra đi trước kỳ hẹn hoàng hôn và đã để lại những tiếc thương "đa chiều" từ bao người ngỡ ngàng khi được biết... "một trăm năm sau mãi ngủ yên, khi ngàn lá vẫn còn xanh, khi đời sống vẫn bình yên..." và bây giờ anh đã thực sự ngủ yên... không còn chút ưu tư... không còn chút não phiền... đã không quá kỳ hạn của 62 năm làm du sĩ.
    Từ 1939, anh đã đến như một khúc thiền điệu đi vào lòng đời giữa hai lằn đạn, và năm 1958-1959 Ướt Mi đã ra đời. Những năm dài sau đó, giòng nhạc anh đã thăng hoa nẩy nở trên quê hương. Anh đã có lần tự nhận "chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất nầy để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo", và bây giờ anh đã xong cuộc và đã trở về. Ngày hôm trước anh đến, đêm qua anh đã ra đi, như cánh vạc bay, một lần để bay, như bài đoạn tuyệt cuối cùng, trở về với gió...
    Bây giờ, đêm nay, ngày mai... giòng nhạc của anh đã đi vào lịch sử. Đã biết bao người nhớ về anh, thở hơi thở của anh, nhìn cái nhìn của anh, nghe những giọt tâm tư của anh, để ao ước trôi về với giòng nhạc của anh như đã muôn lần trôi. Trước ngọn gió buồn thân phận trên cánh đồng cô liêu của anh, mọi người có thể tìm thấy nơi đó có một bóng con người đang nhủ thầm về cuộc đời. Và cũng thấy, nơi đó có cơn mưa đang rơi từng hạt tâm tư trước cánh mây phù sinh đang vẫy gọi. Tất cả còn lại chỉ là tình yêu, tình yêu bất tận, giữa người và người, mà chính anh, từ những đêm dài trăn trở, thao thức... đã mong được trao tặng người qua lời ca của một dòng sông. Bây giờ... và ngày mai... biết bao người vẫn mãi nhớ về anh như anh vẫn còn sống trong từng nhịp tim ở mỗi người... bởi "những người đến không vì mong, những người khuất không vì quên"... và hôm nay anh đã khuất, thật sự đã khuất, khác nhau với người còn ở lại chỉ trước sau một khoảng cách. Những tiếc thương về anh đã đang được đan kết lại như vầng trời trắc ẩn vẫn còn thêu dệt muôn chiều... mãi nhớ về giòng nhạc thiền tính của một Trịnh Công Sơn.
    Thay cho lời tiễn biệt, xin gởi đến anh đôi dòng ưu tư và cảm thông với kẻ đã về, và xin chúc anh an bình, mãi mãi an bình, như những gì anh đã mong mỏi cho chính anh, cho chính người, cho chính cuộc đời hôm nay, cho thế hệ tương lai ngày mai, cho thế giới nắng sáng an lành, mà bình minh reo vang hôm nay sẽø mãi ở những ngày sau... để được "ngồi bên dòng sông nhớ nụ cười" trong bình yên và mãn nguyện cuối cùng.
    Tiếng nhạc anh mãi vẫn âm vang tiềm thức như những vết ấn sâu trên mặt đất đang xoay vòng... Và rồi, một buổi chiều đông, những người lại đến, những người lại đi, như cánh hạc bay đến từ hư vô và trở về quy tụ cùng hư vô. Và ngay trong thoáng mờ im lặng ngoài cõi gió, ở một cái chớp mắt, từ những gì không ước hẹn định kỳ, nhưng tất cả vẫn sẽ phải trở về, như một chức phận nhận lãnh... cũng như anh đã trở về, một lần như anh đã nói, trở về... chốn cũ bình yên. Và tình yêu đây, của anh, của người, của tất cả, hôm nay, ngày mai... xin gởi lại, như hành trang đang bỏ dở giữa chặng đường, còn có cho nhau để trao tặng người.
    Ban Biên Tập Hồn Quê
    Nguồn:Hồn Quê
    http://www.honque.com/TCSon/TCS_hQue.htm
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 01:52 ngày 07/07/2003

Chia sẻ trang này