1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Bi Kịch Nhỏ Giữa Bi Kịch Lớn Của Đất Nước
    Trịnh Cung
    Họa Sĩ Trịnh Cung, bạn thân của người nhạc sĩ quá cố, tâm sự, "Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ mà cả cuộc đời là bi kịch, một nhạc sĩ cô đơn, một nhạc sĩ có tài nhưng sống trong quạnh quẽ, tuyệt vọng và bất an cả đờị Sơn là một nghệ sĩ đi giữa hai lằn đạn." Hiện diện trong buổi tưởng niệm đêm thứ Ba có khoảng 400 người, gồm nhiều lớp tuổi, đầu xanh, đầu bạc, hoặc đầu 2 màu tóc.
    Là người bạn thâm tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ thưở 17, 18 tuổi, họa sĩ Trịnh Cung đã biết được xuất xứ nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn. Theo lời ông Trịnh Cung, nếu Trịnh Công Sơn không gặp tai nạn thì có thể chúng ta đã có một bác sĩ hay kỹ sư, chứ không phải nhà viết nhạc tài hoa họ Trịnh.
    Có đai đen Nhu Đạo, học sinh trường Chasseloup Laubat, đậu Tú Tài 1 Pháp, nhưng trong khi đang học thi Tú Tài toàn phần thì thân sinh của ông mất, khiến gia đình suy sụp và Trịnh Công Sơn phải bỏ học. Sau đó, lại bị thương trong một tai nạn té ngã, TCS bước vào đường văn nghệ, và trở thành một giáo viên tại một vùng quê Lâm Đồng để có thể được hoãn dịch hợp pháp.
    Họa sĩ Trinh Cung tiết lộ, Trịnh Công Sơn tự học nhạc, có sáng tác đầu tay là bản Ướt Mi do nữ danh ca Thanh Thúy trình bầy, với nhiều âm hưởng bán cổ điển như Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong... Nhưng sau đó, Trịnh Công Sơn đã bứt phá dòng nhạc, kèm thêm một ngôn ngữ thi ca mới lạ. Tình cờ, Trịnh Công Sơn đã khám phá ra Khánh Ly ở Đalat và từ đó trở đi Khánh Ly là người đầu tiên chuyên chở dòng nhạc Trịnh Công Sơn vào khuôn viên đại học. Tên tuổi Khánh Ly gần như gắn liền với những ca khúc Trịnh Công Sơn từ tình khúc đến những bài viết về quê hương, về chiến tranh và về thân phận con người trong một nước nhược tiểụ Tất cả các loại nhạc của Trịnh Công Sơn đã được giới trẻ và sinh viên miền Nam đón nhận nồng nhiệt. Khánh Ly và Trịnh Công Sơn được coi như là thần tượng của giới trẻ thời ấỵ Mặc dầu một số ca khúc bị chánh quyền Miền Nam coi là nhạc phản chiến, nhưng nhiều người có quyền ở miền Nam lúc ấy lại thích nhạc của Sơn và đã bao bọc cho ông.
    Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn cũng bị Cộng Sản Việt Nam coi là một nghệ sĩ ********* vì những lời ca như " Hai mươi năm nội chiến từng ngày".Cộng Sản Việt Nam không cho chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến mà là một cuộc chiến chống xâm lược.
    Trịnh Công Sơn sợ bị trả thù nên đã phải ra Huế ẩn thân và nhờ bạn bè như Hoàng Phủ Ngọc Tường - một nghệ sĩ Cộng Sản nằm vùng trong miền Nam trước 75 - giúp đỡ. Nhưng gần như mọi người đã quay lưng. Hoàng Phủ Ngọc Tường không hài lòng với bản "thu hoạch" tức là bản tự kiểm của họ Trịnh nên đã đưa ông đi vùng kinh tế mới Đông Hà gọi là "đi thực tế". Rất nhiều năm sau đó, ông không sáng tác được bản nào có giá trị.
    Nhờ một người Cộng Sản có thần thế ở Miền Nam thích nhạc Trịnh Công Sơn đưa về Saigon, ông bắt đầu sáng tác lại, nhưng rất ít. Uống rượu rất nhiều, cuối cùng ông bị bệnh tiểu đường. Qua đời vào ngày Chủ Nhật Mồng 1 tháng Tư 2001, ông được an táng tại Bình Dương vào ngày thứ Tư Mồng Tư 2001.
    Họa sĩ Trịnh Cung nhắc lại những kỷ niệm thuở thiếu thời cho đến khi chia tay, ông nói rằng Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa với hơn 600 ca khúc nhưng cuộc đời của ông là một bi kịch thu nhỏ trong một bi kịch lớn của đất nước. Trịnh Công Sơn đã đi giữa hai lằn đạn nên ông chỉ còn có một nơi trú ẩn là sự quạnh quẽ của mình và tình thân với một số bạn bè.
  2. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0

    Người du ca chính hiệu
    Trịnh Công Sơn là một người du ca. Thế nào là người du ca?
    Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
    Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cường chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.
    Ðó là một nghệ sĩ hơn tất cả các nghệ sĩ, thong dong như gió thoảng, thoát vượt ra ngoài mọi ước lệ thường tình của xã hội.
    Ngao du từ làng thôn đến thị trấn, lang thang nơi cỏ hoa và trăng sao, len lỏi trong các tầng lớp quần chúng, trình diễn lấy những sáng tác của mình.
    Ở những sân khấu bất chợt, trong ngõ hẻm, ngoài phố chợ, nơi sân đình, giữa vòng vây của những đám đông được kết hợp liên lạc bằng những đau khổ chung và những ước vọng chung.
    Với một nhạc khí mộc mạc, những âm thanh đạm bạc và những lời lẽ hồn nhiên, người du ca là người tình của đám đông thua thiệt, là nỗi lòng của quần chúng uất ức: một biến cố sát cận, một bất bằng bên đường đập mạnh vào tâm não người du ca và trở thành nhúng tác phẩm, nhanh chóng và dễ dàng như nắng mưa đổi thay nơi miền nhiệt đới.
    Người du ca là gã bán rong âm nhạc cho nhũng người tiêu thụ nghèo hèn nên ý tưởng trong du ca phải diễn đạt qua những ngôn từ dân gian với những hình ảnh nhan nhản hằng ngày, nhận ngay và hiểu ngay, nên âm nhạc trong du ca cũng phải là những phảng phất của những âm điệu dân ca, với những nhạc đồ giản dị mong manh, dễ hát và dễ nhớ.
    Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoảng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.
    Quan niệm về người du ca tuy đã biến đổi rất nhiều qua mỗi thời đại, nhưng tựu trung, tinh thần du ca vẫn vậy.
    Du ca vẫn là những thể hiện sống động vì là những thể hiện đầu tiên của tâm tình một quần chúng đông đảo trong một xã hội bi đát, tang thương.
    Trong tinh thần này, Trịnh Công Sơn là một người du ca chính hiệu.
    Tô Thùy Yên 1967
    (đề tựa: Ca Khúc Trịnh Công Sơn - An Tiêm xuất bản 1967)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 17:29 ngày 07/07/2003
  3. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0

    Người du ca chính hiệu
    Trịnh Công Sơn là một người du ca. Thế nào là người du ca?
    Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
    Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cường chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.
    Ðó là một nghệ sĩ hơn tất cả các nghệ sĩ, thong dong như gió thoảng, thoát vượt ra ngoài mọi ước lệ thường tình của xã hội.
    Ngao du từ làng thôn đến thị trấn, lang thang nơi cỏ hoa và trăng sao, len lỏi trong các tầng lớp quần chúng, trình diễn lấy những sáng tác của mình.
    Ở những sân khấu bất chợt, trong ngõ hẻm, ngoài phố chợ, nơi sân đình, giữa vòng vây của những đám đông được kết hợp liên lạc bằng những đau khổ chung và những ước vọng chung.
