1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngochikien

    ngochikien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/03/2002
    Bài viết:
    384
    Đã được thích:
    0
    Một Trịnh Công Sơn dấn thân
    (Tuổi Trẻ) Dù không nói ra song Trịnh Công Sơn vẫn mong mình chỉ là ca nhân (chantre) của tình yêu. Và sự nghiệp âm nhạc lớn lao của anh cũng nói lên điều đó. Quả vậy, những bài tình ca bất tử của anh đã làm tên tuổi anh sống mãi.
    Song ra đời trong một thời đoạn chiến tranh, cùng với thế hệ của anh, anh đã bao lần khắc khoải trước vận nước điêu linh. Cùng với bước chân đấu tranh của thế hệ trẻ đô thị miền Nam thập niên 60-70, Trịnh Công Sơn thao thức bằng những lời kinh VN, những ca khúc da vàng. Trong bối cảnh một nền văn nghệ ru ngủ, viễn mơ mà chính quyền Sài Gòn cổ xuý, những bài hát phản chiến của anh đã đánh thức được những tâm hồn mộng mị, chỉ muốn thoát ly thực tại máu lửa.
    Khác với những bài hát trữ tình êm đềm của thời kỳ đầu sáng tác, chỉ một vài năm sau anh tiếp bước cùng bạn bè, tham gia vào cuộc đấu tranh sinh tử, dĩ nhiên chỉ với tư cách một người nghệ sĩ. Anh có mặt trong những đêm không ngủ, những ngày hội thảo của SVHS Huế, anh hát trên các giảng đường Ðại học Văn khoa, Khoa học, ở ký túc xá sinh viên Nam Giao những năm 1966-1967. Thời gian này anh hát Người con gái VN, Tôi sẽ đi thăm, Ngày dài trên quê hương, Ta thấy gì đêm nay, Ðồng dao hoà bình, Nối vòng tay lớn... Những ca khúc Trịnh Công Sơn giai đoạn này đã góp phần làm cho một bộ phận thanh nhiên thành thị tỉnh thức, giúp họ có lúc nhìn lại chính mình và quê hương, từ đó nhận ra vai trò của chính mình giữa thực tại chiến tranh lúc đó. Tiếng hát của anh để cho bạn bè nhìn ra quê hương là đoạ đày, quê hương là đồng cháy, quê hương là ruộng gày, quê hương là tù đày, những phố nhà tả tơi... (Nhưng hôm nay), Ngồi yên quên nước quên non, ngồi yên xin áo xin cơm, VN hai mươi năm liền thịt xương phơi trên đôi miền (Ði tìm quê hương)...
    Song Trịnh Công Sơn không chỉ biết khóc than, lòng anh vẫn sáng lên một niềm tin ở tương lai, đất nước rồi sẽ thanh bình, quê hương sẽ được xây dựng lại tươi đẹp hơn: Mầm hoà bình nở trên đời dân khốn khó. Cùng đứng lên ta đi dựng lại căn nhà tự do (Dân ta vẫn sống); Sức sống trong bàn tay trong bàn chân. Người đi lên bàn tay hăng. Nhà lớp lớp lớn trên VN (Dựng lại người, dựng lại nhà); Dọn đường về ngày mai, trường học dựng mọi nơi, tay mãi dựng phố nhà trong kiến thiết mới (Ngày mai đây bình yên)...
    Hãy nghe lời tâm sự của anh vào năm 1968: Ta đã có sẵn một hành trang quí giá của hơn bốn nghìn năm để còn mãi bước đi trên những lộ trình mới về tương lai. Ta phải đi tới bằng con tim sứ giả mang niềm tin và lời hứa hẹn của những người đã nằm xuống. Ta phải tìm lại quê hương bằng sức sống mãnh liệt vì trong cơ thể ta đã luân lưu thêm dòng máu của anh em không còn.
    Trong con tim anh, hành trang đã đầy những niềm tin cho vĩnh cửu. Và anh hãy tin những bài ca của anh mãi còn ngân vang, hôm nay và mai sau.
    Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên
    EM LÀ BÚP MĂNG NON.
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:16 ngày 05/07/2003
  2. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    Nhạc sĩ TRỊNH CÔNG SƠN và quê quán tôi xưa

    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


    Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có quê quán tại làng Minh Hương, ngoại ô Huế - điều đó ai cũng biết. Làng Minh Hương thành lập cách đây khoảng chừng 3 thế kỷ ở hạ lưu sông Hương. Làng này do một số cựu thần nhà Minh vì không chịu nổi ách thống trị của nhà Mãn Thanh đã dùng thuyền vượt biển sang tị nạn và được chúa Nguyễn chấp thuận cho lập nên một ngôi làng làm quê quán ở Huế, gọi là Minh Hương. Những ngôi làng Minh Hương ấy cũng có tại Hội An, nhiều tỉnh ở Nam Bộ và dân làng những nơi đó đã ứng xử với người Việt như là người cùng một Tổ quốc, nòi giống. Trịnh Công Sơn là hậu duệ nhiều đời của những người Minh Hương ấy. Nhân vật xa xôi nhất và nổi tiếng trong sử sách là Trịnh Hoài Đức, tác giả sách Gia Đinh thành thông chí. Nhiều lần ngồi chơi với Sơn tôi đã lặng lẽ quan sát, và quả tình không hề thấy chút dấu vết gì tỏ ra là ý thức Hán tộc ở nơi Sơn, Sơn hoàn toàn là một nghệ sĩ Việt Nam như tôi đã biết. Làng Minh Hương ngày nay có một cồn cát ở giữa sông. Làng vừa đào được dưới cát lên một chiếc nghiên mực bằng đá, thuật phong thủy cho rằng làng rồi đây sẽ có nhiều người đỗ đạt. Ngay thời điểm Cách mạng Tháng Tám, theo dân làng kể lại, chỉ tính ở các tỉnh phía Nam có hai ông đậu thạc sĩ, thì cả hai đều là người làng Minh Hương này : ông Trần Vỹ, nguyên Bộ trưởng Bộ Y Tế và ông Ngụy Như Kon Tum, tốt nghiệp sư phạm ở Pháp và là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. Và bây giờ có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Dân làng rất tự hào có Trịnh Công Sơn và sẵn sàng xếp Sơn vào hàng các vị khoa bảng ấy.
    Ngày thường khi giao du với Sơn, tôi ít nghe nói về làng quê của Sơn. Trong hàng trăm bài hát của Sơn, người ta cũng ít nghe Sơn nói về nguồn cội của mình; "chỉ biết rằng mình người Việt Nam là đủ".
    Ta vui chơi gia đời
    Ối a, biết đâu nguồn cội
    Thế nhưng có một đôi lần, Sơn đã hé cho thấy một cõi yên lành và Sơn nói Sơn nhớ nhà. Bên đời hiu quạnh là một bài hát rất lạ; lạ vì tình cảm nhớ nhà ấy được nói đến bằng giọng quay quắt, như thể nói tới một cái gì thiêng liêng và đã mất trong đời.
    Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
    Tiếng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
    Nhiều người cho rằng chữ "quê quán" này chính là khi đúng làng Minh Hương của tác giả. Theo tôi, điều đó cũng không hoàn toàn sai, nếu người la chỉ nói đến "mảnh đất trần gian" của Trịnh Công Sơn. Để nhất quán với tư duy của Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ rằng vấn đề cần được đẩy đi xa hơn. Chúng ta biết rằng "mảnh đất trần gian" này (làng Minh Hương) không dáng để Trịnh Công Sơn bận tâm đến thế, Sơn thuộc về toàn phần "bông lông xã - ba la huyện". Đây đó trong nhạc của Sơn, người ta vấp phải ý tưởng "quê quán" như vấp phải một hòn đá giữa chừng câu hát buồn.
    Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
    Hoặc là :
    Nghe tiền thân về chào tiếng Iạ
    Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu
    Vậy thì, thử xem "quê quán tôi xưa" trong nhạc Sơn là ở đâu ?
    Tất cả âm nhạc của Trịnh Công Sơn được dùng để minh họa một địa chỉ của tác giả trên hành tinh này, được gọi là "cuộc đời". Nơi đây, luôn thấp thoáng hình bóng những đóa hoa phù dung, lá bay mùa thu và những bước chân lang thang của con người đi tìm hạnh phúc. Đây chính là nơi cư ngụ của tác giả mà chính Sơn vẫn coi là "cõi tạm". Thế giới ấy đẹp và buồn giống như được in hình bên một chiếc bong bóng xà phòng. Qua nhiều bài hát của Sơn, người ta cũng xác định được bản chất của thế giới ấy, bằng cách chăm chú nhìn vào cốt lõi của những từ ngữ, như là mong manh, tàn phai, đơn côi...
    Đối diện với thế giới ấy, người ta thấy thoáng hiện một thế giới nguyên vẹn, bất biến vĩnh hằng... như thể Sơn đã cư ngụ bên trong một chiếc vỏ khô của ve sầu và miên man nhớ về mùa thu.
    Rõ ràng có hai thế giới hiện bóng trong nhạc Trịnh Công Sơn và theo tác giả, cái này là cội nguồn của cái kia - "tìm thấy em dưới châncội nguồn".
