1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn của Quế Hương

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 16/02/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    4. Chiếc Lá Hình Giọt Lệ
    Suốt thời niên thiếu, tôi nghiện hương vị Tết phả ra từ căn bếp chị Thời. Hương vị ấy bám mãi trong lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi dộ xuân về... Sau tiết Đại hàn, khi mưa chỉ còn lất phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại, cây mai vàng trẩy lá sớm của chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay chuẩn bị Tết. Từ bên ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi về với những giỏ xách nặng triu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm: "CÁi con giỏi thiệt! Tau mà là thằng Tâm... " - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm nắng, lắc đầu.
    "Mai nắng to không anh Tâm?" - Chị Thời nhìn chú, hỏi qua rào.
    Chú Tâm nhìn trời rồi ngâm nga: "Trời mưa thì mặc trời mưa. Tôi phơi dưa món... trới chừa tôi ra!".
    Chị tủm tỉm cười bắt tay làm dưa món. Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà không nỡ ăn. Ngọn lá, cây thông, hoa đào, trÁi lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc, những con thú bằng cà rốt, su hào xinh như đồ chơi. Có một năm chú Tâm dự báo thời tiết không đúng, chị phơi dưa vài ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu xìu còn chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. CÁi thẩu dưa món ấy chị gọi là "dưa - nắng - Ốm".
    CÁi Tết đối với tôi không chỉ ba ngày. Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt nếm của chị. Đi học về là tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi trong bếp gọt me, gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren, người sực nức mùi mứt ngào ngạt. Học xong, tôi lạii qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời lại ngon lạ ngon lùng như thế. Tinh tuý cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn mứt dưới đáy thau. Có khi đợi không nổi, tôi ngủ gục trên vai chị. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm tho không bờ bến vây bọc lấy mình trong đêm cuối đông.
    Chú út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ khi chị Hà, người yêu chú đột ngột đi lấy chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc thơ hoặc ngồi im như Bụt. Nhưng chớ dại chọc chú nói. Chú sẽ tuôn ra như nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức của chú đến lần thứ một ngàn lẻ một. Chỉ có một người láng nghe lần thứ một ngàn lẻ một chuyện tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.
    Nhà chị Thời có ba cô con gÁi. Chị là con đầu, không đẹp nhưng có mÁi tóc đẹp còn hơn tóc người mẫu quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa, túm hờ hai lọn tóc bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có nhiều người chết đuối trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị vẫn chưa có chồng. MÁi tóc ấy luôn gội bằng bồ kết, hong khô bằng gió trời. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào. Cả chú Tâm cũng nhìn nhưng khi tôi hỏi chú có đẹp không thì chú lại lạc đề về một mÁi tóc khác. Rồi không hiểu vì cớ gì chị cắt phăng mÁi tóc dài đẹp nhất xứ Huế. Tôi tiếc ngẩn ngơ, nhặt chiếc nơ nhung đen chị quăng ép vào cuốn tự điển chẳng biết để làm gì. Tết năm ấy, tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài ngan ngát hương mứt của chị nữa. Chị ngồi bó gối, mÁi tóc ngắn lạ hoắc lạ huơ, lẩm ba lẩm bẩm: "Tôi là người vô hình. Không ai thấy tôi. Tôi là người vô hình. Không ai thấy tôi." MÁi tóc nhẹ bớt mà có lẽ đầu chị nặng thêm, cứ gục xuống gối hoài. Năm ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.
    Mẹ rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày một nặng. Chú cứ lang thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà đã theo chồng tận đẩu đầu đâu. Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa Linh Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen giáng xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi, dại dột thề nguyền chi nơi đó... Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính chị Hà về lôi chú ra khỏi con mê hoang tưởng về một mối tình vĩnh cửu. Tôi không nhận ra chị vì chị như một quý bà, béo ra, đầy trang sức và son phấn. Chị thương hại nhìn chú Tâm gầy gò, xơ xác, lẩm bẩm đọc những câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì không gắn kết số phận với một người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lạii bởi cÁi rùng mình của người chú yêu điên dại cả tuổi thanh xuân. Chiều ấy, những bài tho tình chép bằng mực tím lả tả bay trong gió. Tôi tiếc chạy theo lượm đem cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt ngọt giọt đắng trong bóng hoàng hôn. Hai cô em song sinh của chị Thời, thua chị mười tuổi, học cùng lớp với tôi hoàn toàn trÁi ngược với chị như nước và lửa. Hai đứa giống nhau nhu đúc, đẹp đến phát sợ, nổi tiếng từ ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khoẻ, bé đẹp, hoa hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng, một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai sắc màu ấy trở thành tên thường gọi của chúng - con Vàng, con Xanh. Con Vàng dễ ghét lại ngồi gần tôi. Hễ tôi chạm vào cÁi áo đầm xoè to như cÁi hoa hướng dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có cÁi gì khoe, hắn cướp ngaỵ Nắm đấm chưa chạm vào người, hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con Xanh hiền hơn dẫu vẫn khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn hay chơi trò nấu ăn, vợ chồng. Com nấu trong cÁi nồi đất nhỏ xíu, chưa kịp xới ra những cÁi chén bằng lá mít đã bị con Vàng ném đá bể nồi. Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thoa? khát vọng trời xanh đã bị hắn xé toang rồi lấy chân dẫm lên. Tôi nắm áo bắt đền, hắn nắm tóc tôi tru tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi đứa bị đét vào mông một roi mới yên chuyện.
    Tôi càng lớn, chị Thời càng làm mứt Tết ít đi. Bánh hộp, kẹo hộp, mứt công nghiệp ê hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ chỉ cần một giờ ra chợ là có cÁi Tết nên chẳng mấy ai bỏ cả chục ngày dài để làm như chị ngày ấy. Mốt mứt đã tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy gìò chả, nem tré, thịt nguội, đồ nhắm đưa caỵ Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị. Ông Táo về trời đã mấy hôm rồi mà bếp vẫn lạnh tanh, chỉ mấy thẩu đồ chua trên kệ. Chị bảo nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhai chewing gum, chocolate, hạt điều. Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế phải đem cho bọn con nít nghèo trong xóm. Không có cÁi bếp sực nức mùi mứt của chị Thời, hương vị Tết đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ Tết với bạn gÁi. Cô ấy không biết làm mứt và cũng không cần biết, chỉ mặc thật đẹp ra phố, đảo qua hàng mứt bánh nhón nếm và chọn mỗi thứ một ít. Thế mà hồi nhỏ, tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ lấy cô nào làm mứt ngon nhu chị.
    Tết năm nay về nhà, tôi lại thấy bếp chị rộn ràng. Những trÁi me dầm đẹp như ngọc xúm xít nhau trong thẩu. Những trÁi quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt sen đài các, mứt khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có mặt. Trên lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng dạ bởi sự hoà quện màu sắc hương vị, cay chua, ngột đắng như đời... Người chị lại sực nức mùi mứt, ấm nóng hơi lửa, má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm nay có khách xa về ăn Tết. Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà sẽ đem theo một ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em và anh Tâm về... - Chị nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh giấc mộng tình, chú Tâm cầm cÁi bằng tốt nghiệp trèơng Sư phạm tình nguyện về nơi cuối đất, làm thầy giáo ở đất rừng U Minh. Chú hẹn năm nay về ăn Tết.
    Con Xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa hoàn thành món bánh bò mứt. Tôi đứng nhìn chị trộn các loại mứt quất, gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh nhuyễn trên bếp sau đó bưng ra cả chảo trút lên cÁi mâm rải sẵn bột nếp khô, lấy tay nắm thành đòn dài. Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột nếp của chị Thời, rên lên: "Em nhớ nhất là cÁi bếp của ch?!". Nó quay qua tôi hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu" rồi ngắt đại một miếng bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà. Nó vẫn nhu ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên. Con Vàng hơi thất vọng vì ông Việt kiều con Xanh dẫn về đã già nhưng con Xanh bảo chỉ hơn chồng nó năm tuổi. Nhiều lắm là như bài hát: Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Năm anh bốn mươi, em vừa tròn đôi mươi...
    Đó là một kẻ tha hương bị lưu đày trong nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng hơn! Con Vàng không hợp gu với ông Việt kiều đạm hương đồng nội này. Những bộ váy cực kỳ thời trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng. Vẻ đẹp từng quyến rũ bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt qua cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó.
    ông ta thích lang thang một mình theo những lói mòn của ký ức để tìm lại thời gian đã mất hơn là đi nhót với nó. Ông ta mê mải nhặt những từ cổ lỗ sĩ, quê bỏ xừ của các mụ nhà quê, các gánh bún bò cơm hến hơn là ngôn ngữ thời thượng của nó. Một lần, nghe chị Thời mắng yêu tôi "ăn nhu thúng lủng khu", ông hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị rối rít làm chị ngỡ ngàng. Ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ Ông mắng như rứa khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe lại nhớ quá! Nhà chị Thới mời đi ăn cơm vua ở khách sạn Hương Giang, ông lại xin ăn một bữa com dân tại gia. Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để con Vàng được là tác giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng ngắc, cong vòng, canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua kèm đĩa chuối chát, vả, khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật và chè khoai tía tráng miệng. Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả mỹ mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn chầm chậm như ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời khen rất Huế: "Răng mà ngon dễ sợ!". Ông nhắp đắm say từng ngụm nước chè tươi thơm nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông lại được ăn một bữa cơm đượm khí vị quê nhà như thế. Mẹ chị Thời được dịp khoe con Vàng nấu nướng giỏi, coi bộ chịu chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con Vàng bảo chuyện đó đối với hắn dễ dàng như ngồi sơn móng tay.
    Hai mươi tám Tết, chú Tâm vãn chưa về. Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét. Nhà chị Thời cũng nấu. Hai bếp lửa chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân nhu toa? ánh vàng trong bóng đêm, phả mùt mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé chị hay trèo lên cây mai, mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng chẳng bao giờ chik chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm, cứ nắm áo kéo chị xuống. Có lần chị bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi bằng cách cõng chị đi chơi cả tháng... Chị phụ mẹ làm mứt bán Tết từ thuở mười bạ Khi mẹ đẻ con Xanh con Vàng, chị làm một mình, tay sứt sẹo, nớt ra vì gọt me gọt quất... Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm. Chú gọt me giỏi vì thế...
    Chị ngồi bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa bập bùng, gương mặt buồn và kiêu hãnh có phần héo hon bởi năm tháng, mÁi tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc. Tôi lục tung đống sách cũ tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho chị. Chị cài lên tóc, cười mà mắt như có nước.