    Với một nhạc khí mộc mạc, những âm thanh đạm bạc và những lời lẽ hồn nhiên, người du ca là người tình của đám đông thua thiệt, là nỗi lòng của quần chúng uất ức: một biến cố sát cận, một bất bằng bên đường đập mạnh vào tâm não người du ca và trở thành nhúng tác phẩm, nhanh chóng và dễ dàng như nắng mưa đổi thay nơi miền nhiệt đới.
    Người du ca là gã bán rong âm nhạc cho nhũng người tiêu thụ nghèo hèn nên ý tưởng trong du ca phải diễn đạt qua những ngôn từ dân gian với những hình ảnh nhan nhản hằng ngày, nhận ngay và hiểu ngay, nên âm nhạc trong du ca cũng phải là những phảng phất của những âm điệu dân ca, với những nhạc đồ giản dị mong manh, dễ hát và dễ nhớ.
    Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoảng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.
    Quan niệm về người du ca tuy đã biến đổi rất nhiều qua mỗi thời đại, nhưng tựu trung, tinh thần du ca vẫn vậy.
    Du ca vẫn là những thể hiện sống động vì là những thể hiện đầu tiên của tâm tình một quần chúng đông đảo trong một xã hội bi đát, tang thương.
    Trong tinh thần này, Trịnh Công Sơn là một người du ca chính hiệu.
    Tô Thùy Yên 1967
    (đề tựa: Ca Khúc Trịnh Công Sơn - An Tiêm xuất bản 1967)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 17:29 ngày 07/07/2003
  4. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Mỗi ca khúc như một lời trối trăn
    Nếu ở vào một thời đại khác, có lẽ anh đã chẳng viết những ca khúc này.
    Những ca khúc với nhịp nói kể récitativo rã rời, bải hoại, thảm thiết cùng độ đàn trên diệu blues đau nghẹn, đè nén công phẩn, điệu của một màu da nô lệ.
    Những ca khúc như những bản chúc thư của con người trong tôi.
    Mỗi ca khúc như một lời trối trăn tuyệt mệnh vừa đủ cho đời người, một bài thôi tưởng không cần nói thêm cũng xong.
    Những ca khúc dựng lên viễn tượng ghê rợn của thế giới sau ngày cuối cùng, một thế giới lạnh lẽo, cô tịch, im lìm trên đó những dấu tích nhân loại đã bị bôi xóa, chỉ còn mỗi con người độc nhất sống sót lủi thủi đi tìm trong vô vọng cái ý niệm về mình.
    Những ca khúc như những bản spírituals để đám đông bị giam hãm chờ chết đồng ca trong cơn đại nạn.
    Những ca khúc như những báo hiệu cuối cùng của đêm tối vĩnh cửu trên trần gian.
    Những ca khúc như những lời kể tội chung thẩm để chẳng buộc tội ai hết, nếu chẳng phải để buộc tội chính mình.
    Những ca khúc như những tra vấn quyết liệt về đời nguời nhìn thấy qua một chuyến phiêu lưu của hữu hạn trong ngàn trùng vô hạn.
    Ðã tan biến tụ bao giờ cái áo tưởng chói lòa này? nghệ thuật, khi đi đến tận cùng hành trình của nó, sẽ giải phóng con người khỏi cái thân phận nghiệt ngã.
    Bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta lại nghiệm thấy một cách chua xót rằng nghệ thuật đã dìm con người sâu hơn trong nỗi khốn khổ chung thân cửa nó, đã trói con người chặt hơn vào những thực tại khiếp đảm của nó.
    Ở đây, vì tình thế đau đớn đặc biệt của quê hương, chúng ta phải gánh chịu gấp đôi thân phận nhân loại.
    Do đó, có vài người tâm hồn giản dị đã vội kết luận rằng những ca khúc này của anh là những tác phẩm phản chiến để buộc tội anh về những tác dụng nguy hại của chúng đời với đám đông trong giai đoạn nghiêm trọng này của đất nước.
    Chẳng lẽ chúng ta lại lên tiếng trách móc sao những người lại nỡ mang đặt nghệ thuật vào trong một cuộc đầu tư ngắn hạn và chắc chắn thua lỗ.
    Nghệ thuật khi đã hình thành, là một nhận thức bao quát về đời sống, là cánh hồng bay bổng tuyệt vời, chớ đâu phải là con gà què ăn quẩn cối xay.
    Phải vậy không anh ?
    Que nous reste-t-il de sacré ?
    Ðối với câu hỏi đã xưa này của Vigny, chúng ta cũng chẳng cần phải trả lời dài dòng thêm nữa.
    Chẳng lẽ lại trả lời rằng anh chỉ còn có cây đàn cùng những lời ca thảm thiết bám đau trí não hay sao?
    Những ước vọng hiệp sĩ của chúng ta trong thời tuổi nhỏ đã được chôn sâu nơi bãi sầu cùng với tuổi nhỏ tự hủy hoại sớm hơn hạn kỳ.
    Bài học đắt giá nhất chúng ta đã thu thập được dưới sân của thế kỷ này là cái chết của con người khai báo bơi Malraux.
    Thành thử, trong những ca khúc này, thêm một lần nữa, anh khai dạng huyền thoại về con người, thảm kịch của kẻ xa lạ nơi trần thế lưu đày, những tư tưởng phổ biến trong thời đại.
    Lại có vài người cũng vội nhận định rằng nghệ thuật của anh thắm đượm màu sắc tôn giáo, thiêng liêng.
    Thật ra huyền thoại là gì nếu nó chẳng phải là một câu truyện ngụ ngôn nhằm giải thích sự khởi đầu của thế giới, là một câu truyện kể về sự sáng tạo sơ khai.
    Nói cách khác, huyền thoại cũng là giấc mộng đi tìm ý nghĩa chính đáng cho đời sống.
    Dùng tới huyền thoại tức ước muốn làm lại thế giới.
    Từ đó suy đi, tôi tưởng tượng sẽ được nghe dưới tên anh, một ca khúc của hy vọng xanh rờn nhu lá non mở phơi trong một buổi sáng tinh sương tôi thức dậy còn nhìn thấy mặt trời, còn nhìn thấy đồng loại, nhất là còn nhìn thấy con người trong tôi.
    Xin mượn câu đầu của truyện tình Tristan để làm câu chót của bài này:
    Seigneurs, vous plaít-il d'entendre un beau conte... ?
    1.1967
    Tô Thùy Yên
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 08:41 ngày 05/07/2003
  5. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Mỗi ca khúc như một lời trối trăn
    Nếu ở vào một thời đại khác, có lẽ anh đã chẳng viết những ca khúc này.
    Những ca khúc với nhịp nói kể récitativo rã rời, bải hoại, thảm thiết cùng độ đàn trên diệu blues đau nghẹn, đè nén công phẩn, điệu của một màu da nô lệ.
    Những ca khúc như những bản chúc thư của con người trong tôi.
    Mỗi ca khúc như một lời trối trăn tuyệt mệnh vừa đủ cho đời người, một bài thôi tưởng không cần nói thêm cũng xong.
    Những ca khúc dựng lên viễn tượng ghê rợn của thế giới sau ngày cuối cùng, một thế giới lạnh lẽo, cô tịch, im lìm trên đó những dấu tích nhân loại đã bị bôi xóa, chỉ còn mỗi con người độc nhất sống sót lủi thủi đi tìm trong vô vọng cái ý niệm về mình.
    Những ca khúc như những bản spírituals để đám đông bị giam hãm chờ chết đồng ca trong cơn đại nạn.
    Những ca khúc như những báo hiệu cuối cùng của đêm tối vĩnh cửu trên trần gian.