    Giữa hai thế giới đó vẫn luôn hiện lên hình ảnh của Mặt trời, Mặt Trời như nguồn sáng của chân lý, rọi bóng xuống trần gian thành hình ảnh những "ngày nắng". Mặt trời được tác giả âu yếm và tin cậy, đôi khi dưới ánh sáng của nó, tác giả nhìn thấy thấp thoáng hình bóng "quê hương hình nhi thượng" của mình.
    Dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy
    Giật mình nhìn ra, ồ nắng lên rồi
    Thế nghĩa là Trịnh Công Sơn đã bị bắt quả tang đang ngồi nhớ "vườn địa đàng". Cõi trần gian, với tất cả những biểu hiện nhiều màu sắc luôn luôn được Trịnh Công Sơn đem thuật lại với một cô gái nào đó biết chăm chú nghe chàng, làm thành "tình ca Trịnh Công Sơn", vì thế không trách người ta quở rằng tình ca Trịnh Công Sơn nghe buồn; thực ra thì toàn bộ tình ca ấy được xây dựng bằng những liên tưởng siêu hình học. Siêu hình học nào mà chẳng buồn. Vào thời điểm của tác giả, thì đó là siêu hình học của Heidegger cảm hứng từ huyền thoại về sự sa đọa (Mythe de la Chute) của kinh Cựu ước. Ta còn nhớ một cuốn phim A llest Déden chuyển thể từ một cuốn tiểu thuyết của J. Steinbeck do tài tử điện ảnh nổi tiếng James Dean đóng vai chính, tài tử này rất được Sơn ngưỡng mộ (xem hồi ký Đinh Cường).
    Không nghi ngờ gì nữa, có hai thế giới trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, hai thế giới ***g bóng vào nhau, thế giới trên gồm những vẻ đẹp vĩnh hằng, toàn mỹ, mà Sơn gọi là thiên thu hay gọi là "vườn địa đàng" : Địa đàng còn in dấu chân bước quên
    Và thế giới dưới, chính là thực tại. Tác giả đã tỏ ra chấp nhận thực tại. Với thế giới siêu trần thế, tác giả biết là nó có đấy, nhưng không thể biết rõ về nó. Nhưng đồng thời Trịnh Công Sơn cũng thừa nhận rằng thực tại này cũng chỉ là "cõi tạm" và cuộc lưu trú của Sơn trong thế giới ấy chỉ là một cuộc lưu đày. Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây
    Và luôn luôn nhớ tiếc nơi "quê quán tôi xưa". Cõi tiên không gì khác hơn là khát vọng hằng có nơi người nghệ sĩ của muôn đời. Người đời sau, kể từ Thôi Hiệu, Lý Bạch, Tào Đường, đến Levitan (bức tranh Chốn im lặng vĩnh hằng), Văn Cao và bây giờ là Trịnh Công Sơn, tất cả đều là căn bệnh truyền kiếp của truyện Từ Thức, ở đó nòi nghệ sĩ luôn coi mình là trích tiên (tiên bị lưu đày nơi trần thế) cùng với nỗi ăn năn đã sinh ra ở đời.
    Huế, 2001
    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
    Ở bất cứ nơi đâu có niềm vui, ở đó có sáng tạo​
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:26 ngày 05/07/2003
  3. Olympic

    Olympic Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/04/2002
    Bài viết:
    1.045
    Đã được thích:
    0
    Nhạc sĩ TRỊNH CÔNG SƠN và quê quán tôi xưa

    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


    Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có quê quán tại làng Minh Hương, ngoại ô Huế - điều đó ai cũng biết. Làng Minh Hương thành lập cách đây khoảng chừng 3 thế kỷ ở hạ lưu sông Hương. Làng này do một số cựu thần nhà Minh vì không chịu nổi ách thống trị của nhà Mãn Thanh đã dùng thuyền vượt biển sang tị nạn và được chúa Nguyễn chấp thuận cho lập nên một ngôi làng làm quê quán ở Huế, gọi là Minh Hương. Những ngôi làng Minh Hương ấy cũng có tại Hội An, nhiều tỉnh ở Nam Bộ và dân làng những nơi đó đã ứng xử với người Việt như là người cùng một Tổ quốc, nòi giống. Trịnh Công Sơn là hậu duệ nhiều đời của những người Minh Hương ấy. Nhân vật xa xôi nhất và nổi tiếng trong sử sách là Trịnh Hoài Đức, tác giả sách Gia Đinh thành thông chí. Nhiều lần ngồi chơi với Sơn tôi đã lặng lẽ quan sát, và quả tình không hề thấy chút dấu vết gì tỏ ra là ý thức Hán tộc ở nơi Sơn, Sơn hoàn toàn là một nghệ sĩ Việt Nam như tôi đã biết. Làng Minh Hương ngày nay có một cồn cát ở giữa sông. Làng vừa đào được dưới cát lên một chiếc nghiên mực bằng đá, thuật phong thủy cho rằng làng rồi đây sẽ có nhiều người đỗ đạt. Ngay thời điểm Cách mạng Tháng Tám, theo dân làng kể lại, chỉ tính ở các tỉnh phía Nam có hai ông đậu thạc sĩ, thì cả hai đều là người làng Minh Hương này : ông Trần Vỹ, nguyên Bộ trưởng Bộ Y Tế và ông Ngụy Như Kon Tum, tốt nghiệp sư phạm ở Pháp và là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội. Và bây giờ có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Dân làng rất tự hào có Trịnh Công Sơn và sẵn sàng xếp Sơn vào hàng các vị khoa bảng ấy.
    Ngày thường khi giao du với Sơn, tôi ít nghe nói về làng quê của Sơn. Trong hàng trăm bài hát của Sơn, người ta cũng ít nghe Sơn nói về nguồn cội của mình; "chỉ biết rằng mình người Việt Nam là đủ".
    Ta vui chơi gia đời
    Ối a, biết đâu nguồn cội
    Thế nhưng có một đôi lần, Sơn đã hé cho thấy một cõi yên lành và Sơn nói Sơn nhớ nhà. Bên đời hiu quạnh là một bài hát rất lạ; lạ vì tình cảm nhớ nhà ấy được nói đến bằng giọng quay quắt, như thể nói tới một cái gì thiêng liêng và đã mất trong đời.
    Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
    Tiếng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
    Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ
    Nhiều người cho rằng chữ "quê quán" này chính là khi đúng làng Minh Hương của tác giả. Theo tôi, điều đó cũng không hoàn toàn sai, nếu người la chỉ nói đến "mảnh đất trần gian" của Trịnh Công Sơn. Để nhất quán với tư duy của Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ rằng vấn đề cần được đẩy đi xa hơn. Chúng ta biết rằng "mảnh đất trần gian" này (làng Minh Hương) không dáng để Trịnh Công Sơn bận tâm đến thế, Sơn thuộc về toàn phần "bông lông xã - ba la huyện". Đây đó trong nhạc của Sơn, người ta vấp phải ý tưởng "quê quán" như vấp phải một hòn đá giữa chừng câu hát buồn.
    Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
    Hoặc là :
    Nghe tiền thân về chào tiếng Iạ
    Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu
    Vậy thì, thử xem "quê quán tôi xưa" trong nhạc Sơn là ở đâu ?
    Tất cả âm nhạc của Trịnh Công Sơn được dùng để minh họa một địa chỉ của tác giả trên hành tinh này, được gọi là "cuộc đời". Nơi đây, luôn thấp thoáng hình bóng những đóa hoa phù dung, lá bay mùa thu và những bước chân lang thang của con người đi tìm hạnh phúc. Đây chính là nơi cư ngụ của tác giả mà chính Sơn vẫn coi là "cõi tạm". Thế giới ấy đẹp và buồn giống như được in hình bên một chiếc bong bóng xà phòng. Qua nhiều bài hát của Sơn, người ta cũng xác định được bản chất của thế giới ấy, bằng cách chăm chú nhìn vào cốt lõi của những từ ngữ, như là mong manh, tàn phai, đơn côi...
    Đối diện với thế giới ấy, người ta thấy thoáng hiện một thế giới nguyên vẹn, bất biến vĩnh hằng... như thể Sơn đã cư ngụ bên trong một chiếc vỏ khô của ve sầu và miên man nhớ về mùa thu.
    Rõ ràng có hai thế giới hiện bóng trong nhạc Trịnh Công Sơn và theo tác giả, cái này là cội nguồn của cái kia - "tìm thấy em dưới châncội nguồn".
    Giữa hai thế giới đó vẫn luôn hiện lên hình ảnh của Mặt trời, Mặt Trời như nguồn sáng của chân lý, rọi bóng xuống trần gian thành hình ảnh những "ngày nắng". Mặt trời được tác giả âu yếm và tin cậy, đôi khi dưới ánh sáng của nó, tác giả nhìn thấy thấp thoáng hình bóng "quê hương hình nhi thượng" của mình.
