1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Kỷ niệm một thời
    Đinh Cường
    ...Đã gần ba mươi năm, kể từ ngày còn lang bạt cùng Sơn ,những chuyến xe đò thoăn thoắt đi về, nối liền tiếng chim cao nguyên với loài hải âu vùng biển . Rồi lời sóng chưa kịp tan đã vội vàng nghe ra điệu suối. Kỳ thú như một con gió lăng loàn.
    Sơn thường mặc độc nhất một chiếc áo kaki bạc màu ,khắc khổ .Đêm khuya chúng tôi còn ngồi nghe sóng vỗ bên bờ biển Quy Nhơn ,sương ướt lạnh. Biển nhớ như còn âm vang đâu đây giọng nói rất nhẹ ,rất chậm của một người con gái nhỏ nhắn ,thật hiền ,mang dòng họ hoàng phái .Làm sao quên được Trường ca Tiếng hát Dã Tràng. Sơn đã chép gởi cho tôi dán đầy những khung cửa kính trong căn phòng trọ heo hút ở Bao Vinh ,cùng những xấp thư dày như những tâm sự không dứt ...để rồi những cơn bão lụt ở Huế cuốn trôi .
    Những khoảnh khắc khó có lại ,như ngồi im nghe Sơn hát Sao chiều ngoài bao lơn một ngôi nhà cổ phía tả ngạn sông Hương .Những cây hoa sầu đông nở tím dọc bờ sông An Cựu ,những vòm lá long não lao xao trước căn nhà ở Nguyễn Trường Tộ .Chiều mưa có một người đến cắm một nhánh lá ướt rũ trên cửa sổrồi đi .Chiều Huế rồi chiều Bảo Lộc, đêm kẹt đường nằm ngủ trên lưng đèo Gò Dúi rồi đêm Đơn Dương . Chúng tôi đi cùng nhau ,rồi tìm nhau .Có một thời gian Sơn cùng một ông già dạy một lớp học cho người dân tộc ở Bảo Lộc. Qua khoảng trống trơn của lớp học Sơn đã vẽ nhiều ký họa đẹp và sinh động những người dân tộc trên nương rẫy ,dưới dòng suối mát. Có thể nói Sơn là một trong những người thầy dạy học ở miền núi sớm nhất .Sống hoang vu nhất ,căn phòng Sơn ở với chiếc mùng rũ sẵn quanh năm ,chim sẻ làm tổ đầy trên trần nhà ,mùi rơm và phân chim , mùi ẩm mốc và xác những bao thuốc Bastos xanh chất thành đống. Có lần người em trai của Sơn lên thăm lần đầu ,trời tối đi tìm Sơn ở nhà không gặp , những người quen chỉ ra ngoài quốc lộ .Thấy Sơn đang đứng chơi bi-da một mình trong một cái quán với ngọn đèn vàng tù mù. Sơn cô đơn đến như vậy .Thời của tuổi trẻ tự tìm đến với những nỗi cô đơn khốc liệt để bùng lên những sáng tạo thuần khiết .
    Có lần Sơn từ Bảo Lộc lên thăm tôi ở Đơn Dương .Chiều quá đẹp trong đời tình bạn .Tôi ở ngoài quận về trên chiếc xe ngựa lắc lư tiếng lục lạc ,bước xuống xe ,trên tay còn cầm nải chuối và chai xăng mua về để rử cọ ,đã thấy Sơn đang ngồi nhâm nhi rượu với cụ Thái bên cửa sổ một chiếc nhà sàn cao cất ven rừng .Mừng đến ứa nước mắt ,đêm chúng tôi nằm trên hai chiếc giường bằng những miếng ván thông dày ,có nệm ấm. Làm sao ngủ được giữa núi rừng đầy gió ,tiếng vượn hú khiếp đảm ngoài xa . Tôi ngồi dậy vẽ ,và Sơn ghi những lời nhạc như những bài thơ tự do Đàn bò vào thành phố. Đàn bò mà Sơn đã bắt gặp đang băng qua một quốc lộ đầy chiến tranh ,khô khốc. Sáng sớm chúng tôi cùng ra suối..., vừa ngồi chiêm ngưỡng những giọt sương còn đọng rất lâu trên những cành dương xỉ, và nắng mai sẽlên rất chậm trên những giàn su. Những giọt rượu đầu tiên đã rót xuống trong vùng cao nguyên âm u đó .Trời đầy sao và rừng đầy sương mù .
    Thời gian Sơn ở Bảo Lộc thì tôi ở Đơn Dương. Sau đó ,chúng tôi cùng sống ở Đà Lạt . Những năm trốn lính .Có cả Đỗ Long Vân .Con đường Hoa Hồng với bước chân đi về mỗi đêm ,qua những con đường dốc,những ngọn đèn vàng ,nóc nhà thờ con gà tôi sẽ nhớ mãi trong tranh .Lúc đó Lệ Mai là một cô gái nhỏ nhắn ,tóc bỏ xõa ,đi chân trần ra sân cỏ hát những bài hát đầu tiên của Sơn .Những ca khúc viết trên Đà Lạt còn mang hình ảnh một đôi khoen tai tròn lớn ,người con gái mang tên Phùng Thị với dáng cao gầy đang đứng nhìn Sơn trên đồi Cù, bên cạnh những gốc thông và bầy ngựa. Ta thấy em đang ngồi khóc bên rừng chiều đổ mưa. Tôi yêu biết mấy những lời nhạc đó của Sơn .Đã vẽ rất nhiều phụ bản đầy sự đồng cảm .
    Ở căn phòng đường Hoa Hồng ,tôi đã vẽ suốt đêm không thấy mệt .Để có được phòng tranh ,chúng tôi như những người thợ sửa xe, tay lấm sơn. Chiều ra ngồi ở kiosque Cô Ba ,những chàng trai trẻ thật chững chạc. Ngày tôi khai mạc phòng tranh ,và nhiều lần khác, bao giờ cũng có Sơn như một người đứng ra lo toan ,giới thiệu . Sơn có sức thuyết phục ở sự có duyên và sự hiểu biết nhiều vấn đề .Sơn vẽ rất lạ và viết rất thơ mộng ,sâu sắc .Nên có nhiều người nói Sơn là một nhà thơ. Chắc cũng đúng vậy.
    Đã gần ba mươi năm .chúng tôi còn ngồi trầm ngâm bên nhau mỗi buổi chiều ,trên vườn nhà Sơn hay bên chiếc hồ cá nhỏ ở nhà Tịnh .Khi Sơn cầm đàn hát cho chúng tôi nghe về cái cội nguồn kia của sông bể : Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe... bao giờ cũng vậy ,trong lòng tôi như đang sửa soạn trở vê rong chơi trên những núi đồi ,phố thịcủa những kỷ niệm một thời...
    (Tháng 4_1987)
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữ đời tôi...
  2. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Lần Hành Hương Cuối
    Trịnh Thanh Thủy
    Người hành giả đã từng lê gót qua đồi, núi, qua những thăng trầm khốn khó đời mình để đi tìm, tìm điều gì không ai biết. Trịnh Công Sơn, có phải ông đã đến được giao điểm cuối của con đường hữu hạn
    và vô hạn không?
    "Người đi hành hương về đồi núi cao... người đi một mình đồi dốc
    nghiêng xuống,người đi một mình, vực sâu gọi tên."
    Và như những lời tiên tri ông đã đi một mình, đến một mình, chọn chỗ và nằm một mình lặng lẽ. Sáu mươi năm, một cái mốc thời gian, vừa đủ cho một toan tính, quá ngắn cho một bất định, cũng tạm cho ông để lại cho chúng ta một kho tàng nhạc tình trân quý.
    Tôi chưa từng gặp mặt TCS, chưa từng được nghe ông hát sống và tôi chỉ biết đến ông qua những bài hát nghe được đâu đó qua băng nhạc, đĩa hát và đài phát thanh. Tôi nghe nhạc ông bằng tai, bằng trái tim và những xúc động nhưng nhức buốt lòng. Tôi không đến với nhạc tình TCS bằng óc, bằng những đồn đãi truyền thuyết, bằng những chính
    kiến phe nhóm phủ vây quanh ông. Họ nói về ông, họ phê bình ông, họ khen ông, chê ông, họ kính phục, họ tôn vinh hay đạp đổ ông, tôi không cần biết. Tôi chỉ đến với nhạc TCS bằng trái tim. Vâng
    chỉ bằng trái tim. Tôi chỉ thấy nỗi cô đơn giăng phủ và những ngậm ngùi mang mang trong những lời nhạc mà tôi nghe được. Tôi tìm được tôi trong nhạc ông và tôi nghĩ nhiều người cũng tìm được họ trong
    nhạc ông. Ðiều tìm thấy đó chính là nỗi cô đơn vô cùng.
    ?o Ngày tháng nào đã ra đi, sao ta còn ngồi lại ... từng người tình bỏ ta đi
    như những giòng sông nhỏ ....
    ôi tiếng buồn rơi đều, nhìn lại mình đời đã xanh rêu"
    Ông đã nổi tiếng, đã thành danh , đã sống, đã
    biết yêu thương cuộc đời, hiểu được lầm lỗi và những bất toàn của con người. Sao ông vẫn không hạnh phúc? vẫn thấy cô đơn, vẫn viết thành câu "Buồn lắm mà không biết than phiền với ai cả"
    Có phải định mệnh của những người nghệ sĩ là con đường gắn liền với hai từ ?ocô đơn" không ?
    Ðêm giao thừa năm nào ông ngồi đếm tuổi , đếm vui buồn, yêu thương, và những người tình đi qua đời mình và thấy được dang dở đời người như một Symphonieinachevee. Lần sắm sửa hành trang cho chuyến hành hương cuối này tôi tự hỏi không biết ông đem theo được bao nhiêu yêu thương, giận ghét, danh vọng, hạnh phúc theo cùng. Nhưng
    tôi biết chắc một điều ông mang được một người tình lúc nào cũng chung thủy đi với ông.