    Những ca khúc như những lời kể tội chung thẩm để chẳng buộc tội ai hết, nếu chẳng phải để buộc tội chính mình.
    Những ca khúc như những tra vấn quyết liệt về đời nguời nhìn thấy qua một chuyến phiêu lưu của hữu hạn trong ngàn trùng vô hạn.
    Ðã tan biến tụ bao giờ cái áo tưởng chói lòa này? nghệ thuật, khi đi đến tận cùng hành trình của nó, sẽ giải phóng con người khỏi cái thân phận nghiệt ngã.
    Bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta lại nghiệm thấy một cách chua xót rằng nghệ thuật đã dìm con người sâu hơn trong nỗi khốn khổ chung thân cửa nó, đã trói con người chặt hơn vào những thực tại khiếp đảm của nó.
    Ở đây, vì tình thế đau đớn đặc biệt của quê hương, chúng ta phải gánh chịu gấp đôi thân phận nhân loại.
    Do đó, có vài người tâm hồn giản dị đã vội kết luận rằng những ca khúc này của anh là những tác phẩm phản chiến để buộc tội anh về những tác dụng nguy hại của chúng đời với đám đông trong giai đoạn nghiêm trọng này của đất nước.
    Chẳng lẽ chúng ta lại lên tiếng trách móc sao những người lại nỡ mang đặt nghệ thuật vào trong một cuộc đầu tư ngắn hạn và chắc chắn thua lỗ.
    Nghệ thuật khi đã hình thành, là một nhận thức bao quát về đời sống, là cánh hồng bay bổng tuyệt vời, chớ đâu phải là con gà què ăn quẩn cối xay.
    Phải vậy không anh ?
    Que nous reste-t-il de sacré ?
    Ðối với câu hỏi đã xưa này của Vigny, chúng ta cũng chẳng cần phải trả lời dài dòng thêm nữa.
    Chẳng lẽ lại trả lời rằng anh chỉ còn có cây đàn cùng những lời ca thảm thiết bám đau trí não hay sao?
    Những ước vọng hiệp sĩ của chúng ta trong thời tuổi nhỏ đã được chôn sâu nơi bãi sầu cùng với tuổi nhỏ tự hủy hoại sớm hơn hạn kỳ.
    Bài học đắt giá nhất chúng ta đã thu thập được dưới sân của thế kỷ này là cái chết của con người khai báo bơi Malraux.
    Thành thử, trong những ca khúc này, thêm một lần nữa, anh khai dạng huyền thoại về con người, thảm kịch của kẻ xa lạ nơi trần thế lưu đày, những tư tưởng phổ biến trong thời đại.
    Lại có vài người cũng vội nhận định rằng nghệ thuật của anh thắm đượm màu sắc tôn giáo, thiêng liêng.
    Thật ra huyền thoại là gì nếu nó chẳng phải là một câu truyện ngụ ngôn nhằm giải thích sự khởi đầu của thế giới, là một câu truyện kể về sự sáng tạo sơ khai.
    Nói cách khác, huyền thoại cũng là giấc mộng đi tìm ý nghĩa chính đáng cho đời sống.
    Dùng tới huyền thoại tức ước muốn làm lại thế giới.
    Từ đó suy đi, tôi tưởng tượng sẽ được nghe dưới tên anh, một ca khúc của hy vọng xanh rờn nhu lá non mở phơi trong một buổi sáng tinh sương tôi thức dậy còn nhìn thấy mặt trời, còn nhìn thấy đồng loại, nhất là còn nhìn thấy con người trong tôi.
    Xin mượn câu đầu của truyện tình Tristan để làm câu chót của bài này:
    Seigneurs, vous plaít-il d'entendre un beau conte... ?
    1.1967
    Tô Thùy Yên
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 08:41 ngày 05/07/2003
  6. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Vì các bài trên đều có tác giả, mong các mod, admin cẩn thận trong việc e*** (nếu có).
    Cảm ơn.
  7. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Vì các bài trên đều có tác giả, mong các mod, admin cẩn thận trong việc e*** (nếu có).
    Cảm ơn.
  8. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Tình Bạn, Hồi Sinh Cơn Hôn Mê

    Đinh Cường,

    Virginia, 16.04.2001
    " May thay trong đời vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa. "
    (Trịnh Công Sơn).
    Tôi và Sơn cùng tuổi Kỷ Mão. Sơn sinh ngày 28 tháng 2 (bốn năm mới có ngày 29). Theo mấy con giáp Tây Phương thì Sơn con Cá, tôi con Cua. Trở thành bạn với nhau năm 20 tuổi. Lúc tôi ra Huế học Mỹ Thuật, năm 1959. Huế là quê ngoại, và nhà thờ Nội tôi cũng ở đây (làng Nam Trung - những người trong Nam ra Huế làm việc dưới triều Nguyễn). Thời gian này, Sơn cũng vừa từ giã Sài Gòn, từ giã mái trường trung học Chasseloup Laubat (*) mà Sơn đang học năm cuối, classe philo. Để về Huế sống với gia đình.
    Những năm sống tự lập, Sơn kể đã trọ tại nhà bác Kỉnh tại Sài Gòn, là gia đình người bạn thân của ba Sơn. Sau khi ba Sơn mất năm 1954 trong một tai nạn xe, khi đang đi vespa. Sơn kể là hồi nhỏ đã từng vào ở trong tù với ba Sơn ở lao Thừa Phủ thời kháng chiến chống Pháp.
    Những tối đi chơi khuya về, Sơn thường rủ tôi ở lại nhà, lúc đó là tiệm Thanh Tâm, bán xe đạp ở Ngã Giữa (đường Gia Long, rồi Phan Bội Châu, nay là Phan Đăng Lưu). Tôi còn nhớ rõ, ở chân cầu thang lên lầu, bên vách, Sơn treo bức hình James Dean thật lớn, hình như Lê Vinh vẽ. Lúc đó, Lê Vinh là họa sĩ vẽ phông xi-nê rất giỏi, không ai vẽ đẹp và nhanh bằng - cả Sài Gòn và Huế.
    Má Sơn thường nhường cho chúng tôi ngủ trên chiếc giường Hồng Kông rộng, có bốn cột trụ treo mùng bằng sắt đen, chạm trổ... đêm, cứ nằm nói chuyện bâng quơ, không dứt. Chuyện gì cũng tâm sự. Ngay cả chữ ký cũng hỏi nhau. Tôi còn nhớ, Sơn ký nhiều chữ ký, rồi quyết định chọn chữ có gạch ngang chạy dài trên đầu, hỏi tôi chịu không. Tôi nói, gạch ngang phía trên là cao thượng, chịu chứ. Sao ông không vẽ thêm con cá vào cho vui. Thế là Sơn vẽ con cá dưới góc mặt chữ ký, như cái triện của mình. Sơn chỉ vẽ một nét với cái vòng tròn con cá trước mặt tôi, tôi nói ông phải thành họa sĩ mới đúng... Những năm sau này, Sơn thường nói với bạn bè, Sơn vẽ là vì sự kích thích và gần gũi với những nơi chốn mà tôi đặt atelier. " Tôi là khách vãng lai thường trực của atelier Đinh Cường. Đêm cũng như ngày. Thế giới tranh của Cường đối với tôi không có gì xa lạ, bởi vì chúng tôi đã cùng sống trong thế giới ấy từ những ngày lòng chưa hề vướng bận về một tiếng thở dài..." (Trịnh Công Sơn - Thanh Niên số 47, 21.11.1988).
    Chữ ký có gạch ngang kéo dài trên đầu và con cá, biểu trưng cho tuổi Sơn, đã theo Sơn suốt từ những sáng tác nhạc, tranh và trên thư từ gởi cho bạn bè. Cho đến gần mười năm sau cùng, Sơn mới đổi chữ ký, bỏ gạch ngang. Ký ba chữ với ba chữ hoa ở đầu, lên xuống tùy theo tâm trạng... " Trong từng giọng nói có màu tàn phai ", nghe Sơn hát đến câu này khi nào tôi cũng thấy rưng rưng, và tôi hay nói với Sơn " có nghe đời nghiêng ".
