1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập các bài viết về Trịnh Công Sơn (mục lục tra cứu: trang 1)

Chủ đề trong 'Nhạc TRỊNH' bởi ATC, 02/04/2001.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Montréal, còn nhớ hay đã quên?​
    Hồ Đình Nghiêm
    1978
    Tôi lập gia đình. Đó là năm tôi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật. Căn nhà số 14 Đinh Công Tráng, nơi anh chị tôi thuê, cũng là chốn dùng làm dịa điểm sum vầy cho một buổi tiệc nhỏ, hạn chế người dự.
    Gia chủ, họa sĩ Đinh Cường dựng một khung bố trắng lên giá vẽ. Những ống màu nặn ra trên palette. Mọi thứ được chuẩn bị. Và chờ đợi. Cũng giống như chị tôi, từ sau bếp đã một mình hoàn tất những món ăn, củi lửa thôi xông khói.
    Một tiệc cưới hơi khác thường? Không, nó chỉ được xem như lời từ giã đã chẳng thể nói ra. Chúng tôi sẽ lên đường sau đó. Con đường có sóng cao, có biển rộng. Và tất cả những bất trắc chờ đón.
    Khách lần lượt đến, những người mà anh chị tôi xem như thân thích trong suốt thời gian thăng trầm của Huế nhiều biến động. Bửu Ý, Định Giang, Tôn Thất Văn, Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn và sau rốt, Dương Đình Sang, một hoạ sĩ trẻ. Tất cả ngồi quanh chiếc bàn gỗ. Vai sát vai, rượu rót ra ly và mọi người chúc tôi những lời tốt lành về một ngã rẽ giữa cuộc đời mà tôi vừa tìm thấy. Theo yêu cầu của Đinh Cường, tất cả những ai có mặt hãy thay phiên lên vẽ bất kỳ thứ gì vào tấm bố trắng. Nó sẽ là món quà mọn nhằm trao gửi cho đôi vợ chồng rụt rè ngồi kia. Và nét cọ khởi đầu của Đinh Cường là hàng chữ "Mùa hạ Nghiêm xuôi dòng Ngọc Bích". Một vạt màu xanh vắt ngang, tựa đường chân trời rộng mở. Trịnh Công Sơn ghi chú tiếp: "Hạnh phúc là điều không ai có thể hiểu được, nhưng Nghiêm+Bích phải hiểu". Cây cọ nhúng sơn hai ba bận cho thứ thông điệp đó đi tới tận cùng dấu chấm. Anh ta vẫn thế. Chữ viết đẹp, áo quần rất có gu. (Thời điểm đó chưa có chữ xịn) Giọng nói nhỏ nhẹ, ưa dùng chữ "Thiệt à?" khi góp tiếng, như một kẻ đi giữa cuộc đời mà lòng luôn mang nỗi hoài nghi. Anh khác với Bửu Chỉ. Bửu Chỉ to tiếng hơn. Sẵn sàng tranh luận bất cứ đề tài gì với giọng điệu rất Mệ và luôn giành phần thắng. Tự thân Bửu Chỉ lúc ấy cũng toát ra dáng dấp của một nghệ sĩ. Quần Jean xanh, chemise đen, nón béret made in France và bên dưới, những lọn tóc quăn luôn che phủ vành tai. Bửu Chỉ là người động thủ sau chót, anh đứng trước giá vẽ, thao tác có hơi lâu và khi trở về chỗ ngồi, mọi người đều hiểu bức tranh kia đã hoàn chỉnh tới độ chẳng ai được quyền lên thêm thắt. Cuộc rượu tràn tiếng cười, cái nóng của mùa hè Huế phải chịu dừng chân ngoài thềm tối, hay đúng ra, sự oi ả thường hằng của nó khi tràn vào đã không làm cho chúng tôi mỏi mệt. Và cuối cùng tôi lên đường dong duổi mà lòng vẫn ắp đầy hình ảnh buổi tiệc tình thân kia. Ở chốn dung thân mới, nhớ về cố quận là nhớ cái đêm chếnh choáng men say nọ. Say vì tình yêu tinh khôi với người bạn đời - đã đành - say luôn với những tên tuổi đàn anh đến chung vui mà trong trí bấy giờ biết chắc một điều: Khó còn cơ hội nhìn thấy mặt mũi họ một lần nào khác. Như thể "đôi chân ta đi sông còn ở lại".
    1992
    Tôi đã gặp lại anh. Montréal không có đường phượng bay, nhưng chiều tà thảng hoặc cũng dấy lên đôi lần bức rức hệt cơn gió Huế "lăng loàn" thuở nọ. Trời nóng và một người vừa đến từ xứ nhiệt đới. Anh vẫn thế, ốm yếu, từ tốn, nhỏ nhẹ. Nhưng ở sự hao gầy kia, có thể đã cưu mang một thứ khí hậu khác thường khi đến đây. Những lời anh nói ra luôn ngầm chứa sự quyến rũ và người nghe sẽ đón nhận sau đó một kết luận lý thú. Hấp lực ấy là thành tựu của một người đi nhiều hiểu rộng, và sau hết, người ấy phải có một trái tim giàu lòng nhân. Chúng tôi nhắc lại những gì còn nhớ. Một tối nào quây quần ngoài trời, giữa đám cỏ mọc cao ở sân trường Mỹ thuật, đêm mà Lê Thành Nhơn vừa hoàn thành bức tượng Phan Bội Châu đồ sộ. Lan man hồi ức, "nghe những tàn phai", cuối cùng là tôi đã buồn thật lòng vì số phận của bức tranh siêu thực do nhiều bàn tay tạo nên năm xưa ở tiệc cưới. Chẳng rõ nó phiêu dạt nơi nào sau ngày tôi âm thầm bỏ đi với đôi bàn tay trắng? Tôi không lạ khi biết anh từng có những lần trưng bày tranh thành công. Còn anh, anh ngạc nhiên khi hay ra tôi đã xuất bản một hai tập truyện ngắn. Anh hỏi:
    -Toa bỏ cọ rồi sao ?
    -Bỏ. Tôi nói không suy nghĩ.
    -Viết lách có khá không?

    Tôi không hiểu chữ khá. Tôi đùa: "Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy!" Anh cười, so vai khi kể cho tôi nghe một câu chuyện, như thể biểu tôi hãy viết lại nó. Chuyện về một bức tượng, về một bà Việt kiều, về một nhân vật nữ anh hùng du kích. Tóm gọm diễn tiến câu chuyện đi gần tới mức phi lý. Nó tượng trưng rõ ràng về cái vô thường của cuộc sống. Tôi xúc động và tôi hiểu, tôi chẳng thể viết được nó ra trên giấy. Tôi nói với anh, tôi không phải là nhà văn. Tôi thấy mình yếu đuối trước những hoàn cảnh khốc liệt. Tôi thiếu thốn nghèo khổ với vốn chữ nhỏ nhoi. Và tôi thành thật khi có câu trả lời: Viết lách không khá!
    Giây phút riêng tư chẳng thể kéo dài. Anh vốn là người của đám đông, một đám đông thái quá. Và đám đông nào cũng có vài kẻ làm chúng ta dễ mỏi mệt. Rượu rót ra, thần sắc anh có vẻ hư hao. Anh bảo, moa có cảm tưởng chuyến đi này như từ Huế vào Sài-gòn. Chỉ vậy thôi. Có nghĩa là mặt mày, thức ăn, ngôn ngữ. . . mọi thứ đều quen thuộc. Tây đầm đâu? Hãy parler français cho moa nghe. Những người thân cận như muốn quản thúc anh. Họ có lí do tế nhị, tránh né tối đa những điều phiền muộn xảy tới, ảnh hưởng xấu đến cuộc đi chơi xa của anh. Có lẽ anh cũng cảm nhận được một điều, đó là chúng ta đang sống giữa gian đoạn đầy cả nhiễu nhương bội bạc. Cái thời điểm mà triết thuyết anh từng đưa ra vẫn chưa có kẻ đồng thuận: "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình yên ".
    Thơ anh làm ở Montréal nói được với chúng ta đôi điều:
    "Mặc đời ô trược vừa qua
    Tấm thân nhỏ nhặt người la mắng người
    Buồn phiền vỡ mộng đường dài
    Ta xin một góc ta ngồi với ta".

    Ngao ngán. Chẳng vui. Cầm lòng không đậu để lời thơ dấy lên chút thất vọng. Tôi yêu chữ "nhỏ nhặt" kia biết mấy? Cả một phận người thì có to tát là bao? Tôi ngậm ngùi, ngồi thõng tay để anh vẽ cho tôi một tấm portrait bằng phấn màu trên giấy cứng, và muốn bảo quản nó khỏi hư hao có vị nữ lưu đã nhanh tay mang bình keo xịt tóc ra phủ phất lên đó một lớp bụi sương thơm mùi hoa hồng.
    Anh ôm đàn, cây guitare của Hoàng Xuân Giang, tác giả hai câu thơ "Có người ngậm sợi tóc mai. Mà nghe cái lạnh giêng hai trở về". Đàn không nắn phím so dây, tự thân nó đã hoàn chỉnh, hoặc có thấp cao sai lạc đôi phần cũng chẳng gây trở ngại cho tiếng hát kia. Ngôn từ trong những nhạc phẩm ấy đã có mãnh lực phủ chụp lên tất cả mọi khiếm khuyết mà người ta gọi là phần kỹ thuật. Tôi chưa nghe các sáng tác mới của anh. Sự háo hức đi trước, cái thoả mãn đi sau; hai thứ đó đã dìm tôi xuống ở trạng thái bần thần. Một nỗi niềm gì vừa đi thấu suốt vào lòng để lại trên da thịt chút rợn cảm đến độ phải xiêu người. Tôi hiểu, nhạc Trịnh Công Sơn sở dĩ lên đứng ngôi vị hàng đầu là do bởi sự chắt lọc chữ dùng của anh. Những chữ mà người khác không thể tìm bới ra. Nói theo Krishnamurti: "Đó là thứ ánh sáng của tia chớp nháng lên bầu trời trong khoảnh khắc. Có người nhìn thấy nó, có người không". Anh đã từng thấy rồi để lại cho đời những "khoảng khắc lung linh".
    2001
    Lần này, anh đã có "một cõi đi về". Không mộng mị. Người ta đã nói, và viết nhiều về sự lên đường ấy. Nhưng thủy chung chẳng một ai được như anh từng cất lời "Cho một người vừa nằm xuống". Những kẻ còn sống, ngang trang lứa anh, và cả thế hệ sau anh đều im tiếng. Bóng dáng anh còn đó, họ sợ hãi khi phải dẫm lên con đường anh từng khai phá chăng? Anh đi và để lại một khoảng trống lớn, không gì có thể bù đắp.
    Hôm kia, ngồi bó gối trên núi Mont Royal nhìn chiều tà đổ về trên phố lạ, tôi bàng hoàng chợt nhận ra cái mong manh của một tia sáng đang bị mây phủ che. Bữa tiệc năm xưa đủ mặt "quần hào" xứ thần kinh giờ này đã khiếm diện thực sự một Định Giang, một Trịnh Công Sơn, một Bửu Chỉ. Mỗi một tia lửa rơi xuống bên kia đời và hoàng hôn đang vây quanh chỗ tôi ngồi lặng lẽ. Mốt mai rồi tôi cũng khăn gói trùng phùng. Trong khi còn làm đứa "nhỏ nhặt" giữa cuộc đời mênh mang này tôi xin viết lại đôi điều nhặt nhỏ, gọi là vì anh để "nương nhờ chút thở than".
    Hạnh phúc là điều không ai có thể hiểu được. Phải không anh Trịnh Công Sơn? Lời anh chúc hôm nào ở tiệc cưới, mong muốn tôi hiểu, tôi sẽ trình bày rõ nguồn cội ấy cùng anh, bữa mô chúng ta ngồi góc khuất lấp ở một chốn thực sự cách biệt với nhân gian. Lại gặp mặt Bùi Giáng thoăn thoắt tới gần, anh ôm đàn đón chào "Còn hai con mắt khóc người một con". Liệu khi ấy lệ có còn tiếp tục được chảy ra?
    Phút giây này tôi chỉ xin vỏn vẹn một điều: Ước ao mình sẽ mãi được hồn nhiên.
    nguồn: www.tcs-forum.org
  2. Guest