    CÔ ÐƠN: người tình đầu tiên và cuối cùng
    của ông.
    Xong Những nhánh lay-ơn, hồng trắng thi nhau
    nằm dưới đáy huyệt .
    Ðã đến giờ lấp mộ .
    Trịnh Thanh Thủy
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  3. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Lần Hành Hương Cuối
    Trịnh Thanh Thủy
    Người hành giả đã từng lê gót qua đồi, núi, qua những thăng trầm khốn khó đời mình để đi tìm, tìm điều gì không ai biết. Trịnh Công Sơn, có phải ông đã đến được giao điểm cuối của con đường hữu hạn
    và vô hạn không?
    "Người đi hành hương về đồi núi cao... người đi một mình đồi dốc
    nghiêng xuống,người đi một mình, vực sâu gọi tên."
    Và như những lời tiên tri ông đã đi một mình, đến một mình, chọn chỗ và nằm một mình lặng lẽ. Sáu mươi năm, một cái mốc thời gian, vừa đủ cho một toan tính, quá ngắn cho một bất định, cũng tạm cho ông để lại cho chúng ta một kho tàng nhạc tình trân quý.
    Tôi chưa từng gặp mặt TCS, chưa từng được nghe ông hát sống và tôi chỉ biết đến ông qua những bài hát nghe được đâu đó qua băng nhạc, đĩa hát và đài phát thanh. Tôi nghe nhạc ông bằng tai, bằng trái tim và những xúc động nhưng nhức buốt lòng. Tôi không đến với nhạc tình TCS bằng óc, bằng những đồn đãi truyền thuyết, bằng những chính
    kiến phe nhóm phủ vây quanh ông. Họ nói về ông, họ phê bình ông, họ khen ông, chê ông, họ kính phục, họ tôn vinh hay đạp đổ ông, tôi không cần biết. Tôi chỉ đến với nhạc TCS bằng trái tim. Vâng
    chỉ bằng trái tim. Tôi chỉ thấy nỗi cô đơn giăng phủ và những ngậm ngùi mang mang trong những lời nhạc mà tôi nghe được. Tôi tìm được tôi trong nhạc ông và tôi nghĩ nhiều người cũng tìm được họ trong
    nhạc ông. Ðiều tìm thấy đó chính là nỗi cô đơn vô cùng.
    ?o Ngày tháng nào đã ra đi, sao ta còn ngồi lại ... từng người tình bỏ ta đi
    như những giòng sông nhỏ ....
    ôi tiếng buồn rơi đều, nhìn lại mình đời đã xanh rêu"
    Ông đã nổi tiếng, đã thành danh , đã sống, đã
    biết yêu thương cuộc đời, hiểu được lầm lỗi và những bất toàn của con người. Sao ông vẫn không hạnh phúc? vẫn thấy cô đơn, vẫn viết thành câu "Buồn lắm mà không biết than phiền với ai cả"
    Có phải định mệnh của những người nghệ sĩ là con đường gắn liền với hai từ ?ocô đơn" không ?
    Ðêm giao thừa năm nào ông ngồi đếm tuổi , đếm vui buồn, yêu thương, và những người tình đi qua đời mình và thấy được dang dở đời người như một Symphonieinachevee. Lần sắm sửa hành trang cho chuyến hành hương cuối này tôi tự hỏi không biết ông đem theo được bao nhiêu yêu thương, giận ghét, danh vọng, hạnh phúc theo cùng. Nhưng
    tôi biết chắc một điều ông mang được một người tình lúc nào cũng chung thủy đi với ông.
    CÔ ÐƠN: người tình đầu tiên và cuối cùng
    của ông.
    Xong Những nhánh lay-ơn, hồng trắng thi nhau
    nằm dưới đáy huyệt .
    Ðã đến giờ lấp mộ .
    Trịnh Thanh Thủy
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  4. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Góc cũ Sài Gòn
    Lê Vũ Thúy Ái
    Nhạc trữ tình, ru ngủ, ủy mị qúa nhiều trong dòng văn hóa nghệ thuật Việt Nam . Tuy không so sánh - xét nét - bỏ qua , nhưng vì tai đã quen với những Bốn Mùa của Vivaldi , Giao hưởng số 5 của Beethoven nên xưa nay tôi ít tập trung khi nghe nhạc Việt bởi thường bị giai điệu và lời viết chi phối -- Một thiếu sót có lý do và không chối cãi .
    Một lần " Thưa chú mới qua..." rồi lẩn mất . Năm đó đám cưới anh tôi . Giờ tóc anh chị đã hoa râm , người thì vừa khuất . Mới chỉ ngoài 60 , tôi nghĩ Ông ra đi khá sớm và đã sống thật trọn vẹn qua những ca khúc da vàng ( yellow-skinned songs) .
    Ðợi làm đôi chân đi quanh thế giới
    để thấy con tim thế giới hẹp hòi
    đợi nghe lương tâm con người trở lại
    đợi đã héo mòn những sớm mai .
    Khoảng 28 năm trước , lén nhà tôi đọc " Ðêm nghe tiếng đại bác " của Cô Nhã Ca . Ðọc bỏ đoạn , lật vội những trang có cảm tình trai gái ... nhưng cũng đủ cho tôi biết thương , biết tội , biết hoang mang - Những ngày cuối Saìgòn còn yên vui , để đánh tan những ám ảnh đó, tôi ngây thơ trấn an mình " ông trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho ... hoa " ; vặn Tivi xem chương trình đố vui để học ; hoặc đòi nhà đưa đi bơi ở hồ tắm Thảo Ðiền . Chút vui sót trong trí lúc đâu đâu cũng vẳng tiếng " ...người chết hai lần , thịt da nát tan ..." . Dễ sợ ! Một tận cùng của diễn giải .
    Không phải chuyện nhảm, tự tôi lớn trước tuổi vì hiểu rất sớm những rối loạn , phức tạp tâm lý của tuổi trẻ Việt Nam ảnh hưởng bởi chiến tranh . Chung quanh là những biến động không ngừng , Anh Cả xa nhà du học tiếp tin Cậu rớt máy bay . Hết nước mắt .
    Thắc mắc , bất an nhưng khôg dám nói và Ông đã đến gần , nói giùm cho ;
    đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá
    đợi xóa sân si dưới bóng bồ đề
    đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ
    đợi có tiếng cười trong nỗi lo ...
    (Ðợi có một ngày )
    Sàigòn của đêm màu hồng - Sàigòn có những bộ óc hoang tưởng , dài thân nhàn rỗi rất chịu khó luận bàn về máu từ những trang kiếm hiệp ở tận bên Trung Hoa -- Sàigòn chia ngõ ngách , vị trí từng quận phân biệt lớp sang hèn -- Sàigòn chất Huế của người nhạc sĩ trước hiện tình đất nước .
    Rất Việt Nam , từ Ông, hơi thở nhạc nghẹn uất và nước mắt thơ rơi :
    [... từng giọt máu anh trong rừng núi lở từng giọt máu mẹ bên khóm cải xanh
    từng giọt máu cha trên đường đất đỏ quê hương bây giờ cỏ mọc xanh um
    từng giọt máu em ươm vườn trái nhỏ từng giọt máu chị thơm lúa ngô ta ...]
    Máu tim người nhạc sĩ sôi trên "Những giọt máu trổ bông ". Viết 14 dòng, ông lập lại 17 lần từ "máu". Biển máu kinh hoàng trong nội chiến . Nhìn lại những năm mong mỏi hòa bình, nhà nhà cầu nguyện , người người xuống đường phản đối , phá rối trị an ... dù là ở bất cứ hình thức nào bắt buộc cũng phải có sự lập lại . Luật tự nhiên !
    Ca khúc Da vàng đã là sự lập lại vì khát khao , khát vọng không đến cùng ngày .
    Những lập lại đó trong Yellow-Skinned Songs tôi còn nhớ [ "Chưa mất niềm tin : dù hôm nay, dù hôm nay, dù hôm nay .... " ; Tình ca người mất trí : Tôi có, tôi muốn, tôi có, tôi gọi ..."; " Ðại bác ru đêm : đại bác đêm đêm, đại bác qua đây, hàng vạn tấn bom, hàng vạn tấn bom...."; " Cho một người nằm xuống : anh nằm xuống không có ai, anh nằm xuống bạn bè còn đó, anh nằm xuống không có ai , anh nằm xuống anh biết không anh..." ; " Em hãy đi cùng tôi: hãy đi cùng tôi , hãy thăm, hãy đi, hãy đi thăm, hãy nhớ ..." ] . Tôi bé nhỏ nên chỉ đại khái , lựa ra chút vậy .
    Thực tế thì nhạc Trịnh Công Sơn đã đi sâu , qúa sâu vào lịch sử của dân tộc Việt Nam .
    Ông trao cho , nhớ - thấm , và chiêm nghiệm cùng mỗi người cực điểm tàn khốc của tấn thảm kịch năm xưa . Không dừng trong hận thù và thở than thân phận , tâm hồn Ông rất bao dung . Từ tốn , Người nhạc sĩ " Cúi xuống thật gần" , nâng niu giấc mơ hiền hòa ;
    [Cúi xuống cúi xuống thật gần cho trái tim dập dồn cho đam mê thay vào đổ nát quê hương
    cúi xuống cúi xuống thật gần cho chiếc hôn ngọt nồng cho trăm năm ưu phiền phút chốc hư không ...]
    Một thời người ta nghiêng đầu qua bên phải hay bên trái nhiều một chút , mắng nhiếc nhau , cao giọng hỏi , " .... Người nhạc sĩ này có tuyên truyền , có phản chiến , có .... thân A hơn B ? " . Tôi bây giờ cần biết nhiều vậy không ? Trả lời không ngại là " không !" . Vì bất chợt và không chỉ một lần , tôi đã được Ông nhắc nhớ :
    "... Cây thu bóng dài và tôi thu bóng tôi ..."