    Đời mới nghiêng thôi mà Sơn đã rơi xuống vực... " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ". Vực thẳm là tôi, đang âm thầm khóc bạn. Tôi cứ ngồi nhìn qua cửa sổ, khu rừng đàng sau nhà mà nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm... " Giữa cuộc đời điên đảo này đây, tôi chỉ còn sống trong vùng kỷ niệm. Lạ lùng thay cho phần số tôi : quân bình giữa cuộc đời này và một cõi đời khác, giữa ranh giới những gì đã qua và những cái nhãn tiền. " (Paul Klee).
    Kỷ niệm đã ghi dấu trên từng năm tháng, từng chặng đường. Còn để lại gì .
    THỜI XUÂN XANH
    Khi tôi ra Huế, thì đã nghe " ba Sơn, ba Hải, ba Hà ", các bạn hay gọi nhau như vậy. Đó là Trịnh Công Sơn, Thanh Hải và Hà Thanh (không phải Thanh Hải hát nhạc Sơn sau này, hiện sống ở Đức). Ba người bạn đã đàn ca với nhau rất sớm, bằng tất cả tấm lòng say mê âm nhạc thuở xuân xanh. Năm 1957, Hà Thanh đã hát trên đài Phát Thanh Huế. Sơn sáng tác những bản nhạc đầu tay và Thanh Hải thì đàn guitare rất bay ****, hay biểu diễn cho bạn bè xem, đàn ở nhiều vị thế ... Thời đó còn có Đặng Nho thổi clarinette. Hà Thanh là ca sĩ đầu tiên bạn của Sơn và hát nhạc Sơn. Hà có nhiều em gái, Ph. Th. là đẹp nhất. Sơn ngỡ đó là mối tình đầu của mình. Đã ghi trong " Nhật Ký tuổi 30 " - " Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi, là một thất vọng không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhau nhưng tôi vẫn khó xóa được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này ..." (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 8.4.2001).
    Đúng là các gia đình Huế thường chọn môn đăng hộ đối, để ý đến bằng cấp khi cưới hỏi cho con. Dạo ấy, Sơn thường rủ tôi đến nhà Hà Thanh ở đường Huyền Trân Công Chúa. Trước mặt nhà là dòng sông bến Ngự, khúc sông gần nhà ga và trường dòng Pellerin. Nhớ là tôi có đem đến tặng Hà Thanh bức tranh vẽ cô gái ngồi trước biển với con dã tràng đỏ, mà Hà Thanh cứ cười : " cổ con gái chi mà dài ngoằn rứa " - cái thời mê Modigliani mà .
    Tháng 4 vừa qua, sau hai tuần Sơn mất, bạn bè ở Washington D.C. làm lễ cầu siêu cho Sơn tại chùa Hoa Nghiêm. Cách một tuần sau, Hà Thanh từ Boston lên hát cho ngày lễ Phật đản. Tôi và Hà cùng nhắc lại những ngày xa xưa ấy..., mà " Nắng Thủy Tinh ", " Nhìn Những Mùa Thu Đi ", " Gọi Tên Bốn Mùa " là cảm hứng từ một vẻ đẹp thánh thiện " em đứng lên gọi mưa vào hạ...", để rồi sau đó Ph. Th. đi lấy chồng, là một viện trưởng viện đại Học Huế , rồi Bộ Trưởng Giáo Dục... Sau năm 1975, ở trại cải tạo về, một thời gian thì mất. Ph. Th. ở vậy cho đến nay tại Boston. Là một phụ nữ Huế đoan trang, đức hạnh.
    MỐI ĐỒNG CẢM NGHỆ THUẬT
    Năm 1958, Trịnh Cung từ Nha Trang ra Huế học Mỹ Thuật. Làm thơ với bút hiệu Thương Nguyệt, trong nhóm bạn thơ Nha Trang, với Thanh Nhung, Cao Hoành Nhân. Những bài thơ tình đầy sương khói Huế.
    Sơn đã phổ nhạc bài thơ 4 chữ " Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu " của Trịnh Cung, và sửa câu cuối. " Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay " thành " nỗi lòng anh đây ". Sơn nói, " nỗi buồn hôm nay " có vẽ thời thượng quá. Thật vậy, câu Sơn sửa trong nhạc nghe thật hơn, hay hơn. Sau đó in trong tập nhạc Sơn tự chép tay 1968.
    Nguyễn văn Liễu (tên thật) và Thương Nguyệt đã thành Trịnh Cung từ đó.
    Tôi về Huế sau Trịnh Cung một năm. Và đã thuê chung với Trịnh Cung nhà ở đường Nguyễn thị Giang, chợ Cống. Căn nhà giữa đồng lúa hoang vắng. Chúng tôi đã vẽ với tất cả " cuồng nộ sáng tạo ". Những bức tranh cực kỳ lãng mạn của thời xanh lam. Năm 1962, Trịnh Cung ra trường, về lại Nha Trang rồi vào Sài Gòn làm việc. Sau đó nhập ngũ...
    Tôi, Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường càng ngày càng thân nhau hơn. Tường đã viết những bài ký kể về một " Tuyệt Tình Cốc " (Ngọn Núi ảo ảnh - Thanh Niên 1999). Đó là một căn nhà lá thấp, xưa cổ của ba mẹ Tường trong xóm. Nơi tôi và Tường ở trong sự tịch lặng, thỉnh thoảng bạn bè thân thiết đến chơi, cũng là nơi để tiếp những bạn ở xa về . Như lần tiếp Thế Uyên từ Sài Gòn ra (Thế Uyên lúc đó là nhà văn đang ở trong quân đội, bạn Tường). Sơn đã hát, đã trao đổi những suy nghĩ về một cuộc chiến... Tường đã viết về những ngày Đà Lạt trong mùa lễ Giáng Sinh đáng nhớ nhất của chúng tôi, lần tôi và Sơn đang ở cùng nhau trên cao nguyên một thời gian dài. Thời Sơn dạy học ở Blao. Xe đò thoăn thoắt đi về giữa Blao, Đà Lạt, Đơn Dương... quá thơ mộng và giang hồ. " Những chuyến xe đò thoăn thoắt đi về, nối liền tiếng chim cao nguyên với loài hải âu vùng biển. Rồi lời sóng chưa kịp tan đã vội vàng nghe ra điệu suối. Kỳ thú như một con gió lăng loàn..." (TCS, Thanh Niên, 21.11.1998).
    " Đà Lạt, Noël 1965 và Đinh Cường " (Thanh Niên, xuân 1993), và " Căn Nhà của Những Gã Lang Thang " (Thanh Niên, xuân Tân Tỵ 2001), nói về căn nhà nơi Sơn đã ở, có những hàng cây long não mà Sơn đã gửi hồn mình trên những phiến lá ánh bạc mỗi lần ra đứng ngoài bao lơn , nhìn xuống chờ D. đi ngang qua.
    Tôi kể lại cũng không bằng Tường. Tường là người bạn một thời tôi gần gũi, tôi hiểu, một người chỉ thích :
    Mùa xuân lên đồi cỏ thơm
    Mùa hạ nhìn trời mây khói
    (Dù Năm Dù Tháng, Người Hái
    Hoa Phù Dung, thơ, nxb HNV 1992).
    Một người yêu sự mong manh của hoa phù dung, nhớ hoài một màu hoa violette. Luôn giữ tình cảm lãng mạn thuần khiết với đời, với bạn . Mà cứ mãi gặp những oan khiên, hiểu lầm, gán ghép...