    Dù thật lệ rơi, lòng không buồn mấy
    Giật mình nhìn ra, ồ nắng lên rồi
    Thế nghĩa là Trịnh Công Sơn đã bị bắt quả tang đang ngồi nhớ "vườn địa đàng". Cõi trần gian, với tất cả những biểu hiện nhiều màu sắc luôn luôn được Trịnh Công Sơn đem thuật lại với một cô gái nào đó biết chăm chú nghe chàng, làm thành "tình ca Trịnh Công Sơn", vì thế không trách người ta quở rằng tình ca Trịnh Công Sơn nghe buồn; thực ra thì toàn bộ tình ca ấy được xây dựng bằng những liên tưởng siêu hình học. Siêu hình học nào mà chẳng buồn. Vào thời điểm của tác giả, thì đó là siêu hình học của Heidegger cảm hứng từ huyền thoại về sự sa đọa (Mythe de la Chute) của kinh Cựu ước. Ta còn nhớ một cuốn phim A llest Déden chuyển thể từ một cuốn tiểu thuyết của J. Steinbeck do tài tử điện ảnh nổi tiếng James Dean đóng vai chính, tài tử này rất được Sơn ngưỡng mộ (xem hồi ký Đinh Cường).
    Không nghi ngờ gì nữa, có hai thế giới trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, hai thế giới ***g bóng vào nhau, thế giới trên gồm những vẻ đẹp vĩnh hằng, toàn mỹ, mà Sơn gọi là thiên thu hay gọi là "vườn địa đàng" : Địa đàng còn in dấu chân bước quên
    Và thế giới dưới, chính là thực tại. Tác giả đã tỏ ra chấp nhận thực tại. Với thế giới siêu trần thế, tác giả biết là nó có đấy, nhưng không thể biết rõ về nó. Nhưng đồng thời Trịnh Công Sơn cũng thừa nhận rằng thực tại này cũng chỉ là "cõi tạm" và cuộc lưu trú của Sơn trong thế giới ấy chỉ là một cuộc lưu đày. Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây
    Và luôn luôn nhớ tiếc nơi "quê quán tôi xưa". Cõi tiên không gì khác hơn là khát vọng hằng có nơi người nghệ sĩ của muôn đời. Người đời sau, kể từ Thôi Hiệu, Lý Bạch, Tào Đường, đến Levitan (bức tranh Chốn im lặng vĩnh hằng), Văn Cao và bây giờ là Trịnh Công Sơn, tất cả đều là căn bệnh truyền kiếp của truyện Từ Thức, ở đó nòi nghệ sĩ luôn coi mình là trích tiên (tiên bị lưu đày nơi trần thế) cùng với nỗi ăn năn đã sinh ra ở đời.
    Huế, 2001
    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
    Ở bất cứ nơi đâu có niềm vui, ở đó có sáng tạo​
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:26 ngày 05/07/2003
  4. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù
    (...tiếp)
    Bản in lần đầu Ca khúc Trịnh Công Sơn (Nxb An Tiêm, SG 1967), bài Tuổi Đá Buồn được soạn với nhịp 4/4, đoạn mở đầu với 30 nhịp rưỡi mới có một dấu lặng, phần ca từ suốt 55 từ không hề có một cái chấm phẩy nào. Hình ảnh cô Ngà mang ngày chủ nhật buồn (Sombre dimanche) đến nhà thờ, con đường quốc lộ Sài Gòn - Đà Lạt dài hun hút đi qua Thị xã. . . . nối tiếp nhau. Đoạn nhạc dài lê thế ấy diễn tả những cơn mưa không dứt của Bõ lao trong tâm hồn Sơn. Sự cô đơn của Trịnh Công Sơn không phải của người trần thế, của con người với con người, của xác thịt với xác thịt mà chính là của thân phận làm người. Sự cô đơn hư vô nhuốm một chút siêu hình:
    " Trời còn làm mưa rơi mưa rơi từng phiến băng dài trên hai tay xuôi tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ".
    Sự cô đơn "hư vô" của thân phận làm người nên bao giờ còn "làm kiếp con người" thì còn cô đơn. Vì thế những ý tưởng ấy cứ ẩn hiện không ngừng trong cảm xúc của Sơn.
    . . ." Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang từng gót chân trần em quên em quên ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai"
    (Ca khúc Trịnh Công Sơn, Nxb An Tiêm, SG 1967)
    Nếu không có những ngày chủ nhật buồn ở Blao có lẽ Trịnh Công Sơn không có những ca khúc buồn đến thế. "Người nằm co" trong Phúc Âm Buồn chính là hình ảnh Trịnh Công Sơn trong những ngày ấy.
    " Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
    Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình
    "
    Muốn tránh xa mọi người, một người nằm yên nhưng không thể nằm yên được.
    "Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm"
    Trịnh Công Sơn viết bài Phúc Âm Buồn vào năm 1965 - Đấy là năm quân Mỹ đổ bộ ồ ạt lên bến phá Toà Khâm Huế, nhiều bạn bè của anh xuống đường đấu tranh chống chiến tranh, chống lại việc dùng tuổi trẻ như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Cũng có một số bạn của Trịnh Công Sơn bị động viên, bị bắt đi quân trường (nhà thơ Ngô Kha), hay đang trốn lính. Ngày 20.7.1965, Uỷ ban Thanh niên Sinh viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Sài Gòn hội thảo "chuẩn bị giải phóng miền Bắc". Trong hội thảo nầy bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Ở Huế Thái Luân cho ra đời tập thơ phản chiến Vùng Tủi Nhục lên án chiến tranh do Mỹ đạo diễn được sinh viên học sinh chuyền tay nhau đọc. Tận bên Mỹ Bob Dylan, Joan Baez ôm đàn du ca hát phản chiến. . . . Qua thư từ, Trịnh Công Sơn hiểu rõ hết tính hình chiến tranh và đấu tranh kêu gọi hòa bình ấy. Những người bị mời dự hội thảo của Nguyễn Cao Kỳ chống chiến tranh vì tinh thần dân tộc. Trịnh Công Sơn là một người hiền hòa nhân hậu, rất sợ chuyện chém giết. Năm 1963, lúc còn theo học Sư phạm ở Qui Nhơn, đọc Mythe de Sysiphe của Albert Camus (1942) Trịnh Công Sơn đã thấy sự hiện hữu của con người là phi lý (absurde) giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho đá lăn xuống núi không tạo ra một tác dụng nào cả :
    " Người chợt nhớ mình như Đá lăn vết lăn buồn".
    (Vết Lăn Trầm, 1963)
    Đừng bỏ tôi!Quay lại đi mà!
  5. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù
    (...tiếp)
    Bản in lần đầu Ca khúc Trịnh Công Sơn (Nxb An Tiêm, SG 1967), bài Tuổi Đá Buồn được soạn với nhịp 4/4, đoạn mở đầu với 30 nhịp rưỡi mới có một dấu lặng, phần ca từ suốt 55 từ không hề có một cái chấm phẩy nào. Hình ảnh cô Ngà mang ngày chủ nhật buồn (Sombre dimanche) đến nhà thờ, con đường quốc lộ Sài Gòn - Đà Lạt dài hun hút đi qua Thị xã. . . . nối tiếp nhau. Đoạn nhạc dài lê thế ấy diễn tả những cơn mưa không dứt của Bõ lao trong tâm hồn Sơn. Sự cô đơn của Trịnh Công Sơn không phải của người trần thế, của con người với con người, của xác thịt với xác thịt mà chính là của thân phận làm người. Sự cô đơn hư vô nhuốm một chút siêu hình:
    " Trời còn làm mưa rơi mưa rơi từng phiến băng dài trên hai tay xuôi tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ".
    Sự cô đơn "hư vô" của thân phận làm người nên bao giờ còn "làm kiếp con người" thì còn cô đơn. Vì thế những ý tưởng ấy cứ ẩn hiện không ngừng trong cảm xúc của Sơn.
    . . ." Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang từng gót chân trần em quên em quên ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai"
    (Ca khúc Trịnh Công Sơn, Nxb An Tiêm, SG 1967)
    Nếu không có những ngày chủ nhật buồn ở Blao có lẽ Trịnh Công Sơn không có những ca khúc buồn đến thế. "Người nằm co" trong Phúc Âm Buồn chính là hình ảnh Trịnh Công Sơn trong những ngày ấy.
    " Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
    Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình
    "
    Muốn tránh xa mọi người, một người nằm yên nhưng không thể nằm yên được.