    Bóng đổ dài buổi sáng lúc mặt trời lên . Ðứng ngọ rồi thì bóng ta đâu ? Như Ông đã tự giải lòng qua câu hỏi " bóng thật hay người thật ? " ( Biết đâu nguồn cội ) .
    Người đến và đi như chân chính và trinh bạch của văn nhân -- Vậy và vẫn vậy thôi ./.
    Lê Vũ Thúy Ái , Canada
    04/2001

    Nguồn: http://www.vnenterprise.com
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  5. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Góc cũ Sài Gòn
    Lê Vũ Thúy Ái
    Nhạc trữ tình, ru ngủ, ủy mị qúa nhiều trong dòng văn hóa nghệ thuật Việt Nam . Tuy không so sánh - xét nét - bỏ qua , nhưng vì tai đã quen với những Bốn Mùa của Vivaldi , Giao hưởng số 5 của Beethoven nên xưa nay tôi ít tập trung khi nghe nhạc Việt bởi thường bị giai điệu và lời viết chi phối -- Một thiếu sót có lý do và không chối cãi .
    Một lần " Thưa chú mới qua..." rồi lẩn mất . Năm đó đám cưới anh tôi . Giờ tóc anh chị đã hoa râm , người thì vừa khuất . Mới chỉ ngoài 60 , tôi nghĩ Ông ra đi khá sớm và đã sống thật trọn vẹn qua những ca khúc da vàng ( yellow-skinned songs) .
    Ðợi làm đôi chân đi quanh thế giới
    để thấy con tim thế giới hẹp hòi
    đợi nghe lương tâm con người trở lại
    đợi đã héo mòn những sớm mai .
    Khoảng 28 năm trước , lén nhà tôi đọc " Ðêm nghe tiếng đại bác " của Cô Nhã Ca . Ðọc bỏ đoạn , lật vội những trang có cảm tình trai gái ... nhưng cũng đủ cho tôi biết thương , biết tội , biết hoang mang - Những ngày cuối Saìgòn còn yên vui , để đánh tan những ám ảnh đó, tôi ngây thơ trấn an mình " ông trăng xuống chơi cây cau thì cau sẽ cho ... hoa " ; vặn Tivi xem chương trình đố vui để học ; hoặc đòi nhà đưa đi bơi ở hồ tắm Thảo Ðiền . Chút vui sót trong trí lúc đâu đâu cũng vẳng tiếng " ...người chết hai lần , thịt da nát tan ..." . Dễ sợ ! Một tận cùng của diễn giải .
    Không phải chuyện nhảm, tự tôi lớn trước tuổi vì hiểu rất sớm những rối loạn , phức tạp tâm lý của tuổi trẻ Việt Nam ảnh hưởng bởi chiến tranh . Chung quanh là những biến động không ngừng , Anh Cả xa nhà du học tiếp tin Cậu rớt máy bay . Hết nước mắt .
    Thắc mắc , bất an nhưng khôg dám nói và Ông đã đến gần , nói giùm cho ;
    đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá
    đợi xóa sân si dưới bóng bồ đề
    đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ
    đợi có tiếng cười trong nỗi lo ...
    (Ðợi có một ngày )
    Sàigòn của đêm màu hồng - Sàigòn có những bộ óc hoang tưởng , dài thân nhàn rỗi rất chịu khó luận bàn về máu từ những trang kiếm hiệp ở tận bên Trung Hoa -- Sàigòn chia ngõ ngách , vị trí từng quận phân biệt lớp sang hèn -- Sàigòn chất Huế của người nhạc sĩ trước hiện tình đất nước .
    Rất Việt Nam , từ Ông, hơi thở nhạc nghẹn uất và nước mắt thơ rơi :
    [... từng giọt máu anh trong rừng núi lở từng giọt máu mẹ bên khóm cải xanh
    từng giọt máu cha trên đường đất đỏ quê hương bây giờ cỏ mọc xanh um
    từng giọt máu em ươm vườn trái nhỏ từng giọt máu chị thơm lúa ngô ta ...]
    Máu tim người nhạc sĩ sôi trên "Những giọt máu trổ bông ". Viết 14 dòng, ông lập lại 17 lần từ "máu". Biển máu kinh hoàng trong nội chiến . Nhìn lại những năm mong mỏi hòa bình, nhà nhà cầu nguyện , người người xuống đường phản đối , phá rối trị an ... dù là ở bất cứ hình thức nào bắt buộc cũng phải có sự lập lại . Luật tự nhiên !
    Ca khúc Da vàng đã là sự lập lại vì khát khao , khát vọng không đến cùng ngày .
    Những lập lại đó trong Yellow-Skinned Songs tôi còn nhớ [ "Chưa mất niềm tin : dù hôm nay, dù hôm nay, dù hôm nay .... " ; Tình ca người mất trí : Tôi có, tôi muốn, tôi có, tôi gọi ..."; " Ðại bác ru đêm : đại bác đêm đêm, đại bác qua đây, hàng vạn tấn bom, hàng vạn tấn bom...."; " Cho một người nằm xuống : anh nằm xuống không có ai, anh nằm xuống bạn bè còn đó, anh nằm xuống không có ai , anh nằm xuống anh biết không anh..." ; " Em hãy đi cùng tôi: hãy đi cùng tôi , hãy thăm, hãy đi, hãy đi thăm, hãy nhớ ..." ] . Tôi bé nhỏ nên chỉ đại khái , lựa ra chút vậy .
    Thực tế thì nhạc Trịnh Công Sơn đã đi sâu , qúa sâu vào lịch sử của dân tộc Việt Nam .
    Ông trao cho , nhớ - thấm , và chiêm nghiệm cùng mỗi người cực điểm tàn khốc của tấn thảm kịch năm xưa . Không dừng trong hận thù và thở than thân phận , tâm hồn Ông rất bao dung . Từ tốn , Người nhạc sĩ " Cúi xuống thật gần" , nâng niu giấc mơ hiền hòa ;
    [Cúi xuống cúi xuống thật gần cho trái tim dập dồn cho đam mê thay vào đổ nát quê hương
    cúi xuống cúi xuống thật gần cho chiếc hôn ngọt nồng cho trăm năm ưu phiền phút chốc hư không ...]
    Một thời người ta nghiêng đầu qua bên phải hay bên trái nhiều một chút , mắng nhiếc nhau , cao giọng hỏi , " .... Người nhạc sĩ này có tuyên truyền , có phản chiến , có .... thân A hơn B ? " . Tôi bây giờ cần biết nhiều vậy không ? Trả lời không ngại là " không !" . Vì bất chợt và không chỉ một lần , tôi đã được Ông nhắc nhớ :
    "... Cây thu bóng dài và tôi thu bóng tôi ..."
    Bóng đổ dài buổi sáng lúc mặt trời lên . Ðứng ngọ rồi thì bóng ta đâu ? Như Ông đã tự giải lòng qua câu hỏi " bóng thật hay người thật ? " ( Biết đâu nguồn cội ) .
    Người đến và đi như chân chính và trinh bạch của văn nhân -- Vậy và vẫn vậy thôi ./.
    Lê Vũ Thúy Ái , Canada
    04/2001

    Nguồn: http://www.vnenterprise.com
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  6. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Cõi nhạc Trịnh Công Sơn_ những cánh cửa mở từ một trái tim Việt Nam rất lớn
    du tử lê
    Tôi vẫn nghĩ, chia ly và bất hạnh là, phần đất mầu mỡ nhất cho những hạt giống hiếm quý nẩy sinh, tươi tốt.
    Tôi vẫn nghĩ, đọa đầy và vĩnh biệt là, những thửa ruộng đầu tiên, mang lại cho nhân loại, những mùa gặt nhân phẩm cao quý và những hạt mầm trí tuệ vạm vỡ mai sau.
    Tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của mỗi thiên tài, trong từng lãnh vực, chính là sự khai mở một cánh cửa khác cho tâm hồn hay no bộ. Nó, tựa những tia sáng hồng ngọc, có khả năng cắt bỏ xích xiềng vong thân, giải phóng tâm thức đọa lạc. Nó, tựa những bông hoa cảm thông, mọc lên từ những phần thịt xương đã lấp.
    Nhìn tự lăng kính này, nhạc Trịnh Công Sơn, đã mở ra không chỉ một mà, rất nhiều chân trời, rất nhiều cửa khác.
    Sự định hình của cõi âm nhạc mang tên Trịnh Công Sơn là một định hình rõ, dứt. Như một định tinh, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã gửi đi những tín hiệu thương yêu, phát ra những nguồn ánh sáng đùm bọc.
    Cùng với vận nước, cõi nhạc Trịnh Công Sơn nổi trôi theo từng mái đầu Việt Nam, cúi xuống. Cùng với tổ quốc, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã đứng hẳn về phía mái đầu Việt Nam, ngẩng cao.
    Sự ở được và ở với chiều dài của năm tháng, vực sâu của lịch sử, cõi nhạc Trịnh Công Sơn tự nó, đã nói lên sự hòa nhập, thấm tan trong từng tế bào, lẫn trong từng huyết quản nòi giống.
    Người ta từng cáo buộc nhạc Trịnh Công Sơn là, những lượng bạch phiến, không thừa cũng đủ độ làm tê liệt sức đề khŸng hay khả năng miễn nhiễm tiềm tàng trong cơ thể...
    Người ta từng cáo buộc cõi nhạc Trịnh Công Sơn là, những khối chất nổ không dư, cũng đủ đưa tới giựt sập một thể chế...
    Người ta cũng từng có những âm mưu thô bỉ dùng cõi nhạc Trịnh Công Sơn, như một vũ khí cân no xâm thực ý chí đu tranh hoặc niềm tin nơi một lý tưởng...
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi khai thác, lợi dụng, chỉ cho thấy, cõi nhạc Trịnh Công Sơn là những hạt kim cương bất hoại.