    Mọi biến cố ở Huế, đều có tôi và Sơn. Từ mùa xuân Mậu Thân 1968. Lúc đó gia đình tôi tản cư về Hồ Mưng, còn gia đình Sơn vào trú trong thư viện Viện đại Học. Sau cái Tết thảm khốc đó, Sơn làm nhiều ca khúc gây những xúc động mạnh (" Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người. ") Bãi Dâu, cái tên nghe đã rờn rợn của những hố hầm chôn người... của bao nhiêu vành khăn tang trắng. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972, những ngày trước tháng 4.1975... Huế di tản...
    Lần nào Sơn cũng cùng chung lo cho gia đình bạn bè có phương tiện di tản. Nhờ anh Hồ Đăng Lễ đang làm trưởng khu công chánh, giúp cho xe chuyên chở. Việc dựng tượng cụ Phan Bội Châu, Sơn cũng nhờ anh Lễ, khi Lê Thành Nhơn đưa ra ý kiến làm và đúc tượng đồng. Vì Huế còn có Phường đúc, nơi đúc đồng nổi tiếng còn lại. Nhơn ra Huế dạy điêu khắc, có nhiều tâm huyết. Anh Lễ đã xoay xở vật liệu, tài chánh ban đầu để có thể khởi công. Ròng rã nhiều tháng, bao nhiêu công sức. Có lúc phải dở dang vì thiếu phương tiện. Sau cùng cũng hoàn thành. Tượng đúc đồng để mãi tại Phường đúc, đến sau tháng 4.1975, nhiều tiếng nói đóng góp vào, tượng được đem về dựng tại nhà thờ cụ Phan Bội Châu tại Bến Ngự.
    Nhắc đến Lê Thành Nhơn, cũng là nhắc đến căn nhà 101 Nguyễn Du, nơi Nhơn ở. Những ngày trước tháng 4.75, Sơn đã đem nhiều thùng sách nhạc mới in xong đến gởi đó. Sơn và Nguyễn Trung có những ngày ở luôn tại đó. Những ngày đầu giải phóng, Sơn đến tìm lấy lại những thùng sách nhạc, thì thấy la liệt trước sân, bị lấy làm vật lấp những vũng bùn. Ứa lệ thay, những ngày đầu của thanh lọc văn hóa. Tranh của chúng tôi còn lại, tại Dolce Vita, gallery nhỏ thuộc khách sạn Continental, cũng bị xe ba gác chở đi vất.
    (còn tiếp)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 08:49 ngày 05/07/2003
  9. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Tình Bạn, Hồi Sinh Cơn Hôn Mê

    Đinh Cường,

    Virginia, 16.04.2001
    " May thay trong đời vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có, nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa. "
    (Trịnh Công Sơn).
    Tôi và Sơn cùng tuổi Kỷ Mão. Sơn sinh ngày 28 tháng 2 (bốn năm mới có ngày 29). Theo mấy con giáp Tây Phương thì Sơn con Cá, tôi con Cua. Trở thành bạn với nhau năm 20 tuổi. Lúc tôi ra Huế học Mỹ Thuật, năm 1959. Huế là quê ngoại, và nhà thờ Nội tôi cũng ở đây (làng Nam Trung - những người trong Nam ra Huế làm việc dưới triều Nguyễn). Thời gian này, Sơn cũng vừa từ giã Sài Gòn, từ giã mái trường trung học Chasseloup Laubat (*) mà Sơn đang học năm cuối, classe philo. Để về Huế sống với gia đình.
    Những năm sống tự lập, Sơn kể đã trọ tại nhà bác Kỉnh tại Sài Gòn, là gia đình người bạn thân của ba Sơn. Sau khi ba Sơn mất năm 1954 trong một tai nạn xe, khi đang đi vespa. Sơn kể là hồi nhỏ đã từng vào ở trong tù với ba Sơn ở lao Thừa Phủ thời kháng chiến chống Pháp.
    Những tối đi chơi khuya về, Sơn thường rủ tôi ở lại nhà, lúc đó là tiệm Thanh Tâm, bán xe đạp ở Ngã Giữa (đường Gia Long, rồi Phan Bội Châu, nay là Phan Đăng Lưu). Tôi còn nhớ rõ, ở chân cầu thang lên lầu, bên vách, Sơn treo bức hình James Dean thật lớn, hình như Lê Vinh vẽ. Lúc đó, Lê Vinh là họa sĩ vẽ phông xi-nê rất giỏi, không ai vẽ đẹp và nhanh bằng - cả Sài Gòn và Huế.
    Má Sơn thường nhường cho chúng tôi ngủ trên chiếc giường Hồng Kông rộng, có bốn cột trụ treo mùng bằng sắt đen, chạm trổ... đêm, cứ nằm nói chuyện bâng quơ, không dứt. Chuyện gì cũng tâm sự. Ngay cả chữ ký cũng hỏi nhau. Tôi còn nhớ, Sơn ký nhiều chữ ký, rồi quyết định chọn chữ có gạch ngang chạy dài trên đầu, hỏi tôi chịu không. Tôi nói, gạch ngang phía trên là cao thượng, chịu chứ. Sao ông không vẽ thêm con cá vào cho vui. Thế là Sơn vẽ con cá dưới góc mặt chữ ký, như cái triện của mình. Sơn chỉ vẽ một nét với cái vòng tròn con cá trước mặt tôi, tôi nói ông phải thành họa sĩ mới đúng... Những năm sau này, Sơn thường nói với bạn bè, Sơn vẽ là vì sự kích thích và gần gũi với những nơi chốn mà tôi đặt atelier. " Tôi là khách vãng lai thường trực của atelier Đinh Cường. Đêm cũng như ngày. Thế giới tranh của Cường đối với tôi không có gì xa lạ, bởi vì chúng tôi đã cùng sống trong thế giới ấy từ những ngày lòng chưa hề vướng bận về một tiếng thở dài..." (Trịnh Công Sơn - Thanh Niên số 47, 21.11.1988).
    Chữ ký có gạch ngang kéo dài trên đầu và con cá, biểu trưng cho tuổi Sơn, đã theo Sơn suốt từ những sáng tác nhạc, tranh và trên thư từ gởi cho bạn bè. Cho đến gần mười năm sau cùng, Sơn mới đổi chữ ký, bỏ gạch ngang. Ký ba chữ với ba chữ hoa ở đầu, lên xuống tùy theo tâm trạng... " Trong từng giọng nói có màu tàn phai ", nghe Sơn hát đến câu này khi nào tôi cũng thấy rưng rưng, và tôi hay nói với Sơn " có nghe đời nghiêng ".
    Đời mới nghiêng thôi mà Sơn đã rơi xuống vực... " Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ". Vực thẳm là tôi, đang âm thầm khóc bạn. Tôi cứ ngồi nhìn qua cửa sổ, khu rừng đàng sau nhà mà nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm... " Giữa cuộc đời điên đảo này đây, tôi chỉ còn sống trong vùng kỷ niệm. Lạ lùng thay cho phần số tôi : quân bình giữa cuộc đời này và một cõi đời khác, giữa ranh giới những gì đã qua và những cái nhãn tiền. " (Paul Klee).
    Kỷ niệm đã ghi dấu trên từng năm tháng, từng chặng đường. Còn để lại gì .