    Chú Tâm về chiều 30 Tết. Nghe tiếng reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống cuống suýt đổ cả nồi chè đậu xanh đang nấu cúng giao thừa. Mặt chị tÁi đi nhưng đôi mắt ngời ngợi niềm vui không tả nổi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt vốn trầm tĩnh của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ diệu của tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị chạy ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gÁi. TrÁi tim tôi bỗng thắt lại bởi một linh cảm vừa ào tới. Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc ghi thoáng hạnh phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.
    Mứt của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ bùa trong những món mứt khiến ông Việt kiều quanh quẩn mãi bên nhà con Vàng, nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá sắp cắn câu vì ổng tưởng hắn làm. Ông khen món ăn nhà hắn đậm hương vị quê hương, có mùi văn hoá, ăn ngậm mà nghe. "Kiểu này lấy ổng, tau phải đem theo bà Lạc Thời!" - Con Vàng cười. "Rồi ổng biết mi không nấu được nước sôi thì mần răng?" - "Dễ ợt. Qua đó không hợp thì ly dị. Khối người rứa. Chết ai mô!" Tôi ngắm đôi môi tô son màu tím lịm mốt Hàn Quốc của nó đang dẩu ra và không hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời.
    ông Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà chị Thời nhưng không phải xin cưới con Vàng mà là chị Thời. Đúng là một quả bom nổ! Mẹ chị ngồi sững không biết phải nói thế nào. Con nào cũng là con. Con Vàng há hốc miệng rồi sực tỉnh, nanh nọc: "Tân thời không ưa, lại ưa lạc thời. Dắt nhau về thế kỷ Mười chín mà sống, đây đi lấy chồng Hồng Kông!". Nó nguýt ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cÁi tưởng như cắt ông ta làm mấy mảnh rồi rú xe khỏi cổng, chấm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục nữ, công dung ngôn hạnh.
    Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị từ chối không luyến tiếc cơ may vừa có chồng giàu vừa được xuất ngoại. Mặc cha mẹ và con Xanh phân tích hơn thiệt, cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú thường thơ thẩn đi lui đi tới lẩm bẩm mấy câu thơ:
    Tình thơ dại ai ngờ sâu nặng thế
    Năm tháng đi mà tình yêu vẫn ơ?
    Mai cho dù tóc trắng với ngàn lau (#1)
    Nắng hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn chuyện hôn nhân của chú. Cô kia cũng đi dậy, mồ côi, neo đơn nên cưới hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở quê người. Chú bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản, dễ sống lắm.
    Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang của chị dâu tức mẹ tôi và cô bạn thân từ thuở thơ ấu. Chị Thời nhận lời và bắt tay vào việc chuẩn bị. Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ gặp một chị Thời lặng lẽ khép kín không thể thấm quạ Ngày cưới càng kề, chị càng bận rộn như thể đám cưới chị. ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho đến nửa đêm. Chị thức làm bánh ga-tô phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ tỉa dưa chua, tôi bỗng cáu:
    - Kệ họ! Đi ngủ cho khoẻ!
    - Em cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.
    - Em dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!
    - Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu.
    Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa dưa. Chẳng biết làm gì, tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn tỉ mỉ như ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống những chiếc lá mất cuống, thiếu răng cưa, thuôn thuôn hình giọt lệ cà rốt hồng tươi như máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    5. Hai Người Đàn Bà Và Một Nhành Mai
    C hiều ba mươi tết năm ấy, Tôi đi chợ hoa. Năm cạn đáy, tiền cạn túi, xế điếc vẫn đạp ro ro với niềm hy vọng: tàn cuộc mua bán, cÁi đẹp sẽ hạ giá. Biết đâu mua được một nhành mai nho nhỏ hợp với túi tiền.
    Hoa còn nghìn nghịt. Chậu nối chậu, hàng nối hàng... Hoa ế vẫn là hoa, cứ đẹp ! Hồng nở đến sốt ruột. Cúc đại đoá vàng đến cháy lòng. Quất lúc lỉu như bầy con chờ me... hoa loại hai, loại bạ Người loại năm loại sáu. Hoa chờ. Người đợi. Thời gian ủng hộ người muạ Một chậu hồng giá chỉ còn bằng một đoá hồng ban sáng.
    Tôi dắt xe đi dọc con đường bán mai. Các loài hoa khác có thể gặp quanh năm, còn mai đến hẹn mới lên. Người bán đứng ven đường, cầm trong tay một hoặc hai nhánh. Những nhành mai dường như cũng nhếch nhác trong những bình cắm xạm đen, khô héo, gầy guộc. Ngày lịm dần mà nắng vàng không tắt - nắng hoàng mai !
    Tôi được bữa ngắm no mắt: nhánh gầy yểu điệu, nhánh ghép bung xung, nhánh lác đác vu vơ vài nụ chúm chím, nhánh rộn rã tưng bừng với hàng loạt nụ cười trải lòng phơi dạ, nhánh e ấp trong kín sắc vàng... ngắm thôi, không hỏi giá vì nghe người bán trả lời kẻ khác cũng đã lặng người. Tôi đi hết đường mai, tự an ủi: đi về tay trống rỗng. Hồn còn 1 biển hoa.
    Xế điếc chưa chịu về, đạp rao rảo. Nó đổi hướng, chạy bon bon khi gặp 1 người chỉ : Phía trên quảng trường, mai rẻ!
    Tôi gặp chị Ở đó, trên đường chiều vắng vẻ. Chị đang tất tả chạy về thành phố. Nón lật ngược đằng sau, trên tay là 1 cành mai nhỏ.
    - Bán không chị?
    - Bán chớ ! Chị vừa trả lời vừa thở. Gương mặt tiều tuỵ tương phản với nhánh mai tươi rói trong tay.
    - Mấy? - Tôi hồi hộp.
    - Haichục.
    Đúng y nguyên tờ bạc duy nhất nằm trong túi áo ấm tôi. Thế nhưng thói đàn bà mua là trả, khiến tôi buộc miệng:
    - Mắc rứa!
    - Cô cho mười lăm ngàn cũng được. - Chị tự ý hạ.
    Tôi cầm mai, còn chị cầm tiền quay về. Vẫn chạy. Chạy được mấy bước còn quay lại tặng tôi nụ cười. Dường như chị mừng vì không phải xuống phố. Bóng chị lô nhô trên con dốc, tất tả, nhỏ bé khiến tôi mủi lòng nhận ra người bán còn khổ hơn người mua quá đỗi ! Tờ bạc chị vừa thối lại còn ngọ nguậy trong túi. Tôi đạp theo chị, nhánh mai ngược gió nặng trong tay nhưng lên thấu dốc bóng chị đã khuất.
    Cành mai gọn xinh ấy thật hợp với chiếc bình và bộ bàn ghế đơn sơ của nhà tôi. Nụ căng mẫm, phân bố đều. Có một nụ vừa về nhà đã chúm môi cười làm quen. Nó thực sự đem lại " không khí tết" cho căn phòng nhỏ. Ai đến chơi cũng khen có duyên chọn mai. Từng nụ cười diễm tuyệt chứa chan màu nắng ấm áp ấy cứ hé nở từ tốn cho đến qua tết. Nụ nối nụ, hoa nối hoa, rồi hoa rụng còn trơ đài lá... Rằm tháng giêng, con tôi mới đặt nó lên chiếc xe rác. Nó đi vẫn cười trong sắc lá. Y như nụ cười của chị khi quay lưng chạy.
    Tờ bạc năm ngàn chị thối nằm yên trong túi chiếc áo ấm của tôi đến 2 mùa đông trong quên lãng. Khi tôi tình cờ cho tay vào túi chạm phải những mẩu tiền nát vụn vì giặt giũ, tôi bỗng nhớ lại lần đi mua mai ấy. Thẫn thờ tự hỏi năm nay chị có còn tất tả vác mai chạy bán trong chiều cuối năm ?
    Tết lại đến. Mùa mai lại về nhưng tôi không đi chợ hoàng mai nữa. Có một nhành mai cứ nở mỗi độ về, tươi tắn xốn xang trong lòng, không hiểu sao mà dai dẳng thế ?
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    5. Hai Người Đàn Bà Và Một Nhành Mai
    C hiều ba mươi tết năm ấy, Tôi đi chợ hoa. Năm cạn đáy, tiền cạn túi, xế điếc vẫn đạp ro ro với niềm hy vọng: tàn cuộc mua bán, cÁi đẹp sẽ hạ giá. Biết đâu mua được một nhành mai nho nhỏ hợp với túi tiền.
    Hoa còn nghìn nghịt. Chậu nối chậu, hàng nối hàng... Hoa ế vẫn là hoa, cứ đẹp ! Hồng nở đến sốt ruột. Cúc đại đoá vàng đến cháy lòng. Quất lúc lỉu như bầy con chờ me... hoa loại hai, loại bạ Người loại năm loại sáu. Hoa chờ. Người đợi. Thời gian ủng hộ người muạ Một chậu hồng giá chỉ còn bằng một đoá hồng ban sáng.
    Tôi dắt xe đi dọc con đường bán mai. Các loài hoa khác có thể gặp quanh năm, còn mai đến hẹn mới lên. Người bán đứng ven đường, cầm trong tay một hoặc hai nhánh. Những nhành mai dường như cũng nhếch nhác trong những bình cắm xạm đen, khô héo, gầy guộc. Ngày lịm dần mà nắng vàng không tắt - nắng hoàng mai !
    Tôi được bữa ngắm no mắt: nhánh gầy yểu điệu, nhánh ghép bung xung, nhánh lác đác vu vơ vài nụ chúm chím, nhánh rộn rã tưng bừng với hàng loạt nụ cười trải lòng phơi dạ, nhánh e ấp trong kín sắc vàng... ngắm thôi, không hỏi giá vì nghe người bán trả lời kẻ khác cũng đã lặng người. Tôi đi hết đường mai, tự an ủi: đi về tay trống rỗng. Hồn còn 1 biển hoa.
    Xế điếc chưa chịu về, đạp rao rảo. Nó đổi hướng, chạy bon bon khi gặp 1 người chỉ : Phía trên quảng trường, mai rẻ!
    Tôi gặp chị Ở đó, trên đường chiều vắng vẻ. Chị đang tất tả chạy về thành phố. Nón lật ngược đằng sau, trên tay là 1 cành mai nhỏ.
    - Bán không chị?
    - Bán chớ ! Chị vừa trả lời vừa thở. Gương mặt tiều tuỵ tương phản với nhánh mai tươi rói trong tay.
    - Mấy? - Tôi hồi hộp.
    - Haichục.