    Guest Guest

    Được tôn vinh ở giải thưởng âm nhạc hòa bình thế giới (WPMA) có lẽ là món quà tuyệt diệu nhất cho những nỗ lực trong suốt cuộc hành trình dài 40 năm vào bề sâu của âm thanh và ngôn ngữ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
    Sự nghiệp âm nhạc cho hoà bình của Trịnh Công Sơn khởi đầu từ 1965, và thật sự trở thành hiện tượng cuốn hút ở miền Nam Việt Nam khi tập ca khúc Thần thoại, quê hương và thân phận của ông xuất bản vào 1966. Cùng với tình ca, thiền ca là những ca khúc viết về chiến tranh và hòa bình, là khúc sông có dòng chảy mãnh liệt nhất và cũng tha thiết nhất cho chiến tranh không còn và nền hòa bình thật sự cho Việt Nam.
    Như một nhà truyền giáo, tận tụy và khắc khổ, thách thức và tin yêu, Trịnh Công Sơn miệt mài, kiên trì viết và hát, trốn tránh và xuất hiện trong suốt thời kỳ chiến tranh. Từ Sài Gòn ra Huế và ngược lại, đâu đâu lòng ngưỡng mộ của tuổi trẻ miền Nam dành cho những ca khúc tiêu biểu ước mơ của họ mà ông đã viết và cùng họ hát như sóng trào dâng không ngừng:"... Quả tim này dành cho lửa hồng/ Cho hòa bình, cho con người còn chờ đấu tranh..."
    Chính nhờ có dòng nhạc hòa bình đầy xúc cảm như thế, tầm vóc của Trịnh Công Sơn vượt qua mọi giới hạn địa lý và văn minh. Từ châu Âu đến bên kia bờ đại dương, Jacques Prel, một người Bỉ, kẻ hát rong tuyệt vời trên các kinh thành của cựu lục địa, đã vận động lòng nhân ái con người thay chỗ chiến tranh, Joan Baez và Bob Dylan đã làm cho người Mỹ xuống đường từ NewYork cho đến California, đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, bằng các ca khúc và tiếng hát phản chiến đầy cuốn hút.
    Nhạc phản chiến của họ cũng như các ca khúc hòa bình của Trịnh Công Sơn như thứ ánh sáng của lương tâm, thứ ánh sáng quý giá cuối cùng dẫn dắt con người ra khỏi vùng u minh của tham vọng. Từ đó họ là bạn của nhau mặc dù chưa hề được thấy mặt một lần. Chính Joan Baez, nữ ca sĩ nổi tiếng người Mỹ gốc La tinh nói với Bob Dylan về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, và gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam. Và giờ đây, cả 3 tên tuổi này cùng được tôn vinh trong chương trình WPMA, tổ chức tại sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội vào 22/6.
    "Nơi đây tôi chờ/ nơi kia anh chờ/ trong căn nhà nhỏ/ mẹ cũng ngồi chờ/ anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu/ người tù ngồi chờ.../ Chờ tin mừng sông/ chờ núi cũng chờ mong/ Chờ trên vầng trán mẹ thắp lên bình minh/ Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thương vô bờ..." (Chờ nhìn quê hương sáng chói).
    Những lời bài hát như thế làm sao không mang thế giới đến gần với Việt Nam hơn. Chính John Schafer, người Mỹ từng ở Huế và yêu nhạc Trịnh Công Sơn, hiện là học giả ở Mỹ, viết trong bài tưởng niệm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: "Rất ít cái chết của người danh tiếng làm tôi bàng hoàng như khi nghe tin Trịnh Công Sơn mất. Tôi thấy Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng đến người Việt vào trạc tuổi chúng ta, tương tự như Joan Baez ảnh hưởng đến thế hệ người Mỹ cùng thế hệ với tôi vậy".
    Khi Trịnh Công Sơn qua đời, các báo Nhật đều đăng tin và Diễm xưa được phát lại rất nhiều lần theo yêu cầu của khán giả Nhật. Ở xứ sở hoa anh đào, bài hát của ông mới được dịch ra tiếng Nhật, do ca sĩ Nhật hát và phổ biến trên các đài phát thanh.
    Dẫu sao, một giải thưởng như tên gọi của nó, dù đến muộn với Trịnh Công Sơn, vẫn là một ý nghĩa lớn, đáng ca tụng vì nó đã chọn đúng những người làm nên một thời đại âm nhạc hòa bình, mang tính lịch sử không chỉ với Việt Nam mà cho toàn thế giới.
    Trịnh Cung
    Nguồn : vnexpress
  3. Guest

    Guest Guest

    Được tôn vinh ở giải thưởng âm nhạc hòa bình thế giới (WPMA) có lẽ là món quà tuyệt diệu nhất cho những nỗ lực trong suốt cuộc hành trình dài 40 năm vào bề sâu của âm thanh và ngôn ngữ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
    Sự nghiệp âm nhạc cho hoà bình của Trịnh Công Sơn khởi đầu từ 1965, và thật sự trở thành hiện tượng cuốn hút ở miền Nam Việt Nam khi tập ca khúc Thần thoại, quê hương và thân phận của ông xuất bản vào 1966. Cùng với tình ca, thiền ca là những ca khúc viết về chiến tranh và hòa bình, là khúc sông có dòng chảy mãnh liệt nhất và cũng tha thiết nhất cho chiến tranh không còn và nền hòa bình thật sự cho Việt Nam.
    Như một nhà truyền giáo, tận tụy và khắc khổ, thách thức và tin yêu, Trịnh Công Sơn miệt mài, kiên trì viết và hát, trốn tránh và xuất hiện trong suốt thời kỳ chiến tranh. Từ Sài Gòn ra Huế và ngược lại, đâu đâu lòng ngưỡng mộ của tuổi trẻ miền Nam dành cho những ca khúc tiêu biểu ước mơ của họ mà ông đã viết và cùng họ hát như sóng trào dâng không ngừng:"... Quả tim này dành cho lửa hồng/ Cho hòa bình, cho con người còn chờ đấu tranh..."
    Chính nhờ có dòng nhạc hòa bình đầy xúc cảm như thế, tầm vóc của Trịnh Công Sơn vượt qua mọi giới hạn địa lý và văn minh. Từ châu Âu đến bên kia bờ đại dương, Jacques Prel, một người Bỉ, kẻ hát rong tuyệt vời trên các kinh thành của cựu lục địa, đã vận động lòng nhân ái con người thay chỗ chiến tranh, Joan Baez và Bob Dylan đã làm cho người Mỹ xuống đường từ NewYork cho đến California, đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, bằng các ca khúc và tiếng hát phản chiến đầy cuốn hút.
    Nhạc phản chiến của họ cũng như các ca khúc hòa bình của Trịnh Công Sơn như thứ ánh sáng của lương tâm, thứ ánh sáng quý giá cuối cùng dẫn dắt con người ra khỏi vùng u minh của tham vọng. Từ đó họ là bạn của nhau mặc dù chưa hề được thấy mặt một lần. Chính Joan Baez, nữ ca sĩ nổi tiếng người Mỹ gốc La tinh nói với Bob Dylan về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, và gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam. Và giờ đây, cả 3 tên tuổi này cùng được tôn vinh trong chương trình WPMA, tổ chức tại sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội vào 22/6.
    "Nơi đây tôi chờ/ nơi kia anh chờ/ trong căn nhà nhỏ/ mẹ cũng ngồi chờ/ anh lính ngồi chờ trên đồi hoang vu/ người tù ngồi chờ.../ Chờ tin mừng sông/ chờ núi cũng chờ mong/ Chờ trên vầng trán mẹ thắp lên bình minh/ Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thương vô bờ..." (Chờ nhìn quê hương sáng chói).
    Những lời bài hát như thế làm sao không mang thế giới đến gần với Việt Nam hơn. Chính John Schafer, người Mỹ từng ở Huế và yêu nhạc Trịnh Công Sơn, hiện là học giả ở Mỹ, viết trong bài tưởng niệm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: "Rất ít cái chết của người danh tiếng làm tôi bàng hoàng như khi nghe tin Trịnh Công Sơn mất. Tôi thấy Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng đến người Việt vào trạc tuổi chúng ta, tương tự như Joan Baez ảnh hưởng đến thế hệ người Mỹ cùng thế hệ với tôi vậy".
    Khi Trịnh Công Sơn qua đời, các báo Nhật đều đăng tin và Diễm xưa được phát lại rất nhiều lần theo yêu cầu của khán giả Nhật. Ở xứ sở hoa anh đào, bài hát của ông mới được dịch ra tiếng Nhật, do ca sĩ Nhật hát và phổ biến trên các đài phát thanh.
    Dẫu sao, một giải thưởng như tên gọi của nó, dù đến muộn với Trịnh Công Sơn, vẫn là một ý nghĩa lớn, đáng ca tụng vì nó đã chọn đúng những người làm nên một thời đại âm nhạc hòa bình, mang tính lịch sử không chỉ với Việt Nam mà cho toàn thế giới.
    Trịnh Cung
    Nguồn : vnexpress
  4. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Cõi Nhạc Trịnh Công Sơn,
    những cánh cửa mở
    từ một trái tim Việt Nam rất lớn

    Du Tử Lê
    Tôi vẫn nghĩ, chia ly và bất hạnh là, phần đất mầu mỡ nhất cho những hạt giống hiếm quý nẩy sinh, tươi tốt.
    Tôi vẫn nghĩ, đọa đầy và vĩnh biệt là, những thửa ruộng đầu tiên, mang lại cho nhân loại, những mùa gặt nhân phẩm cao quý và những hạt mầm trí tuệ vạm vỡ mai sau.
    Tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của mỗi thiên tài, trong từng lãnh vực, chính là sự khai mở một cánh cửa khác cho tâm hồn hay no bộ. Nó, tựa những tia sáng hồng ngọc, có khả năng cắt bỏ xích xiềng vong thân, giải phóng tâm thức đọa lạc. Nó, tựa những bông hoa cảm thông, mọc lên từ những phần thịt xương đã lấp.
    Nhìn tự lăng kính này, nhạc Trịnh Công Sơn, đã mở ra không chỉ một mà, rất nhiều chân trời, rất nhiều cửa khác.
    Sự định hình của cõi âm nhạc mang tên Trịnh Công Sơn là một định hình rõ, dứt. Như một định tinh, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã gửi đi những tín hiệu thương yêu, phát ra những nguồn ánh sáng đùm bọc.
    Cùng với vận nước, cõi nhạc Trịnh Công Sơn nổi trôi theo từng mái đầu Việt Nam, cúi xuống. Cùng với tổ quốc, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã đứng hẳn về phía mái đầu Việt Nam, ngẩng cao.
    Sự ở được và ở với chiều dài của năm tháng, vực sâu của lịch sử, cõi nhạc Trịnh Công Sơn tự nó, đã nói lên sự hòa nhập, thấm tan trong từng tế bào, lẫn trong từng huyết quản nòi giống.
    Người ta từng cáo buộc nhạc Trịnh Công Sơn là, những lượng bạch phiến, không thừa cũng đủ độ làm tê liệt sức đề khŸng hay khả năng miễn nhiễm tiềm tàng trong cơ thể...
    Người ta từng cáo buộc cõi nhạc Trịnh Công Sơn là, những khối chất nổ không dư, cũng đủ đưa tới giựt sập một thể chế...
    Người ta cũng từng có những âm mưu thô bỉ dùng cõi nhạc Trịnh Công Sơn, như một vũ khí cân no xâm thực ý chí đu tranh hoặc niềm tin nơi một lý tưởng...
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi khai thác, lợi dụng, chỉ cho thấy, cõi nhạc Trịnh Công Sơn là những hạt kim cương bất hoại.
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi lợi dụng, khai thác, đều không làm mờ được những lượng sáng thủy tinh nguyên chất, chiếu ra từ cõi nhạc này.
    Tín hiệu phát đi từ những âm vực Trịnh Công Sơn, đã là những tín hiệu của nắng mưa, đời kiếp.
    Ánh sáng phát đi từ những giòng nhạc Trịnh Công Sơn, đã là những ánh sáng của lầm than sẽ mất, đời sau sẽ còn.
    Cuộc chiến giữa các ý thức hệ, hay giữa những đối lực đã dứt, hai mươi lăm năm đã lùi xa, người ta đã kiểm điểm những thương vong, kết toán những đổ nát..., cùng lúc với nỗ lực thiết kế những rào cản, từ nhiều phía, đã không tắt dập được cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Nó vẫn bay bổng, vẫn thẩm thu trong những nhịp đập Việt Nam lưu lạc.
    Từ những đốm lửa bp bênh trại đảo, từ những bục gỗ chói lòa điện tử hôm nay, từ những miếng đất trời trắng tuyết... ở đâu, cõi nhạc Trịnh Công Sơn, cũng vẫn như một có mặt thân ái, một an ủi, xẻ chia tận cùng.
    Mười sáu năm hết rồi bom đạn mà, Việt Nam cuối đất cùng trời, vẫn tiếp tục nâng niu cõi nhạc Trịnh Công Sơn qua hàng trăm ngàn thước băng nhựa, như tìm lại chính mình.
    Những VN nạn không ngừng cất lên. Những du hỏi tiếp tục được đánh xuống.
    Tại sao? Tại sao? ôi! Tại sao?
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những cánh cửa mới cho âm nhạc Việt với tính chất tiên tri, qua những cảm nhận siêu hình? Như bao nhiêu năm làm kiếp con người - chợt một chiều tóc trắng như vôi - lá úa trên cây rụng đầy - cho trăm năm và chết một ngày.
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những chân trời khác cho âm nhạc Việt Nam, với minh chứng thi, ca là một? Qua những hình ảnh thơ, mang ẩn dụ nhân sinh. Hay Trịnh Công Sơn đã thi ca hóa những phi lý, ngây ngô của ngôn ngữ để bẩy bật lên cái khía cạnh bất toại của kiếp người? Họa diệt vong của một nòi giống? Như vết lăn trầm. Như tuổi đá buồn. Như tình yêu như trái phá. Như một đàn bò không luống cỏ. Như chưa một nhạc sĩ nào lựa chọn những như như thế.
    Tất cả mọi phải chăng chỉ là hệ quả của thói quen duy lý thấp tè trên mặt đất.
    Chẳng bao giờ ta có được một giải thích minh bạch trước một thiên tài. Cũng như chẳng bao giờ ta có một soi rọi thấu đáo trước một trái tim vốn lớn. Mỗi chúng ta, chỉ nắm được một phần sự thật. Mỗi chúng ta, trong hữu hạn buồn thảm của mình, với một đôi chân, chỉ có thể chọn lựa bước về, một phía trời thích ứng.
    Điều duy nhất ta có thể quả quyết, đó là cõi nhạc Trịnh Công Sơn, khởi đi từ một trái tim Việt Nam tha thiết.
    Tôi chưa được đọc chữ viết của nhạc sĩ Văn Cao về cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng chưa được xem sắc màu của họa sĩ Thái Tuấn về chân dung Trịnh Công Sơn. Nhưng tôi tin, hai tài năng hiếm quý này, qua từng loại ngôn ngữ, đã thấy trái tim Việt Nam trong ***g ngực Trịnh Công Sơn là một trái tim rất lớn.
    ở đây, tôi chấp nhận bất trắc, nếu có, để được nói rằng, tôi muốn cảm ơn Trịnh Công Sơn, người đã cho tôi cùng lúc vực sâu và núi cả.
    Nguồn: http://dactrung.net
  5. TCSKL