    "Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm"
    Trịnh Công Sơn viết bài Phúc Âm Buồn vào năm 1965 - Đấy là năm quân Mỹ đổ bộ ồ ạt lên bến phá Toà Khâm Huế, nhiều bạn bè của anh xuống đường đấu tranh chống chiến tranh, chống lại việc dùng tuổi trẻ như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Cũng có một số bạn của Trịnh Công Sơn bị động viên, bị bắt đi quân trường (nhà thơ Ngô Kha), hay đang trốn lính. Ngày 20.7.1965, Uỷ ban Thanh niên Sinh viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Sài Gòn hội thảo "chuẩn bị giải phóng miền Bắc". Trong hội thảo nầy bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Ở Huế Thái Luân cho ra đời tập thơ phản chiến Vùng Tủi Nhục lên án chiến tranh do Mỹ đạo diễn được sinh viên học sinh chuyền tay nhau đọc. Tận bên Mỹ Bob Dylan, Joan Baez ôm đàn du ca hát phản chiến. . . . Qua thư từ, Trịnh Công Sơn hiểu rõ hết tính hình chiến tranh và đấu tranh kêu gọi hòa bình ấy. Những người bị mời dự hội thảo của Nguyễn Cao Kỳ chống chiến tranh vì tinh thần dân tộc. Trịnh Công Sơn là một người hiền hòa nhân hậu, rất sợ chuyện chém giết. Năm 1963, lúc còn theo học Sư phạm ở Qui Nhơn, đọc Mythe de Sysiphe của Albert Camus (1942) Trịnh Công Sơn đã thấy sự hiện hữu của con người là phi lý (absurde) giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho đá lăn xuống núi không tạo ra một tác dụng nào cả :
    " Người chợt nhớ mình như Đá lăn vết lăn buồn".
    (Vết Lăn Trầm, 1963)
    Đừng bỏ tôi!Quay lại đi mà!
  6. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Đến năm 1965, chiến tranh làm bi thảm hơn sự phi lý của thân phận con người. Đúng như tình hình anh đã thấy trước đó một năm:
    "Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
    ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"
    (Xin Mặt Trời Ngủ Yên, 1964)
    Với một ý thức dân tộc chung chung, Trịnh Công Sơn không còn thụ động được nữa, anh phải dấn thân. Suốt cả mùa hè năm 1965, Trịnh Công Sơn nằm lại Bõ lao, đóng cửa soạn những ca khúc chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình như các bài Gia Tài Của Mẹ, Ca Dao Mẹ, Người hát Bài Quê Hương, Du Mục, Lại gần Với Nhau, Người Già Em bé, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng . . . . Lúc ấy hai chữ "hòa bình" bị cấm kỵ. Nói hòa bình là "Cộng sản". Cho nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn soạn xong phải giữ kín và chỉ hát trong giới bạn bè thân thiết thôi. Những bạn bè thân thiết đó ở Đơn Dương, Sài Gòn, Huế, và đặc biệt là Đa Lạt. Bạn bè nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn rất thích, tác giả cất lên tiếng nói bất lực trước cuộc chiến tranh và thể hiện khát vọng hòa bình hộ cho nhiều người thế hệ anh. Nhưng cũng có nhiều người không thích. Những ca khúc phản chiến "nguy hiểm" đến như thế thì có ca sĩ nào dám hát ? May sao, trong những chuyến lên về Đa Lạt, Trịnh Công Sơn đã gặp được một cô "bé quê" trong một phòng trà và cô bé đã lột xác hóa thân thành ca sĩ Khánh Ly hát nhạc phản chiến bắt đầu từ Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1966). Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gắn liền với giọng ca Khánh Ly. Gặp gỡ Khánh Ly là một bước ngoặt mang tính định mệnh của Trịnh Công Sơn. Không có những tháng năm dạy ở Blao để tiện đường lên về Đa Lạt thì làm sao Sơn có thể gặp được Khánh Ly ?
    Đến năm 1967, không chỉ có bạn bè anh mới bị "chinh chiến mang đi", mà các đồng nghiệp của anh ở Blao và chính anh bị gọi nhập ngũ . Trịnh Công Sơn không chấp nhận cuộc chiến tranh của Mỹ nên anh trốn lính. Trốn lính từ Bõ lao. Trốn lính và chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp, điều đó có nghĩa là anh phải giả từ cuộc đời làm thầy giáo ngắn ngủi của anh. Trịnh Công Sơn không tự ý bỏ nghề thầy mà vì chính quyền miền Nam lúc ấy đã buột anh phải nghỉ dạy học để đi lính. Anh trốn lính để có thể đi đến cùng sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, cho quyền tự quyết dân tộc.
    Trịnh Công Sơn ăn lương dạy học tại B õ lao chỉ có ba năm (1964 đến 1967). Thời gian ấy ngắn so với cuộc đời sáu mươi ba tuổi của anh (1939-2001). Nhưng không ai có thể viết tiểu sử nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một cách trung thực khi chưa rõ giai đoạn "bụi đỏ sương mù" của anh ở B õ lao. Bởi vì chính trong giai đoạn nầy anh đi làm thầy giáo rồi buột phải thôi dạy, anh cho xuất bản những tập nhạc đầu tiên của anh, anh soạn loạt bài phản chiến mang tên Ca Khúc Da Vàng, anh gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly và khẳng định sự nghiệp làm nhạc sĩ cho đến cuối đời anh.
    Gác Thọ Lộc, một ngày Đông, 2001.
    (Bài này có một số chi tiết nhỏ không chuẩn xác,mình đã phải thay đổi.Có gì xin các bạn bỏ qua và chỉ bảo thêm)
    Đừng bỏ tôi!Quay lại đi mà!
  7. blue293

    blue293 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    14/05/2002
    Bài viết:
    436
    Đã được thích:
    0
    Đến năm 1965, chiến tranh làm bi thảm hơn sự phi lý của thân phận con người. Đúng như tình hình anh đã thấy trước đó một năm:
    "Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
    ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"
    (Xin Mặt Trời Ngủ Yên, 1964)
    Với một ý thức dân tộc chung chung, Trịnh Công Sơn không còn thụ động được nữa, anh phải dấn thân. Suốt cả mùa hè năm 1965, Trịnh Công Sơn nằm lại Bõ lao, đóng cửa soạn những ca khúc chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình như các bài Gia Tài Của Mẹ, Ca Dao Mẹ, Người hát Bài Quê Hương, Du Mục, Lại gần Với Nhau, Người Già Em bé, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng . . . . Lúc ấy hai chữ "hòa bình" bị cấm kỵ. Nói hòa bình là "Cộng sản". Cho nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn soạn xong phải giữ kín và chỉ hát trong giới bạn bè thân thiết thôi. Những bạn bè thân thiết đó ở Đơn Dương, Sài Gòn, Huế, và đặc biệt là Đa Lạt. Bạn bè nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn rất thích, tác giả cất lên tiếng nói bất lực trước cuộc chiến tranh và thể hiện khát vọng hòa bình hộ cho nhiều người thế hệ anh. Nhưng cũng có nhiều người không thích. Những ca khúc phản chiến "nguy hiểm" đến như thế thì có ca sĩ nào dám hát ? May sao, trong những chuyến lên về Đa Lạt, Trịnh Công Sơn đã gặp được một cô "bé quê" trong một phòng trà và cô bé đã lột xác hóa thân thành ca sĩ Khánh Ly hát nhạc phản chiến bắt đầu từ Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1966). Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gắn liền với giọng ca Khánh Ly. Gặp gỡ Khánh Ly là một bước ngoặt mang tính định mệnh của Trịnh Công Sơn. Không có những tháng năm dạy ở Blao để tiện đường lên về Đa Lạt thì làm sao Sơn có thể gặp được Khánh Ly ?
    Đến năm 1967, không chỉ có bạn bè anh mới bị "chinh chiến mang đi", mà các đồng nghiệp của anh ở Blao và chính anh bị gọi nhập ngũ . Trịnh Công Sơn không chấp nhận cuộc chiến tranh của Mỹ nên anh trốn lính. Trốn lính từ Bõ lao. Trốn lính và chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp, điều đó có nghĩa là anh phải giả từ cuộc đời làm thầy giáo ngắn ngủi của anh. Trịnh Công Sơn không tự ý bỏ nghề thầy mà vì chính quyền miền Nam lúc ấy đã buột anh phải nghỉ dạy học để đi lính. Anh trốn lính để có thể đi đến cùng sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, cho quyền tự quyết dân tộc.
    Trịnh Công Sơn ăn lương dạy học tại B õ lao chỉ có ba năm (1964 đến 1967). Thời gian ấy ngắn so với cuộc đời sáu mươi ba tuổi của anh (1939-2001). Nhưng không ai có thể viết tiểu sử nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một cách trung thực khi chưa rõ giai đoạn "bụi đỏ sương mù" của anh ở B õ lao. Bởi vì chính trong giai đoạn nầy anh đi làm thầy giáo rồi buột phải thôi dạy, anh cho xuất bản những tập nhạc đầu tiên của anh, anh soạn loạt bài phản chiến mang tên Ca Khúc Da Vàng, anh gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly và khẳng định sự nghiệp làm nhạc sĩ cho đến cuối đời anh.
    Gác Thọ Lộc, một ngày Đông, 2001.
    (Bài này có một số chi tiết nhỏ không chuẩn xác,mình đã phải thay đổi.Có gì xin các bạn bỏ qua và chỉ bảo thêm)
    Đừng bỏ tôi!Quay lại đi mà!