    Đúng y nguyên tờ bạc duy nhất nằm trong túi áo ấm tôi. Thế nhưng thói đàn bà mua là trả, khiến tôi buộc miệng:
    - Mắc rứa!
    - Cô cho mười lăm ngàn cũng được. - Chị tự ý hạ.
    Tôi cầm mai, còn chị cầm tiền quay về. Vẫn chạy. Chạy được mấy bước còn quay lại tặng tôi nụ cười. Dường như chị mừng vì không phải xuống phố. Bóng chị lô nhô trên con dốc, tất tả, nhỏ bé khiến tôi mủi lòng nhận ra người bán còn khổ hơn người mua quá đỗi ! Tờ bạc chị vừa thối lại còn ngọ nguậy trong túi. Tôi đạp theo chị, nhánh mai ngược gió nặng trong tay nhưng lên thấu dốc bóng chị đã khuất.
    Cành mai gọn xinh ấy thật hợp với chiếc bình và bộ bàn ghế đơn sơ của nhà tôi. Nụ căng mẫm, phân bố đều. Có một nụ vừa về nhà đã chúm môi cười làm quen. Nó thực sự đem lại " không khí tết" cho căn phòng nhỏ. Ai đến chơi cũng khen có duyên chọn mai. Từng nụ cười diễm tuyệt chứa chan màu nắng ấm áp ấy cứ hé nở từ tốn cho đến qua tết. Nụ nối nụ, hoa nối hoa, rồi hoa rụng còn trơ đài lá... Rằm tháng giêng, con tôi mới đặt nó lên chiếc xe rác. Nó đi vẫn cười trong sắc lá. Y như nụ cười của chị khi quay lưng chạy.
    Tờ bạc năm ngàn chị thối nằm yên trong túi chiếc áo ấm của tôi đến 2 mùa đông trong quên lãng. Khi tôi tình cờ cho tay vào túi chạm phải những mẩu tiền nát vụn vì giặt giũ, tôi bỗng nhớ lại lần đi mua mai ấy. Thẫn thờ tự hỏi năm nay chị có còn tất tả vác mai chạy bán trong chiều cuối năm ?
    Tết lại đến. Mùa mai lại về nhưng tôi không đi chợ hoàng mai nữa. Có một nhành mai cứ nở mỗi độ về, tươi tắn xốn xang trong lòng, không hiểu sao mà dai dẳng thế ?
  4. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    7. Nỗi buồn rực rỡ.
    Anh nó dúi vào tay nó thùng đồ nghề sửa xe và bảo: "Làm việc cho đỡ buồn và đỡ đói". Thế là nó trở thành anh thợ sửa xe trước một công viên nhỏ trong Thành Nội năm nó mười sáu tuổi. Họa hoằn mới có kẻ xìu lốp, trật sên ngang qua đó, còn thì nó nằm dài trên ghế đá, bụng đói meo, ngắm mảnh trời xanh qua kẽ lá. Có khi nó nhìn tụi học trò đi quạ Mới năm ngoái nó còn như chúng! Nó nuốt ực nỗi tủi nghẹn xuống họng và vớ cái que vẽ đầy mặt đất những thứ ngổn ngang trong lòng nó. Nó vẽ giỏi hơn sửa xe đạp cả triệu lần. Khi bố mẹ còn sống, nó đã từng mơ trở thành họa sĩ.
    Mùa hè đến. Có một kẻ lạ xâm chiếm ghế đá của nó. Nhánh phượng trong tay cô chói chang như ngọn lửa. Bỏ thùng đồ nghề xuống, nó nghênh chiến:
    - Đi chỗ khác. Ghế ni của tui.
    - Ơ... ghế nhà anh chắc? - Địch thủ không vừa.
    - Như... ng... t... ui... giành... tr... ước...
    - Ghế công viên ai đến trước ngồi trước.
    Đuối lý, nó ngồi bệt xuống cỏ. Nếu nó tiếp tục, nó chỉ rặn ra từng chữ làm trò cười cho cô tạ Bao giờ xúc động, nó cũng cà lăm rất nặng.
    Kẻ chiến thắng mân mê nhánh phượng, loay hoay đến nỗi làm rơi. Cô bé đứng bật dậy. Nhánh phượng ngay dưới chân mà cô cứ mò mẫm, sờ soạng dọc chiều dài ghế đá. Cơn giận đột nhiên tắt ngúm. Nó biết đó là một cô bé mù.
    - Đây nì! - Nó nhặt và đưa cho cô nhánh phượng.
    - Cảm ơn... Trả ghế cho... đây!
    - Không cần nữa.
    - Rứa mình ngồi chung được không?
    Lần đầu trong đời, có đứa con gái đề nghị với nó như vậy. Nó cố đẩy tiếng "được" ra khỏi miệng nhưng âm và thanh cứ lấp ló sau lưỡi nên đành đứng lặng ngó cộ Bây giờ thì nó nhận ra cô bé rất xinh. Con gái cả trường nó không ai được như vậy. Cô áp má vào nhành phượng và bỗng nhiên nó muốn vẽ hình ảnh ấy đến cháy lòng.
    - Hoa phượng mầu đỏ phải không? - Ngập ngừng cô tiếp - Mầu đỏ ra răng?
    - Hắn... như... mầu... lửa... mầu... m... ôi...
    Bối rối, nó lại cà lăm. Tả là phải so sánh. Cô không nhìn thấy làm sao hình dung?
    - Đẹp lắm phải không? Phải đổi hai con búp bê len đấy.
    - Không nói tui hái cho.
    - Đã quen mô mà bảo! - Cô cười, lúm đồng tiền dễ thương chi lạ!
    - Nó còn được gọi là hoa học trò phải không?
    - Ừ.
    - Có đi học không?
    - Nghỉ rồi.
    - Răng rứa?
    - Cha mẹ tui bi... tai... nạn chết... không ai nuôi.
    - Buồn quá nhỉ! Còn em thì chưa bao giờ thấy cha mẹ em. Ba em bảo sẽ cho em chữ nổi. Đọc ri nì... - Cô làm bộ sờ vào trang sách tưởng tượng.
    Nó im lặng. Tiếng "em" ngọt ngào làm nó sững sờ. Nhánh phượng trong tay cô đỏ nhức nhối. Trong trường nó cũng có một cây, bây giờ đang thắp lửa. Tụi con gái sẽ năn nỉ tụi con trai khèo lén. Tại sao nó vĩnh biệt mùa hè sớm thế?
    - Anh mấy tuổi?
    - 18 - Nó thêm đại hai tuổi để chắc được gọi bằng anh.
    - Lần này em đoán trúng - Cô thở phào - Có lần em gọi một thằng nhỏ 10 tuổi bằng anh. Giọng nó như ông cụ. Nì... anh có muốn làm bạn với em không? Sáng nào em cũng ra đây chơi. Em muốn có bạn lắm nhưng... ai chơi với em cũng chán. Em mù mà!
    - Không... ch... án... mô! - Nó dứt khoát.
    - Ngoéo không?
    Cô giơ ngón tay út xinh như chồi lan đợi nó. Nó chùi tay vào quần rồi ***g ngón tay mình vào đó. Hơi run.
    Ngày tháng nhẹ thênh từ khi có bạn. Nó chẳng ngồi thừ hay nằm dài nữa. Nó đến sớm, cố ăn mặc sạch sẽ hơn dù cô không nhìn thấy nó. Cô hỏi nó đủ thứ trên đời nhưng ngôn ngữ nó quá nghèo nàn để mô tả. Những khi bí, nó thường cà lăm và cô chịu khó nhặt lấy từng tiếng. Giá cô nhìn thấy, nó sẽ vẽ chúng ra. Vẽ dễ hơn tả.
    Thường cô ngồi trên ghế đá với một nhúm len vụn đủ mầu. Cô biến nó thành những con búp bê len xinh xinh còn nó giúp cô sắp xếp mầu sắc. Có hai đứa những con búp bê len trở nên ngộ nghĩnh hơn. Nhiều khi cô thẫn thờ, không làm, không nói. Nó biết cô buồn, len lén thả vào lòng cô tặng vật ngớ ngẩn - chiếc lá, hòn sỏi... Cô ve vuốt chúng, đôi mắt vô hồn lặng lẽ mở tọ Nó đọc thấy một tiếng kêu nghẹn tắt, da diết, tuyệt vọng: "ánh sáng! Hãy cho tôi ánh sáng!".
    Một ngày, trên đường về, nó nhặt ở đống rác một chú mèo con gần chết. Một tháng sau, nó tặng cộ Con mèo vàng hơn nắng, trắng hơn tuyết, óng ả, mượt mà, bé bỏng và bàn tay cô cảm nhận được điều đó. Cô mừng đến nỗi không nói thành lời, chỉ chìa tay cô cho nó. Nó nắm lấy bàn tay thật xinh ấy, viết vào lòng bàn tay chữ mèo. Cô ngẩn người còn nó cắt nghĩa:
    - Tên hắn viết rứa.
    - Anh viết lại đi. Thật chậm - cô hồi hộp.
    Nó lặp lại từng nét rồi cầm tay cô viết vào lòng bàn tay nó. Sáng đó hai đứa không làm chi nữa ngoài chữ mèo. Chúng bò lổm ngổm trên mặt đất, chữ nọ chồng chữ kia nhưng cô sung sướng không tả xiết. Cô bảo: "Anh sẽ dạy em viết tên em, tên anh, tên mọi thứ quanh mình chứ?". Nó trở thành thầy lẫn thợ trong suốt mùa thu, một mùa thu có "em ngồi đây tóc ngắn và mùa thu rải nắng ở chung quanh". Học trò nó rất ham học. Nó mua cho cô phấn, bảng con và tập cho cô viết các chữ cái. Ngày cô ghép chúng là một ngày quan trọng. Cô ngồi trang nghiêm, bảng cầm taỵ Nó hái một ngọn lá đặt vào tay cô rồi xướng to: "L... a... la... sắc lá... ". Cô nghiêng đầu lắng nghe như hứng từng âm thanh trước khi chúng rơi xuống mặt bảng. Chữ L và chữ A run rẩy chồng lên nhau hoặc có khi đứng xa nhau cả quãng, dấu sắc lọt thỏm ở giữa nhưng cô bé thì tái nhợt vì xúc động. Thế giới tối tăm và tĩnh lặng của cô bị xáo trộn. Mọi vật không im lìm nữa. Chúng rạo rực dưới tay cô, hăm hở kêu lên: "Viết tên em đi! Tên em nữa! Em nữa... !".