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi lợi dụng, khai thác, đều không làm mờ được những lượng sáng thủy tinh nguyên chất, chiếu ra từ cõi nhạc này.
    Tín hiệu phát đi từ những âm vực Trịnh Công Sơn, đã là những tín hiệu của nắng mưa, đời kiếp.
    Ánh sáng phát đi từ những giòng nhạc Trịnh Công Sơn, đã là những ánh sáng của lầm than sẽ mất, đời sau sẽ còn.
    Cuộc chiến giữa các ý thức hệ, hay giữa những đối lực đã dứt, hai mươi lăm năm đã lùi xa, người ta đã kiểm điểm những thương vong, kết toán những đổ nát..., cùng lúc với nỗ lực thiết kế những rào cản, từ nhiều phía, đã không tắt dập được cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Nó vẫn bay bổng, vẫn thẩm thu trong những nhịp đập Việt Nam lưu lạc.
    Từ những đốm lửa bp bênh trại đảo, từ những bục gỗ chói lòa điện tử hôm nay, từ những miếng đất trời trắng tuyết... ở đâu, cõi nhạc Trịnh Công Sơn, cũng vẫn như một có mặt thân ái, một an ủi, xẻ chia tận cùng.
    Mười sáu năm hết rồi bom đạn mà, Việt Nam cuối đất cùng trời, vẫn tiếp tục nâng niu cõi nhạc Trịnh Công Sơn qua hàng trăm ngàn thước băng nhựa, như tìm lại chính mình.
    Những VN nạn không ngừng cất lên. Những du hỏi tiếp tục được đánh xuống.
    Tại sao? Tại sao? ôi! Tại sao?
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những cánh cửa mới cho âm nhạc Việt với tính chất tiên tri, qua những cảm nhận siêu hình? Như "bao nhiêu năm làm kiếp con người - chợt một chiều tóc trắng như vôi - lá úa trên cây rụng đầy - cho trăm năm và chết một ngày.
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những chân trời khác cho âm nhạc Việt Nam, với minh chứng thi, ca là một? Qua những hình ảnh thơ, mang ẩn dụ nhân sinh. Hay Trịnh Công Sơn đã thi ca hóa những phi lý, ngây ngô của ngôn ngữ để bẩy bật lên cái khía cạnh bất toại của kiếp người? Họa diệt vong của một nòi giống? Như: vết lăn trầm. Như tuổi đá buồn. Như tình yêu như trái phá. Như một đàn bò không nhai cỏ. Như chưa một nhạc sĩ nào lựa chọn những như như thế.
    Tất cả mọi phải chăng chỉ là hệ quả của thói quen duy lý thấp tè trên mặt đất.
    Chẳng bao giờ ta có được một giải thích minh bạch trước một thiên tài. Cũng như chẳng bao giờ ta có một soi rọi thu đŸo trước một trái tim vốn lớn. Mỗi chúng ta, chỉ nắm được một phần sự thật. Mỗi chúng ta, trong hữu hạn buồn thảm của mình, với một đôi chân, chỉ có thể chọn lựa bước về, một phía trời thích ứng.
    Điều duy nhất ta có thể quả quyết, đó là cõi nhạc Trịnh Công Sơn, khởi đi từ một trái tim Việt Nam tha thiết.
    Tôi chưa được đọc chữ viết của nhạc sĩ Văn Cao về cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng chưa được xem sắc màu của họa sĩ Thái Tuấn về chân dung Trịnh Công Sơn. Nhưng tôi tin, hai tài năng hiếm quý này, qua từng loại ngôn ngữ, đã thấy trái tim Việt Nam trong ***g ngực Trịnh Công Sơn là một trái tim rất lớn.
    ở đây, tôi chấp nhận bất trắc, nếu có, để được nói rằng, tôi muốn cảm ơn Trịnh Công Sơn, người đã cho tôi cùng lúc vực sâu và núi cả.
    Du Tử Lê
    Nguồn: http://www.vnenterprise.com
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  7. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Cõi nhạc Trịnh Công Sơn_ những cánh cửa mở từ một trái tim Việt Nam rất lớn
    du tử lê
    Tôi vẫn nghĩ, chia ly và bất hạnh là, phần đất mầu mỡ nhất cho những hạt giống hiếm quý nẩy sinh, tươi tốt.
    Tôi vẫn nghĩ, đọa đầy và vĩnh biệt là, những thửa ruộng đầu tiên, mang lại cho nhân loại, những mùa gặt nhân phẩm cao quý và những hạt mầm trí tuệ vạm vỡ mai sau.
    Tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của mỗi thiên tài, trong từng lãnh vực, chính là sự khai mở một cánh cửa khác cho tâm hồn hay no bộ. Nó, tựa những tia sáng hồng ngọc, có khả năng cắt bỏ xích xiềng vong thân, giải phóng tâm thức đọa lạc. Nó, tựa những bông hoa cảm thông, mọc lên từ những phần thịt xương đã lấp.
    Nhìn tự lăng kính này, nhạc Trịnh Công Sơn, đã mở ra không chỉ một mà, rất nhiều chân trời, rất nhiều cửa khác.
    Sự định hình của cõi âm nhạc mang tên Trịnh Công Sơn là một định hình rõ, dứt. Như một định tinh, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã gửi đi những tín hiệu thương yêu, phát ra những nguồn ánh sáng đùm bọc.
    Cùng với vận nước, cõi nhạc Trịnh Công Sơn nổi trôi theo từng mái đầu Việt Nam, cúi xuống. Cùng với tổ quốc, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã đứng hẳn về phía mái đầu Việt Nam, ngẩng cao.
    Sự ở được và ở với chiều dài của năm tháng, vực sâu của lịch sử, cõi nhạc Trịnh Công Sơn tự nó, đã nói lên sự hòa nhập, thấm tan trong từng tế bào, lẫn trong từng huyết quản nòi giống.
    Người ta từng cáo buộc nhạc Trịnh Công Sơn là, những lượng bạch phiến, không thừa cũng đủ độ làm tê liệt sức đề khŸng hay khả năng miễn nhiễm tiềm tàng trong cơ thể...
    Người ta từng cáo buộc cõi nhạc Trịnh Công Sơn là, những khối chất nổ không dư, cũng đủ đưa tới giựt sập một thể chế...
    Người ta cũng từng có những âm mưu thô bỉ dùng cõi nhạc Trịnh Công Sơn, như một vũ khí cân no xâm thực ý chí đu tranh hoặc niềm tin nơi một lý tưởng...
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi khai thác, lợi dụng, chỉ cho thấy, cõi nhạc Trịnh Công Sơn là những hạt kim cương bất hoại.
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi lợi dụng, khai thác, đều không làm mờ được những lượng sáng thủy tinh nguyên chất, chiếu ra từ cõi nhạc này.
    Tín hiệu phát đi từ những âm vực Trịnh Công Sơn, đã là những tín hiệu của nắng mưa, đời kiếp.
    Ánh sáng phát đi từ những giòng nhạc Trịnh Công Sơn, đã là những ánh sáng của lầm than sẽ mất, đời sau sẽ còn.
    Cuộc chiến giữa các ý thức hệ, hay giữa những đối lực đã dứt, hai mươi lăm năm đã lùi xa, người ta đã kiểm điểm những thương vong, kết toán những đổ nát..., cùng lúc với nỗ lực thiết kế những rào cản, từ nhiều phía, đã không tắt dập được cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Nó vẫn bay bổng, vẫn thẩm thu trong những nhịp đập Việt Nam lưu lạc.
    Từ những đốm lửa bp bênh trại đảo, từ những bục gỗ chói lòa điện tử hôm nay, từ những miếng đất trời trắng tuyết... ở đâu, cõi nhạc Trịnh Công Sơn, cũng vẫn như một có mặt thân ái, một an ủi, xẻ chia tận cùng.
    Mười sáu năm hết rồi bom đạn mà, Việt Nam cuối đất cùng trời, vẫn tiếp tục nâng niu cõi nhạc Trịnh Công Sơn qua hàng trăm ngàn thước băng nhựa, như tìm lại chính mình.
    Những VN nạn không ngừng cất lên. Những du hỏi tiếp tục được đánh xuống.
    Tại sao? Tại sao? ôi! Tại sao?
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những cánh cửa mới cho âm nhạc Việt với tính chất tiên tri, qua những cảm nhận siêu hình? Như "bao nhiêu năm làm kiếp con người - chợt một chiều tóc trắng như vôi - lá úa trên cây rụng đầy - cho trăm năm và chết một ngày.
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những chân trời khác cho âm nhạc Việt Nam, với minh chứng thi, ca là một? Qua những hình ảnh thơ, mang ẩn dụ nhân sinh. Hay Trịnh Công Sơn đã thi ca hóa những phi lý, ngây ngô của ngôn ngữ để bẩy bật lên cái khía cạnh bất toại của kiếp người? Họa diệt vong của một nòi giống? Như: vết lăn trầm. Như tuổi đá buồn. Như tình yêu như trái phá. Như một đàn bò không nhai cỏ. Như chưa một nhạc sĩ nào lựa chọn những như như thế.
    Tất cả mọi phải chăng chỉ là hệ quả của thói quen duy lý thấp tè trên mặt đất.
    Chẳng bao giờ ta có được một giải thích minh bạch trước một thiên tài. Cũng như chẳng bao giờ ta có một soi rọi thu đŸo trước một trái tim vốn lớn. Mỗi chúng ta, chỉ nắm được một phần sự thật. Mỗi chúng ta, trong hữu hạn buồn thảm của mình, với một đôi chân, chỉ có thể chọn lựa bước về, một phía trời thích ứng.
    Điều duy nhất ta có thể quả quyết, đó là cõi nhạc Trịnh Công Sơn, khởi đi từ một trái tim Việt Nam tha thiết.