    THỜI XUÂN XANH
    Khi tôi ra Huế, thì đã nghe " ba Sơn, ba Hải, ba Hà ", các bạn hay gọi nhau như vậy. Đó là Trịnh Công Sơn, Thanh Hải và Hà Thanh (không phải Thanh Hải hát nhạc Sơn sau này, hiện sống ở Đức). Ba người bạn đã đàn ca với nhau rất sớm, bằng tất cả tấm lòng say mê âm nhạc thuở xuân xanh. Năm 1957, Hà Thanh đã hát trên đài Phát Thanh Huế. Sơn sáng tác những bản nhạc đầu tay và Thanh Hải thì đàn guitare rất bay ****, hay biểu diễn cho bạn bè xem, đàn ở nhiều vị thế ... Thời đó còn có Đặng Nho thổi clarinette. Hà Thanh là ca sĩ đầu tiên bạn của Sơn và hát nhạc Sơn. Hà có nhiều em gái, Ph. Th. là đẹp nhất. Sơn ngỡ đó là mối tình đầu của mình. Đã ghi trong " Nhật Ký tuổi 30 " - " Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi, là một thất vọng không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhau nhưng tôi vẫn khó xóa được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này ..." (Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 8.4.2001).
    Đúng là các gia đình Huế thường chọn môn đăng hộ đối, để ý đến bằng cấp khi cưới hỏi cho con. Dạo ấy, Sơn thường rủ tôi đến nhà Hà Thanh ở đường Huyền Trân Công Chúa. Trước mặt nhà là dòng sông bến Ngự, khúc sông gần nhà ga và trường dòng Pellerin. Nhớ là tôi có đem đến tặng Hà Thanh bức tranh vẽ cô gái ngồi trước biển với con dã tràng đỏ, mà Hà Thanh cứ cười : " cổ con gái chi mà dài ngoằn rứa " - cái thời mê Modigliani mà .
    Tháng 4 vừa qua, sau hai tuần Sơn mất, bạn bè ở Washington D.C. làm lễ cầu siêu cho Sơn tại chùa Hoa Nghiêm. Cách một tuần sau, Hà Thanh từ Boston lên hát cho ngày lễ Phật đản. Tôi và Hà cùng nhắc lại những ngày xa xưa ấy..., mà " Nắng Thủy Tinh ", " Nhìn Những Mùa Thu Đi ", " Gọi Tên Bốn Mùa " là cảm hứng từ một vẻ đẹp thánh thiện " em đứng lên gọi mưa vào hạ...", để rồi sau đó Ph. Th. đi lấy chồng, là một viện trưởng viện đại Học Huế , rồi Bộ Trưởng Giáo Dục... Sau năm 1975, ở trại cải tạo về, một thời gian thì mất. Ph. Th. ở vậy cho đến nay tại Boston. Là một phụ nữ Huế đoan trang, đức hạnh.
    MỐI ĐỒNG CẢM NGHỆ THUẬT
    Năm 1958, Trịnh Cung từ Nha Trang ra Huế học Mỹ Thuật. Làm thơ với bút hiệu Thương Nguyệt, trong nhóm bạn thơ Nha Trang, với Thanh Nhung, Cao Hoành Nhân. Những bài thơ tình đầy sương khói Huế.
    Sơn đã phổ nhạc bài thơ 4 chữ " Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu " của Trịnh Cung, và sửa câu cuối. " Lời ca anh nhỏ, nỗi buồn hôm nay " thành " nỗi lòng anh đây ". Sơn nói, " nỗi buồn hôm nay " có vẽ thời thượng quá. Thật vậy, câu Sơn sửa trong nhạc nghe thật hơn, hay hơn. Sau đó in trong tập nhạc Sơn tự chép tay 1968.
    Nguyễn văn Liễu (tên thật) và Thương Nguyệt đã thành Trịnh Cung từ đó.
    Tôi về Huế sau Trịnh Cung một năm. Và đã thuê chung với Trịnh Cung nhà ở đường Nguyễn thị Giang, chợ Cống. Căn nhà giữa đồng lúa hoang vắng. Chúng tôi đã vẽ với tất cả " cuồng nộ sáng tạo ". Những bức tranh cực kỳ lãng mạn của thời xanh lam. Năm 1962, Trịnh Cung ra trường, về lại Nha Trang rồi vào Sài Gòn làm việc. Sau đó nhập ngũ...
    Tôi, Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường càng ngày càng thân nhau hơn. Tường đã viết những bài ký kể về một " Tuyệt Tình Cốc " (Ngọn Núi ảo ảnh - Thanh Niên 1999). Đó là một căn nhà lá thấp, xưa cổ của ba mẹ Tường trong xóm. Nơi tôi và Tường ở trong sự tịch lặng, thỉnh thoảng bạn bè thân thiết đến chơi, cũng là nơi để tiếp những bạn ở xa về . Như lần tiếp Thế Uyên từ Sài Gòn ra (Thế Uyên lúc đó là nhà văn đang ở trong quân đội, bạn Tường). Sơn đã hát, đã trao đổi những suy nghĩ về một cuộc chiến... Tường đã viết về những ngày Đà Lạt trong mùa lễ Giáng Sinh đáng nhớ nhất của chúng tôi, lần tôi và Sơn đang ở cùng nhau trên cao nguyên một thời gian dài. Thời Sơn dạy học ở Blao. Xe đò thoăn thoắt đi về giữa Blao, Đà Lạt, Đơn Dương... quá thơ mộng và giang hồ. " Những chuyến xe đò thoăn thoắt đi về, nối liền tiếng chim cao nguyên với loài hải âu vùng biển. Rồi lời sóng chưa kịp tan đã vội vàng nghe ra điệu suối. Kỳ thú như một con gió lăng loàn..." (TCS, Thanh Niên, 21.11.1998).
    " Đà Lạt, Noël 1965 và Đinh Cường " (Thanh Niên, xuân 1993), và " Căn Nhà của Những Gã Lang Thang " (Thanh Niên, xuân Tân Tỵ 2001), nói về căn nhà nơi Sơn đã ở, có những hàng cây long não mà Sơn đã gửi hồn mình trên những phiến lá ánh bạc mỗi lần ra đứng ngoài bao lơn , nhìn xuống chờ D. đi ngang qua.
    Tôi kể lại cũng không bằng Tường. Tường là người bạn một thời tôi gần gũi, tôi hiểu, một người chỉ thích :
    Mùa xuân lên đồi cỏ thơm
    Mùa hạ nhìn trời mây khói
    (Dù Năm Dù Tháng, Người Hái
    Hoa Phù Dung, thơ, nxb HNV 1992).
    Một người yêu sự mong manh của hoa phù dung, nhớ hoài một màu hoa violette. Luôn giữ tình cảm lãng mạn thuần khiết với đời, với bạn . Mà cứ mãi gặp những oan khiên, hiểu lầm, gán ghép...
    Mọi biến cố ở Huế, đều có tôi và Sơn. Từ mùa xuân Mậu Thân 1968. Lúc đó gia đình tôi tản cư về Hồ Mưng, còn gia đình Sơn vào trú trong thư viện Viện đại Học. Sau cái Tết thảm khốc đó, Sơn làm nhiều ca khúc gây những xúc động mạnh (" Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người. ") Bãi Dâu, cái tên nghe đã rờn rợn của những hố hầm chôn người... của bao nhiêu vành khăn tang trắng. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972, những ngày trước tháng 4.1975... Huế di tản...
    Lần nào Sơn cũng cùng chung lo cho gia đình bạn bè có phương tiện di tản. Nhờ anh Hồ Đăng Lễ đang làm trưởng khu công chánh, giúp cho xe chuyên chở. Việc dựng tượng cụ Phan Bội Châu, Sơn cũng nhờ anh Lễ, khi Lê Thành Nhơn đưa ra ý kiến làm và đúc tượng đồng. Vì Huế còn có Phường đúc, nơi đúc đồng nổi tiếng còn lại. Nhơn ra Huế dạy điêu khắc, có nhiều tâm huyết. Anh Lễ đã xoay xở vật liệu, tài chánh ban đầu để có thể khởi công. Ròng rã nhiều tháng, bao nhiêu công sức. Có lúc phải dở dang vì thiếu phương tiện. Sau cùng cũng hoàn thành. Tượng đúc đồng để mãi tại Phường đúc, đến sau tháng 4.1975, nhiều tiếng nói đóng góp vào, tượng được đem về dựng tại nhà thờ cụ Phan Bội Châu tại Bến Ngự.