    TCSKL Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/07/2002
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    0
    Cõi Nhạc Trịnh Công Sơn,
    những cánh cửa mở
    từ một trái tim Việt Nam rất lớn

    Du Tử Lê
    Tôi vẫn nghĩ, chia ly và bất hạnh là, phần đất mầu mỡ nhất cho những hạt giống hiếm quý nẩy sinh, tươi tốt.
    Tôi vẫn nghĩ, đọa đầy và vĩnh biệt là, những thửa ruộng đầu tiên, mang lại cho nhân loại, những mùa gặt nhân phẩm cao quý và những hạt mầm trí tuệ vạm vỡ mai sau.
    Tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của mỗi thiên tài, trong từng lãnh vực, chính là sự khai mở một cánh cửa khác cho tâm hồn hay no bộ. Nó, tựa những tia sáng hồng ngọc, có khả năng cắt bỏ xích xiềng vong thân, giải phóng tâm thức đọa lạc. Nó, tựa những bông hoa cảm thông, mọc lên từ những phần thịt xương đã lấp.
    Nhìn tự lăng kính này, nhạc Trịnh Công Sơn, đã mở ra không chỉ một mà, rất nhiều chân trời, rất nhiều cửa khác.
    Sự định hình của cõi âm nhạc mang tên Trịnh Công Sơn là một định hình rõ, dứt. Như một định tinh, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã gửi đi những tín hiệu thương yêu, phát ra những nguồn ánh sáng đùm bọc.
    Cùng với vận nước, cõi nhạc Trịnh Công Sơn nổi trôi theo từng mái đầu Việt Nam, cúi xuống. Cùng với tổ quốc, cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã đứng hẳn về phía mái đầu Việt Nam, ngẩng cao.
    Sự ở được và ở với chiều dài của năm tháng, vực sâu của lịch sử, cõi nhạc Trịnh Công Sơn tự nó, đã nói lên sự hòa nhập, thấm tan trong từng tế bào, lẫn trong từng huyết quản nòi giống.
    Người ta từng cáo buộc nhạc Trịnh Công Sơn là, những lượng bạch phiến, không thừa cũng đủ độ làm tê liệt sức đề khŸng hay khả năng miễn nhiễm tiềm tàng trong cơ thể...
    Người ta từng cáo buộc cõi nhạc Trịnh Công Sơn là, những khối chất nổ không dư, cũng đủ đưa tới giựt sập một thể chế...
    Người ta cũng từng có những âm mưu thô bỉ dùng cõi nhạc Trịnh Công Sơn, như một vũ khí cân no xâm thực ý chí đu tranh hoặc niềm tin nơi một lý tưởng...
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi khai thác, lợi dụng, chỉ cho thấy, cõi nhạc Trịnh Công Sơn là những hạt kim cương bất hoại.
    Trước sau, mọi cáo buộc, mọi lợi dụng, khai thác, đều không làm mờ được những lượng sáng thủy tinh nguyên chất, chiếu ra từ cõi nhạc này.
    Tín hiệu phát đi từ những âm vực Trịnh Công Sơn, đã là những tín hiệu của nắng mưa, đời kiếp.
    Ánh sáng phát đi từ những giòng nhạc Trịnh Công Sơn, đã là những ánh sáng của lầm than sẽ mất, đời sau sẽ còn.
    Cuộc chiến giữa các ý thức hệ, hay giữa những đối lực đã dứt, hai mươi lăm năm đã lùi xa, người ta đã kiểm điểm những thương vong, kết toán những đổ nát..., cùng lúc với nỗ lực thiết kế những rào cản, từ nhiều phía, đã không tắt dập được cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Nó vẫn bay bổng, vẫn thẩm thu trong những nhịp đập Việt Nam lưu lạc.
    Từ những đốm lửa bp bênh trại đảo, từ những bục gỗ chói lòa điện tử hôm nay, từ những miếng đất trời trắng tuyết... ở đâu, cõi nhạc Trịnh Công Sơn, cũng vẫn như một có mặt thân ái, một an ủi, xẻ chia tận cùng.
    Mười sáu năm hết rồi bom đạn mà, Việt Nam cuối đất cùng trời, vẫn tiếp tục nâng niu cõi nhạc Trịnh Công Sơn qua hàng trăm ngàn thước băng nhựa, như tìm lại chính mình.
    Những VN nạn không ngừng cất lên. Những du hỏi tiếp tục được đánh xuống.
    Tại sao? Tại sao? ôi! Tại sao?
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những cánh cửa mới cho âm nhạc Việt với tính chất tiên tri, qua những cảm nhận siêu hình? Như bao nhiêu năm làm kiếp con người - chợt một chiều tóc trắng như vôi - lá úa trên cây rụng đầy - cho trăm năm và chết một ngày.
    Phải chăng cõi nhạc Trịnh Công Sơn đã mở ra những chân trời khác cho âm nhạc Việt Nam, với minh chứng thi, ca là một? Qua những hình ảnh thơ, mang ẩn dụ nhân sinh. Hay Trịnh Công Sơn đã thi ca hóa những phi lý, ngây ngô của ngôn ngữ để bẩy bật lên cái khía cạnh bất toại của kiếp người? Họa diệt vong của một nòi giống? Như vết lăn trầm. Như tuổi đá buồn. Như tình yêu như trái phá. Như một đàn bò không luống cỏ. Như chưa một nhạc sĩ nào lựa chọn những như như thế.
    Tất cả mọi phải chăng chỉ là hệ quả của thói quen duy lý thấp tè trên mặt đất.
    Chẳng bao giờ ta có được một giải thích minh bạch trước một thiên tài. Cũng như chẳng bao giờ ta có một soi rọi thấu đáo trước một trái tim vốn lớn. Mỗi chúng ta, chỉ nắm được một phần sự thật. Mỗi chúng ta, trong hữu hạn buồn thảm của mình, với một đôi chân, chỉ có thể chọn lựa bước về, một phía trời thích ứng.
    Điều duy nhất ta có thể quả quyết, đó là cõi nhạc Trịnh Công Sơn, khởi đi từ một trái tim Việt Nam tha thiết.
    Tôi chưa được đọc chữ viết của nhạc sĩ Văn Cao về cõi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi cũng chưa được xem sắc màu của họa sĩ Thái Tuấn về chân dung Trịnh Công Sơn. Nhưng tôi tin, hai tài năng hiếm quý này, qua từng loại ngôn ngữ, đã thấy trái tim Việt Nam trong ***g ngực Trịnh Công Sơn là một trái tim rất lớn.
    ở đây, tôi chấp nhận bất trắc, nếu có, để được nói rằng, tôi muốn cảm ơn Trịnh Công Sơn, người đã cho tôi cùng lúc vực sâu và núi cả.
    Nguồn: http://dactrung.net
  6. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Ảo giác Trịnh Công Sơn
    Lê Hữu
    Trong xuân thì thấy bóng trăm năm...
    (Gần Như Niềm Tuyệt Vọng, TCS)
    Làm gì có chuyện ảo. Làm sao biết ảo hay không ảo? Làm sao em biết bia đá không đau? Làm sao em biết đời sống buồn tênh? Làm sao... mà trả lời.
    Ảo, nghĩa là không thực. Những gì thuộc về "ảo" đều là... ảo cả, ảo vọng tuổi trẻ, ảo tưởng hòa bình, ảo ảnh cuộc đời... vân vân. Tôi không rõ là ngày trước, khi viết về một hiện tượng, một tiếng hát, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã phát giác được cái "ảo" từ những góc nhìn nào. Khuôn mặt liêu trai, mái tóc liêu trai, vóc dáng liêu trai, giọng hát liêu trai, tất cả hiện ra dưới ánh đèn mầu... liêu trai mờ ảo của phòng trà, đủ để tạo nên một "Ảo Ảnh Thanh Thúy"?
    Khác với ảo ảnh, thường là những tìm kiếm, đuổi bắt (tìm nhưng không gặp được, đuổi nhưng không bắt được, như vũng nước trong sa mạc, như những bong bóng xà-phòng nhiều màu sắc, như chiếc bóng của mỗi người...), ảo giác ở ngay trong đầu, không phải tìm kiếm đâu xa, ẩn nấp sẵn đâu đó, có dịp là xuất đầu lộ diện. Ảo giác có khi là tưởng tượng, có khi là đóng kịch, là giả vờ, là bị đánh lừa hay tự đánh lừa, là tưởng vậy mà... không phải vậy, khiến dẫn đến những lầm lạc trong nhận thức, chẳng còn biết đâu là thực là giả.
    Đọc một cuốn sách, xem một bức tranh, nghe một bài nhạc..., đôi khi trong thưởng ngoạn nghệ thuật, ảo giác cũng thấp thoáng, chập chờn. Trường hợp Trịnh Công Sơn (TCS) là một ví dụ.
    1. Ảo giác ngôn ngữ TCS
    Thật và giả :
    Ảo giác, trước hết đến từ chữ nghĩa TCS.
    "Toàn bộ âm nhạc TCS đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực..."(1), nhận xét này của nhạc sĩ Phạm Duy quả có đúng, mặc dầu không phải tranh trừu tượng lúc nào cũng đẹp cả. Gọi nhạc TCS là "nhạc... trừu tượng" cũng không sai. Chỉ là chuyện chữ nghĩa ("thơ cụ thể", chẳng hạn). Trừu tượng, nên cần phải vận dụng ít nhiều trí tưởng tượng mới nhìn ra cái đẹp. Hình tượng người nữ trong lời nhạc TCS chẳng hạn:
    Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai...
    Vai em gầy guộc nhỏ...
    Bàn tay xanh xao đón ưu phiền...
    Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao...
    Em gầy ngón dài...
    Ngón tay em dài nên mãi ru thêm ngàn năm...
    Cái đẹp này dường như không được bình thường lắm, có vẻ bệnh hoạn nữa là khác, vì gầy guộc quá, xanh xao quá. Cái đẹp thật mỏng manh, dễ vỡ...
    Nhưng làm sao biết là đẹp? Có chắc là đẹp? Ai nói đẹp? Chắc không phải TCS. Ông không hề nói xấu, nói đẹp gì cả. Ông chỉ mô tả sơ sài, qua loa, đại khái là như vậy, ai muốn hiểu sao thì hiểu.
    Vậy thì đẹp, xấu chỉ là do ta nghĩ, ta tưởng tượng ra đấy thôi. Phải đẹp chứ, có hình tượng người nữ nào ở trong thơ, trong nhạc mà lại không đẹp. Thử hình dung cái đẹp "kiểu TCS". Xem nào, "đôi vai lụa mát" chắc phải... mát rượi! "Đôi môi lửa cháy" chắc phải... bốc lửa! "Da thơm quả ngọt" chắc phải... ngọt lắm, thơm lắm! "Mi cong cỏ mượt" chắc phải... mượt lắm, cong lắm! Không đẹp sao được.
    Thực ra, bức tranh toàn cảnh trong nhạc TCS không hoàn toàn là trừu tượng. Nếu chỉ thuần là tranh trừu tượng, khó lòng giữ chân người xem lâu được. Khách xem tranh sẽ bỏ đi thôi. Điều khiến người xem chịu dừng lại ngắm nghía và trầm trồ trước họa phẩm của TCS chính là vì những tranh ấy không phải lúc nào cũng trừu tượng hay siêu thực. Chỉ đôi ba chỗ thôi, chẳng hạn:
    Tim lăn trên đường mòn..., hoặc
    Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi..., hoặc
    Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô..., hoặc
    Dòng nước mắt sẽ bay trong trời, làm cơn mưa rớt trên chăn gối, lời cỏ cây hát trên da người...
    Còn lại là những chỗ người nghe nhạc, xem tranh đều có thể hiểu được. Cái thu hút trong lời nhạc TCS là những chỗ hiểu được và không hiểu được xen lẫn vào nhau, nằm cạnh nhau. Hiểu hết, hiểu dễ dàng thì đâu còn muốn nghe thêm nữa. Bài hát dù có hay ho, có mùi mẫn tới đâu cũng dễ trở thành cũ, vì mọi câu hỏi đều đã được trả lời, mọi chuyện đều đã được giải quyết xong, giống như là "thôi là hết chia ly từ đây" vậy. Ở ca từ TCS, những vấn nạn vẫn còn nguyên trạng, chưa có lời giải đáp, không có câu trả lời, vì vậy nghe đi nghe lại mà vẫn cứ "mới", vẫn ít thấy nhàm chán, vẫn muốn nghe nữa, nghe nữa...
    Tôi là ai mà còn trần gian thế?
    Tôi là ai mà yêu quá đời này?
    Tôi là ai, là ai, là ai...???