    Tôi chưa được đọc chữ viết của nhạc sĩ Văn Cao về cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng chưa được xem sắc màu của họa sĩ Thái Tuấn về chân dung Trịnh Công Sơn. Nhưng tôi tin, hai tài năng hiếm quý này, qua từng loại ngôn ngữ, đã thấy trái tim Việt Nam trong ***g ngực Trịnh Công Sơn là một trái tim rất lớn.
    ở đây, tôi chấp nhận bất trắc, nếu có, để được nói rằng, tôi muốn cảm ơn Trịnh Công Sơn, người đã cho tôi cùng lúc vực sâu và núi cả.
    Du Tử Lê
    Nguồn: http://www.vnenterprise.com
    Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé
    Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...
  8. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Trịnh Công Sơn Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (phần 1)
    Bùi Vĩnh Phúc
    Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá
    Góc phố nào cũng thấy quê nhà
    (Tình Yêu Tìm Thấy, TCS)
    Không ai là một hòn đảo, tự mình toàn vẹn trong chính mình (...) ;
    mỗi người là một mảnh của Đại lục (...). Cái chết của mỗi một
    người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi lẽ tôi gắn liền với Nhân loại.
    Và, bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai.
    Chuông gọi hồn anh đó.
    (John Donne)
    Trịnh Công Sơn đã ra đi. Những tiếng chuông gọi hồn đã được đánh lên. Và âm ba của những hồi chuông ấy vẫn còn vương đầy trong không gian tâm hồn của chúng ta. Qua những tiếc thương và suy tư của bao người còn ở lại. Nhưng thực ra, những tiếng chuông gọi hồn đó đã luôn cất lên, gióng giả, trong suốt cuộc hành trình làm người của Trịnh Công Sơn. Chúng vang vọng trong âm nhạc của anh, với những nhịp điệu đều đều, buồn buồn, nghe như những tiếng kinh cầu; trong những nhịp kể lể với những ca từ mang nặng tính siêu hình pha vào nhịp thở của thời đại. Những tiếng chuông gọi hồn đó vang vọng trong cõi thời gian chìm chìm ẩn ẩn một màu úa tàn, bềnh bồng trôi dạt về một nơi chốn thiên thu nào đó, một cõi thời gian luôn luôn in dấu những chiếc bóng trăm năm. Những tiếng chuông gọi hồn đó, chúng vang vọng trong những khoảng không gian đựng nhiều bóng tối, trong những cánh rừng xưa đã khép mắt, những cồn biển quạnh hiu và những núi đèo mờ mịt, trong những đường phố đầy bóng hư không, hay trong những quán xá bàn ghế không bầy... Nhưng những tiếng chuông cầu hồn ấy, trước hết, đã được đánh lên với những âm vang sắc buốt nhất qua những bài hát về thân phận con người, về cuộc chiến tang thương vỡ nát trên quê hương Việt Nam.
    Những tiếng chuông ấy vang động khắp thế giới qua âm nhạc cũng như lời ca của Trịnh Công Sơn. Những lời ca như những dòng thơ buồn rầu vỡ sắc, tả về những kinh hoàng tưởng như không bao giờ có thật, nhưng chúng vẫn hiện hữu trong cuộc sống con người. Những lời ca như những dòng thơ đẩy con người chạm mặt với cõi siêu hình. Dù chỉ là trong những khoảnh khắc của cuộc sống. Và chính những tiếng chuông cầu hồn vang lên trong âm nhạc đó của anh đã đẩy anh, nhiều lần, ra trước những vành móng ngựa của đời. Con người là một con vật xã hội (social animal). Từ đó, nó cũng là một con vật chính trị (political animal) dù nó có muốn hay không. Và nếu chỉ nhìn về khía cạnh chính trị, từ góc độ của mình, có lẽ chúng ta có thể nhìn thấy Trịnh Công Sơn có những sai lầm, những vấp ngã; và chính anh, khi nhìn lại đời mình, cũng đã có những lúc thấy và hối tiếc về những vấp ngã và sai lầm của anh trong đời. Chúng ta, trong mắt nhìn của mình về anh như một con người của quần chúng, có quyền lên tiếng và bày tỏ thái độ của mình về những chọn lựa của Trịnh Công Sơn. Nhưng nếu nhìn từ một góc độ khác, rộng lớn hơn, người nghệ sĩ ấy là một con vật xã hội. Hơn thế nữa, Trịnh Công Sơn là một con người với tất cả những yếu đuối và mỏng dòn của nó. Anh cũng là một con người hết sức thiết tha với cuộc đời. Anh yêu thương cuộc đời và đau xót vì thấy được cái thân phận mong manh và nhiều khổ đau của kiếp con người. Thật ra, trên hết và trước hết, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ, một con người đã sống hết lòng với trái tim mình. Một trái tim thật nhậy cảm trước từng máy động của đời. Trịnh Công Sơn rung động với mỗi chuyển động tế vi của trời đất, với tiếng gió qua đèo, tiếng những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò nhau trước sân nhà anh. Những máy động mong manh như thế, con người nghệ sĩ ấy còn nghe thấy, thì làm sao những tiếng nổ làm vỡ nát thịt da người kia anh lại không nhận ra. Nhưng cuộc chiến nào cũng có hai phía, nếu không là nhiều phía, nên khi anh ghi nhận lại những hình ảnh đau thương tan nát và những âm thanh tàn phá ấy, anh dễ bị lôi ra trước những vành móng ngựa của đời. Cũng thế, những người góp tiếng nói để nhìn lại hoàn cảnh, vị trí, con người và những mơ ước, những thiết tha cùng những đóng góp nghệ thuật của anh cũng có thể bị ngộ nhận như thế. Nhưng, nếu ta nhìn cuộc đời này một cách rộng lớn hơn, nếu ta không đóng khung nó lại trong khoảng thời gian của một cuộc chiến; nếu ta nhìn con người như những tế bào, những sinh thể của một Đời Sống lớn hơn, những sinh thể được liên kết với nhau trong một sự gắn bó thiết tha sống chết, thì đúng như John Donne đã nói, ?oKhông ai là một hòn đảo (...); mỗi người là một mảnh của Đại lục (...) Cái chết của mỗi một người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi lẽ tôi gắn liền với Nhân loại. Và, bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai. Chuông gọi hồn anh đó?. Nếu một người có tội, tất cả mọi người đều?"trong những mức độ nào đó?"chia sẻ sự liên đới của tội lỗi kia. Để đạt đến sự cứu rỗi, tất cả mọi người đều phải có những nỗ lực đóng góp để vươn về điểm tới ấy. Một gương mặt hằn sâu những vết cắt của tội lỗi và đau khổ (in bóng một cánh rừng âm u, quằn quại những sức sống vươn lên trong bóng tối), cùng lúc, cũng khuôn mặt ấy với ánh sáng thánh thiện và nét cứu rỗi mọc lên trong đôi mắt, bỗng hiện dần ra trước cái nhìn của tôi. Đó là khuôn mặt của con người nghệ sĩ Dostoevski. Tôi muốn chảy nước mắt khi nhớ lại cái ánh sáng kia trong các tác phẩm của ông. Con người là một sự liên đới. Và trong sự nhận thức về tính cách liên đới ấy, nó bước gần đến chỗ tìm ra được sự cứu chuộc cho chính mình. Ý nghĩa cuộc hiện sinh của con người nằm ở chính trong sự liên đới và sự cứu chuộc kia.
    Dù sao, tôi muốn viết bài này về Trịnh Công Sơn không phải chỉ để nhắc lại những tiếng chuông gọi hồn vẫn mãi còn gióng giả trong nhạc của anh. Thật ra, tôi muốn viết về anh nhiều hơn với tất cả những khía cạnh đẹp tươi, thơ mộng mà anh đã để lại trong âm nhạc và ca từ của mình, mặc dù những nét thơ và đẹp ấy gần như luôn luôn nằm trong vùng hồi quang của những chia lìa, mất mát để, khi nhìn lại, người ta thường chỉ thấy ở đó những con gió quạnh quẽ, những chiếc bóng trăm năm đi về mãi mãi. Nhưng, bây giờ, ít nhất, trong những giờ khắc tĩnh tại của lòng mình, trong những khoảng thời gian chớp mắt của đời sống mà chúng ta thỉnh thoảng tìm được cho mình trong dòng đời này, hãy để lòng mình lắng lại những tiếng quê nhà. Hãy thử gạt bỏ đi những tạp âm trong đời sống này để nghe lại những tiếng nói thân thiết mà chúng ta hằng quen thuộc. Trịnh Công Sơn đã để lại cho tất cả chúng ta một gia tài dung chứa bao nhiêu hình ảnh đau thương, xót xa cũng như thơ mộng và đẹp đẽ về quê hương Việt Nam, nói riêng, và quê hương của con người là cõi tạm này, nói chung. Những bài hát của anh đã làm cho chúng ta sống phong phú hơn biết bao về nhiều khía cạnh. Bài viết này, về ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật trong nhạc Trịnh Công Sơn, muốn cố gắng ghi nhớ và chắt lọc những điều tha thiết được để lại trong cái gia tài ấy; từ đó, hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng nhìn lại được chân dung và những đóng góp của Trịnh Công Sơn hơn.
    Phương pháp được sử dụng trong bài này là một phương pháp tổng hợp. Tôi sẽ áp dụng phương pháp xếp chồng văn bản (superposition) cùng với phương pháp sử dụng liên-văn-bản (intertextuality) (1). Cùng lúc, tôi cũng sẽ áp dụng những thao tác và phân tích của thi pháp học (poetics). Phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron, với nỗ lực gắn phân tâm học vào phê bình văn học, sẽ cho ta những cơ hội để nghiên cứu những mạng lưới liên tưởng trong ngôn ngữ và hình ảnh được thể hiện trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Nó sẽ giúp ta khám phá ra những ám ảnh mà anh luôn ôm ấp trong đời sống cũng như trong những giấc mơ của mình. Từ sự liên kết các mối ám ảnh này qua những văn bản là hàng trăm bài hát của Trịnh Công Sơn, ta có thể nghe ra các tiếng vọng dội âm nhau cũng như các hình ảnh phóng chiếu, khúc xạ lẫn nhau trong những giấc mơ về đời sống cũng như qua những giấc mơ về một cõi thiên thu giữa cuộc đời của anh. Tất cả những ám ảnh này làm nên con người vô thức của tác giả. Nó có thể phác họa nên một cấu trúc tinh thần, dẫn đến một thứ mà Mauron gọi là ?ohuyền thoại cá nhân? của một nhà văn, một nghệ sĩ.