  8. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn - Đóa Hoa Vô Thường
    Võ Xuân Hân
    Để tưởng niệm một ngọn đuốc lớn đã soi sáng âm nhạc
    cũng như đã góp phần lật trang sử giống Lạc Hồng

    Cách đây ít năm, tôi cùng nhà tôi đến thăm Sơn trong một buổi chiều nhạt nắng ở miền Nam. Trong suốt buổi viếng thăm, Sơn nói nhiều, điếu thuốc không hở trên tay, miệng vừa nhắp đều cốc rượu mạnh đã được pha loãng với nước. Nhưng Sơn không say chút nào. Cũng như khi sáng tác, Sơn không hề có ý trau chuốt nhiều. Ý tưởng và ngôn từ Sơn hôm ấy cứ tuôn ra như nước chảy, như thể đang sáng tác nhạc vậy. Chúng tôi im lặng ngồi nghe Sơn nói. Cũng như phong cách hàng ngày, ít nữa là vào những năm cuối đời, cử chỉ lời nói Sơn khoan thai, vừa để tiếp bạn từ xa, vừa chia sẻ chút tâm sự. Vì không sắp đặt trước nên câu chuyện hôm đó rất đáng ghi lại vì nó đã cho hậu thế một trong những cái nhìn cuối cùng hồn nhiên, không uốn nắn hay thêu dệt về nhạc sĩ. May thay hôm ấy chúng tôi có đem theo một máy vidéo cầm tay. Chúng tôi đã được chứng kiến một Sơn rất " Thiền ". Một Sơn chín muồi hơn thời " Diễm Xưa ". Nhờ thế, một cuộc thăm viếng thường đã trở thành một cuộc viếng thăm định mệnh vì đây là lần chót tôi gặp Sơn và cũng vì Sơn đã gởi gắm cho thế gian một đôi điều. Beethoven, hồi ở Heiligenstadt, 1802, viết thơ cho cháu Karl và em Johann không có ý viết chúc thư cho đời, nhưng hậu thế vẫn xem đó như lời di chúc nồng nàn nhất (chúc thư Heiligen-stadt). Mãi đến một phần tư thế kỷ sau ngày viết tâm thư đó, Beethoven mới thành người thiên cổ. Không cố ý tự vẽ mình, mà nhờ bức thư đó, hậu thế có dịp thấy rõ hơn Beethoven con người và Beethoven nghệ sĩ. Qua câu chuyện thân hữu hôm đó với chúng tôi, Sơn đã tô đậm thêm nét chân dung mình, phản ảnh một số nhân sinh quan, thẩm mỹ quan, tình yêu, tôn giáo, âm nhạc, cũng như thế giới và vai trò của thi sĩ, nghệ sĩ, v.v.
    Để nhớ Sơn, ta có thể nêu ra hai câu hỏi : thứ nhất, Sơn gần đây giống và khác với Sơn xưa ở những điểm nào ? và thứ nhì, họ Trịnh và Beethoven có những điểm giống và khác nhau ra saoấ? Vì sao nhắc đến nhà đại nhạc sĩ Đức ? đối chiếu ở đây không nhằm so sánh hơn thua, hay dở, nhưng chỉ có một mục đích là cho ta một nhận định rõ ràng hơn về người nhạc sĩ lỗi lạc yêu dấu của chúng ta. Cả hai đều là những " ngôi sao xuống từ trên trời ", một người xuống miền Tây, người kia xuống miền Đông, cách nhau hơn một thế kỷ rưỡi, nhưng có điều đặc biệt là họ một số điểm chung lớn. Mẫu số chung là hoài bão và tâm hồn lớn của họ, là đời sống tình cảm của họ, một số cảm nghĩ về đời sống và nghệ thuật, và nhất là cảm tình sâu xa của đồng bào đối với họ và vị thế tột đỉnh của mỗi người trong nền âm nhạc tại quê hương họ. Một điều nổi bật khác nữa là thời đại của hai nhạc sĩ là thời đại của giông ba bão táp, của cảnh thịt nát xương tan : một bên là chiến tranh giành giật phân chia đất đai (cho đến khi đại đế Napoléon bại trận năm 1814), bên kia là cuộc chiến giành độc lập thống nhất lãnh thổ. Nếu người thường ghi nhận niềm đau khổ một, mức nhạy cảm của nghệ sĩ cho họ ghi nhận mười. Cho đến nay tôi vẫn không chắc vì tất cả những lý do trên, hay có lý do nào khác, mà một khi nghĩ đến Trịnh Công Sơn, hình ảnh kinh cụ của con người nghệ sĩ đức có nhiều tâm huyết muốn quyết liệt chống trả định mệnh lại hiện ra trong trí tôi hầu như một ám ảnh.
    Nắng buồn hơn mưa...
    Trong câu chuyện, có lúc Sơn chỉ tay về phía cửa sổ, nói rằng nắng ở Canada, chỗ Sơn ở thăm gia đình một thời gian ngắn, vui hơn nắng ở Việt Nam. Sơn nói nắng ở Âu Mỹ trắng mà vui hơn nắng ở đất Việt. Theo Sơn, nắng ở xứ ta vàng và buồn hơn mưa. Sơn nói ai cũng nói mưa buồn, nhưng Sơn không thấy vậy. Sơn nói " nắng cũng có cuộc đời của riêng của nó ". Nghĩa là nắng sống ngày ba buổi, sáng, trưa, chiều, trong khi đó mưa không vậy. Mưa chỉ rào xuống một cái rồi hết. Phải chăng đây là nhìn của thi sĩ ở trong Sơn ?
    Thế giới nghệ sĩ
    Sơn nói người nghệ sĩ có một thế giới, một đời sống riêng của mình. Sơn phụ thêm chữ Pháp le monde à soi, pour soi. Sơn giải thích rằng nếu không có đời sống riêng nầy thì nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ hay nữa. Mà đời sống riêng tư đó là cái gì ? Không đợi chúng tôi hỏi, Sơn tự trả lời một mình : đời sống đó là một cái gì huyền ảo, đầy " mộng tưỏng ", nghĩa là nó vừa hư vừa thực. Nó gần giống thế giới bên ngoài nhưng "không hoàn toàn giống". Sơn dùng chữ invraisemblable để nói rộng thêm về thế giới riêng nầy. Theo lời Sơn, đời sống riêng của nghệ sĩ cũng có cây cỏ có bông hoa, có chim chóc, có dáng dấp của con người đi qua, nhưng tất cả cái đó không hoàn toàn giống thế giới bên ngoài. Thế giới người thường là thế giới cụ thể, nhưng thế giới nghệ sĩ thì " mông lung... trừu tượng ". Sơn nói thế giới nghệ sĩ là thế giới ngoài đời " nhân lên mười lần ". Vì sao ? Sơn giải thích : sở dĩ như vậy là vì thế giới nghệ sĩ đầy " ước mơ... hy vọng". Sơn nhắc đi nhắc lại hai chữ " ước mơ ". Sơn nói nhờ có thế giới riêng nầy mà bài hát được tồn tại. Không có thế giới riêng nầy, vẫn theo Sơn, sẽ không có nhạc hay, sẽ nghèo nàn. Theo lời Sơn, lý do có nhạc không hay là vì tác giả không có cái thế giới riêng đó.
    Vai trò nghệ sĩ
    Nhân lúc câu chuyện đi đến chỗ bàn về nghệ sĩ, tôi có góp ý rằng nghệ sĩ tài ba chẳng qua là các thầy phù thuỷ (hiểu theo nghĩa tốt). Tôi nói các ông nhạc sĩ, họa sĩ lớn đã nhạy cảm đủ để nghe được trong khi kẻ khác không nghe được, thấy được trong khi kẻ khác không thấy được, cảm được trong kẻ khác không cảm được. Đó là của trời cho, là dấu hiệu thiên tài. Từ những cảm nhận nhạy bén nầy, các nghệ sĩ lớn biết cách tiêu hoá, nhào nặn, dùng phép thần thông, tạo cho đồng loại một thế giới mới, mở cửa cho đồng loại đi vào những chân trời huyền ảo nhớ nhung. Thiếu phép thần thông của thầy phù thuỷ thì đất sét trong tay thế gian vẫn là cục đất sét vô duyên. Người phàm có tai cũng như điếc, có mắt cũng như đui, có miệng cũng như câm. Vậy nghệ sĩ lớn trước hết là tai mắt của thế gian. Nhưng nghệ sĩ vừa là người ghi nhận, vừa là kẻ phát ngôn của đồng loại. Nghệ sĩ nói thay tiếng nói của đồng loại bất lực trong việc bày tỏ tâm trạng mình qua các tình huống đau khổ, hạnh phúc, nhớ nhung, khát vọng. Nhờ thế, qua tác phẩm văn nghệ, người đời tìm lại được bản thân của chính mình đã bị đánh mất. Thật một sự khám phá vô giá ! Cho nên đời vắng bóng nghệ sĩ là đời què quặt, nghèo nàn, mất mát không biết bao nhiêu mà kể ! Thấy tôi nói nghệ sĩ là thầy phù thuỷ, Sơn tỏ vẻ tán đồng. Song khi nghe tôi dùng chữ " phù thủy ", Sơn thoạt tiên dặm thêm chữ Pháp un magicien để dịch chữ phù thuỷ của tôi. Song khi cảm thấy tôi thắc mắc về chữ magicien (nhà ảo thuật) dùng để chỉ thầy phù thuỷ, thì Sơn đã nhanh nhẹn đổi ra chữ un sorcier. Tôi gật đầu để tán thành Sơn về sự sửa đổi ấy, vì thật ra sorcier là từ tôi nghĩ đến ngay từ đầu, nhưng vì thấy chữ phù thuỷ trong tiếng Việt quá hay nên tôi thấy không cần dùng ngoại ngữ làm gì.