    Nhắc đến Lê Thành Nhơn, cũng là nhắc đến căn nhà 101 Nguyễn Du, nơi Nhơn ở. Những ngày trước tháng 4.75, Sơn đã đem nhiều thùng sách nhạc mới in xong đến gởi đó. Sơn và Nguyễn Trung có những ngày ở luôn tại đó. Những ngày đầu giải phóng, Sơn đến tìm lấy lại những thùng sách nhạc, thì thấy la liệt trước sân, bị lấy làm vật lấp những vũng bùn. Ứa lệ thay, những ngày đầu của thanh lọc văn hóa. Tranh của chúng tôi còn lại, tại Dolce Vita, gallery nhỏ thuộc khách sạn Continental, cũng bị xe ba gác chở đi vất.
    (còn tiếp)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 08:49 ngày 05/07/2003
  10. hayashi

    hayashi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/05/2002
    Bài viết:
    149
    Đã được thích:
    0
    Tình Bạn, Hồi Sinh Cơn Hôn Mê (2):
    HUẾ, NHÓM BẠN MỘT THỜI, MÃI MÃI

    Ban đầu là Sơn, Tường và tôi. Sau có thêm Ngô Kha và Bửu Ý. Tường sau khi làm luận án cao học Triết, đại học Văn Khoa Sài Gòn (giáo sư Nguyễn Văn Trung bảo trợ), về dạy triết trường Đồng Khánh. Ngô Kha sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm khóa đầu tiên của đại học Huế (1959), dạy tại Quốc Học. Kha lấy thêm cử nhân Luật (1962). Bửu Ý thì làm trưởng khoa Pháp văn, đại học sư phạm Huế. Chúng tôi thường nói với nhau : có nhạc, có triết, có họa, nay có thơ và dịch thuật nữa thì còn gì hơn. Thật vậy, với tình bạn, với say mê văn chương nghệ thuật, bổ sung cho nhau những kiến thức, chúng tôi đã một thời làm việc đầy hưng phấn. Ngô Kha cho in " Hoa Cô độc ", do Rừng vẽ bìa 1962, gây luồng gió mới cho thơ. Bửu Ý dịch " Vườn đá Tảng " của Nikos Kazantzakis, " Con Lừa Và Tôi " của Ramon Rimenez rất thơ mộng. Tường say sưa với siêu hình học. Còn Sơn và tôi với những quả chín đầu mùaấ: " Diễm Xưa " của Sơn, và " Miền Lệ Xanh " của tôi, được chọn dự triển lãm lưỡng niên họa sĩ trẻ tại Paris, 1962.
    Ngô Kha bị công an Huế bắt và bị chết ngay sau khi hiệp định Paris vừa được ký kết 1973 (đến nay vẫn chưa biết đích xác bị chết như thế nào, chưa tìm ra dấu tích).
    Thời gian này có thêm Bửu Chỉ. "...Trong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình, thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hoà bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen..." (TCS, Bửu Chỉ Một Cuộc Truy Hoan Vô Tận Về Cõi Vô Thường).
    Không khí bạn bè lúc ấy, phải kể anh chị Đỗ Long Vân, từ Pháp về. Anh Đỗ Long Vân từ đại học Sorbonne về dạy đại học Văn Khoa Huế. Đêm nào chúng tôi cũng cùng anh chị Vân, Quỳ đạp xe đạp vào cà phê Dung trong thành nội, ngồi nói chuyện với nhau cho đến khuya. Hai người bạn ngoại quốc nữa là Christian Cauro, dạy đại học Văn Khoa, và bác sĩ Eric Wulff, dạy đại học Y Khoa... Cauro và Wulff hiện ở Paris và ở Đức, vẫn liên lạc với chúng tôi, tình nghĩa như xưa...
    VÀI NGƯỜI BẠN GÁI CỦA SƠN MÀ TÔI BIẾT...
    Trở thành bạn thân thiết chung của chúng tôi sau đó. Cho đến nay, Tôn Nữ Bích Kh. trong " Biển Nhớ " còn ở Nha Trang, tôi có lần ghé thăm. Hai chị em Bích D., và Dao A., ở California, trong " Diễm Xưa " và " Xin Trả Nợ Người ". Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao A. về thăm, suốt tuần sáng nào A. cũng đến ngồi trên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà. Chúng tôi thường đùa với Sơn : " D. xưa, A. nay ". Dạo đó, nhà Sơn dọn về ở khu nhà mới xây của Dòng Chúa Cứu Thế, 11/3 Nguyễn Trường Tộ. Địa chỉ của Sơn cho đến sau 75. Hiện nay gia đình Hoàng Phủ Ngọc Tường đang ở : "...Hình như trong mỗi góc đầy bóng tối của căn nhà này, trên chiếc bàn viết gỗ mục của Sơn để lại, và trong chiếc ghế bằng sợi mây hèo to của Cường thường ngày vẫn ngồi vẽ, đều dậy lên mùi hương lặng lẽ của tuổi trẻ chúng tôi. " (HPNT- Căn Nhà của Những Gã Lang Thang - Thanh Niên, xuân 2001).
    Căn nhà mang nhiều kỷ niệm của Sơn, nhất là tháng ngày sau giải phóng. Khi cả gia đình Sơn đã ở tại căn nhà mới xây không lâu trước 75, 47C Duy Tân, nay là Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. Sơn trở lại Huế một mình với bạn bè, sống những ngày đầu sau giải phóng, còn biết bao khó khăn, nghi kị. Sơn vào sinh hoạt tại hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường đi lao động chung cùng Bửu Chỉ, khi tại Huế, khi tại Quảng Trị (không hề đi cải tạo hay kinh tế mới ở Khe Sanh như nhiều tin đã viết).
    Mỗi đêm, chúng tôi vẫn đến nhà cùng Sơn uống rượu, Lữ Quỳnh và tôi ở trong Thành Nội, đạp xe qua Sơn, Quỳnh thường lấy chai đi mua rượu đế (chai mua hôm trước, hôm sau đến đổi lấy chai mới về). Phần lớn là rượu dổm, vì khan hiếm gạo nếp... còn nghe nói bỏ cả thuốc rầy vào cho trong. Ôi, một thời của những buổi rượu độc hại như thế, mà quây quần và nói cười, vẽ chân dung bạn bè treo đầy tường, nhất là Bửu Chỉ. Phải kể đến người bạn mới quen sau 75 mà chúng tôi rất quý mến : Thái Bá Vân, người viết phê bình nghệ thuật được các họa sĩ nể trọng. Vân mất trước Sơn hai năm, cũng vào tháng 4. Vân đã viết : "...Riêng tôi, mãi sau khi miền Nam giải phóng, nhờ những chuyện dạy học ở Huế, 1978-1981, tôi mới được gần Trịnh Công Sơn, trên căn nhà nhỏ đường Nguyễn Trường Tộ, đầy kỷ niệm với bạn bè trong đó. Niềm an ủi ấy là của hàng triệu người đã khuất, dành cho chúng tôi, và mỗi lần nhớ lại, chúng tôi đều thầm rơi nước mắt. " ( Thái Bá Vân - Tiếp Xúc Với Nghệ Thuật , Viện MTVN 1997).