    Khái niệm liên văn bản thường được coi là do Mikhail Bakhtin, một nhà phê bình văn học kiệt xuất của Nga, đề xuất. Sau đó, nó được phát triển thành hệ thống phương pháp với những áp dụng xuất sắc của Philippe Sollers và Julia Kristeva trong nhóm Tel Quel, và sau đó nữa với sự đóng góp phong phú của nhiều nhà phê bình khác (2). Khái niệm này cho rằng văn bản nào cũng là một liên văn bản (intertext), và mọi văn bản đều có liên hệ đến các văn bản khác, và không có văn bản nào có thể tự đứng độc lập với một bộ nghĩa đóng khung trong chính nó. Nói như Roland Barthes thì văn bản chỉ là một ?otấm vải? được đan kết bằng vô số những lời trích dẫn được rút ra và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, và không một trích dẫn nào được coi là có giá trị ưu quyết. Từ đó, ý nghĩa của một tác phẩm, một văn bản, được quyết định nơi người thưởng ngoạn (3). (...) Trong cái nhìn của tôi, qua sự nghiên cứu con người vô thức Trịnh Công Sơn với những ám ảnh và những giấc mơ giữa đời của anh, mặc dù coi những bài hát của anh là những văn bản chính để khảo sát, tôi còn muốn dựa vào một thứ ?ovăn bản? khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết học, chính trị trong đó những bài hát ra đời, và sự giáo dục cá nhân của chính con người nghệ sĩ. Đối với tôi, tất cả những điều ấy cũng là những loại ?ovăn bản? khác nhau, cùng góp phần vào việc giúp ta nhìn rõ hơn chân dung, diện mạo của Trịnh Công Sơn (4).
    Thi pháp học trong bài này giúp ta khảo sát kỹ hơn thời gian và không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Nó cũng giúp ta trong việc đi vào một số những phân tích trên mặt thao tác ngôn ngữ của người nghệ sĩ và phát hiện được hệ thống từ vựng của tác giả. Hệ thống từ vựng và thao tác ngôn ngữ nơi một người phản ánh thế giới tinh thần của người ấy. Thi pháp học cho ta một dụng cụ khá tốt để thực hiện những công việc trên.
    Ngôn ngữ (5) được sử dụng ở đây, trong bài này, ở một số khía cạnh, là ngôn ngữ của nghiên cứu và phê bình văn học. Điều đó khó tránh khỏi. Trong một số khía cạnh khác, nó có thể là một thứ ngôn ngữ thơ. Dù sao, chủ yếu, nó là một thứ ngôn ngữ được sử dụng cho những phân tích hiện tượng học. Người viết bài này hy vọng, qua nó, sẽ đi vào một số ý nghĩa mang giá trị siêu hình trong mạch ngầm của những câu chữ, những từ ngữ và những hình ảnh nơi thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Những ý nghĩa mang giá trị siêu hình này, dù thế, không đẩy người thưởng ngoạn rời xa những gì thân thiết mà Trịnh Công Sơn muốn chia sẻ với những người nghe anh. Ngược lại, chúng là những gì có cội rễ ngay trong chính bản thể của mỗi người chúng ta. Dĩ nhiên, không có một thứ siêu hình học nào tách rời con người. Nhưng, nhiều khi, trong một số văn bản khác có tính siêu hình rõ nét hơn, nó lại biến thành những đám mây bay lơ lửng và lờ lững trên trời cao. Chúng bay ngang và che trên phận người. Trịnh Công Sơn, qua những sáng tác của anh, có lẽ là một trong những người đã đưa được những đám mây ấy xuống thấp. Một cách rất tài hoa. Để nó hòa quyện cùng con người. Bằng cách biến chúng thành những cơn mưa, rơi xuống rơi xuống và hòa quyện với đất đai sông núi để trở thành bao nhiêu hoa cỏ và những nét mặt của cuộc đời. Từ đó, chúng ta cảm nhận cuộc sống với những ý nghĩa của nó một cách sâu xa đằm thắm hơn. Và cũng từ đó, ta thiết tha và trân trọng với cuộc đời này nhiều hơn nữa.
    (còn tiếp...)
  9. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Trịnh Công Sơn Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (phần 1)
    Bùi Vĩnh Phúc
    Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá
    Góc phố nào cũng thấy quê nhà
    (Tình Yêu Tìm Thấy, TCS)
    Không ai là một hòn đảo, tự mình toàn vẹn trong chính mình (...) ;
    mỗi người là một mảnh của Đại lục (...). Cái chết của mỗi một
    người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi lẽ tôi gắn liền với Nhân loại.
    Và, bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai.
    Chuông gọi hồn anh đó.
    (John Donne)
    Trịnh Công Sơn đã ra đi. Những tiếng chuông gọi hồn đã được đánh lên. Và âm ba của những hồi chuông ấy vẫn còn vương đầy trong không gian tâm hồn của chúng ta. Qua những tiếc thương và suy tư của bao người còn ở lại. Nhưng thực ra, những tiếng chuông gọi hồn đó đã luôn cất lên, gióng giả, trong suốt cuộc hành trình làm người của Trịnh Công Sơn. Chúng vang vọng trong âm nhạc của anh, với những nhịp điệu đều đều, buồn buồn, nghe như những tiếng kinh cầu; trong những nhịp kể lể với những ca từ mang nặng tính siêu hình pha vào nhịp thở của thời đại. Những tiếng chuông gọi hồn đó vang vọng trong cõi thời gian chìm chìm ẩn ẩn một màu úa tàn, bềnh bồng trôi dạt về một nơi chốn thiên thu nào đó, một cõi thời gian luôn luôn in dấu những chiếc bóng trăm năm. Những tiếng chuông gọi hồn đó, chúng vang vọng trong những khoảng không gian đựng nhiều bóng tối, trong những cánh rừng xưa đã khép mắt, những cồn biển quạnh hiu và những núi đèo mờ mịt, trong những đường phố đầy bóng hư không, hay trong những quán xá bàn ghế không bầy... Nhưng những tiếng chuông cầu hồn ấy, trước hết, đã được đánh lên với những âm vang sắc buốt nhất qua những bài hát về thân phận con người, về cuộc chiến tang thương vỡ nát trên quê hương Việt Nam.
    Những tiếng chuông ấy vang động khắp thế giới qua âm nhạc cũng như lời ca của Trịnh Công Sơn. Những lời ca như những dòng thơ buồn rầu vỡ sắc, tả về những kinh hoàng tưởng như không bao giờ có thật, nhưng chúng vẫn hiện hữu trong cuộc sống con người. Những lời ca như những dòng thơ đẩy con người chạm mặt với cõi siêu hình. Dù chỉ là trong những khoảnh khắc của cuộc sống. Và chính những tiếng chuông cầu hồn vang lên trong âm nhạc đó của anh đã đẩy anh, nhiều lần, ra trước những vành móng ngựa của đời. Con người là một con vật xã hội (social animal). Từ đó, nó cũng là một con vật chính trị (political animal) dù nó có muốn hay không. Và nếu chỉ nhìn về khía cạnh chính trị, từ góc độ của mình, có lẽ chúng ta có thể nhìn thấy Trịnh Công Sơn có những sai lầm, những vấp ngã; và chính anh, khi nhìn lại đời mình, cũng đã có những lúc thấy và hối tiếc về những vấp ngã và sai lầm của anh trong đời. Chúng ta, trong mắt nhìn của mình về anh như một con người của quần chúng, có quyền lên tiếng và bày tỏ thái độ của mình về những chọn lựa của Trịnh Công Sơn. Nhưng nếu nhìn từ một góc độ khác, rộng lớn hơn, người nghệ sĩ ấy là một con vật xã hội. Hơn thế nữa, Trịnh Công Sơn là một con người với tất cả những yếu đuối và mỏng dòn của nó. Anh cũng là một con người hết sức thiết tha với cuộc đời. Anh yêu thương cuộc đời và đau xót vì thấy được cái thân phận mong manh và nhiều khổ đau của kiếp con người. Thật ra, trên hết và trước hết, Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ, một con người đã sống hết lòng với trái tim mình. Một trái tim thật nhậy cảm trước từng máy động của đời. Trịnh Công Sơn rung động với mỗi chuyển động tế vi của trời đất, với tiếng gió qua đèo, tiếng những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò nhau trước sân nhà anh. Những máy động mong manh như thế, con người nghệ sĩ ấy còn nghe thấy, thì làm sao những tiếng nổ làm vỡ nát thịt da người kia anh lại không nhận ra. Nhưng cuộc chiến nào cũng có hai phía, nếu không là nhiều phía, nên khi anh ghi nhận lại những hình ảnh đau thương tan nát và những âm thanh tàn phá ấy, anh dễ bị lôi ra trước những vành móng ngựa của đời. Cũng thế, những người góp tiếng nói để nhìn lại hoàn cảnh, vị trí, con người và những mơ ước, những thiết tha cùng những đóng góp nghệ thuật của anh cũng có thể bị ngộ nhận như thế. Nhưng, nếu ta nhìn cuộc đời này một cách rộng lớn hơn, nếu ta không đóng khung nó lại trong khoảng thời gian của một cuộc chiến; nếu ta nhìn con người như những tế bào, những sinh thể của một Đời Sống lớn hơn, những sinh thể được liên kết với nhau trong một sự gắn bó thiết tha sống chết, thì đúng như John Donne đã nói, ?oKhông ai là một hòn đảo (...); mỗi người là một mảnh của Đại lục (...) Cái chết của mỗi một người đều làm tôi bị mất mát đi, bởi lẽ tôi gắn liền với Nhân loại. Và, bởi thế, xin đừng bao giờ hỏi rằng chuông gọi hồn ai. Chuông gọi hồn anh đó?. Nếu một người có tội, tất cả mọi người đều?"trong những mức độ nào đó?"chia sẻ sự liên đới của tội lỗi kia. Để đạt đến sự cứu rỗi, tất cả mọi người đều phải có những nỗ lực đóng góp để vươn về điểm tới ấy. Một gương mặt hằn sâu những vết cắt của tội lỗi và đau khổ (in bóng một cánh rừng âm u, quằn quại những sức sống vươn lên trong bóng tối), cùng lúc, cũng khuôn mặt ấy với ánh sáng thánh thiện và nét cứu rỗi mọc lên trong đôi mắt, bỗng hiện dần ra trước cái nhìn của tôi. Đó là khuôn mặt của con người nghệ sĩ Dostoevski. Tôi muốn chảy nước mắt khi nhớ lại cái ánh sáng kia trong các tác phẩm của ông. Con người là một sự liên đới. Và trong sự nhận thức về tính cách liên đới ấy, nó bước gần đến chỗ tìm ra được sự cứu chuộc cho chính mình. Ý nghĩa cuộc hiện sinh của con người nằm ở chính trong sự liên đới và sự cứu chuộc kia.