    Thi sĩ không phải là nhà tiên tri
    Sơn nói sách báo thường cho thi sĩ là nhà tiên tri, nhưng thật sự không phải như vậy. Lý do ? Sơn giải thích rằng thi sĩ nhìn lá nhưng thấy đó không còn là lá nữa, nhìn cây, nhưng thấy đó không còn là cây nữa. Thi si thấy trước được những gì sẽ xảy ra cho những cây và lá ấy. Sơn khai triển thêm. Những câu chuyện ở đời nầy có những giai đoạn bắt buộc, nghĩa là lúc đến, phải đến, lúc đi phải đi. Thi sĩ cảm thấy được chu trình đó và đi trước người khác một " tí xíu " mà thôi, do đó, người ta cho thi sĩ là tiên tri, chứ thật ra thi sĩ không phải là nhà tiên tri. Thi sĩ chỉ khác không thi sĩ ở chỗ có thể cảm thông với cây cỏ, vạn vật mà người ta tưởng là vô tri, nhưng theo Sơn, thật sự không phải là vô tri. Sơn lấy ví dụ là nếu ta rời bỏ khu vườn của ta để đi một thời gian, khi trở về thì thoạt đầu ta thấy nó hoang vu, nhưng sự hoang vu buồn bã đó sẽ biến mất sau khi ta ngồi chơi với nó trong môt thời gian, ta sẽ đem lại " hơi ấm " cho nó và nó cũng phản lại, và như thế hai bên, người và vườn sẽ có " một sự giao hoà nào đó ".
    Ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau
    Sơn nói với chúng tôi rằng mọi vật, ngọn lá hay bông hoa cũng có đời sống riêng của chúng. Có nhiều người cho đây là một hình thức thi vị hoá âm nhạc. Thế nhưng công việc thi vị hoá lắm khi lại là công việc gắng gượng, giả tạo. Với Trịnh Công Sơn, không cần cố sức thi vị hoá. Vì trong lời nói tự nhiên của Sơn đã có sẵn chất thơ rồi. Sơn nói " ...anh nhìn ngọn lá, có tình yêu trong ngọn lá, anh nhìn bông hoa, có tình yêu trong bông hoa... tất cả mọi cái đều có đời sống riêng ". Rồi Sơn giải thích cho chúng tôi tại sao Sơn hát . . ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau. Vì theo lời Sơn, sỏi đá có linh hồn riêng của nó, có đời sống riêng của nó. Sơn nhấn mạnh rằng sỏi đá cũng biết nhớ nhung, cũng biết nghe, biết nói. Chỉ vì mình không biết nghe mà thôi . Nhưng Sơn nói có người nghe được sỏi đá, có người không nghe được. Sơn nói sỏi đá có linh hồn và nó cũng biết buồn, biết nhớ nhung, và khi viên đá buồn, nó làm cho mình buồn. Sơn tin thật như vậy. Sơn nói nếu để sỏi đá rời nhau, xa nhau, thì chúng buồn, mà nếu để lại gần nhau thì chúng vui. Sơn nói một vật mình tưởng là vô tri, nhưng thực sự là nó không vô tri, vì nó có một đời sống, một " giá trị tự tại ". Sơn nói theo nhà Phật, trong cái thế giới ta bà nầy, mọi đồ vật và sinh vật như loài vật, thiên nhiên, sỏi đá... thật sự đều là một. Chúng có những sự liên hệ, giao hoà với nhau. Chúng cần lẫn nhau và nhờ vậy đời sống được thoải mái, dễ dàng hơn.
    (Còn tiếp)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:38 ngày 05/07/2003
  9. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn - Đóa Hoa Vô Thường
    Võ Xuân Hân
    Để tưởng niệm một ngọn đuốc lớn đã soi sáng âm nhạc
    cũng như đã góp phần lật trang sử giống Lạc Hồng

    Cách đây ít năm, tôi cùng nhà tôi đến thăm Sơn trong một buổi chiều nhạt nắng ở miền Nam. Trong suốt buổi viếng thăm, Sơn nói nhiều, điếu thuốc không hở trên tay, miệng vừa nhắp đều cốc rượu mạnh đã được pha loãng với nước. Nhưng Sơn không say chút nào. Cũng như khi sáng tác, Sơn không hề có ý trau chuốt nhiều. Ý tưởng và ngôn từ Sơn hôm ấy cứ tuôn ra như nước chảy, như thể đang sáng tác nhạc vậy. Chúng tôi im lặng ngồi nghe Sơn nói. Cũng như phong cách hàng ngày, ít nữa là vào những năm cuối đời, cử chỉ lời nói Sơn khoan thai, vừa để tiếp bạn từ xa, vừa chia sẻ chút tâm sự. Vì không sắp đặt trước nên câu chuyện hôm đó rất đáng ghi lại vì nó đã cho hậu thế một trong những cái nhìn cuối cùng hồn nhiên, không uốn nắn hay thêu dệt về nhạc sĩ. May thay hôm ấy chúng tôi có đem theo một máy vidéo cầm tay. Chúng tôi đã được chứng kiến một Sơn rất " Thiền ". Một Sơn chín muồi hơn thời " Diễm Xưa ". Nhờ thế, một cuộc thăm viếng thường đã trở thành một cuộc viếng thăm định mệnh vì đây là lần chót tôi gặp Sơn và cũng vì Sơn đã gởi gắm cho thế gian một đôi điều. Beethoven, hồi ở Heiligenstadt, 1802, viết thơ cho cháu Karl và em Johann không có ý viết chúc thư cho đời, nhưng hậu thế vẫn xem đó như lời di chúc nồng nàn nhất (chúc thư Heiligen-stadt). Mãi đến một phần tư thế kỷ sau ngày viết tâm thư đó, Beethoven mới thành người thiên cổ. Không cố ý tự vẽ mình, mà nhờ bức thư đó, hậu thế có dịp thấy rõ hơn Beethoven con người và Beethoven nghệ sĩ. Qua câu chuyện thân hữu hôm đó với chúng tôi, Sơn đã tô đậm thêm nét chân dung mình, phản ảnh một số nhân sinh quan, thẩm mỹ quan, tình yêu, tôn giáo, âm nhạc, cũng như thế giới và vai trò của thi sĩ, nghệ sĩ, v.v.
    Để nhớ Sơn, ta có thể nêu ra hai câu hỏi : thứ nhất, Sơn gần đây giống và khác với Sơn xưa ở những điểm nào ? và thứ nhì, họ Trịnh và Beethoven có những điểm giống và khác nhau ra saoấ? Vì sao nhắc đến nhà đại nhạc sĩ Đức ? đối chiếu ở đây không nhằm so sánh hơn thua, hay dở, nhưng chỉ có một mục đích là cho ta một nhận định rõ ràng hơn về người nhạc sĩ lỗi lạc yêu dấu của chúng ta. Cả hai đều là những " ngôi sao xuống từ trên trời ", một người xuống miền Tây, người kia xuống miền Đông, cách nhau hơn một thế kỷ rưỡi, nhưng có điều đặc biệt là họ một số điểm chung lớn. Mẫu số chung là hoài bão và tâm hồn lớn của họ, là đời sống tình cảm của họ, một số cảm nghĩ về đời sống và nghệ thuật, và nhất là cảm tình sâu xa của đồng bào đối với họ và vị thế tột đỉnh của mỗi người trong nền âm nhạc tại quê hương họ. Một điều nổi bật khác nữa là thời đại của hai nhạc sĩ là thời đại của giông ba bão táp, của cảnh thịt nát xương tan : một bên là chiến tranh giành giật phân chia đất đai (cho đến khi đại đế Napoléon bại trận năm 1814), bên kia là cuộc chiến giành độc lập thống nhất lãnh thổ. Nếu người thường ghi nhận niềm đau khổ một, mức nhạy cảm của nghệ sĩ cho họ ghi nhận mười. Cho đến nay tôi vẫn không chắc vì tất cả những lý do trên, hay có lý do nào khác, mà một khi nghĩ đến Trịnh Công Sơn, hình ảnh kinh cụ của con người nghệ sĩ đức có nhiều tâm huyết muốn quyết liệt chống trả định mệnh lại hiện ra trong trí tôi hầu như một ám ảnh.
    Nắng buồn hơn mưa...
    Trong câu chuyện, có lúc Sơn chỉ tay về phía cửa sổ, nói rằng nắng ở Canada, chỗ Sơn ở thăm gia đình một thời gian ngắn, vui hơn nắng ở Việt Nam. Sơn nói nắng ở Âu Mỹ trắng mà vui hơn nắng ở đất Việt. Theo Sơn, nắng ở xứ ta vàng và buồn hơn mưa. Sơn nói ai cũng nói mưa buồn, nhưng Sơn không thấy vậy. Sơn nói " nắng cũng có cuộc đời của riêng của nó ". Nghĩa là nắng sống ngày ba buổi, sáng, trưa, chiều, trong khi đó mưa không vậy. Mưa chỉ rào xuống một cái rồi hết. Phải chăng đây là nhìn của thi sĩ ở trong Sơn ?