    Cô say sưa viết còn nó lặng lẽ vẽ khi không có việc. Con mèo luẩn quẩn bên cạnh học vồ những chiếc lá rơi. Đó là những ngày êm đềm nhất của nó từ khi cha mẹ nó mất. Nó vẽ những ngày vui ấy vào một quyển vở, vẽ cả ước mơ của cô và của nó. Trong đó dĩ nhiên cô hết mù và nó cũng hết làm thợ sửa xe. Nó đã quen việc nhưng không quen ý nghĩ làm anh thợ sửa xe suốt đời. Trong giấc ngủ nó cũng vùng vẫy thoát khỏi số phận.
    Mùa đông đến, vô cùng khắc nghiệt đối với người nghèo. Công viên vắng tanh. Khách không có, cô bé mù không đến. Nó co ro, môi thâm tím vì lạnh nhưng không bỏ đi chỗ khác. Kết quả nó ốm một trận nên thân. Khi nó đi làm lại, lác đác đã có người đến bán mai ở công viên, những cành mai đầy nụ phong kín nắng tháng chạp. Nó chờ hoài, chờ hoài nhưng cô bé mù bạn nó vẫn không đến. Những gì còn lại của cô là một con búp bê len, lem luốc, ẩm ướt, gần như vùi trong lớp lá.
    - Đi thôi em. Bức tranh có gì đâu mà xem hoài!
    - Nhưng em thích. Không biết có phải vì mầu hoa chói chang như lửa đó không?
    - Hoa phượng đó mà!
    - Hoa phượng ư? ôi hồi nhỏ em đã đổi hai con búp bê len lấy một nhánh nhỏ xíu. Em đã thèm thấy nó xiết bao!
    - Hè đến tha hồ thấy. Chỉ cần đến một trường học.
    - Nó là hoa học trò phải không?
    - Ừ. Đi thôi!
    Nhưng người đàn bà đẹp, khá sang trọng cứ đứng chôn chân trước bức tranh vẽ một cô thiếu nữ ngồi trên ghế đá, áp má vào nhành phượng. Hoa phượng hắt cả nỗi buồn rực rỡ lên khuôn mặt cộ Bức tranh lạc lõng giữa đám bạn bè bí ẩn, xa xôi, đại diện cho các trường phái, khuynh hướng, chiếm một góc lẻ loi nhỏ bé ở tận cuối phòng. Có phải mùa hoa chói chang và nét buồn khôn tả của thiếu nữ trong tranh đã níu chân bà lại hay tại cách áp má vào hoa của cô ta quen thuộc quá chừng? Càng nhìn, những cánh hoa dường như càng xòe to, lập lòe. Hàng mi dài như hai vệt tối của cô thiếu nữ động đậy, trào ra lai láng nỗi buồn. Hoa phượng rực rỡ, tuổi thanh xuân rực rỡ mà sao bức tranh vẫn buồn khôn tả. Bà nhắm mắt lại. Mầu hoa vẫn sáng rực trong bóng tối. Khi bà mở mắt ra, một mùa hè xa xôi bỗng thức dậy, chói chang kỷ niệm. Bà tưởng như thấy một người nữa trước cô bé, một người bà chưa hề biết mặt. Người ấy xướng to: "L.. a... la... sắc lá" bằng một âm sắc mà ngần ấy năm trời bây giờ bà vẫn nghe rõ dường như hôm quạ Bà ngửi thấy mùi hoa phượng hăng hắc, cả mùi dầu mỡ phả ra từ hoài niệm. Hai mươi năm. Đủ để làm nên phép lạ cho đời bà. Bà được đi xa chữa mắt. Được... Được... Nhưng còn người ấy?
    - Đi em!
    - Chút nữa!
    - Nếu em thích quá thì anh hỏi mua vậy. Họa sĩ ơi!
    Trong một góc, cái đầu bù xù động đậy.
    - Bức tranh vẽ cô gái với nhành phượng giá bao nhiêu? Không thấy đề giá.
    - Bức đó à? Tại sao không là bức khác?
    - Tại vì vợ tôi thích.
    - Nhưng bức đó không bán.
    - Bao nhiêu tôi cũng mua.
    - Rất tiếc. Đó là tranh người ta gửi.
    - Ông làm ơn cho tôi... gặp người ấy được không? - Người đàn bà xen vào.
    Người họa sĩ đứng tuổi có khuôn mặt mệt mỏi, nhàu nát nhìn người đàn bà chăm chú rồi thở dài:
    - Cả tôi cũng không biết anh ta bây giờ ở đâu, còn hay mất. Anh ta không phải là một họa sĩ nhưng anh ta vẽ dễ dàng như người ta thở. Chúng tôi tình cờ quen nhau. Thỉnh thoảng anh ta đến xem tôi vẽ. Rồi một ngày anh ta bỗng đem gửi tôi bức tranh này. Đó là tác phẩm sơn dầu đầu tiên của anh ta nhưng nó khá quá chứ. Chỉ với kỹ thuật thôi không thể được như thế. Tiếc là không có bức thứ hai!
    - Tại sao thế?
    - Anh ta gửi rồi đi... Đã nhiều năm rồi không trở lại. Tranh chẳng ai hỏi mua mà có hỏi mua tôi cũng chẳng nỡ bán. Đó có thể là tác phẩm đầu tiên và cuối cùng của một người. Giá bà nhìn thấy anh ta lúc gửi gắm cho tôi nửa tâm hồn anh ta nhỉ?
    Họa sĩ nhìn ra đường, ánh mắt xa xăm:
    - Bà thấy kia! Dòng đời như nước. Ai biết anh ta bị cuốn về đâu?
    Người đàn bà lặng lẽ khóc. Bà đã quen lối khóc không trào lệ cả thời thơ ấu tối tăm.
    - Nếu bà còn thích, một năm nữa bà quay lại. Tôi giữ thế cũng đã lâu rồi. Một năm nữa anh ta không trở lại, tôi sẽ trao nó cho người biết trân trọng nó.
    - Dạ.
    Tiếng "dạ" nhỏ nhẹ, thẫn thờ rút ra như tiếng thở dài khép lại cuộc đối thoại. Nó cũng mênh mang, bất định như cuộc đời. Người đàn bà đứng trước bức tranh với một dáng vẻ khiến người họa sĩ già không thể không phác họa bằng mắt. Bà lặng lẽ từ biệt nỗi buồn rực rỡ rồi đi ra khỏi phòng tranh.
    Họ đi rồi. Họa sĩ cảm thấy trống trải. Ông nhìn những bức tranh. Chúng cũng lặng lẽ nhìn ông, thì thầm trong vô thanh. Chụp lấy mũ, ông lê những bước chân cô đơn, mệt mỏi trên hè phố và mất hút trong dòng người nặng trĩu vui, buồn, bất an...
  5. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    7. Nỗi buồn rực rỡ.
    Anh nó dúi vào tay nó thùng đồ nghề sửa xe và bảo: "Làm việc cho đỡ buồn và đỡ đói". Thế là nó trở thành anh thợ sửa xe trước một công viên nhỏ trong Thành Nội năm nó mười sáu tuổi. Họa hoằn mới có kẻ xìu lốp, trật sên ngang qua đó, còn thì nó nằm dài trên ghế đá, bụng đói meo, ngắm mảnh trời xanh qua kẽ lá. Có khi nó nhìn tụi học trò đi quạ Mới năm ngoái nó còn như chúng! Nó nuốt ực nỗi tủi nghẹn xuống họng và vớ cái que vẽ đầy mặt đất những thứ ngổn ngang trong lòng nó. Nó vẽ giỏi hơn sửa xe đạp cả triệu lần. Khi bố mẹ còn sống, nó đã từng mơ trở thành họa sĩ.
    Mùa hè đến. Có một kẻ lạ xâm chiếm ghế đá của nó. Nhánh phượng trong tay cô chói chang như ngọn lửa. Bỏ thùng đồ nghề xuống, nó nghênh chiến:
    - Đi chỗ khác. Ghế ni của tui.
    - Ơ... ghế nhà anh chắc? - Địch thủ không vừa.
    - Như... ng... t... ui... giành... tr... ước...
    - Ghế công viên ai đến trước ngồi trước.
    Đuối lý, nó ngồi bệt xuống cỏ. Nếu nó tiếp tục, nó chỉ rặn ra từng chữ làm trò cười cho cô tạ Bao giờ xúc động, nó cũng cà lăm rất nặng.
    Kẻ chiến thắng mân mê nhánh phượng, loay hoay đến nỗi làm rơi. Cô bé đứng bật dậy. Nhánh phượng ngay dưới chân mà cô cứ mò mẫm, sờ soạng dọc chiều dài ghế đá. Cơn giận đột nhiên tắt ngúm. Nó biết đó là một cô bé mù.
    - Đây nì! - Nó nhặt và đưa cho cô nhánh phượng.
    - Cảm ơn... Trả ghế cho... đây!
    - Không cần nữa.
    - Rứa mình ngồi chung được không?
    Lần đầu trong đời, có đứa con gái đề nghị với nó như vậy. Nó cố đẩy tiếng "được" ra khỏi miệng nhưng âm và thanh cứ lấp ló sau lưỡi nên đành đứng lặng ngó cộ Bây giờ thì nó nhận ra cô bé rất xinh. Con gái cả trường nó không ai được như vậy. Cô áp má vào nhành phượng và bỗng nhiên nó muốn vẽ hình ảnh ấy đến cháy lòng.
    - Hoa phượng mầu đỏ phải không? - Ngập ngừng cô tiếp - Mầu đỏ ra răng?
    - Hắn... như... mầu... lửa... mầu... m... ôi...
    Bối rối, nó lại cà lăm. Tả là phải so sánh. Cô không nhìn thấy làm sao hình dung?
    - Đẹp lắm phải không? Phải đổi hai con búp bê len đấy.
    - Không nói tui hái cho.
    - Đã quen mô mà bảo! - Cô cười, lúm đồng tiền dễ thương chi lạ!
    - Nó còn được gọi là hoa học trò phải không?
    - Ừ.
    - Có đi học không?
    - Nghỉ rồi.
    - Răng rứa?
    - Cha mẹ tui bi... tai... nạn chết... không ai nuôi.
    - Buồn quá nhỉ! Còn em thì chưa bao giờ thấy cha mẹ em. Ba em bảo sẽ cho em chữ nổi. Đọc ri nì... - Cô làm bộ sờ vào trang sách tưởng tượng.
    Nó im lặng. Tiếng "em" ngọt ngào làm nó sững sờ. Nhánh phượng trong tay cô đỏ nhức nhối. Trong trường nó cũng có một cây, bây giờ đang thắp lửa. Tụi con gái sẽ năn nỉ tụi con trai khèo lén. Tại sao nó vĩnh biệt mùa hè sớm thế?