    Dù sao, tôi muốn viết bài này về Trịnh Công Sơn không phải chỉ để nhắc lại những tiếng chuông gọi hồn vẫn mãi còn gióng giả trong nhạc của anh. Thật ra, tôi muốn viết về anh nhiều hơn với tất cả những khía cạnh đẹp tươi, thơ mộng mà anh đã để lại trong âm nhạc và ca từ của mình, mặc dù những nét thơ và đẹp ấy gần như luôn luôn nằm trong vùng hồi quang của những chia lìa, mất mát để, khi nhìn lại, người ta thường chỉ thấy ở đó những con gió quạnh quẽ, những chiếc bóng trăm năm đi về mãi mãi. Nhưng, bây giờ, ít nhất, trong những giờ khắc tĩnh tại của lòng mình, trong những khoảng thời gian chớp mắt của đời sống mà chúng ta thỉnh thoảng tìm được cho mình trong dòng đời này, hãy để lòng mình lắng lại những tiếng quê nhà. Hãy thử gạt bỏ đi những tạp âm trong đời sống này để nghe lại những tiếng nói thân thiết mà chúng ta hằng quen thuộc. Trịnh Công Sơn đã để lại cho tất cả chúng ta một gia tài dung chứa bao nhiêu hình ảnh đau thương, xót xa cũng như thơ mộng và đẹp đẽ về quê hương Việt Nam, nói riêng, và quê hương của con người là cõi tạm này, nói chung. Những bài hát của anh đã làm cho chúng ta sống phong phú hơn biết bao về nhiều khía cạnh. Bài viết này, về ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật trong nhạc Trịnh Công Sơn, muốn cố gắng ghi nhớ và chắt lọc những điều tha thiết được để lại trong cái gia tài ấy; từ đó, hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng nhìn lại được chân dung và những đóng góp của Trịnh Công Sơn hơn.
    Phương pháp được sử dụng trong bài này là một phương pháp tổng hợp. Tôi sẽ áp dụng phương pháp xếp chồng văn bản (superposition) cùng với phương pháp sử dụng liên-văn-bản (intertextuality) (1). Cùng lúc, tôi cũng sẽ áp dụng những thao tác và phân tích của thi pháp học (poetics). Phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron, với nỗ lực gắn phân tâm học vào phê bình văn học, sẽ cho ta những cơ hội để nghiên cứu những mạng lưới liên tưởng trong ngôn ngữ và hình ảnh được thể hiện trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Nó sẽ giúp ta khám phá ra những ám ảnh mà anh luôn ôm ấp trong đời sống cũng như trong những giấc mơ của mình. Từ sự liên kết các mối ám ảnh này qua những văn bản là hàng trăm bài hát của Trịnh Công Sơn, ta có thể nghe ra các tiếng vọng dội âm nhau cũng như các hình ảnh phóng chiếu, khúc xạ lẫn nhau trong những giấc mơ về đời sống cũng như qua những giấc mơ về một cõi thiên thu giữa cuộc đời của anh. Tất cả những ám ảnh này làm nên con người vô thức của tác giả. Nó có thể phác họa nên một cấu trúc tinh thần, dẫn đến một thứ mà Mauron gọi là ?ohuyền thoại cá nhân? của một nhà văn, một nghệ sĩ.
    Khái niệm liên văn bản thường được coi là do Mikhail Bakhtin, một nhà phê bình văn học kiệt xuất của Nga, đề xuất. Sau đó, nó được phát triển thành hệ thống phương pháp với những áp dụng xuất sắc của Philippe Sollers và Julia Kristeva trong nhóm Tel Quel, và sau đó nữa với sự đóng góp phong phú của nhiều nhà phê bình khác (2). Khái niệm này cho rằng văn bản nào cũng là một liên văn bản (intertext), và mọi văn bản đều có liên hệ đến các văn bản khác, và không có văn bản nào có thể tự đứng độc lập với một bộ nghĩa đóng khung trong chính nó. Nói như Roland Barthes thì văn bản chỉ là một ?otấm vải? được đan kết bằng vô số những lời trích dẫn được rút ra và tổng hợp từ nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, và không một trích dẫn nào được coi là có giá trị ưu quyết. Từ đó, ý nghĩa của một tác phẩm, một văn bản, được quyết định nơi người thưởng ngoạn (3). (...) Trong cái nhìn của tôi, qua sự nghiên cứu con người vô thức Trịnh Công Sơn với những ám ảnh và những giấc mơ giữa đời của anh, mặc dù coi những bài hát của anh là những văn bản chính để khảo sát, tôi còn muốn dựa vào một thứ ?ovăn bản? khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết học, chính trị trong đó những bài hát ra đời, và sự giáo dục cá nhân của chính con người nghệ sĩ. Đối với tôi, tất cả những điều ấy cũng là những loại ?ovăn bản? khác nhau, cùng góp phần vào việc giúp ta nhìn rõ hơn chân dung, diện mạo của Trịnh Công Sơn (4).
    Thi pháp học trong bài này giúp ta khảo sát kỹ hơn thời gian và không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Nó cũng giúp ta trong việc đi vào một số những phân tích trên mặt thao tác ngôn ngữ của người nghệ sĩ và phát hiện được hệ thống từ vựng của tác giả. Hệ thống từ vựng và thao tác ngôn ngữ nơi một người phản ánh thế giới tinh thần của người ấy. Thi pháp học cho ta một dụng cụ khá tốt để thực hiện những công việc trên.
    Ngôn ngữ (5) được sử dụng ở đây, trong bài này, ở một số khía cạnh, là ngôn ngữ của nghiên cứu và phê bình văn học. Điều đó khó tránh khỏi. Trong một số khía cạnh khác, nó có thể là một thứ ngôn ngữ thơ. Dù sao, chủ yếu, nó là một thứ ngôn ngữ được sử dụng cho những phân tích hiện tượng học. Người viết bài này hy vọng, qua nó, sẽ đi vào một số ý nghĩa mang giá trị siêu hình trong mạch ngầm của những câu chữ, những từ ngữ và những hình ảnh nơi thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn. Những ý nghĩa mang giá trị siêu hình này, dù thế, không đẩy người thưởng ngoạn rời xa những gì thân thiết mà Trịnh Công Sơn muốn chia sẻ với những người nghe anh. Ngược lại, chúng là những gì có cội rễ ngay trong chính bản thể của mỗi người chúng ta. Dĩ nhiên, không có một thứ siêu hình học nào tách rời con người. Nhưng, nhiều khi, trong một số văn bản khác có tính siêu hình rõ nét hơn, nó lại biến thành những đám mây bay lơ lửng và lờ lững trên trời cao. Chúng bay ngang và che trên phận người. Trịnh Công Sơn, qua những sáng tác của anh, có lẽ là một trong những người đã đưa được những đám mây ấy xuống thấp. Một cách rất tài hoa. Để nó hòa quyện cùng con người. Bằng cách biến chúng thành những cơn mưa, rơi xuống rơi xuống và hòa quyện với đất đai sông núi để trở thành bao nhiêu hoa cỏ và những nét mặt của cuộc đời. Từ đó, chúng ta cảm nhận cuộc sống với những ý nghĩa của nó một cách sâu xa đằm thắm hơn. Và cũng từ đó, ta thiết tha và trân trọng với cuộc đời này nhiều hơn nữa.
    (còn tiếp...)