    Những câu hỏi cứ dấy lên mỗi ngày, cứ đeo đẳng theo ta mãi một đời.
    Trở lại với những bức họa trừu tượng, TCS đã lấy gì để vẽ nên những tranh ấy? Chỉ là chữ và nghĩa, không có bất kỳ một chất liệu nào khác. Thử xét qua một ít từ loại, những danh từ, động từ, tính từ... được sử dụng qua bàn tay phù phép của TCS.
    Động từ chẳng hạn, thử lấy chữ nào đó TCS vẫn hay dùng, ví dụ chữ "phơi":
    Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình... (Ru Ta Ngậm Ngùi)
    Chưa nghe nói có ai đem tình ra phơi như phơi áo bao giờ. Phơi chỗ nào? Phơi trên cánh môi thơm chứ còn ở đâu nữa! Đem tình ra phơi cho khô ráo đã là chuyện lạ. Phơi thế nào mà tình không khô mà nắng lại... khô mới lạ hơn nữa:
    Phơi tình cho nắng khô mau... (Tình Xót Xa Vừa)
    Lại có khi là "nắng phơi" chứ không phải "phơi nắng" :
    Nắng phơi trên mầu ngói non tươi... (Chiều Trên Quê Hương Tôi)
    Những động từ khác:
    Treo : treo tình trên chiếc đinh không... (chưa thấy ai mắc, máng, treo cuộc tình bao giờ)
    Khoác : sương khoác mềm vai phố... (như khoác vai tình nhân...)
    Lùa : lùa nắng cho buồn vào tóc em... (chưa thấy ai lùa, hay đuổi bắt nắng bao giờ)
    Nhặt : tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy... (nhặt đã khó, giữ càng khó hơn. Muốn giữ cho khéo, cho chặt, cần học kỹ thuật "Nhốt Gió" của nhà văn Bình Nguyên Lộc)
    Lăn : tim lăn trên đường mòn... (nghe như là phim... kinh dị)
    Trói : trong lòng phố mưa đêm trói chân...
    Ươm : trời ươm nắng cho mây hồng...
    Thắp : ngàn cây thắp nến lên hai hàng...
    Khắc : vết buồn khắc trên da...
    Chở : có con đò chở nắng mưa đi
    Chờ : tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi...
    Người nghe TCS có thể nhặt thêm được rất nhiều động từ như vậy. Các động từ trên là cũ chứ đâu có mới, nhưng lại chở theo sau những ý tưởng, những hình ảnh mới mẻ nên ta tưởng như chúng "mới mẻ". Những động từ ấy, thả ra từ ống tay áo của TCS, trở nên linh hoạt hơn, có sức sống hơn, bắt trí tưởng tượng làm việc nhiều hơn, vì vậy cũng dễ tạo nên những ảo giác.
    Về tính từ, cũng đâu có kém. Chỉ "nắng" và "gió" thôi cũng đã chở theo rất nhiều tính từ (và các từ loại dùng như tính từ): "nắng mềm", "nắng khuya", "nắng hững hờ", "nắng chiều quạnh quẽ", "nắng rất la đà"; "gió vô tình", "gió vô thường", "ngọn gió hư vô", "ngọn gió hư hao", "ngọn gió hoang vu", "ngọn gió quạnh hiu", "gió mùa thu rất ân cần"... Cũng phải kể thêm những danh từ được cho làm tính từ: "nắng thủy tinh", "đời cơm áo", "tay rong rêu", "em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh", "tôi là ai mà còn trần gian thế"...
    Về danh từ, kể sao cho hết. Khi ông nói đến dòng sông, con đường, hoa cỏ, chim muông, đấy không còn là dòng sông, là con đường... hiểu theo nghĩa thông thường. Con sông không còn là con sông, con đường không còn là con đường. Những vật thể, hình tượng ấy đều vừa có thực vừa không có thực, đều nửa thực nửa giả hoặc chỉ là những khái niệm trừu tượng.
    "Dòng sông" chẳng hạn, là biểu tượng của dòng đời, dòng chảy của thời gian. Dòng sông trong lời nhạc TCS còn gợi lên những ý niệm về nỗi chia lìa, biền biệt, mất tăm, mất hút...
    Sông bao lần sông đã ra đi...
    Có một dòng sông đã qua đời...
    Một dòng sông nước cuốn, một cuộc tình không may...
    Tôi như chim ưu phiền, bay về cuối dòng sông...

    Dòng sông nào đây? Chẳng có dòng sông nào cả.
    "Con đường" chẳng hạn, là biểu tượng của cuộc hành trình, là hướng đi, là sự lựa chọn hay tìm kiếm miệt mài...
    Đường nào dìu ta đến cơn say...
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà...
    Người đi tìm mãi suốt con đường...
    Em đi bỏ lại con đường...

    Con đường nào đây? Chẳng có con đường nào cả. Chỉ nghe vậy chứ có thấy đường xá nhà cửa gì đâu. Nào có phải là "con đường xưa em đi" hay "con đường tình ta đi" đâu. Làm gì có con đường nào.
    "Hoa cỏ" cũng vậy. Khi ông viết về những bông hoa, ta có cảm tưởng không dễ gì tìm gặp những bông hoa ấy ở ngoài đời.
    Đóa hoa hồng vùi quên trong tay...
    Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi...
    Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời...
    Có nụ hồng ngày xưa rớt lại bên cạnh đời tôi đây...
    Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường...

    Đóa hoa nào đây? Chẳng có đóa hoa nào cả. Làm gì có chuyện "đóa hoa vô thường" , làm gì có đóa hoa vàng nào "mỏng manh cuối trời" , làm gì có nụ hồng nào "ngày xưa rớt lại bên cạnh đời tôi đây". Những lời ấy thật đẹp nên ta tưởng tượng những bông hoa ấy cũng phải đẹp lắm. Kỳ thực, những bông hoa diễm ảo ấy chỉ nở trong những giấc mơ huyền hoặc hay trong những khu vườn ảo giác.
    Đâu có riêng gì hoa cỏ, thực vật, đến cả chim muông, động vật cũng đều là... giả tưởng.
    Đàn bò vào thành phố, không còn ai hỏi thăm...
    Đàn bò bỗng thấy buồn...
    Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương...
    Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốnxa...
    Trong trái tim, con chim đau nằm im...

    Liệu có ai chịu tin đàn bò, đàn ngựa, chim chóc ấy là... có thực! Ngựa trong những lời nhạc TCS cũng "ảo", cũng chập chờn như bầy ngựa trong tranh của các nhà danh họa chuyên vẽ ngựa.
    Cũng đâu có riêng gì vạn vật, cỏ cây, đến cả nắng mưa, gió bão cũng không còn được hiểu theo nghĩa bình thường. Đây là mưa, là bão:
    Có mưa quanh chỗ nằm...
    Nghe quanh đời mưa bão...
    Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ...

    Đây là nắng, là gió:
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà...
    Nghiêng sang em tôi thấy nắng vàng...
    Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì...

    Đến cả thời tiết, mùa màng cũng tùy thuộc vào tâm cảm chứ không còn là của thiên nhiên, đất trời nữa, vì vậy mới có những "ta nghe tình đổi mùa" hay "em đứng lên mùa thu tàn tạ"... Đến cả không gian, thời gian cũng đều là "giả" là "ảo", vì vậy mới có những "trong ta chiều đã tàn" hay "đêm đổ xuống đời ta"... Liệu có cần phải kể thêm nữa những bầu trời, tinh tú, mặt trăng, mặt trời...
    Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi...
    Từ khi em là nguyệt, trong tôi có những mặt trời...
    Vườn năm xưa em đã đến, nay trăng quá vô vi...

    Trăng thế nào gọi là trăng vô vi? Kỳ thực, chẳng có trăng, sao gì cả. Mặt trời rực rỡ, chói lọi, cho những ảo giác về chủ tể, về thông thái, trí tuệ, về siêu nhiên, siêu hình. Bóng trăng lung linh, huyền ảo, gợi những ý niệm về lẽ biến hóa ảo diệu của đất trời.
    Đến cả những nỗi buồn cũng là "nỗi buồn ảo giác" , vô cớ, không tên, kiểu "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" , hoặc những nỗi đợi chờ mà... không chờ đợi gì cả:
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế...
    Có một người dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi...

    Cuối cùng, chẳng có gì hết. Chẳng có dòng sông, chẳng có con đường, chẳng có mặt trời mặt trăng, cũng chẳng có nỗi buồn, chẳng ai chờ ai đợi... Chưa hết, ta còn gặp những cách ví von, những "có khi" và "đôi khi" :
    Lòng ta có khi mơ hồ, tưởng mình đang là cơn gió...
    Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...
    Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối...
    Đôi khi thoáng nghe bước chân về đâu đó của em...

    Hoặc những "nghe" và "thấy" :
    Đêm nghe gió tự tình...
    Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh...
    Ta thấy em đi quanh từng ngọn nến tắt...
    Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa...
    Nhiều đêm thấy ta là thác đổ...