    - Anh mấy tuổi?
    - 18 - Nó thêm đại hai tuổi để chắc được gọi bằng anh.
    - Lần này em đoán trúng - Cô thở phào - Có lần em gọi một thằng nhỏ 10 tuổi bằng anh. Giọng nó như ông cụ. Nì... anh có muốn làm bạn với em không? Sáng nào em cũng ra đây chơi. Em muốn có bạn lắm nhưng... ai chơi với em cũng chán. Em mù mà!
    - Không... ch... án... mô! - Nó dứt khoát.
    - Ngoéo không?
    Cô giơ ngón tay út xinh như chồi lan đợi nó. Nó chùi tay vào quần rồi ***g ngón tay mình vào đó. Hơi run.
    Ngày tháng nhẹ thênh từ khi có bạn. Nó chẳng ngồi thừ hay nằm dài nữa. Nó đến sớm, cố ăn mặc sạch sẽ hơn dù cô không nhìn thấy nó. Cô hỏi nó đủ thứ trên đời nhưng ngôn ngữ nó quá nghèo nàn để mô tả. Những khi bí, nó thường cà lăm và cô chịu khó nhặt lấy từng tiếng. Giá cô nhìn thấy, nó sẽ vẽ chúng ra. Vẽ dễ hơn tả.
    Thường cô ngồi trên ghế đá với một nhúm len vụn đủ mầu. Cô biến nó thành những con búp bê len xinh xinh còn nó giúp cô sắp xếp mầu sắc. Có hai đứa những con búp bê len trở nên ngộ nghĩnh hơn. Nhiều khi cô thẫn thờ, không làm, không nói. Nó biết cô buồn, len lén thả vào lòng cô tặng vật ngớ ngẩn - chiếc lá, hòn sỏi... Cô ve vuốt chúng, đôi mắt vô hồn lặng lẽ mở tọ Nó đọc thấy một tiếng kêu nghẹn tắt, da diết, tuyệt vọng: "ánh sáng! Hãy cho tôi ánh sáng!".
    Một ngày, trên đường về, nó nhặt ở đống rác một chú mèo con gần chết. Một tháng sau, nó tặng cộ Con mèo vàng hơn nắng, trắng hơn tuyết, óng ả, mượt mà, bé bỏng và bàn tay cô cảm nhận được điều đó. Cô mừng đến nỗi không nói thành lời, chỉ chìa tay cô cho nó. Nó nắm lấy bàn tay thật xinh ấy, viết vào lòng bàn tay chữ mèo. Cô ngẩn người còn nó cắt nghĩa:
    - Tên hắn viết rứa.
    - Anh viết lại đi. Thật chậm - cô hồi hộp.
    Nó lặp lại từng nét rồi cầm tay cô viết vào lòng bàn tay nó. Sáng đó hai đứa không làm chi nữa ngoài chữ mèo. Chúng bò lổm ngổm trên mặt đất, chữ nọ chồng chữ kia nhưng cô sung sướng không tả xiết. Cô bảo: "Anh sẽ dạy em viết tên em, tên anh, tên mọi thứ quanh mình chứ?". Nó trở thành thầy lẫn thợ trong suốt mùa thu, một mùa thu có "em ngồi đây tóc ngắn và mùa thu rải nắng ở chung quanh". Học trò nó rất ham học. Nó mua cho cô phấn, bảng con và tập cho cô viết các chữ cái. Ngày cô ghép chúng là một ngày quan trọng. Cô ngồi trang nghiêm, bảng cầm taỵ Nó hái một ngọn lá đặt vào tay cô rồi xướng to: "L... a... la... sắc lá... ". Cô nghiêng đầu lắng nghe như hứng từng âm thanh trước khi chúng rơi xuống mặt bảng. Chữ L và chữ A run rẩy chồng lên nhau hoặc có khi đứng xa nhau cả quãng, dấu sắc lọt thỏm ở giữa nhưng cô bé thì tái nhợt vì xúc động. Thế giới tối tăm và tĩnh lặng của cô bị xáo trộn. Mọi vật không im lìm nữa. Chúng rạo rực dưới tay cô, hăm hở kêu lên: "Viết tên em đi! Tên em nữa! Em nữa... !".
    Cô say sưa viết còn nó lặng lẽ vẽ khi không có việc. Con mèo luẩn quẩn bên cạnh học vồ những chiếc lá rơi. Đó là những ngày êm đềm nhất của nó từ khi cha mẹ nó mất. Nó vẽ những ngày vui ấy vào một quyển vở, vẽ cả ước mơ của cô và của nó. Trong đó dĩ nhiên cô hết mù và nó cũng hết làm thợ sửa xe. Nó đã quen việc nhưng không quen ý nghĩ làm anh thợ sửa xe suốt đời. Trong giấc ngủ nó cũng vùng vẫy thoát khỏi số phận.
    Mùa đông đến, vô cùng khắc nghiệt đối với người nghèo. Công viên vắng tanh. Khách không có, cô bé mù không đến. Nó co ro, môi thâm tím vì lạnh nhưng không bỏ đi chỗ khác. Kết quả nó ốm một trận nên thân. Khi nó đi làm lại, lác đác đã có người đến bán mai ở công viên, những cành mai đầy nụ phong kín nắng tháng chạp. Nó chờ hoài, chờ hoài nhưng cô bé mù bạn nó vẫn không đến. Những gì còn lại của cô là một con búp bê len, lem luốc, ẩm ướt, gần như vùi trong lớp lá.
    - Đi thôi em. Bức tranh có gì đâu mà xem hoài!
    - Nhưng em thích. Không biết có phải vì mầu hoa chói chang như lửa đó không?
    - Hoa phượng đó mà!
    - Hoa phượng ư? ôi hồi nhỏ em đã đổi hai con búp bê len lấy một nhánh nhỏ xíu. Em đã thèm thấy nó xiết bao!
    - Hè đến tha hồ thấy. Chỉ cần đến một trường học.
    - Nó là hoa học trò phải không?
    - Ừ. Đi thôi!
    Nhưng người đàn bà đẹp, khá sang trọng cứ đứng chôn chân trước bức tranh vẽ một cô thiếu nữ ngồi trên ghế đá, áp má vào nhành phượng. Hoa phượng hắt cả nỗi buồn rực rỡ lên khuôn mặt cộ Bức tranh lạc lõng giữa đám bạn bè bí ẩn, xa xôi, đại diện cho các trường phái, khuynh hướng, chiếm một góc lẻ loi nhỏ bé ở tận cuối phòng. Có phải mùa hoa chói chang và nét buồn khôn tả của thiếu nữ trong tranh đã níu chân bà lại hay tại cách áp má vào hoa của cô ta quen thuộc quá chừng? Càng nhìn, những cánh hoa dường như càng xòe to, lập lòe. Hàng mi dài như hai vệt tối của cô thiếu nữ động đậy, trào ra lai láng nỗi buồn. Hoa phượng rực rỡ, tuổi thanh xuân rực rỡ mà sao bức tranh vẫn buồn khôn tả. Bà nhắm mắt lại. Mầu hoa vẫn sáng rực trong bóng tối. Khi bà mở mắt ra, một mùa hè xa xôi bỗng thức dậy, chói chang kỷ niệm. Bà tưởng như thấy một người nữa trước cô bé, một người bà chưa hề biết mặt. Người ấy xướng to: "L.. a... la... sắc lá" bằng một âm sắc mà ngần ấy năm trời bây giờ bà vẫn nghe rõ dường như hôm quạ Bà ngửi thấy mùi hoa phượng hăng hắc, cả mùi dầu mỡ phả ra từ hoài niệm. Hai mươi năm. Đủ để làm nên phép lạ cho đời bà. Bà được đi xa chữa mắt. Được... Được... Nhưng còn người ấy?
    - Đi em!
    - Chút nữa!
    - Nếu em thích quá thì anh hỏi mua vậy. Họa sĩ ơi!
    Trong một góc, cái đầu bù xù động đậy.
    - Bức tranh vẽ cô gái với nhành phượng giá bao nhiêu? Không thấy đề giá.
    - Bức đó à? Tại sao không là bức khác?
    - Tại vì vợ tôi thích.
    - Nhưng bức đó không bán.
    - Bao nhiêu tôi cũng mua.
    - Rất tiếc. Đó là tranh người ta gửi.
    - Ông làm ơn cho tôi... gặp người ấy được không? - Người đàn bà xen vào.
    Người họa sĩ đứng tuổi có khuôn mặt mệt mỏi, nhàu nát nhìn người đàn bà chăm chú rồi thở dài:
    - Cả tôi cũng không biết anh ta bây giờ ở đâu, còn hay mất. Anh ta không phải là một họa sĩ nhưng anh ta vẽ dễ dàng như người ta thở. Chúng tôi tình cờ quen nhau. Thỉnh thoảng anh ta đến xem tôi vẽ. Rồi một ngày anh ta bỗng đem gửi tôi bức tranh này. Đó là tác phẩm sơn dầu đầu tiên của anh ta nhưng nó khá quá chứ. Chỉ với kỹ thuật thôi không thể được như thế. Tiếc là không có bức thứ hai!
    - Tại sao thế?
    - Anh ta gửi rồi đi... Đã nhiều năm rồi không trở lại. Tranh chẳng ai hỏi mua mà có hỏi mua tôi cũng chẳng nỡ bán. Đó có thể là tác phẩm đầu tiên và cuối cùng của một người. Giá bà nhìn thấy anh ta lúc gửi gắm cho tôi nửa tâm hồn anh ta nhỉ?
    Họa sĩ nhìn ra đường, ánh mắt xa xăm:
    - Bà thấy kia! Dòng đời như nước. Ai biết anh ta bị cuốn về đâu?
    Người đàn bà lặng lẽ khóc. Bà đã quen lối khóc không trào lệ cả thời thơ ấu tối tăm.
    - Nếu bà còn thích, một năm nữa bà quay lại. Tôi giữ thế cũng đã lâu rồi. Một năm nữa anh ta không trở lại, tôi sẽ trao nó cho người biết trân trọng nó.
    - Dạ.
    Tiếng "dạ" nhỏ nhẹ, thẫn thờ rút ra như tiếng thở dài khép lại cuộc đối thoại. Nó cũng mênh mang, bất định như cuộc đời. Người đàn bà đứng trước bức tranh với một dáng vẻ khiến người họa sĩ già không thể không phác họa bằng mắt. Bà lặng lẽ từ biệt nỗi buồn rực rỡ rồi đi ra khỏi phòng tranh.