    Thế giới nghệ sĩ
    Sơn nói người nghệ sĩ có một thế giới, một đời sống riêng của mình. Sơn phụ thêm chữ Pháp le monde à soi, pour soi. Sơn giải thích rằng nếu không có đời sống riêng nầy thì nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ hay nữa. Mà đời sống riêng tư đó là cái gì ? Không đợi chúng tôi hỏi, Sơn tự trả lời một mình : đời sống đó là một cái gì huyền ảo, đầy " mộng tưỏng ", nghĩa là nó vừa hư vừa thực. Nó gần giống thế giới bên ngoài nhưng "không hoàn toàn giống". Sơn dùng chữ invraisemblable để nói rộng thêm về thế giới riêng nầy. Theo lời Sơn, đời sống riêng của nghệ sĩ cũng có cây cỏ có bông hoa, có chim chóc, có dáng dấp của con người đi qua, nhưng tất cả cái đó không hoàn toàn giống thế giới bên ngoài. Thế giới người thường là thế giới cụ thể, nhưng thế giới nghệ sĩ thì " mông lung... trừu tượng ". Sơn nói thế giới nghệ sĩ là thế giới ngoài đời " nhân lên mười lần ". Vì sao ? Sơn giải thích : sở dĩ như vậy là vì thế giới nghệ sĩ đầy " ước mơ... hy vọng". Sơn nhắc đi nhắc lại hai chữ " ước mơ ". Sơn nói nhờ có thế giới riêng nầy mà bài hát được tồn tại. Không có thế giới riêng nầy, vẫn theo Sơn, sẽ không có nhạc hay, sẽ nghèo nàn. Theo lời Sơn, lý do có nhạc không hay là vì tác giả không có cái thế giới riêng đó.
    Vai trò nghệ sĩ
    Nhân lúc câu chuyện đi đến chỗ bàn về nghệ sĩ, tôi có góp ý rằng nghệ sĩ tài ba chẳng qua là các thầy phù thuỷ (hiểu theo nghĩa tốt). Tôi nói các ông nhạc sĩ, họa sĩ lớn đã nhạy cảm đủ để nghe được trong khi kẻ khác không nghe được, thấy được trong khi kẻ khác không thấy được, cảm được trong kẻ khác không cảm được. Đó là của trời cho, là dấu hiệu thiên tài. Từ những cảm nhận nhạy bén nầy, các nghệ sĩ lớn biết cách tiêu hoá, nhào nặn, dùng phép thần thông, tạo cho đồng loại một thế giới mới, mở cửa cho đồng loại đi vào những chân trời huyền ảo nhớ nhung. Thiếu phép thần thông của thầy phù thuỷ thì đất sét trong tay thế gian vẫn là cục đất sét vô duyên. Người phàm có tai cũng như điếc, có mắt cũng như đui, có miệng cũng như câm. Vậy nghệ sĩ lớn trước hết là tai mắt của thế gian. Nhưng nghệ sĩ vừa là người ghi nhận, vừa là kẻ phát ngôn của đồng loại. Nghệ sĩ nói thay tiếng nói của đồng loại bất lực trong việc bày tỏ tâm trạng mình qua các tình huống đau khổ, hạnh phúc, nhớ nhung, khát vọng. Nhờ thế, qua tác phẩm văn nghệ, người đời tìm lại được bản thân của chính mình đã bị đánh mất. Thật một sự khám phá vô giá ! Cho nên đời vắng bóng nghệ sĩ là đời què quặt, nghèo nàn, mất mát không biết bao nhiêu mà kể ! Thấy tôi nói nghệ sĩ là thầy phù thuỷ, Sơn tỏ vẻ tán đồng. Song khi nghe tôi dùng chữ " phù thủy ", Sơn thoạt tiên dặm thêm chữ Pháp un magicien để dịch chữ phù thuỷ của tôi. Song khi cảm thấy tôi thắc mắc về chữ magicien (nhà ảo thuật) dùng để chỉ thầy phù thuỷ, thì Sơn đã nhanh nhẹn đổi ra chữ un sorcier. Tôi gật đầu để tán thành Sơn về sự sửa đổi ấy, vì thật ra sorcier là từ tôi nghĩ đến ngay từ đầu, nhưng vì thấy chữ phù thuỷ trong tiếng Việt quá hay nên tôi thấy không cần dùng ngoại ngữ làm gì.
    Thi sĩ không phải là nhà tiên tri
    Sơn nói sách báo thường cho thi sĩ là nhà tiên tri, nhưng thật sự không phải như vậy. Lý do ? Sơn giải thích rằng thi sĩ nhìn lá nhưng thấy đó không còn là lá nữa, nhìn cây, nhưng thấy đó không còn là cây nữa. Thi si thấy trước được những gì sẽ xảy ra cho những cây và lá ấy. Sơn khai triển thêm. Những câu chuyện ở đời nầy có những giai đoạn bắt buộc, nghĩa là lúc đến, phải đến, lúc đi phải đi. Thi sĩ cảm thấy được chu trình đó và đi trước người khác một " tí xíu " mà thôi, do đó, người ta cho thi sĩ là tiên tri, chứ thật ra thi sĩ không phải là nhà tiên tri. Thi sĩ chỉ khác không thi sĩ ở chỗ có thể cảm thông với cây cỏ, vạn vật mà người ta tưởng là vô tri, nhưng theo Sơn, thật sự không phải là vô tri. Sơn lấy ví dụ là nếu ta rời bỏ khu vườn của ta để đi một thời gian, khi trở về thì thoạt đầu ta thấy nó hoang vu, nhưng sự hoang vu buồn bã đó sẽ biến mất sau khi ta ngồi chơi với nó trong môt thời gian, ta sẽ đem lại " hơi ấm " cho nó và nó cũng phản lại, và như thế hai bên, người và vườn sẽ có " một sự giao hoà nào đó ".
    Ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau
    Sơn nói với chúng tôi rằng mọi vật, ngọn lá hay bông hoa cũng có đời sống riêng của chúng. Có nhiều người cho đây là một hình thức thi vị hoá âm nhạc. Thế nhưng công việc thi vị hoá lắm khi lại là công việc gắng gượng, giả tạo. Với Trịnh Công Sơn, không cần cố sức thi vị hoá. Vì trong lời nói tự nhiên của Sơn đã có sẵn chất thơ rồi. Sơn nói " ...anh nhìn ngọn lá, có tình yêu trong ngọn lá, anh nhìn bông hoa, có tình yêu trong bông hoa... tất cả mọi cái đều có đời sống riêng ". Rồi Sơn giải thích cho chúng tôi tại sao Sơn hát . . ngày xưa sỏi đá cũng cần có nhau. Vì theo lời Sơn, sỏi đá có linh hồn riêng của nó, có đời sống riêng của nó. Sơn nhấn mạnh rằng sỏi đá cũng biết nhớ nhung, cũng biết nghe, biết nói. Chỉ vì mình không biết nghe mà thôi . Nhưng Sơn nói có người nghe được sỏi đá, có người không nghe được. Sơn nói sỏi đá có linh hồn và nó cũng biết buồn, biết nhớ nhung, và khi viên đá buồn, nó làm cho mình buồn. Sơn tin thật như vậy. Sơn nói nếu để sỏi đá rời nhau, xa nhau, thì chúng buồn, mà nếu để lại gần nhau thì chúng vui. Sơn nói một vật mình tưởng là vô tri, nhưng thực sự là nó không vô tri, vì nó có một đời sống, một " giá trị tự tại ". Sơn nói theo nhà Phật, trong cái thế giới ta bà nầy, mọi đồ vật và sinh vật như loài vật, thiên nhiên, sỏi đá... thật sự đều là một. Chúng có những sự liên hệ, giao hoà với nhau. Chúng cần lẫn nhau và nhờ vậy đời sống được thoải mái, dễ dàng hơn.
    (Còn tiếp)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:38 ngày 05/07/2003
  10. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Trịnh Công Sơn - Đóa Hoa Vô Thường (2)
    (Tiep theo)
    Ông chủ hiền, con chó cũng hiền
    Sơn đi xa hơn. Sơn nói không những thiên nhiên, vạn vật, ảnh hưởng đến người, mà người cũng ảnh hưởng đến vạn vật và thiên nhiên. Ngoài câu chuyện khu vườn biết buồn khi chủ đi vắng, Sơn còn tâm sự thêm là Sơn đem về nhà một con chó Tây vốn rất giữ. Trước khi về nhà Sơn, chó đó nhe răng gầm gừ với khách. Nhưng khi về ở với Sơn thì nó trở nên hiền khô, không còn gầm gừ nhe răng với ai nữa.