    (Chẳng có gì lạ, nhà văn Võ Phiến vẫn nghe "Thác Đổ Sau Nhà" hoài. Thác đổ thật, vì "tỉnh ra có khi còn nghe" ).
    Tất cả, những trạng thái lửng lơ, lơ lửng "hình như, có lẽ, chắc là, dường như" , những "nghe" và "thấy" , những "có khi" và "đôi khi" ấy, "đôi khi" cũng là những tác nhân gây nên những ảo giác chập chờn, nửa hư nửa thực.
    Ngôn ngữ TCS, như vậy, có thể gọi là... "bóng chữ" (nói như nhà thơ Lê Đạt), chứ chẳng phải chữ với nghĩa gì nữa!
    (còn tiếp)
    Nguồn: www.suutap.com & www.tcs-forum.org
    Được hothanhphuong sửa chữa / chuyển vào 19:36 ngày 14/06/2004
  7. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    Ảo giác Trịnh Công Sơn
    Lê Hữu
    Trong xuân thì thấy bóng trăm năm...
    (Gần Như Niềm Tuyệt Vọng, TCS)
    Làm gì có chuyện ảo. Làm sao biết ảo hay không ảo? Làm sao em biết bia đá không đau? Làm sao em biết đời sống buồn tênh? Làm sao... mà trả lời.
    Ảo, nghĩa là không thực. Những gì thuộc về "ảo" đều là... ảo cả, ảo vọng tuổi trẻ, ảo tưởng hòa bình, ảo ảnh cuộc đời... vân vân. Tôi không rõ là ngày trước, khi viết về một hiện tượng, một tiếng hát, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã phát giác được cái "ảo" từ những góc nhìn nào. Khuôn mặt liêu trai, mái tóc liêu trai, vóc dáng liêu trai, giọng hát liêu trai, tất cả hiện ra dưới ánh đèn mầu... liêu trai mờ ảo của phòng trà, đủ để tạo nên một "Ảo Ảnh Thanh Thúy"?
    Khác với ảo ảnh, thường là những tìm kiếm, đuổi bắt (tìm nhưng không gặp được, đuổi nhưng không bắt được, như vũng nước trong sa mạc, như những bong bóng xà-phòng nhiều màu sắc, như chiếc bóng của mỗi người...), ảo giác ở ngay trong đầu, không phải tìm kiếm đâu xa, ẩn nấp sẵn đâu đó, có dịp là xuất đầu lộ diện. Ảo giác có khi là tưởng tượng, có khi là đóng kịch, là giả vờ, là bị đánh lừa hay tự đánh lừa, là tưởng vậy mà... không phải vậy, khiến dẫn đến những lầm lạc trong nhận thức, chẳng còn biết đâu là thực là giả.
    Đọc một cuốn sách, xem một bức tranh, nghe một bài nhạc..., đôi khi trong thưởng ngoạn nghệ thuật, ảo giác cũng thấp thoáng, chập chờn. Trường hợp Trịnh Công Sơn (TCS) là một ví dụ.
    1. Ảo giác ngôn ngữ TCS
    Thật và giả :
    Ảo giác, trước hết đến từ chữ nghĩa TCS.
    "Toàn bộ âm nhạc TCS đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực..."(1), nhận xét này của nhạc sĩ Phạm Duy quả có đúng, mặc dầu không phải tranh trừu tượng lúc nào cũng đẹp cả. Gọi nhạc TCS là "nhạc... trừu tượng" cũng không sai. Chỉ là chuyện chữ nghĩa ("thơ cụ thể", chẳng hạn). Trừu tượng, nên cần phải vận dụng ít nhiều trí tưởng tượng mới nhìn ra cái đẹp. Hình tượng người nữ trong lời nhạc TCS chẳng hạn:
    Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai...
    Vai em gầy guộc nhỏ...
    Bàn tay xanh xao đón ưu phiền...
    Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao...
    Em gầy ngón dài...
    Ngón tay em dài nên mãi ru thêm ngàn năm...
    Cái đẹp này dường như không được bình thường lắm, có vẻ bệnh hoạn nữa là khác, vì gầy guộc quá, xanh xao quá. Cái đẹp thật mỏng manh, dễ vỡ...
    Nhưng làm sao biết là đẹp? Có chắc là đẹp? Ai nói đẹp? Chắc không phải TCS. Ông không hề nói xấu, nói đẹp gì cả. Ông chỉ mô tả sơ sài, qua loa, đại khái là như vậy, ai muốn hiểu sao thì hiểu.
    Vậy thì đẹp, xấu chỉ là do ta nghĩ, ta tưởng tượng ra đấy thôi. Phải đẹp chứ, có hình tượng người nữ nào ở trong thơ, trong nhạc mà lại không đẹp. Thử hình dung cái đẹp "kiểu TCS". Xem nào, "đôi vai lụa mát" chắc phải... mát rượi! "Đôi môi lửa cháy" chắc phải... bốc lửa! "Da thơm quả ngọt" chắc phải... ngọt lắm, thơm lắm! "Mi cong cỏ mượt" chắc phải... mượt lắm, cong lắm! Không đẹp sao được.
    Thực ra, bức tranh toàn cảnh trong nhạc TCS không hoàn toàn là trừu tượng. Nếu chỉ thuần là tranh trừu tượng, khó lòng giữ chân người xem lâu được. Khách xem tranh sẽ bỏ đi thôi. Điều khiến người xem chịu dừng lại ngắm nghía và trầm trồ trước họa phẩm của TCS chính là vì những tranh ấy không phải lúc nào cũng trừu tượng hay siêu thực. Chỉ đôi ba chỗ thôi, chẳng hạn:
    Tim lăn trên đường mòn..., hoặc
    Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi..., hoặc
    Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô..., hoặc
    Dòng nước mắt sẽ bay trong trời, làm cơn mưa rớt trên chăn gối, lời cỏ cây hát trên da người...
    Còn lại là những chỗ người nghe nhạc, xem tranh đều có thể hiểu được. Cái thu hút trong lời nhạc TCS là những chỗ hiểu được và không hiểu được xen lẫn vào nhau, nằm cạnh nhau. Hiểu hết, hiểu dễ dàng thì đâu còn muốn nghe thêm nữa. Bài hát dù có hay ho, có mùi mẫn tới đâu cũng dễ trở thành cũ, vì mọi câu hỏi đều đã được trả lời, mọi chuyện đều đã được giải quyết xong, giống như là "thôi là hết chia ly từ đây" vậy. Ở ca từ TCS, những vấn nạn vẫn còn nguyên trạng, chưa có lời giải đáp, không có câu trả lời, vì vậy nghe đi nghe lại mà vẫn cứ "mới", vẫn ít thấy nhàm chán, vẫn muốn nghe nữa, nghe nữa...
    Tôi là ai mà còn trần gian thế?
    Tôi là ai mà yêu quá đời này?
    Tôi là ai, là ai, là ai...???

    Những câu hỏi cứ dấy lên mỗi ngày, cứ đeo đẳng theo ta mãi một đời.
    Trở lại với những bức họa trừu tượng, TCS đã lấy gì để vẽ nên những tranh ấy? Chỉ là chữ và nghĩa, không có bất kỳ một chất liệu nào khác. Thử xét qua một ít từ loại, những danh từ, động từ, tính từ... được sử dụng qua bàn tay phù phép của TCS.
    Động từ chẳng hạn, thử lấy chữ nào đó TCS vẫn hay dùng, ví dụ chữ "phơi":
    Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình... (Ru Ta Ngậm Ngùi)
    Chưa nghe nói có ai đem tình ra phơi như phơi áo bao giờ. Phơi chỗ nào? Phơi trên cánh môi thơm chứ còn ở đâu nữa! Đem tình ra phơi cho khô ráo đã là chuyện lạ. Phơi thế nào mà tình không khô mà nắng lại... khô mới lạ hơn nữa:
    Phơi tình cho nắng khô mau... (Tình Xót Xa Vừa)
    Lại có khi là "nắng phơi" chứ không phải "phơi nắng" :
    Nắng phơi trên mầu ngói non tươi... (Chiều Trên Quê Hương Tôi)
    Những động từ khác:
    Treo : treo tình trên chiếc đinh không... (chưa thấy ai mắc, máng, treo cuộc tình bao giờ)
    Khoác : sương khoác mềm vai phố... (như khoác vai tình nhân...)
    Lùa : lùa nắng cho buồn vào tóc em... (chưa thấy ai lùa, hay đuổi bắt nắng bao giờ)
    Nhặt : tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy... (nhặt đã khó, giữ càng khó hơn. Muốn giữ cho khéo, cho chặt, cần học kỹ thuật "Nhốt Gió" của nhà văn Bình Nguyên Lộc)
    Lăn : tim lăn trên đường mòn... (nghe như là phim... kinh dị)
    Trói : trong lòng phố mưa đêm trói chân...
    Ươm : trời ươm nắng cho mây hồng...
    Thắp : ngàn cây thắp nến lên hai hàng...
    Khắc : vết buồn khắc trên da...
    Chở : có con đò chở nắng mưa đi
    Chờ : tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi...
    Người nghe TCS có thể nhặt thêm được rất nhiều động từ như vậy. Các động từ trên là cũ chứ đâu có mới, nhưng lại chở theo sau những ý tưởng, những hình ảnh mới mẻ nên ta tưởng như chúng "mới mẻ". Những động từ ấy, thả ra từ ống tay áo của TCS, trở nên linh hoạt hơn, có sức sống hơn, bắt trí tưởng tượng làm việc nhiều hơn, vì vậy cũng dễ tạo nên những ảo giác.
    Về tính từ, cũng đâu có kém. Chỉ "nắng" và "gió" thôi cũng đã chở theo rất nhiều tính từ (và các từ loại dùng như tính từ): "nắng mềm", "nắng khuya", "nắng hững hờ", "nắng chiều quạnh quẽ", "nắng rất la đà"; "gió vô tình", "gió vô thường", "ngọn gió hư vô", "ngọn gió hư hao", "ngọn gió hoang vu", "ngọn gió quạnh hiu", "gió mùa thu rất ân cần"... Cũng phải kể thêm những danh từ được cho làm tính từ: "nắng thủy tinh", "đời cơm áo", "tay rong rêu", "em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh", "tôi là ai mà còn trần gian thế"...
    Về danh từ, kể sao cho hết. Khi ông nói đến dòng sông, con đường, hoa cỏ, chim muông, đấy không còn là dòng sông, là con đường... hiểu theo nghĩa thông thường. Con sông không còn là con sông, con đường không còn là con đường. Những vật thể, hình tượng ấy đều vừa có thực vừa không có thực, đều nửa thực nửa giả hoặc chỉ là những khái niệm trừu tượng.
    "Dòng sông" chẳng hạn, là biểu tượng của dòng đời, dòng chảy của thời gian. Dòng sông trong lời nhạc TCS còn gợi lên những ý niệm về nỗi chia lìa, biền biệt, mất tăm, mất hút...
    Sông bao lần sông đã ra đi...
    Có một dòng sông đã qua đời...
    Một dòng sông nước cuốn, một cuộc tình không may...
    Tôi như chim ưu phiền, bay về cuối dòng sông...

    Dòng sông nào đây? Chẳng có dòng sông nào cả.
    "Con đường" chẳng hạn, là biểu tượng của cuộc hành trình, là hướng đi, là sự lựa chọn hay tìm kiếm miệt mài...
    Đường nào dìu ta đến cơn say...
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà...
    Người đi tìm mãi suốt con đường...
    Em đi bỏ lại con đường...

    Con đường nào đây? Chẳng có con đường nào cả. Chỉ nghe vậy chứ có thấy đường xá nhà cửa gì đâu. Nào có phải là "con đường xưa em đi" hay "con đường tình ta đi" đâu. Làm gì có con đường nào.
    "Hoa cỏ" cũng vậy. Khi ông viết về những bông hoa, ta có cảm tưởng không dễ gì tìm gặp những bông hoa ấy ở ngoài đời.
    Đóa hoa hồng vùi quên trong tay...
    Đóa hoa hồng tàn hôn lên môi...
    Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời...
    Có nụ hồng ngày xưa rớt lại bên cạnh đời tôi đây...
    Từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường...