    Chính tại căn nhà này Sơn đã viết bài " Diễm Xưa ", ghi một dấu mốc cho ca từ đầy chất huyền thoại của Sơn "...Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau ". Có lần Sơn bắt gặp một nhánh hoa sầu đông tím cắm trước cửa sổ nhà. Mà còn ai, ngoài cô gái mỗi ngày vẫn đi học ngang qua đó. Tất nhiên là Sơn kể cho tôi ngay với nhiều xúc động. Và, Sơn đã bạo dạn một lần, nhờ tôi đi cùng , qua thăm D., nhà bên kia sông, qua cầu Phú Cam, rẽ mặt, đi một đoạn đường Phan Chu Trinh... Lúc này, tôi cũng đã thuê phòng trọ trong con hẻm đá gần nhà D. và nhà Tuý Hồng (chị dạy Việt văn trường trung học Hàm Nghi, đã viết truyện ngắn đăng ở Bách Khoa, gây chú ý nhiều độc giả). Tường về đó ở chung cùng tôi để đi dạy gần hơn. Tôi còn nhớ nét mặt nghiêm của ông cụ D. , giáo sư Pháp văn trường Đồng Khánh. Ông cụ đã nhìn chúng tôi bằng đôi mắt nghi kị, nhất là Sơn, tóc dài, có râu lưa thưa dưới cằm. Nhưng đã liều thì phải chịu trận. Lúc D. đưa chúng tôi ra cổng, cổng sân là hai liếp cửa gỗ thấp. Còn nhớ rõ là lúc đó, em gái D., còn nhỏ lắm, chạy theo ra nhìn Sơn. Ai ngờ sau này Sơn đã da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của A. , để rồi, thất vọng, để rồi... hai mươi năm sau mới được : "...Hai mươi năm em trả lại rồi. Trả nợ một đời xa vắng vòng tay ...".
    " Biển Nhớ ", hay bóng dáng của Bích K.. Là một giai đoạn ngắn, vì hoàn cảnh và thời cuộc lúc đó. Sơn vào Qui Nhơn nấp dưới bóng trường Sư Phạm. Hè 1962, tôi vào thăm Sơn vì Sơn ở lại, không về Huế. Đêm nào Sơn cũng rủ Bích K. cùng tôi ra biển ngồi đến khuya. Bích K. từ Nha Trang ra Qui Nhơn học, cùng lớp, hay săn sóc cho Sơn, lúc ấy chỉ thấy khi nào Sơn cũng mặt chiếc áo chemise kaki vàng. K. thường đem cà phê đến tặng Sơn. Chúng tôi đã ngồi uống cà phê với nhau dưới mái quán thấp ven biển lợp bằng lá kè. " Biển Nhớ " là cảm hứng từ muôn vàn đợt sóng lấp lánh trong những đêm khuya khoắt ấy, mà Sơn đã kéo cao cổ áo, chợt rùng mình, rồi có một ngày sẽ xa những dấu chân trên cát, có còn " trời cao níu bước Sơn Khê ...". Thời Qui Nhơn này của Sơn phải kể đến " Trường Ca Tiếng Hát Dã Tràng ", mà hè 1964, trong lễ ra trường, Sơn đã dàn dựng cùng bạn bè hát rất thành công. Sơn đã chép tặng tôi mấy trang bản trường ca này. Tôi đem về, dán đầy các ô cửa kính. Tiếc là bây giờ thất lạc, không tìm lại được.
    Nhắc đến Sơn - Khê, Sơn hay ghép tên bạn gái vào lời nhạc của mình một cách hồn nhiên như vậy. Như sau này, một cô gái bình thường, có sắc đẹp quyến rũ, ở cạnh nhà Tôn Thất Văn, làng Báo Chí, Thủ Đức. Tôn Thất Văn là họa sĩ vẽ tranh lụa nổi tiếng, bạn thân của chúng tôi. Tuần nào chúng tôi cũng về nhà Văn uống rượu. Sơn đi chiếc xe PC màu vàng cam ... " Cây sẽ cho Lộc và cây sẽ cho hoa. " Lộc là cô láng giềng của Văn mà Sơn đã si tình.
    Cũng như " Bống bồng ơi " sau này của Sơn. Bống là tên gọi ở nhà của Hồng Nhung :
    Ngày Bống Mẹ bồng
    Nhẹ quá tơ tằm
    Lay nhẹ bống bồng bông
    Lay nhẹ đóa Hồng Nhung.
    Và còn nữa, Quỳnh H. của " nụ cười khúc khích trên lưng ", Chu Nguyệt Ng., mà chúng tôi đã sửa soạn đi ăn cưới, Michiko, cô gái Nhật rất thương Sơn, chơi bóng rổ giỏi, đã làm luận án về nhạc Sơn tại đại học Sorbonne, Paris...
    ĐÀ LẠT MÙ SƯƠNG 1965
    Là những tháng ngày sương khói, lãng đãng nhất. Hình ảnh phải ghi lại kẻo quên, là chiếc khoen tai lớn với mái tóc dài, đang băng qua đồi Cù. Phùng thị L. , hình ảnh của " Như Cánh Vạc Bay " :
    Gió sẽ mừng vì tóc em bay
    Cho mây hờn ngủ quên trên vai
    Vai em gầy guộc nhỏ
    Như cánh vạc về chốn xa xôi...
    mà tôi đã gặp lại bên này, khi đến Canada, về thăm Ottawa.
    " Tóc gió thôi bay " như một âm hưởng của nhạc Sơn khởi đi từ Đà Lạt. Như " Đàn Bò Vào Thành Phố " khởi đi từ B"lao.
    Sau triển lãm tranh một mình đầu tiên ở Huế, rồi Đà Nẵng, Noël 1965 triễn lãm tại Alliance Francaise, Đà Lạt. Nơi nào Sơn cũng ở bên tôi . Thời gian này Sơn gặp Khánh Ly, mới hát ở Night Club Đà Lạt. Sau đó về hát với Sơn ở sân trường Văn Khoa, Quán Văn, Sài Gòn, được sinh viên nồng nhiệt tán thưởng.
    Đà Lạt, căn phòng tôi thuê ở đường Hoa Hồng. Những chiều chúng tôi thường ra Kiosque cô Ba, gần hồ Xuân Hương, uống bia. Sơn giới thiệu tôi với cô Ba, tôi làm nghề sửa xe, vì tay chân lem luốc sơn màu. Cô Ba thấy chúng tôi còn trẻ, mà chiều nào cũng ra quán ngồi, thắc mắc lắm. Sau đó, khi bày tranh, Sơn nói tôi mời cô Ba đến dự. Lúc đó cô mới ưu đãi chúng tôi hơn nữa. Uống bia nửa giá...
    Những đêm khuya Đà Lạt, lúc đó Nguyễn Xuân Thiệp, trung uý, mới nhận chức trưởng đài phát thanh quân đội Đà Lạt, có chiếc jeep, cứ tối xuống là cùng nhau uống rượu, khuya về, lái xe cứ lòng vòng vì say...
    Bên cạnh Sơn, còn có em Sơn, Trịnh Xuân Tịnh. Thời ở Đà Lạt, Tịnh là người gần gũi, chăm sóc cho Sơn, lo in và phát hành nhạc, từ những bản nhạc rời cho đến in thành tập. Thời gian đầu tiên đó, tôi luôn vẽ bìa cho Sơn và được " nổi tiếng lây ", khi tờ Le Monde, tờ báo lớn và uy tín của Pháp, có bài của Pomonti viết về Sơn, in kèm cái dessin tôi vẽ Sơn rất kỹ bằng bút sắt, trong tập ca khúc đầu tiên của Sơn được in ra, rất đẹp, nhà xuất bản An Tiêm. Tô Thùy Yên viết bài giới thiệu. Chắc Tịnh không quên được cái đêm Sơn và Tịnh vơ hết tiền của anh em khi Sơn và Tịnh đánh xì tẩy thắng, lận tiền dày cộm trong áo, đi giữa khuya Đà Lạt. Sơn chơi binh xập xám và xì tẩy chì lắm.
    (còn tiếp)
    Được tigerlily sửa chữa / chuyển vào 08:48 ngày 05/07/2003

Chia sẻ trang này