    Họ đi rồi. Họa sĩ cảm thấy trống trải. Ông nhìn những bức tranh. Chúng cũng lặng lẽ nhìn ông, thì thầm trong vô thanh. Chụp lấy mũ, ông lê những bước chân cô đơn, mệt mỏi trên hè phố và mất hút trong dòng người nặng trĩu vui, buồn, bất an...
  6. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    8. Nhìn từ vĩnh cửu (phần I)
    Năm tôi mười sáu, mẹ mời về nhà một ông thầy nổi tiếng bói tên. Ông ta không tráp, không sách, không quẻ. Đồ nghề của ông ta chính là đôi mắt. Đôi mắt có ánh nhìn cứng lạnh như mũi khoan thủng thỉnh đục từng mẩu đời cho đến khi lộ số phận. Ba người ngồi một dãy nhưng ánh mắt của ông ta chĩa vào chị Ái.
    - O tên chi?
    Dạ... Ái.
    - Đời o lộ cả trong cái tên: Áilà yêu. O yêu thiệt dễ sợ! - Ông bỏ lửng ở đó, quay qua mẹ tôi:
    - Tên bà?
    - Dạ ... Lội.
    - Lội suốt đời phải không? Vì mẹ, vì chồng, vì con...
    Mẹ tái mặt còn tôi ghé tai chị Ái:
    - Bói rứa em bói cũng được. Căn cứ vào tên mà suy diễn. Vả lại mạ nói đàn bà mấy ai không khổ.
    - Ừ, mụ non nói có lý. Thầy nói tau yêu dễ sợ... Nhưng tau có trái tim đông lạnh, sức mấy!
    Đôi môi đỏ mọng trề ra rồi chủ nhân trái tim đông lạnh đứng dậy, nhưng không bỏ đi vì câu tiếp theo của ông thầy:
    - Sáu, bảy mươi tuổi nhà bà có tai biến, bắt đầu nếm mùi cực. Tuổi trăng tròn phải lưu lạc. Chồng con không ra chi. Đôi chân bà là đôi chân biết khóc, luôn dầm trong nước, "ướt '' suốt đời. Đưa nó ra đây!
    Mẹ tôi líu ríu chìa chân ra. Đôi chân in dấu số phận. Chỗ chai, chỗ sần, chỗ lõm, chỗ nhô xương, móng hư, móng trụi... Dấu vết lầm than lấm tấm như lệ ứa.
    Chị Ái ngồi xuống hình như bị lực hút của ông thầy. Hình ảnh bà ngoại điên đẹp tuyệt trần đứng cởi quần rũ hiện ra trong nắng. Bà tôi điên khi mẹ tôi lên tám, vẫn đẹp lạ lùng cho đến khi chết. Tôi còn nhớ bà ngoại hay nói một mình, phì cười và cởi quần rũ. Động tác nào của bà cũng tự nhiên, duyên dáng. Đúng là mẹ đã đi ở từ năm mười ba để lấy một món tiền chữa bệnh cho bà mẹ điên. Đôi mươi về lấy một anh thợ hớt tóc nghèo. Khoảng mười năm bệnh lao cướp mất chồng... Vâng, cuộc đời mẹ, thầy tóm trong mấy câu mà đúng đến sởn da gà! Cả đôi chân mẹ, suốt đời chui rúc lặn lội sao ông ta nhìn thấy và gọi tên nó thật đúng - Đôi chân biết khóc! Chị ái có vẻ hoang mang. Tôi nghe chị lẩm bẩm: "Chân vợ ổng cũng rứa thôi. Đàn bà mà!". Thế nhưng tôi thấy chị lén nhìn chân mình.
    - O tên chi? ánh mắt ông thầy xỉa vào tôi. Vẫn cái ánh mắt dễ sợ ấy. Lập tức con bé "cắc cớ" trong tôi xúi tôi nói láo:
    - Dần ạ!
    Bà chị bụm miệng cười còn ông thầy tỉnh bơ cắm ánh mắt vào tôi bắt đầu khoan:
    - O khổ vì không giống cọp. O hiền và đa cảm đa mang. Hiền là thiệt, thương là khổ. Hay thương nhưng lại dễ bị người ta ghét. Trái tim đa cảm của o tự vệ bằng những cái gai - bướng bỉnh, lạnh lùng, kênh kiệu , khó gần...
    Sau bữa bói tên, những người đàn bà trong nhà tôi dường như khổ hơn. Mẹ hay nhìn "đôi chân biết khóc"''. Tôi xù gai tăng cường bảo vệ trái tim yếu đuối bằng thành trong lũy ngoài và thề tránh xa mấy lão vừa xoi vừa bói. Chị ái trông như vô sự vì trái tim chị vẫn "ngủ đông"! Cô giáo mới ra trường đẹp như hoa khôi nhưng lạnh như nước đá vẫn chưa có bồ dù lượn lờ quanh chị cả tá. Loại lì lợm lăn xả vào nhà, chị lấy chổi quét. Loại ngang lứa, chị bảo "hỉ mũi chưa sạch". Loại chững chạc, chị thưa cụ... Mẹ tôi đe ở góa, chị bảo: "Thầy bảo con lụy vì yêu, ở quá hết lụy". Mẹ im lặng ân hận. Còn tôi rủa thầy xem mặt bói tên!
    (còn tiếp)
  7. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    8. Nhìn từ vĩnh cửu (phần I)
    Năm tôi mười sáu, mẹ mời về nhà một ông thầy nổi tiếng bói tên. Ông ta không tráp, không sách, không quẻ. Đồ nghề của ông ta chính là đôi mắt. Đôi mắt có ánh nhìn cứng lạnh như mũi khoan thủng thỉnh đục từng mẩu đời cho đến khi lộ số phận. Ba người ngồi một dãy nhưng ánh mắt của ông ta chĩa vào chị Ái.
    - O tên chi?
    Dạ... Ái.
    - Đời o lộ cả trong cái tên: Áilà yêu. O yêu thiệt dễ sợ! - Ông bỏ lửng ở đó, quay qua mẹ tôi:
    - Tên bà?
    - Dạ ... Lội.
    - Lội suốt đời phải không? Vì mẹ, vì chồng, vì con...
    Mẹ tái mặt còn tôi ghé tai chị Ái:
    - Bói rứa em bói cũng được. Căn cứ vào tên mà suy diễn. Vả lại mạ nói đàn bà mấy ai không khổ.
    - Ừ, mụ non nói có lý. Thầy nói tau yêu dễ sợ... Nhưng tau có trái tim đông lạnh, sức mấy!
    Đôi môi đỏ mọng trề ra rồi chủ nhân trái tim đông lạnh đứng dậy, nhưng không bỏ đi vì câu tiếp theo của ông thầy:
    - Sáu, bảy mươi tuổi nhà bà có tai biến, bắt đầu nếm mùi cực. Tuổi trăng tròn phải lưu lạc. Chồng con không ra chi. Đôi chân bà là đôi chân biết khóc, luôn dầm trong nước, "ướt '' suốt đời. Đưa nó ra đây!
    Mẹ tôi líu ríu chìa chân ra. Đôi chân in dấu số phận. Chỗ chai, chỗ sần, chỗ lõm, chỗ nhô xương, móng hư, móng trụi... Dấu vết lầm than lấm tấm như lệ ứa.
    Chị Ái ngồi xuống hình như bị lực hút của ông thầy. Hình ảnh bà ngoại điên đẹp tuyệt trần đứng cởi quần rũ hiện ra trong nắng. Bà tôi điên khi mẹ tôi lên tám, vẫn đẹp lạ lùng cho đến khi chết. Tôi còn nhớ bà ngoại hay nói một mình, phì cười và cởi quần rũ. Động tác nào của bà cũng tự nhiên, duyên dáng. Đúng là mẹ đã đi ở từ năm mười ba để lấy một món tiền chữa bệnh cho bà mẹ điên. Đôi mươi về lấy một anh thợ hớt tóc nghèo. Khoảng mười năm bệnh lao cướp mất chồng... Vâng, cuộc đời mẹ, thầy tóm trong mấy câu mà đúng đến sởn da gà! Cả đôi chân mẹ, suốt đời chui rúc lặn lội sao ông ta nhìn thấy và gọi tên nó thật đúng - Đôi chân biết khóc! Chị ái có vẻ hoang mang. Tôi nghe chị lẩm bẩm: "Chân vợ ổng cũng rứa thôi. Đàn bà mà!". Thế nhưng tôi thấy chị lén nhìn chân mình.
    - O tên chi? ánh mắt ông thầy xỉa vào tôi. Vẫn cái ánh mắt dễ sợ ấy. Lập tức con bé "cắc cớ" trong tôi xúi tôi nói láo:
    - Dần ạ!
    Bà chị bụm miệng cười còn ông thầy tỉnh bơ cắm ánh mắt vào tôi bắt đầu khoan:
    - O khổ vì không giống cọp. O hiền và đa cảm đa mang. Hiền là thiệt, thương là khổ. Hay thương nhưng lại dễ bị người ta ghét. Trái tim đa cảm của o tự vệ bằng những cái gai - bướng bỉnh, lạnh lùng, kênh kiệu , khó gần...
    Sau bữa bói tên, những người đàn bà trong nhà tôi dường như khổ hơn. Mẹ hay nhìn "đôi chân biết khóc"''. Tôi xù gai tăng cường bảo vệ trái tim yếu đuối bằng thành trong lũy ngoài và thề tránh xa mấy lão vừa xoi vừa bói. Chị ái trông như vô sự vì trái tim chị vẫn "ngủ đông"! Cô giáo mới ra trường đẹp như hoa khôi nhưng lạnh như nước đá vẫn chưa có bồ dù lượn lờ quanh chị cả tá. Loại lì lợm lăn xả vào nhà, chị lấy chổi quét. Loại ngang lứa, chị bảo "hỉ mũi chưa sạch". Loại chững chạc, chị thưa cụ... Mẹ tôi đe ở góa, chị bảo: "Thầy bảo con lụy vì yêu, ở quá hết lụy". Mẹ im lặng ân hận. Còn tôi rủa thầy xem mặt bói tên!
    (còn tiếp)
  8. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    8. Nhìn từ vĩnh cửu (phần II)
    Chị Ái không ở góa. Chị lấy chồng muộn khi mẹ tôi đã qua đời, ở tuổi băm. Tôi tò mò nhìn người làm nóng trái tim mùa đông và khiến cái đầu ngang ngạnh của chị đầu hàng. Trong ảnh anh ta trẻ hơn chị và trông quen quen. Chị viết trong thư chị rất hạnh phúc, đến nỗi thỉnh thoảng chị cứ muốn hét lên với ai đó rằng chị hạnh phúc lắm lắm...