    Đóa hoa nào đây? Chẳng có đóa hoa nào cả. Làm gì có chuyện "đóa hoa vô thường" , làm gì có đóa hoa vàng nào "mỏng manh cuối trời" , làm gì có nụ hồng nào "ngày xưa rớt lại bên cạnh đời tôi đây". Những lời ấy thật đẹp nên ta tưởng tượng những bông hoa ấy cũng phải đẹp lắm. Kỳ thực, những bông hoa diễm ảo ấy chỉ nở trong những giấc mơ huyền hoặc hay trong những khu vườn ảo giác.
    Đâu có riêng gì hoa cỏ, thực vật, đến cả chim muông, động vật cũng đều là... giả tưởng.
    Đàn bò vào thành phố, không còn ai hỏi thăm...
    Đàn bò bỗng thấy buồn...
    Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương...
    Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốnxa...
    Trong trái tim, con chim đau nằm im...

    Liệu có ai chịu tin đàn bò, đàn ngựa, chim chóc ấy là... có thực! Ngựa trong những lời nhạc TCS cũng "ảo", cũng chập chờn như bầy ngựa trong tranh của các nhà danh họa chuyên vẽ ngựa.
    Cũng đâu có riêng gì vạn vật, cỏ cây, đến cả nắng mưa, gió bão cũng không còn được hiểu theo nghĩa bình thường. Đây là mưa, là bão:
    Có mưa quanh chỗ nằm...
    Nghe quanh đời mưa bão...
    Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ...

    Đây là nắng, là gió:
    Đường về tình tôi có nắng rất la đà...
    Nghiêng sang em tôi thấy nắng vàng...
    Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì...

    Đến cả thời tiết, mùa màng cũng tùy thuộc vào tâm cảm chứ không còn là của thiên nhiên, đất trời nữa, vì vậy mới có những "ta nghe tình đổi mùa" hay "em đứng lên mùa thu tàn tạ"... Đến cả không gian, thời gian cũng đều là "giả" là "ảo", vì vậy mới có những "trong ta chiều đã tàn" hay "đêm đổ xuống đời ta"... Liệu có cần phải kể thêm nữa những bầu trời, tinh tú, mặt trăng, mặt trời...
    Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi...
    Từ khi em là nguyệt, trong tôi có những mặt trời...
    Vườn năm xưa em đã đến, nay trăng quá vô vi...

    Trăng thế nào gọi là trăng vô vi? Kỳ thực, chẳng có trăng, sao gì cả. Mặt trời rực rỡ, chói lọi, cho những ảo giác về chủ tể, về thông thái, trí tuệ, về siêu nhiên, siêu hình. Bóng trăng lung linh, huyền ảo, gợi những ý niệm về lẽ biến hóa ảo diệu của đất trời.
    Đến cả những nỗi buồn cũng là "nỗi buồn ảo giác" , vô cớ, không tên, kiểu "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" , hoặc những nỗi đợi chờ mà... không chờ đợi gì cả:
    Lòng thật bình yên mà sao buồn thế...
    Có một người dường như chờ đợi thật ra đang ngồi thảnh thơi...

    Cuối cùng, chẳng có gì hết. Chẳng có dòng sông, chẳng có con đường, chẳng có mặt trời mặt trăng, cũng chẳng có nỗi buồn, chẳng ai chờ ai đợi... Chưa hết, ta còn gặp những cách ví von, những "có khi" và "đôi khi" :
    Lòng ta có khi mơ hồ, tưởng mình đang là cơn gió...
    Đời ta có khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...
    Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối...
    Đôi khi thoáng nghe bước chân về đâu đó của em...

    Hoặc những "nghe" và "thấy" :
    Đêm nghe gió tự tình...
    Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh...
    Ta thấy em đi quanh từng ngọn nến tắt...
    Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa...
    Nhiều đêm thấy ta là thác đổ...