    Hạnh bố thí
    Sơn tiếp tục ý tưởng về sự liên đới chặt chẽ giữa người với người, giữa người với muôn loài, với vạn vật. Sơn nói nếu tôi (thực ra, Sơn dùng chữ moi và toi) kẹt quá, và tôi xin bạn một trăm nghìn (đồng) để tôi giải quyết vấn đề của tôi và bạn cho tôi số tiền đó, tức là bạn đã bố thí. Nhưng Sơn nói rằng bố thí bằng của cải vật chất, tiền bạc, là hạnh bố thí thấp nhất. Sơn nói theo nhà Phật, hạnh bố thí rất rộng. Có những hạnh bố thí cao hơn như khi bạn đang buồn, bạn đến với tôi, và tôi đã giúp bạn giải quyết nổi buồn đó. Sơn nói nhà Phật cho hạnh bố thí cao nhất là giúp đỡ người khác đang bị kẹt giải quyết vấn đề tâm linh hay tinh thần của họ.
    Câu chuyện qua suối
    Rõ ràng Sơn hôm ấy là cái Sơn muốn buông bỏ hơn vướng mắc. Sơn cho sự thảnh thơi tâm hồn là cần cho đời sống đáng sống. Nếu có lúc Sơn đã từng đam mê và ôm ấp thì hôm nay Sơn cho sự thanh thản, an lạc, hạnh phúc, tất cả đều nhất lý, là một. Sơn kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện Thiền. Đây là một trong những bài khai tâm của Thiền môn, cho nên dù cho nhiều người biết chăng nữa, cũng xin ghi lại ở đây cho đầy đủ buổi nói chuyện hôm đó. Giọng Sơn bình dị nhưng vẫn duyên dáng, như được phát ra từ một nguồn cảm hứng mộc mạc, tự nhiên. Chuyện rằng, có hai thầy tu đi từ chùa trên núi xuống làng để mua đồ ăn, trên đường đi, phải qua một con suối lúc đó nước cạn. Trên đường về, đến cạnh bờ suối, hai tu sĩ đó gặp một cô gái trẻ đẹp trạc độ mười sáu, cũng đang tìm cách qua suối, nhưng lúc đó nước đã lên cao. Trong khi đang bối rối chưa biết tính sao thì một trong hai tu sĩ giúp cõng cô ta qua suối . Khi đã bỏ cô ta bên bờ suối bên kia, hai vị sư tiếp tục lên đường. Đi được một cây số, vị sư đã cõng cô gái hỏi vị sư kia rằng... sao từ lúc rời suối đến nay đã được một cây số rồi mà mặt bạn vẫn có vẽ ưu tư như vậy ? Vị kia trả lời : chúng ta là người tu hành, không được tiếp xúc với nữ giới, mà lúc nãy tại sao bạn lại cõng một cô gái như thế ? Vị sư cõng nói : giờ đây tôi cõng cô nào đâu... tôi không nhớ gì cả... vậy trong cây số qua, bạn là người cõng cô ấy chứ tôi đã hết cõng rồi... như vậy là bạn mệt quá rồi, chứ tôi không còn cõng nữa.
    Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau...
    Sau câu chuyện qua suối, Sơn quay người lại để với các nút bấm của bộ máy stereo để đằng sau lưng. Tiếng hát Cẩm Vân dâng lên và bắt đầu bao phủ lấy căn phòng khách cùng phòng vẽ.
    Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
    Đừng xô tôi ngã dưới chân người
    Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
    Ta xô biển lại, sóng về đâu ?
    Sóng bạc đầu, và núi chìm sâu
    Ta về đâu đó ?

    Nhạc nghe đến đây, Sơn nói chêm vào : " bài này viết là từ [lời] cầu kinh của Phật : Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha " (Một số trong chúng ta, kể cả chúng tôi, đã lớn lên với câu kệ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha, song tụng như vẹt, phải đợi đến khi tóc ngả màu mới thấm được ý nghĩa sâu xa của nó). Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là " vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ ". Có phải Sơn là vừa là thi - nhạc sĩ, vừa là triết gia hay thiền gia ? Hôm đó Sơn cho chúng ta một tiết lộ. Sơn nói có người lầm cho đây là bài hát về tôn giáo. Theo chính lời Sơn, mặc dù bài hát nầy lấy cảm hứng từ đạo bụt, " nhưng mà mình viết về tình yêu ! ". Trong khi Sơn giải thích về xuất xứ và ý nghĩa bài hát, tiếng sóng Cẩm Vân vẫn dồn dập cho đến cuối bài.
    Về chốn nào, mây phủ chiêm bao
    Cạn suối nguồn, bốn bể nương dâu
    Ta tìm em nơi đâu ?
    Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau

    Đến đoạn nầy, Sơn cất tiếng hát đệm theo tiếng ca Cẩm Vân cho đến hết bài. Vầng tráng Sơn nhăn nheo, mắt Sơn nhắm lại như đang thả hồn theo tiếng sóng rạt rào. Bấy giờ Trịnh Công Sơn với biển sóng hoàn toàn là một.
    Ta xô biển lại sóng nằm đau.
    Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
    Đừng xô tôi ngả dưới tim người.
    Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
    Đừng cho tôi thấy hết tim người.
    Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau,
    Ta xô biển lại sóng về đâu ?
    Giấc ngũ nào, giường chiếu quạnh hiu
    Trăng mờ quê cũ
    Người đứng chờ,
    Gió động vi vu,
    Vạt nắng vàng, nhắc lời thiên thu,
    Nhớ ngàn năm trôi qua...
    Biển sóng, biển sóng đừng trôi xa
    Ba năm chờ đợi sóng gần ta.
    Biển sóng, biển sóng đừng âm u
    Đừng nuôi trong ấy trái tim thù.
    Biển sóng, biển sóng đừng... xô... nhau...

    Grumbacher nầy rất tốt
    Tiếng hát Cẩm Vân vừa mới dứt, nhà tôi rút trong xách ra một món quà để trao cho Sơn. Chàng nhìn ra ngay đó là một trong những món đồ thích chí : " Tôi dự định sẽ chia tay với âm nhạc để viết những tạp bút ngẫu hứng và vẽ " ("Trò Chuyện với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn," www.khanhly.com) (chữ viết hoa do tôi thêm). Phòng Sơn lúc đó có đầy tranh, một số có lẽ đã vẽ xong, một số hình như còn dang dở. Vì không được báo trước, nên khi thấy nhà tôi đưa quà biếu ra, Sơn có hơi ngạc nhiên một tí. Chàng hỏi : " Quà há ? ". Nhưng khi thấy quà là một hộp sơn dầu ngoại quốc ngoài có mang một nhãn hiệu quen thuộc, Sơn thốt lên ngay " Grumbacher nầy tốt lắm đó ... rất tốt. Cảm ơn nhiều lắm ". Nhà tôi hỏi mấy dạo sau này Sơn có vẽ nhiều không, Sơn trả lời : " Khi nào khoẻ thì làm... đêm ngồi buồn quá, lấy pinceau mà quẹt lên... thì cái màu nó gợi cái inspiration, vậy thôi, chứ còn nhạc thì nhiều khi âm thầm hơn... ". Ngoài ra, nhà tôi nói với Sơn là trong chuyến thăm nầy định đem biếu Sơn hai cuốn băng vidéo về âm nhạc, nhưng đã bị mất cả hai ở phi cảng. Một trong hai là phim về đời sống tình cảm của Beethoven (Immortal Beloved). đây là một câu chuyện tình thuộc loại " Diễm Xưa " của nhạc sĩ Đức, mà vì vậy chúng tôi nghĩ biết đâu khi xem, Sơn lại không tìm thấy một vài dư âm ?
    Sơn và cố đô
    Trong một bài phỏng vấn khá gần đây, Sơn thổ lộ : " Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi " (khanhly.com). Cho nên dù có trú ở đâu đi nữa, có thể nói Sơn luôn luôn nhớ nhà, nghĩa là nhớ Huế. Về mặt tình cảm, Sơn với Huế hình như không bao giời rời nhau được. Sự gắn bó đó vừa do những kỷ niệm sâu sắc của tuổi trẻ, vừa do hoàn cảnh lịch sử đấu tranh của đất nước, mà Sơn là người thực sự trong cuộc trong những ngày tháng sôi sục ở miền Trung, vừa do mối cảm tình lạ lùng với mảnh đất cằn cỗi nhưng linh thiêng của Phú Xuân. Trước thì như thế, nhưng thử hỏi vào những năm cuối đời mình, Sơn đã nghĩ gì về xứ Huế ? Trong buổi nói chuyện, có lúc Sơn nhắc rằng Huế vẫn buồn, vẫn nhỏ, vẫn " nghèo nàn dễ sợ " nhưng Sơn nói thêm rằng " tất cả mọi người phải đi qua Huế mới thành một con người... vì đó là thủ đô cũ ". Theo lời Sơn, Huế là nơi sản xuất nhiều nhân tài lịch sử và văn nghệ. Sơn nói " chỗ đó đã sinh đẻ ra " tất cả những nhân vật của lịch sử cận đại Việt Nam và họ " đều đi qua Huế cả ". Trong các nhân vật lịch sử, văn hoá Sơn nhắc đến, có tên nhà thơ trữ tình cổ điển Xuân Diệu mà Sơn nói là người Bình Định cũng đã từng học ở Huế.
    (Con tiep)
    [
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 07:41 ngày 05/07/2003

Chia sẻ trang này