    Một ngày, tôi nhận một bức điện khẩn từ thành phố Hồ Chí Minh: "Chị cần em. Thu xếp vào với chị gấp".
    Tôi gặp chị tại phòng hồi sức của một bệnh viện. Chị già đi, gầy rộc hốc hác. Đôi mắt đen toát lên ánh lửa dữ dội của kẻ đang quyết đấu. Nằm mê man bất động trên giường lủng lẳng dây ống là chồng chị. Mặc năm tháng và biến đổi, tôi vẫn nhận ra đó là thằng Chuột!
    Thằng Chuột thua chị Ái ba tuổi, lớn hơn tôi một tuổi nhưng không ai gọi đứa quanh năm làm thuê gánh mướn, không cha không mẹ bằng anh! Thằng Chuột thường ở trần khoe chỗ lõm trên vai, nơi chiếc đòn gánh luôn đè nặng từ khi cha mẹ nó chết vì trúng mìn khi xăm tìm phế liệu. Nó bảo đó là chỗ đựng tiền nuôi em. Hồi đó em nó còn nhỏ, gánh thuê nó phải dắt em theo. Gánh xóm nào gửi em xóm ấy. Trông nó gánh nước thật buồn cười. Quang gánh e dài hơn nó và nước thì lưng lửng thùng. Thế nhưng có việc gì người trong xóm cũng gọi nó vì nó siêng năng, thật thà và rất thương em. Nó hay gửi em nó ở nhà tôi. Con bé la lết chơi, thấy cái gì cũng cho vào miệng. Tôi lén lấy cục đường đen kho cá trong chạn cho nó còn chị Ái đem con bé nhem nhuốc gầy gò ra bể nước "đánh bóng". Tắm rửa xong xuôi gói trong chiếc áo cũ rộng thùng thình, trông con bé rất ngộ. Thằng Chuột cảm động lắm. Nó thường nán lại chẻ giúp đống củi, buộc cái chổi hoặc chữa cái gì đó... Mùa mưa, nước trời lai láng, thằng Chuột chuyển qua bán kẹo gừng. Thỉnh thoảng gửi em và trả công cho chị em tôi mấy cái kẹo. Viên kẹo như chiếc bánh ú nhỏ xinh, tẩm bột cho khỏi ẩm, sực nức mùi gừng. Chị Ái thường lè lưỡi liếm sạch lớp bột rồi mới ngậm. Chúng tôi nói chuyện bằng cái giọng ngọng nghịu bởi viên kẹo trên lưỡi. Những ngày mưa dầm thúi đất ấy, anh em thằng Chuột là tia nắng. Bốn đứa chơi trò bán buôn hoặc vợ chồng. Chị Ái thường đòi làm vợ thằng Chuột để ăn kẹo gừng. Còn tôi thích làm mẹ con Bẹp, em nó. Thằng Chuột lại thích trò dạy học. Nó bảo nó nhất định nuôi em nó thành cô giáo!
    - Sao vậy chị?- Tôi bối rối hỏi trống.
    - Ảnh xuống vét cái giếng cho xóm... trèo lên ngã vật ra mê luôn. Nằm ở trên một tuần, chị chuyển vào đây - Giọng chị Ái khô khốc. Mắt chị nhìn dán vào cái hình hài bất động trên giường.
    - Bác sĩ bảo sao?
    Chị không trả lời, bọc người bệnh bằng ánh mắt da diết mênh mông.
    Chị nhận ở tôi mọi sự giúp đỡ ngoại trừ thay chị ngồi bên... anh. Tôi cứ lướng vướng với tiếng "anh" ấy! Chị Ái không rời anh quá mươi lăm phút. Hình như chị sợ anh mở mắt khi không có chị hoặc chị biết thời gian anh còn đấy không bao lăm và chị chắt chiu từng phút còn lại. Tôi không hề thấy chị đặt lưng xuống giường. Ngày đêm chị ngồi bên giường người bệnh, làm các động tác chăm sóc một cách tỉ mỉ, bọc anh trong cái nhìn trĩu nặng yêu thương. Khi chị mệt quá, chị ngủ gục trong khoảnh khắc rồi tỉnh dậy hoảng hốt. Tôi biết chị sợ tử thần. Thi thoảng lão lại tạt qua. Khi lão hiện diện phút giây dài đằng đẵng, cả nắng cũng ốm và đến người khỏe mạnh như tôi cũng cảm thấy khó thở. Lão dửng dưng ghé nhìn anh và thằng bé mười bảy lún phún ria mép, bị chấn thương sọ não vì đua xe nằm cùng phòng. ánh mắt nghiệt ngã của lão làm tôi ớn lạnh. Hồi nhỏ, cả nhà bảo tôi bị nhiễm vi rút TT (vi rút tưởng tượng). Tôi sợ đến phát khóc khi chứng kiến một con bé bị xe tông chết khi băng qua đường. Dòng xe ngưng chảy. Con bé nằm lộ như con búp bê bị quẳng ra đường. Đến lúc ấy tôi mới biết rằng người ta vẫn có thể chết khi còn rất trẻ. Chị Ái bảo có một lão mặc áo choàng đen, mang bị gậy. Lão sờ vào ai là lấy đi hồn vía của người đó bỏ bị. Từ đó ngủ với mẹ và chị, tôi chen vào giữa, trùm chăn kín mít. Tôi sợ lão thấy tôi. Còn bây giờ, tôi cứ như kẻ vô hình trong mắt lão! Lão vẫn nhìn chòng chọc chồng chị Ái và cái thằng lún phún ria mép ấy. Khi chị Ái thiếp đi vì mệt trong khoảnh khắc, tôi thay chị lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt sống mỏng mảnh truyền vào người bạn cơ cực thời thơ ấu và canh lão. Bây giờ tôi thấy lão mà lão không thấy tôi!
    Có một lần gánh đầy bể nước, thằng Chuột gãi đầu cố ngập ngừng đề nghị:
    - Tui không lấy tiền công gánh nước, dán bì, chẻ củi chi tui cũng làm không công hết... chị dạy con Bẹp học với!
    - Răng mi không dạy em? - Tôi cong cớn hỏi.
    - Tui biết có ba chữ: O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ đà mang râu. Con Bẹp học hết ba chữ nớ rồi !
    Chị Ái cười ngặt nghẽo:
    - Té ra mi mù chữ. Để tau dạy cho. Học phí tau tính bằng kẹo. Mỗi buổi hai cái kẹo gừng.
    Thằng Chuột gật đầu lia lịa.
    Khi con bé học, thằng Chuột nuốt lén chữ đực chữ cái vào bụng, thế mà biết đọc trước cả em nó. Thấy nó sáng dạ, chị Ái bày luôn cho nó để kịp kéo vào tai và bắt nó gọi bằng sư phụ. Đồ đệ không những để dành kẹo gừng làm thủ công, tìm lá thuộc bài, bắt chuồn chuồn, ếch nhái cho chị em tôi lấy điểm. Chị Ái mười bảy, mười tám, thường có đuôi quẩn chân, thằng Chuột lại vác thiết bản đòn gánh hộ tống chị. Khi chị Ái thôi dạy, trình độ văn hóa lôm côm của thằng Chuột khoảng lớp ba và tai nó hết nguy cơ thành tai lừa!
    Thế mà trong hồ sơ bệnh án ghi: Lê Chuột, 35 tuổi. Nghề nghiệp: Kỹ sư. Hôn mê sâu vì khí độc dưới lòng giếng. Chuyển từ bệnh viện Đác Lắc...
    Người ta đã chuyển anh ấy ra khỏi phòng đặc biệt để nhường chỗ cho những kẻ còn hy vọng. Y học hầu như đã bất lực nhưng chị Ái vẫn không đầu hàng. Nữ trang, tiền bạc, hết sạch, chị thế chấp nhà và mảnh đất trồng cà-phê ở Đác Lắc vay ngân hàng một số tiền lớn duy trì cho anh điều trị ở bệnh viện. Tình yêu và niềm hy vọng vẫn rừng rực trong mắt chị. Tôi thường bắt gặp chị ôm anh như truyền cho anh sinh lực của mình, thầm thì nói với anh như anh nghe được, tắm anh bằng những nụ hôn đẫm nước mắt. Chị gầy nhanh, tinh lực chỉ còn trong đôi mắt hõm sâu. Bác sĩ điều trị bảo tôi khuyên chị đem anh về nhưng tôi và họ đều không thuyết phục được chị. Chị còn tiền trang trải và vẫn tin anh sẽ mở mắt nhìn chị.
    (còn tiếp)
  9. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    8. Nhìn từ vĩnh cửu (phần II)
    Chị Ái không ở góa. Chị lấy chồng muộn khi mẹ tôi đã qua đời, ở tuổi băm. Tôi tò mò nhìn người làm nóng trái tim mùa đông và khiến cái đầu ngang ngạnh của chị đầu hàng. Trong ảnh anh ta trẻ hơn chị và trông quen quen. Chị viết trong thư chị rất hạnh phúc, đến nỗi thỉnh thoảng chị cứ muốn hét lên với ai đó rằng chị hạnh phúc lắm lắm...
    Một ngày, tôi nhận một bức điện khẩn từ thành phố Hồ Chí Minh: "Chị cần em. Thu xếp vào với chị gấp".
    Tôi gặp chị tại phòng hồi sức của một bệnh viện. Chị già đi, gầy rộc hốc hác. Đôi mắt đen toát lên ánh lửa dữ dội của kẻ đang quyết đấu. Nằm mê man bất động trên giường lủng lẳng dây ống là chồng chị. Mặc năm tháng và biến đổi, tôi vẫn nhận ra đó là thằng Chuột!