    (Chẳng có gì lạ, nhà văn Võ Phiến vẫn nghe "Thác Đổ Sau Nhà" hoài. Thác đổ thật, vì "tỉnh ra có khi còn nghe" ).
    Tất cả, những trạng thái lửng lơ, lơ lửng "hình như, có lẽ, chắc là, dường như" , những "nghe" và "thấy" , những "có khi" và "đôi khi" ấy, "đôi khi" cũng là những tác nhân gây nên những ảo giác chập chờn, nửa hư nửa thực.
    Ngôn ngữ TCS, như vậy, có thể gọi là... "bóng chữ" (nói như nhà thơ Lê Đạt), chứ chẳng phải chữ với nghĩa gì nữa!
    (còn tiếp)
    Nguồn: www.suutap.com & www.tcs-forum.org
    Được hothanhphuong sửa chữa / chuyển vào 19:36 ngày 14/06/2004
  8. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    (phần tiếp theo)
    Chữ và nghĩa:
    Vì là "bóng chữ" nên thứ ngôn ngữ ấy không phải lúc nào cũng dễ hiểu. Thử nêu một, hai ví dụ:
    "Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định...," những dòng chữ ấy trích trong lời tựa của tuyển tập nhạc "Kinh Việt Nam", ấn hành năm 1968, viết bằng thủ bút của chính tác giả TCS.
    Những lời lẽ thật bí ẩn như là mật mã, như lời sấm truyền tiên tri về vận mạng đất nước, hoặc như câu thần chú dùng làm chìa khóa mở cánh cửa kho tàng bí mật nào đấy. Người đọc ngơ ngác, không hiểu chuyện gì là chuyện gì (mà không dám nói là không hiểu). "Điều gì không thật" là điều gì vậy? Giữa hàng trăm hàng ngàn điều có thật và không thật diễn ra hàng ngày hàng giờ ở quanh đây, làm sao biết được điều nào là điều nào(?). "Lầm lỡ" gì vậy? Ai lầm lỡ? Tại sao lầm lỡ? Lầm lỡ thế nào? (Chắc không phải "ta yêu em... lầm lỡ" hay là "tôi đã lầm đưa em sang đây" ). Không thấy nói rõ ràng, cụ thể gì vụ "lầm đường lạc lối" này (hay là không tiện nói vào thời điểm ấy, nhưng mãi về sau này cũng chẳng thấy nói năng, nhắc nhở gì đến nữa). Lại còn "con đường máu xương" nữa, là con đường nào vậy? Chắc không phải "con đường thập giá" mà đấng cứu thế đã phải vượt qua để cứu chuộc nhân loại? Chắc cũng không phải là "đoạn đường chiến binh" , hay "đại lộ kinh hoàng" , hay con đường mòn "xương trắng Trường Sơn" ? "Máu xương" nào, của lính tráng hay của dân thường, của phe ta, phe địch hay phe bạn? Tại sao điều "lầm lỡ" ấy lại "lên đường" và lại còn "phải đi cho trót con đường máu xương" ? "Mũi tên vô tri" nào? "Nhiệm kỳ vô định" nào? Tại sao lại "lỗi thời" ? Những câu hỏi và câu hỏi, e đến cả trăm năm sau cũng không chắc người đời đã giải mã nổi!...
    Những lời lẽ thật mạnh mẽ, đanh thép như một bản cáo trạng, chỉ tiếc rằng ý tưởng lại lấp lửng, mập mờ, nên nhiều lắm chỉ có tác dụng trang trí cho tập nhạc, chứ khó mà thuyết phục hay "vận động quần chúng" nổi, vì... chẳng ai hiểu gì cả.
    Người ta có thể dễ dàng tìm thấy trên những trang viết của TCS vào thời kỳ ấy, thời kỳ của những phong trào tranh đấu, lên đường xuống đường, những lời lẽ tương tự, lắm lúc hừng hực khí thế, rực lửa đấu tranh, và tất nhiên là không kém phần... bí ẩn. Ngôn ngữ phản kháng cũng có một vẻ "làm dáng" nào đó chăng(?).
    Trong một lá thư ông viết năm 1974, gửi cho người bạn cùng "chí hướng", ta đọc thấy những lời sau: "K. này,... phải chăng hồi chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn tạ nhanh chóng. Khi con người nhận thấy mình không còn gì để bị tước đoạt thêm nữa thì đứng dậy và lên đường. Nếu cần phải ngạc nhiên chỉ là tự hỏi vì sao vận hội mới của nhân dân lại trễ nãi quá vậy..." (2)
    Người đọc dễ dàng nhận ra cái "style" của TCS, cũng là những đao to búa lớn của những "hồi chuông báo tử", "vận hội mới của nhân dân", "đứng dậy và lên đường"...
    Cái "style" ấy đôi lúc cũng đi vào trong ca từ TCS. Không phải ai cũng hiểu được những gì ẩn nấp đằng sau những đường kẻ nhạc và những câu, chữ như là:
    Từng lời tà dương là lời mộ địa, từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe... (Một Cõi Đi Về)
    Thật bí ẩn như những dòng chữ khắc trên vách đá của một hang động bí mật nào đấy. Thật bí ẩn đến độ ngay chính tác giả bài hát cũng... lắc đầu chịu thua, chẳng biết cắt nghĩa ra làm sao! Hỏi, ông trả lời: "... Đây là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu, có những câu trong bài này bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật là khó..." (3) Rồi ông đi tới kết luận theo cách của ông, để khỏi phải giải thích, giải nghĩa gì cả: "Tôi nghĩ, trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần phải cắt nghĩa gì thêm" (3)
    "Không cần phải cắt nghĩa gì thêm," nói văn vẻ là như vậy, nói nôm na là hiểu được thì tốt mà không hiểu thì... rán mà hiểu. Lý do chính đáng là bản thân ông còn chưa hiểu nổi, còn hiểu chập chờn, thì lấy gì mà đòi hiểu! Điều này cũng cho thấy những ý tưởng ông đưa vào bài nhạc là những ý tưởng chưa rõ nét, chưa ra hình ra dạng, vẫn còn lửng lơ, lơ lửng như "khói trời mênh mông"! Nói khác đi, "bài hát rất lạ" ấy (và nhiều bài khác nữa) chỉ là những bản nháp (draft), những bản vẽ phác thảo. Điều khôi hài là trong lúc ông còn đang loay hoay tìm kiếm, người thưởng thức nhạc của ông cũng... loay hoay tìm kiếm cùng với ông.
    Những câu, chữ mà ông gọi là "khó giải thích" có rất nhiều trong ca từ TCS, đại loại:
    Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều... (Dấu Chân Địa Đàng)
    (Câu này chỉ để... dọa đàn bà, con gái)
    Mặt trời như trái cây tuyệt vọng... (Níu Tay Nghìn Trùng)
    ("Trái Cây Đau Khổ" tập 2 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ chăng?)
    Môi em hồng như lá hư không... (Gần Như Niềm Tuyệt Vọng)
    ("Lá diêu bông" đã khó tìm, "lá hư không" còn khó hơn)
    Cơn mưa là nắng vô thường... (Mưa Mùa Hạ)
    (Cơn nắng có là... mưa vô thường?!)
    Có thể kể thêm một chuỗi những "hư" và "vô" như: hư ảo, hư vô, hư không, vô tận, vô vi, vô thường... là những từ ông vốn sính dùng, lặp đi lặp lại nhiều lần, đôi lúc có hơi lạm dụng. "Vô thường" ở một vài chỗ thì OK, nhưng không phải đặt vào chỗ nào cũng... vô thường được cả (như câu hát ở trên). Cứ như lối dùng chữ kiểu này thì bất luận thứ gì góp mặt góp tiếng trên thế gian này thảy đều "vô thường" cả và đều có thể ghép vào hai chữ "vô thường" được (mà không sợ... vô nghĩa). Chữ nghĩa cho dù có "sáng tạo" tới đâu cũng không thể tùy tiện ghép ngược ghép xuôi, ghép ngang ghép dọc, muốn ra kiểu nào thì ra.
    Hiểu được tường tận từng câu từng chữ trong ca từ TCS là điều không thể. Đi tìm những ý tưởng lẩn khuất phía sau những ngôn từ ấy, nghĩa là những "ẩn ngữ" ("behind the lines" hoặc "between the lines") lại càng khó hơn. Chưa kể đến những "phát minh" lạ lùng trong chữ nghĩa, đôi lúc kỳ quặc, khó hiểu, như "lời buồn thánh", "vết lăn trầm", "giọt hư không", "giọt vô biên"... Lúc đầu người nghe còn thấy lạ tai, riết rồi quen dần, mặc ông nhạc sĩ muốn nói gì thì nói, chẳng mấy ai còn thắc mắc hay bận tâm tìm hiểu. Cũng tựa như ngày trước chẳng ai bận tâm đến chuyện đúng sai, phải trái trong những câu hát quen thuộc, vẫn nghe đi nghe lại:
    Mùa thu mưa bay cho tay mềm... (mưa bay thì... mưa bay, làm sao tay lại mềm được?)
    Lùa nắng cho buồn vào tóc em... (lùa nắng, đâu phải chuyện dễ! Nắng thì phải... vui, mưa mới là buồn chứ!)
    Ngày xưa sao lá thu không vàng... (lá thu ngày xưa ngày nay gì lại chẳng... vàng!)
    Những câu trên ở trong bài "Nắng Thủy Tinh". Chẳng có cái "logic" nào cả, chẳng có nghĩa đen nghĩa bóng, nghĩa xa nghĩa gần gì cả, cũng chẳng có phương pháp phân tích lý luận nào để giải thích cho hợp tình hợp lý cả. Chỉ có chịu hay không chịu, thích nghe hay không thích nghe, thế thôi. Đừng hỏi tại sao, đấy là cách tốt nhất, hay nhất để mà thưởng thức nhạc TCS.
    Trong ngôn ngữ TCS, "chữ" không phải là "nghĩa" (như "chữ nghĩa" nói theo lối thông thường). Chữ là chữ, nghĩa là nghĩa. Chữ và nghĩa không sánh đôi với nhau, không là bạn đồng hành của nhau, vì thế không thể giải thích "chữ" để cho ra "nghĩa". Nói cách khác, trong "chữ" của TCS, nghĩa cũ (nghĩa thông thường) được nới rộng thêm, hoặc được ghép thêm những nghĩa mới. Nghĩa cũ, nghĩa mới đôi lúc xen lẫn vào nhau. Thường, người nghe nhạc TCS không hiểu hay cảm thấy khó hiểu khi "đụng" phải những nghĩa mới này. Cái nghĩa "mới" ấy làm người nghe đôi lúc "khựng" lại. Thế nhưng ta cũng lại yêu thích ngôn ngữ TCS qua những chữ mới, nghĩa mới này.
    Như vậy, TCS không chỉ làm mới "chữ" (như nhiều người vẫn nói), ông còn làm mới "nghĩa" nữa. "Nghĩa" ấy vượt ra khỏi những khuôn khổ, những hàng rào quy ước. Vì vậy mới có những "nắng mềm", "nắng khuya", "mưa hồng", "mưa xanh", "giọt máu cuồng điên", "giọt máu trổ bông", "đôi môi rồ dại", "đôi vai lụa mát", "biển rộng hai vai", "biển hẹp tay người"... vân vân và vân vân. Cách chung, ta có thể nói được là ông đã làm mới ngôn ngữ, bằng những "phát minh" tân kỳ. Từ đó, ta hiểu được tại sao đôi lúc không thể giải thích hoặc không thể giải thích theo lối thông thường ngôn ngữ TCS.
    (còn tiếp)
    Nguồn: www.suutap.com & www.tcs-forum.org
  9. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    (phần tiếp theo)
    Chữ và nghĩa:
    Vì là "bóng chữ" nên thứ ngôn ngữ ấy không phải lúc nào cũng dễ hiểu. Thử nêu một, hai ví dụ:
    "Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định...," những dòng chữ ấy trích trong lời tựa của tuyển tập nhạc "Kinh Việt Nam", ấn hành năm 1968, viết bằng thủ bút của chính tác giả TCS.
    Những lời lẽ thật bí ẩn như là mật mã, như lời sấm truyền tiên tri về vận mạng đất nước, hoặc như câu thần chú dùng làm chìa khóa mở cánh cửa kho tàng bí mật nào đấy. Người đọc ngơ ngác, không hiểu chuyện gì là chuyện gì (mà không dám nói là không hiểu). "Điều gì không thật" là điều gì vậy? Giữa hàng trăm hàng ngàn điều có thật và không thật diễn ra hàng ngày hàng giờ ở quanh đây, làm sao biết được điều nào là điều nào(?). "Lầm lỡ" gì vậy? Ai lầm lỡ? Tại sao lầm lỡ? Lầm lỡ thế nào? (Chắc không phải "ta yêu em... lầm lỡ" hay là "tôi đã lầm đưa em sang đây" ). Không thấy nói rõ ràng, cụ thể gì vụ "lầm đường lạc lối" này (hay là không tiện nói vào thời điểm ấy, nhưng mãi về sau này cũng chẳng thấy nói năng, nhắc nhở gì đến nữa). Lại còn "con đường máu xương" nữa, là con đường nào vậy? Chắc không phải "con đường thập giá" mà đấng cứu thế đã phải vượt qua để cứu chuộc nhân loại? Chắc cũng không phải là "đoạn đường chiến binh" , hay "đại lộ kinh hoàng" , hay con đường mòn "xương trắng Trường Sơn" ? "Máu xương" nào, của lính tráng hay của dân thường, của phe ta, phe địch hay phe bạn? Tại sao điều "lầm lỡ" ấy lại "lên đường" và lại còn "phải đi cho trót con đường máu xương" ? "Mũi tên vô tri" nào? "Nhiệm kỳ vô định" nào? Tại sao lại "lỗi thời" ? Những câu hỏi và câu hỏi, e đến cả trăm năm sau cũng không chắc người đời đã giải mã nổi!...
    Những lời lẽ thật mạnh mẽ, đanh thép như một bản cáo trạng, chỉ tiếc rằng ý tưởng lại lấp lửng, mập mờ, nên nhiều lắm chỉ có tác dụng trang trí cho tập nhạc, chứ khó mà thuyết phục hay "vận động quần chúng" nổi, vì... chẳng ai hiểu gì cả.
    Người ta có thể dễ dàng tìm thấy trên những trang viết của TCS vào thời kỳ ấy, thời kỳ của những phong trào tranh đấu, lên đường xuống đường, những lời lẽ tương tự, lắm lúc hừng hực khí thế, rực lửa đấu tranh, và tất nhiên là không kém phần... bí ẩn. Ngôn ngữ phản kháng cũng có một vẻ "làm dáng" nào đó chăng(?).
    Trong một lá thư ông viết năm 1974, gửi cho người bạn cùng "chí hướng", ta đọc thấy những lời sau: "K. này,... phải chăng hồi chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn tạ nhanh chóng. Khi con người nhận thấy mình không còn gì để bị tước đoạt thêm nữa thì đứng dậy và lên đường. Nếu cần phải ngạc nhiên chỉ là tự hỏi vì sao vận hội mới của nhân dân lại trễ nãi quá vậy..." (2)
    Người đọc dễ dàng nhận ra cái "style" của TCS, cũng là những đao to búa lớn của những "hồi chuông báo tử", "vận hội mới của nhân dân", "đứng dậy và lên đường"...
    Cái "style" ấy đôi lúc cũng đi vào trong ca từ TCS. Không phải ai cũng hiểu được những gì ẩn nấp đằng sau những đường kẻ nhạc và những câu, chữ như là:
    Từng lời tà dương là lời mộ địa, từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe... (Một Cõi Đi Về)
    Thật bí ẩn như những dòng chữ khắc trên vách đá của một hang động bí mật nào đấy. Thật bí ẩn đến độ ngay chính tác giả bài hát cũng... lắc đầu chịu thua, chẳng biết cắt nghĩa ra làm sao! Hỏi, ông trả lời: "... Đây là một bài hát rất lạ, thực sự không dễ hiểu, có những câu trong bài này bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật là khó..." (3) Rồi ông đi tới kết luận theo cách của ông, để khỏi phải giải thích, giải nghĩa gì cả: "Tôi nghĩ, trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần phải cắt nghĩa gì thêm" (3)
    "Không cần phải cắt nghĩa gì thêm," nói văn vẻ là như vậy, nói nôm na là hiểu được thì tốt mà không hiểu thì... rán mà hiểu. Lý do chính đáng là bản thân ông còn chưa hiểu nổi, còn hiểu chập chờn, thì lấy gì mà đòi hiểu! Điều này cũng cho thấy những ý tưởng ông đưa vào bài nhạc là những ý tưởng chưa rõ nét, chưa ra hình ra dạng, vẫn còn lửng lơ, lơ lửng như "khói trời mênh mông"! Nói khác đi, "bài hát rất lạ" ấy (và nhiều bài khác nữa) chỉ là những bản nháp (draft), những bản vẽ phác thảo. Điều khôi hài là trong lúc ông còn đang loay hoay tìm kiếm, người thưởng thức nhạc của ông cũng... loay hoay tìm kiếm cùng với ông.
    Những câu, chữ mà ông gọi là "khó giải thích" có rất nhiều trong ca từ TCS, đại loại:
    Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều... (Dấu Chân Địa Đàng)
    (Câu này chỉ để... dọa đàn bà, con gái)
    Mặt trời như trái cây tuyệt vọng... (Níu Tay Nghìn Trùng)
    ("Trái Cây Đau Khổ" tập 2 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ chăng?)
    Môi em hồng như lá hư không... (Gần Như Niềm Tuyệt Vọng)
    ("Lá diêu bông" đã khó tìm, "lá hư không" còn khó hơn)
    Cơn mưa là nắng vô thường... (Mưa Mùa Hạ)
    (Cơn nắng có là... mưa vô thường?!)
    Có thể kể thêm một chuỗi những "hư" và "vô" như: hư ảo, hư vô, hư không, vô tận, vô vi, vô thường... là những từ ông vốn sính dùng, lặp đi lặp lại nhiều lần, đôi lúc có hơi lạm dụng. "Vô thường" ở một vài chỗ thì OK, nhưng không phải đặt vào chỗ nào cũng... vô thường được cả (như câu hát ở trên). Cứ như lối dùng chữ kiểu này thì bất luận thứ gì góp mặt góp tiếng trên thế gian này thảy đều "vô thường" cả và đều có thể ghép vào hai chữ "vô thường" được (mà không sợ... vô nghĩa). Chữ nghĩa cho dù có "sáng tạo" tới đâu cũng không thể tùy tiện ghép ngược ghép xuôi, ghép ngang ghép dọc, muốn ra kiểu nào thì ra.
    Hiểu được tường tận từng câu từng chữ trong ca từ TCS là điều không thể. Đi tìm những ý tưởng lẩn khuất phía sau những ngôn từ ấy, nghĩa là những "ẩn ngữ" ("behind the lines" hoặc "between the lines") lại càng khó hơn. Chưa kể đến những "phát minh" lạ lùng trong chữ nghĩa, đôi lúc kỳ quặc, khó hiểu, như "lời buồn thánh", "vết lăn trầm", "giọt hư không", "giọt vô biên"... Lúc đầu người nghe còn thấy lạ tai, riết rồi quen dần, mặc ông nhạc sĩ muốn nói gì thì nói, chẳng mấy ai còn thắc mắc hay bận tâm tìm hiểu. Cũng tựa như ngày trước chẳng ai bận tâm đến chuyện đúng sai, phải trái trong những câu hát quen thuộc, vẫn nghe đi nghe lại:
    Mùa thu mưa bay cho tay mềm... (mưa bay thì... mưa bay, làm sao tay lại mềm được?)
    Lùa nắng cho buồn vào tóc em... (lùa nắng, đâu phải chuyện dễ! Nắng thì phải... vui, mưa mới là buồn chứ!)
    Ngày xưa sao lá thu không vàng... (lá thu ngày xưa ngày nay gì lại chẳng... vàng!)
    Những câu trên ở trong bài "Nắng Thủy Tinh". Chẳng có cái "logic" nào cả, chẳng có nghĩa đen nghĩa bóng, nghĩa xa nghĩa gần gì cả, cũng chẳng có phương pháp phân tích lý luận nào để giải thích cho hợp tình hợp lý cả. Chỉ có chịu hay không chịu, thích nghe hay không thích nghe, thế thôi. Đừng hỏi tại sao, đấy là cách tốt nhất, hay nhất để mà thưởng thức nhạc TCS.
    Trong ngôn ngữ TCS, "chữ" không phải là "nghĩa" (như "chữ nghĩa" nói theo lối thông thường). Chữ là chữ, nghĩa là nghĩa. Chữ và nghĩa không sánh đôi với nhau, không là bạn đồng hành của nhau, vì thế không thể giải thích "chữ" để cho ra "nghĩa". Nói cách khác, trong "chữ" của TCS, nghĩa cũ (nghĩa thông thường) được nới rộng thêm, hoặc được ghép thêm những nghĩa mới. Nghĩa cũ, nghĩa mới đôi lúc xen lẫn vào nhau. Thường, người nghe nhạc TCS không hiểu hay cảm thấy khó hiểu khi "đụng" phải những nghĩa mới này. Cái nghĩa "mới" ấy làm người nghe đôi lúc "khựng" lại. Thế nhưng ta cũng lại yêu thích ngôn ngữ TCS qua những chữ mới, nghĩa mới này.
    Như vậy, TCS không chỉ làm mới "chữ" (như nhiều người vẫn nói), ông còn làm mới "nghĩa" nữa. "Nghĩa" ấy vượt ra khỏi những khuôn khổ, những hàng rào quy ước. Vì vậy mới có những "nắng mềm", "nắng khuya", "mưa hồng", "mưa xanh", "giọt máu cuồng điên", "giọt máu trổ bông", "đôi môi rồ dại", "đôi vai lụa mát", "biển rộng hai vai", "biển hẹp tay người"... vân vân và vân vân. Cách chung, ta có thể nói được là ông đã làm mới ngôn ngữ, bằng những "phát minh" tân kỳ. Từ đó, ta hiểu được tại sao đôi lúc không thể giải thích hoặc không thể giải thích theo lối thông thường ngôn ngữ TCS.
    (còn tiếp)
    Nguồn: www.suutap.com & www.tcs-forum.org
  10. hothanhphuong

    hothanhphuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2002
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    0