  10. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Trịnh Công Sơn Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (phần 2)Nhạc của Trịnh Công Sơn bao gồm những khúc thức giản dị, không cầu kỳ. Và nói như nhạc sĩ Văn Cao, ?oTrong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra...? Có người coi sự giản dị này như một điểm yếu trong âm nhạc của họ Trịnh. Họ nghĩ rằng, với những khúc thức như thế, âm nhạc của anh không phong phú, và những cảm xúc của anh, vì thế, bị giới hạn bên trong một ?ocái vỏ? nghèo nàn. Nhận xét này có thể có những khía cạnh đúng, nhưng là đúng cho tất cả mọi nghệ sĩ, trong đó có cả những người làm nhạc. Mỗi nghệ sĩ có một phong cách riêng, và chính là với cái phong cách riêng ấy của mình, mỗi người nghệ sĩ tự định hình con người và sắc thái nghệ thuật mình. Trịnh Công Sơn, với những khúc nhạc giản dị nhưng có một phong cách riêng, đã nói được tất cả những gì mà anh muốn bày tỏ với chúng ta, những người nghe anh. Suy nghĩ này làm tôi nhớ đến Claude Lévi-Strauss. Nhà nhân học cơ cấu này tin và cả quyết rằng những thao tác trí tuệ cũng như sự hiểu biết của những con người mà chúng ta coi là ?oman mọi? thật ra cũng chẳng thua kém gì những thao tác trí tuệ cũng như sự hiểu biết của chúng ta cả (6). Các nhà ngôn ngữ học thời nay cũng đều cho rằng ngay trong những ngôn ngữ của những bộ lạc mà chúng ta, những con người sống trong thời hiện đại, coi là man dã đều có những quy tắc phức tạp của chúng, và những hệ thống ngôn ngữ ấy cũng có thể diễn đạt được tất cả những điều tế vi nhất mà nhu cầu của những xã hội phát sinh ra những ngôn ngữ ấy đòi hỏi. Qua sự liên tưởng và so sánh những điều này với những khúc thức được coi là giản dị của Trịnh Công Sơn, tôi chỉ muốn nói rằng họ Trịnh đã chọn đúng dạng thức cho những khúc nhạc mình để giúp chúng đi vào lòng người nghe. Anh bắt được tiếng thở dài cũng như nhu cầu tinh thần của cả một thời, lại tạo được cho mình một giọng nói không bị nhòa đi giữa nhiều giọng nói khác. Thế giới âm nhạc của Trịnh Công Sơn, lại nói như Văn Cao, ?ovới những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi [...] đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, và ở cả bên ngoài biên giới nữa.?
    Trước khi đi vào phân tích một cách khá chi tiết những ám ảnh, thời gian và không gian nghệ thuật, cũng như những hình ảnh biểu tượng và những nét đặc thù trong thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn, ta có thể tạm thời đưa ra một nhận xét tổng quát rằng, nhạc ngữ của anh rất mới. Chúng mới một cách giản dị. Không phải mới ở cách dùng những câu chữ phức tạp, cầu kỳ, nhưng là mới ở cách sắp đặt những từ ngữ và những hình ảnh bên nhau một cách bất ngờ và rất không truyền thống. Trịnh Công Sơn lớn lên trong một thời đại mà ảnh hưởng của văn hóa Âu Mỹ, đặc biệt là của Tây Phương, đã ghi những dấu ấn khá sâu đậm trong tâm hồn người Việt. Nó tạo nên một bầu khí quyển văn hóa đặc thù, và những trí thức trẻ Việt Nam là những người có nhiều cơ hội sống và hô hấp trong cái bầu khí quyển đó. Những nghệ sĩ, lại là trí thức, dễ trở nên những người nhạy cảm và tài hoa hơn ai hết trong việc khúc xạ những hình ảnh của thời đại, của thế giới, theo cách nói mới của con người thời đại. Trịnh Công Sơn có chịu những ảnh hưởng này, ở một mức độ nào đó. Và, trên khía cạnh ngôn ngữ và nghệ thuật, tôi cho rằng đây là những ảnh hưởng tốt, có khả năng giúp mở ra một thế giới hình tượng mới cho tuổi trẻ Việt Nam. Trong thi ca, chúng ta đã có nhiều nhà thơ, qua tiếp cận với những tiếng nói thời đại ở khắp nơi trên thế giới, làm mới được giọng nói và ngôn ngữ mình.
    Nhớ, Apollinaire, trong bài Le Pont Mirabeau, đã có những câu thật đẹp:
    Les mains dans les main restons face à face
    Tandis que sous
    Le pont de nos bras passe
    Des éternels regards lõonde si lasse...
    (Tay nắm lấy tay và mặt nhìn mặt
    Trong lúc đó dưới
    Cầu của những cánh tay đôi ta lướt chảy
    Dòng nước mệt mỏi của những thoáng nhìn thiên thu... )
    Hình ảnh cây cầu làm bằng những cánh tay bắc qua vai nhau này thật đẹp và mới. Nó cũng đã xuất hiện trong một câu thơ của ta vào những năm sáu mươi.
    Cũng Apollinaire, trong bài Zone, có hình ảnh thật lạ:
    Bergère ô tour Eiffel le troupeau des ponts bêle ce matin...
    (Ô kẻ chăn cừu ơi hỡi tháp Eiffel, bầy cừu mà nàng chăn dắt
    là những cây cầu kêu be be buổi sáng hôm nay... )
    Và Trịnh Công Sơn có hình ảnh quá mới và đẹp sau đây mà chắc ít người để ý:
    Ngày mai em đi / biển nhớ em quay về nguồn
    Gọi trùng dương gió ngập hồn / bàn tay chăn gió mưa sang...
    Bàn tay chăn gió mưa sang (7). Gió mưa được xem như một bầy cừu hay một bầy dê nhỏ đáng yêu mà bàn tay ai đã chăn dắt sang đây. Hình ảnh mưa gió được làm cho mềm mại và sinh động để hòa nhịp với nỗi nhớ thiết tha đang bay trong trời không.
    Jacques Prévert nói:
    Lõoiseau qui chante dans ma tête
    Et me repète que je tõaime...
    (Con chim hót trong đầu anh /
    Và nhắc lại cho anh biết rằng anh yêu em...)
    Và lời ca trong bài Thereõs A Time, mà Nana Mouskouri hát rất hay, có hình ảnh:
    ... Now you ride the ocean, chase the stars underneath some far-away skies
    And the bird in my heart knows youõre never coming home, never coming home till the day the sea runs dry.
    (Giờ đây anh cưỡi trên biển cả, đuổi theo những
    vì sao dưới những bầu trời xa thẳm
    Và con chim trong trái tim em biết rằng anh chẳng bao giờ quay về, chẳng bao giờ quay về cho đến khi nào biển cạn khô dòng.)
    Hình ảnh con chim hót trong đầu hay trong trái tim của một con người không phải là hình ảnh có thể xảy ra trong thời xa xưa, chẳng hạn như trong thời của ?oTuyết Hồng Lệ Sử?; nhưng nó là hình ảnh tự nhiên để diễn tả cảm xúc của thời năm mươi, sáu mươi, và sau đó nữa. Trịnh Công Sơn có thể chịu ảnh hưởng trong việc sử dụng biểu tượng này. Nhưng hình ảnh chim gắn với cảm xúc trong ca từ của ông được vẽ bằng một nét mạnh bạo và độc đáo hơn nhiều:
    Trong trái tim con chim đau nằm yên /
    Ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu

    Trên giọt máu cuồng điên / Con chim đứng lặng câm
    Khi về trong mùa Đông / Tay rong rêu muộn màng...
    Trông đợi những cơn mưa, Trịnh Công Sơn viết:
    Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua
    ?oMưa? được coi như những chuyến xe mà tác giả là người chờ ngóng mong đợi chúng. Để làm gì? Có thể là để lên đường đi đến cõi mộng mơ của mình chăng? Cũng nói về những chuyến mưa như thế, nhưng ở đây là những chuyến mưa đêm, Mai Thảo có viết một câu với đại ý là ?otừ những vùng xa thẳm, mưa bay qua những ga sao và những trạm trời để đến với ta.?
    Tôi thử đưa ra một số những hình ảnh và ngôn ngữ ấy để chứng tỏ rằng thời đại làm nên con người. Và nó làm nên con người qua những hình ảnh và ngôn ngữ cùng lối suy nghĩ riêng của nó. Chính vì thế, qua thế giới nhạc ngữ của Trịnh Công Sơn, ta nhận thấy rõ anh là một người chứng quan trọng của thời đại. Âm nhạc của anh cùng với ngôn ngữ và hình ảnh trong nó đã đem lại cho chúng ta một cái nhìn rõ nét về giai đoạn mà nó ra đời. Và Trịnh Công Sơn quả thật đã là người sai sử ngôn ngữ một cách tuyệt diệu.
    Sau đây, trước hết, chúng ta hãy thử khảo sát một số ám ảnh của Trịnh Công Sơn.
    [...]
    (...) Một ám ảnh khác, thu gọn trong thân phận riêng của Trịnh Công Sơn, với những biểu hiện rất riêng của người nhạc sĩ, là ám ảnh về sự cô đơn của chính mình.
    Hãy nghe anh nói về thế giới của anh:
    Trời cao đất rộng / Một mình tôi đi / Một mình tôi đi
    Đời như vô tận / Một mình tôi về
    Một mình tôi về với tôi
    (Lặng Lẽ Nơi Này)
    (...) Đời chỉ là một cuộc đi. Đi mãi đi mãi. Và đi một mình. Đi một mình như thế qua suốt cuộc trần gian này:
    Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
    Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên
    (Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng)
    (...) Nếu có về chốn cũ của mình, anh chỉ nhìn thấy sự hoang vu quạnh quẽ. Tất cả những gì là êm ấm, gần gũi ngày xưa, bây giờ chỉ còn là sự hờ hững, vắng không, tăm tối, khiến cho nỗi cô đơn trong anh càng đầy, càng nặng:
    Nhà im đứng cửa cài đóng then
    Vườn mưa xuống hành lang tối tăm
    Về thôi nhé, cổng chào cuối sân
    Hờ hững thế loài hoa trắng hồng
    (Vườn Xưa)
    Trịnh Công Sơn nhìn ngắm thân phận mình như một cái gì hư ảo, chóng tàn, chóng mất. Phần nào giống như Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục ngày xưa:
    Thân như băng kiến hiệu
    Mệnh tựa chúc đương phong
    (Thân như băng gặp nắng trời
    Mệnh như ngọn đuốc giữa gió)
    Dù sao, cái nhìn của anh về thân phận mình có chút gì mong manh, dễ tàn, dễ mất hơn:
    Đời ta có khi là đốm lửa
    Một hôm nhóm trong vườn khuya
    (Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ)
    ánh lửa ấy, rồi cũng như vệt nắng chiều mong manh hấp hối kia, sẽ đậy lại một ngày qua.
    (còn tiếp...)

Chia sẻ trang này