    (phần tiếp theo)
    2. Ảo giác thưởng thức nhạc TCS
    "Hạnh phúc là một tách café và nhạc TCS."
    Đó là một trong những định nghĩa về hạnh phúc, ghi lại được trong một tuyển tập những bài nhận định về âm nhạc và con người TCS, ấn hành ở Việt nam (Một Cõi Trịnh Công Sơn, nxb Thuận Hóa, 12/2002). Tôi không rõ người nói hay viết câu ấy đã căn cứ vào đâu để đưa ra định nghĩa này. Thực trạng đời sống và sinh hoạt ở trong nước chắc. Bao nhiêu là quán xá lớn, nhỏ ở ngoài đường, trên phố thường xuyên "chơi" nhạc TCS để thu hút khách, để những người khách bước vào đó tìm kiếm chút hạnh phúc.
    Hạnh phúc như thế thì cũng đơn giản. Ngồi quán hay ngồi nhà, người ta cũng có thể có được những phút giây trầm tư nhìn từng giọt café chảy từng giọt, từng giọt, trong lúc lắng nghe tiếng nhạc TCS, để suy gẫm chuyện đời, để chiêm nghiệm về cõi sống cõi chết, về phận người phận mình, hay chỉ để ngậm ngùi tiếc thương về một cuộc tình đã mất, để thấy...
    tình đi âm thầm, nghìn trùng như vết sương...
    tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy...
    lòng ta trăm con hạc gầy vút bay...
    ta như con đường dài vắng người...
    đời mình là những quán không...
    tôi chợt nhìn ra tôi..., tôi tìm thấy tôi...

    Tôi tìm thấy tôi. Như thế không phải là hạnh phúc sao? Khi con người cảm thấy hạnh phúc, đấy là hạnh phúc, dù chỉ phút giây thôi "cũng đủ lãng quên đời". Âm nhạc TCS, như thế, theo một nghĩa nào đó, vẫn luôn góp mặt trong những sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Ở đây lại gợi mở ra vấn đề khác nữa, âm nhạc và đời sống. Phải chăng, cho dù cuộc sống có nổi trôi, có bôn ba "đời cơm áo", người ta vẫn không thể quên đi âm nhạc, vẫn không thể sống mà thiếu âm nhạc, vẫn muốn đi tìm chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong âm nhạc.
    Nhạc TCS, và café, và khói thuốc, và men bia men rượu,... và tất cả những gì cộng thêm vào, thêm vào, đều có tác dụng làm tăng thêm ảo giác về một hạnh phúc... vô thường.
    "Hạnh phúc là..." , câu định nghĩa trên có thể đúng theo nghĩa ấy, hay ít ra cũng đúng với những người cùng chia sẻ khoảnh khắc hạnh phúc ấy, cái khoảnh khắc được sống, được làm "người đi trên mây" (nói theo nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng), có nghĩa là được thả trôi bềnh bồng hay đắm chìm trong một màn sương ảo giác.
    Hiểu hay không hiểu :
    Đặc điểm nổi bật trong ca từ TCS là tính... mơ hồ. Khi hát hay nghe nhạc TCS, chúng ta cho là chúng ta hiểu nhưng đồng thời chúng ta cũng không chắc là chúng ta hiểu. Đôi chỗ hiểu, đôi chỗ không hiểu; đôi lúc hiểu, đôi lúc không hiểu. Hiểu ít hiểu nhiều, hiểu đúng hiểu sai, vừa hiểu lại vừa không hiểu, tất cả cứ lẫn vào nhau nên ta không thể biết chắc là ta hiểu hay không hiểu.
    Hiểu như thế nào gọi là hiểu? Hiểu như thế nào là hiểu đúng? Lấy đâu ra câu trả lời. Có khi mỗi người hiểu một cách, chẳng ai giống ai, chẳng biết ai đúng ai sai. Thành thử, hiểu cách nào cũng chỉ là hiểu theo cách riêng của mình, không thể nói người này hiểu đúng, người kia hiểu sai. Nghe nhạc TCS, vì vậy, tưởng khó hiểu mà thành ra dễ hiểu, vì muốn hiểu sao thì hiểu, không hiểu cũng không sao, cũng không cần phải cố gắng để hiểu, miễn cứ thích nghe thích hát, miễn cứ thấy... hay là được!
    Không hiểu, hay không hiểu rõ lắm nhưng vẫn làm như hiểu, vẫn làm ra vẻ thông thái, uyên bác như là thông hiểu hết mọi lẽ, mọi chuyện (những vô thường, vô vi, hư vô, hư ảo...). Cái tâm lý ấy khá phổ biến, cũng chẳng khác mấy hiện tượng "làm dáng trí thức" của các chàng sinh viên ở miền Nam một thời, vẫn thích kè kè trên tay những pho sách dày cộm nói về những "mặt trời không bao giờ có thiệt", những vực sâu và "hố thẳm của tư tưởng" (tương tự "đỉnh cao của trí tuệ", nói theo ngôn ngữ khoa trương ở trong nước bây giờ), dù có khi chẳng hề đọc lấy một chữ nào. Nếu có khác thì đấy chỉ là một kiểu thời trang, có tính giai đoạn, trong lúc "hiện tượng" TCS kéo dài trường kỳ, nhiều năm, lại phổ biến rộng rãi hơn, không hạn chế trong một giới, một đối tượng nào. Có phải là âm nhạc chiếm ưu thế hơn hay còn do những yếu tố nào khác nữa(?).
    Kể ra, không hiểu thì cũng khó mà thấy hay, thấy đẹp, khó mà thấy thích được. Trước hết, cần phải hiểu mới nói chuyện được. Cũng không thể nói "tôi hiểu mà tôi nói không được". Nói như thế là vẫn chưa thực sự hiểu, là vẫn chỉ hiểu đại khái, là vẫn còn mơ hồ. Khen hay, phải nói được tại sao hay, hay ở chỗ nào. Chê dở, cũng phải nói được tại sao dở, dở ở chỗ nào. Liệu người ta có thể yêu cái mà người ta không hiểu rõ lắm, không biết rõ là cái gì, và cũng không cần tìm hiểu cho ra lẽ, như yêu tranh lập thể, yêu thơ tự do, yêu nhạc giao hưởng, và... nhạc TCS?
    Ca từ TCS, như chính tác giả thú nhận "... bản thân tôi cũng thấy khó giải thích. Viết thì viết vậy nhưng để giải thích rõ ràng thì thật là khó." (3)
    Thế nghĩa là sao? Người nghe không hiểu, người hát không hiểu, người viết ra những lời ấy cũng... chỉ hiểu mơ mơ màng màng, cũng chẳng biết đằng nào mà giải thích. Vậy thì ai hiểu, ai giải thích được đây? Có lẽ nào cả ba ta (người nghe, người hát, người viết) đều chẳng ai hiểu... ai cả. Đến chỗ này mới thật là.. khó hiểu!
    TCS, không khéo ta bị ông chơi khăm mất. Hệt như một người ra câu đố hóc búa, những người khác bấm đầu nặn óc suy nghĩ, sau cùng hoặc chịu thua, hoặc đưa ra những lời giải đoán khác nhau, đến lúc mọi người yêu cầu giải đáp thì người ra câu đố trả lời tỉnh queo "tôi cũng không biết, tôi cũng... chịu thua". Thế không phải chơi khăm là gì?
    Chưa hết, người viết những ca từ ấy còn cho biết là "cần phải có một linh cảm nhạy bén và một vốn kiến thức nhất định" (3) mới có thể hiểu được cái hay, cái đẹp trong những ca khúc TCS. "Tôi gặp không ít người," ông nói thêm, "dù họ ít học nhưng họ lại thích, hỏi họ có hiểu không thì họ trả lời không hiểu, nhưng họ lại cảm nhận được có một cái gì đó ở bên trong, nên khi nghe hay khi hát lên thì có một điều gì đó chạm đến trái tim của mình..." (3)
    Liệu đúng là "có một điều gì đó chạm đến trái tim của mình" hay không, tôi không được rõ lắm, thế nhưng qua lời ông tôi biết được một điều: kẻ "ít học" thì không cách chi hiểu được những lời lẽ ấy. Nhạc TCS, như vậy chỉ dành cho đối tượng có chọn lọc. Kẻ hiểu được và biết thưởng thức phải là đối tượng "học nhiều hiểu rộng". Ở đây lại có vấn đề "trình độ" kiến thức, khiếu thẩm mỹ và thưởng ngoạn nghệ thuật nữa chứ không phải chơi. Từ đó, tâm lý tỏ ra am hiểu (do đóng kịch, giả vờ, tự đánh lừa mình) có phát sinh cũng là chuyện tự nhiên, thường tình. Dần dà, lâu ngày, tâm lý tiềm ẩn ấy phát triển thành một dạng thức mà nhà văn Nguyễn Mộng Giác gọi là "ảo giác của trí tuệ". Chẳng ai muốn thú nhận cái vốn học ít ỏi của mình, cho dù có ít ỏi thật. Dẫu không hiểu cũng phải cố làm ra vẻ hiểu. Còn kẻ "học nhiều hiểu rộng" thì lại càng muốn chứng tỏ cái sở học mênh mông của mình, chẳng biết nông sâu cỡ nào nhưng chắc chắn là phải vượt xa tầm hiểu biết hạn hẹp của những kẻ "ít học"...
    Thế nhưng, đến khi tác giả TCS "thật thà khai báo" là "viết thì viết vậy" chứ cũng không rõ là... viết cái gì(!), thì kẻ "học ít" lẫn kẻ "học nhiều" đều hụt hẫng, chới với, xính vính, nhất là kẻ "học nhiều" , vì lỡ bộ. Tưởng ông biết, hóa ra ông trả lời không biết. Tưởng ông hiểu, nào ngờ ông nói ông không hiểu. Kẹt quá. Ông không hiểu ông thì tôi làm sao hiểu ông được. Giá như ông cứ nhận bừa là ông hiểu đi thì hay biết mấy, khỏi rắc rối, đỡ phiền phức. Tương tự, sau khi triết lý đủ thứ về cuộc sống, về tình yêu, về thân phận con người..., ông kết luận gọn gàng, ngon ơ: "đường trần... đâu có gì!" (Phôi Pha).
    TCS, ông quả là có máu hài hước, chẳng thế mà ông vẫn thích đùa nghịch, thích trò chơi nhào lộn, tung hứng chữ nghĩa trong ca từ của ông:
    Trong khi ta về lại nhớ ta đi..., hoặc
    Em là tôi và tôi cũng là em...,
    hoặc
    Nào có cái chết đầu tiên, đâu có cái chết sau cùng..., hoặc
    Còn hai con mắt khóc người một con
    Còn hai con mắt một con khóc người...

    Về phía người nghe TCS, điều rõ ràng là, thưởng thức nhạc với tâm lý như đã nói ở trên thì đâu có cần chi hiểu hay không hiểu.
    (còn tiếp)
    Nguồn: www.suutap.com & www.tcs-forum.org

Chia sẻ trang này