    Thằng Chuột thua chị Ái ba tuổi, lớn hơn tôi một tuổi nhưng không ai gọi đứa quanh năm làm thuê gánh mướn, không cha không mẹ bằng anh! Thằng Chuột thường ở trần khoe chỗ lõm trên vai, nơi chiếc đòn gánh luôn đè nặng từ khi cha mẹ nó chết vì trúng mìn khi xăm tìm phế liệu. Nó bảo đó là chỗ đựng tiền nuôi em. Hồi đó em nó còn nhỏ, gánh thuê nó phải dắt em theo. Gánh xóm nào gửi em xóm ấy. Trông nó gánh nước thật buồn cười. Quang gánh e dài hơn nó và nước thì lưng lửng thùng. Thế nhưng có việc gì người trong xóm cũng gọi nó vì nó siêng năng, thật thà và rất thương em. Nó hay gửi em nó ở nhà tôi. Con bé la lết chơi, thấy cái gì cũng cho vào miệng. Tôi lén lấy cục đường đen kho cá trong chạn cho nó còn chị Ái đem con bé nhem nhuốc gầy gò ra bể nước "đánh bóng". Tắm rửa xong xuôi gói trong chiếc áo cũ rộng thùng thình, trông con bé rất ngộ. Thằng Chuột cảm động lắm. Nó thường nán lại chẻ giúp đống củi, buộc cái chổi hoặc chữa cái gì đó... Mùa mưa, nước trời lai láng, thằng Chuột chuyển qua bán kẹo gừng. Thỉnh thoảng gửi em và trả công cho chị em tôi mấy cái kẹo. Viên kẹo như chiếc bánh ú nhỏ xinh, tẩm bột cho khỏi ẩm, sực nức mùi gừng. Chị Ái thường lè lưỡi liếm sạch lớp bột rồi mới ngậm. Chúng tôi nói chuyện bằng cái giọng ngọng nghịu bởi viên kẹo trên lưỡi. Những ngày mưa dầm thúi đất ấy, anh em thằng Chuột là tia nắng. Bốn đứa chơi trò bán buôn hoặc vợ chồng. Chị Ái thường đòi làm vợ thằng Chuột để ăn kẹo gừng. Còn tôi thích làm mẹ con Bẹp, em nó. Thằng Chuột lại thích trò dạy học. Nó bảo nó nhất định nuôi em nó thành cô giáo!
    - Sao vậy chị?- Tôi bối rối hỏi trống.
    - Ảnh xuống vét cái giếng cho xóm... trèo lên ngã vật ra mê luôn. Nằm ở trên một tuần, chị chuyển vào đây - Giọng chị Ái khô khốc. Mắt chị nhìn dán vào cái hình hài bất động trên giường.
    - Bác sĩ bảo sao?
    Chị không trả lời, bọc người bệnh bằng ánh mắt da diết mênh mông.
    Chị nhận ở tôi mọi sự giúp đỡ ngoại trừ thay chị ngồi bên... anh. Tôi cứ lướng vướng với tiếng "anh" ấy! Chị Ái không rời anh quá mươi lăm phút. Hình như chị sợ anh mở mắt khi không có chị hoặc chị biết thời gian anh còn đấy không bao lăm và chị chắt chiu từng phút còn lại. Tôi không hề thấy chị đặt lưng xuống giường. Ngày đêm chị ngồi bên giường người bệnh, làm các động tác chăm sóc một cách tỉ mỉ, bọc anh trong cái nhìn trĩu nặng yêu thương. Khi chị mệt quá, chị ngủ gục trong khoảnh khắc rồi tỉnh dậy hoảng hốt. Tôi biết chị sợ tử thần. Thi thoảng lão lại tạt qua. Khi lão hiện diện phút giây dài đằng đẵng, cả nắng cũng ốm và đến người khỏe mạnh như tôi cũng cảm thấy khó thở. Lão dửng dưng ghé nhìn anh và thằng bé mười bảy lún phún ria mép, bị chấn thương sọ não vì đua xe nằm cùng phòng. ánh mắt nghiệt ngã của lão làm tôi ớn lạnh. Hồi nhỏ, cả nhà bảo tôi bị nhiễm vi rút TT (vi rút tưởng tượng). Tôi sợ đến phát khóc khi chứng kiến một con bé bị xe tông chết khi băng qua đường. Dòng xe ngưng chảy. Con bé nằm lộ như con búp bê bị quẳng ra đường. Đến lúc ấy tôi mới biết rằng người ta vẫn có thể chết khi còn rất trẻ. Chị Ái bảo có một lão mặc áo choàng đen, mang bị gậy. Lão sờ vào ai là lấy đi hồn vía của người đó bỏ bị. Từ đó ngủ với mẹ và chị, tôi chen vào giữa, trùm chăn kín mít. Tôi sợ lão thấy tôi. Còn bây giờ, tôi cứ như kẻ vô hình trong mắt lão! Lão vẫn nhìn chòng chọc chồng chị Ái và cái thằng lún phún ria mép ấy. Khi chị Ái thiếp đi vì mệt trong khoảnh khắc, tôi thay chị lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt sống mỏng mảnh truyền vào người bạn cơ cực thời thơ ấu và canh lão. Bây giờ tôi thấy lão mà lão không thấy tôi!
    Có một lần gánh đầy bể nước, thằng Chuột gãi đầu cố ngập ngừng đề nghị:
    - Tui không lấy tiền công gánh nước, dán bì, chẻ củi chi tui cũng làm không công hết... chị dạy con Bẹp học với!
    - Răng mi không dạy em? - Tôi cong cớn hỏi.
    - Tui biết có ba chữ: O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ đà mang râu. Con Bẹp học hết ba chữ nớ rồi !
    Chị Ái cười ngặt nghẽo:
    - Té ra mi mù chữ. Để tau dạy cho. Học phí tau tính bằng kẹo. Mỗi buổi hai cái kẹo gừng.
    Thằng Chuột gật đầu lia lịa.
    Khi con bé học, thằng Chuột nuốt lén chữ đực chữ cái vào bụng, thế mà biết đọc trước cả em nó. Thấy nó sáng dạ, chị Ái bày luôn cho nó để kịp kéo vào tai và bắt nó gọi bằng sư phụ. Đồ đệ không những để dành kẹo gừng làm thủ công, tìm lá thuộc bài, bắt chuồn chuồn, ếch nhái cho chị em tôi lấy điểm. Chị Ái mười bảy, mười tám, thường có đuôi quẩn chân, thằng Chuột lại vác thiết bản đòn gánh hộ tống chị. Khi chị Ái thôi dạy, trình độ văn hóa lôm côm của thằng Chuột khoảng lớp ba và tai nó hết nguy cơ thành tai lừa!
    Thế mà trong hồ sơ bệnh án ghi: Lê Chuột, 35 tuổi. Nghề nghiệp: Kỹ sư. Hôn mê sâu vì khí độc dưới lòng giếng. Chuyển từ bệnh viện Đác Lắc...
    Người ta đã chuyển anh ấy ra khỏi phòng đặc biệt để nhường chỗ cho những kẻ còn hy vọng. Y học hầu như đã bất lực nhưng chị Ái vẫn không đầu hàng. Nữ trang, tiền bạc, hết sạch, chị thế chấp nhà và mảnh đất trồng cà-phê ở Đác Lắc vay ngân hàng một số tiền lớn duy trì cho anh điều trị ở bệnh viện. Tình yêu và niềm hy vọng vẫn rừng rực trong mắt chị. Tôi thường bắt gặp chị ôm anh như truyền cho anh sinh lực của mình, thầm thì nói với anh như anh nghe được, tắm anh bằng những nụ hôn đẫm nước mắt. Chị gầy nhanh, tinh lực chỉ còn trong đôi mắt hõm sâu. Bác sĩ điều trị bảo tôi khuyên chị đem anh về nhưng tôi và họ đều không thuyết phục được chị. Chị còn tiền trang trải và vẫn tin anh sẽ mở mắt nhìn chị.
    (còn tiếp)
  10. soft_love

    soft_love Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2004
    Bài viết:
    88
    Đã được thích:
    0
    8. Nhìn từ vĩnh cửu (phần III)
    - Thế chị gọi thằng Chuột bằng anh lúc nào? - Một đêm tôi buột miệng hỏi.
    - Khi lấy nhau.
    - Thế chị... thích... hắn lúc nào?
    - Hồi ấy...
    - Ừ. Hồi đó chị chỉ nhớ tới hắn khi có việc gì sai hắn... Khi chị quên mất hắn từng có mặt trên đời thì hắn bỗng hiện ra. Chị nhận một lá thư chữ rất đẹp. Hắn báo em hắn học năm cuối ngành sư phạm. Còn hắn đã tốt nghiệp bổ túc văn hóa phổ thông trung học, đang đợi kết quả thi vào đại học. Hắn xin phép ghé thăm...
    - Em không tưởng tượng nổi chị ngạc nhiên thế nào đâu khi đứng trước hắn. Một người đàn ông thực sự - từng trải, phong trần và đẹp! Chị bối rối không dám gọi hắn là... thằng Chuột nữa. Từ đó theo với những chuyến tàu hắn hay xuất hiện bất ngờ với những món quà thời thơ ấu. Gói kẹo gừng chị thích, chùm keo ngày xưa chị bắt hắn lội qua ao bẻ, con sóc bằng xơ mướp mà chị em mình từng giành nhau, bó hoa dại toàn thứ tụi mình chơi đồ hàng... Hắn làm chị ngỡ thời gian không có thực và chị vẫn ở cái thuở be bé ấy! Hắn ít nói, hay làm. Đến chỗ chị có gì hư cũng xắn tay sửa. Có khi hắn còn xách nước... Hắn đang là sinh viên năm thứ nhất ngành cơ khí... Xí nghiệp nơi hắn làm công nhân cho hắn đi học... Tần tảo, vất vả hơn mụ đàn bà... - Giọng chị Ái rã ra từng mảnh.
    - Rứa hắn tỏ tình với chị ra răng? - Tôi tò mò.
    - Không nói chi cả. Cứ lẳng lặng tận tâm tận tụy. Cũng như ngày nhỏ, có hắn chị cảm thấy vui và yên tâm. Có một lần hắn giáp mặt anh chàng đang theo đuổi chị. Anh ta ngồi lâu ơi là lâu. Hắn thay cái đèn neon trên bàn chị cũng lâu như thế. Sau đó lấy chổi quét nhà xoèn xoẹt...
    - Thì hồi nớ chị từng biểu hắn làm rứa để đuổi khách - Tôi cười.
    - Nhưng hồi nớ chị chỉ là con ranh 16, 17. Khi anh ta về, hắn bảo:
    - Cô có nhớ cái đòn gánh dùng làm thiết bảng bảo vệ cô ngày xưa không? Tui... còn giữ đấy! Lần sau... tui đem theo nhé!
    - Bảo vệ kiểu ấy chắc sư phụ ế! - Chị trợn mắt.
    - Người ta chê tui lấy! - Hắn lầm bầm trong miệng.
    Anh ấy mỗi ngày chết đi một tí. Như chiều cứ tà dần và không ai ngăn được mặt trời lặn. Tôi trở lại với chị vì con Bẹp ngày xưa anh vắt kiệt cả thanh xuân vun bón thành cô giáo dạy toán vào với anh có một tuần rồi bay ra dạy cours. Anh trở thành bệnh nhân lâu nhất khoa, một bệnh nhân đã tàn hy vọng mà bệnh viện đã nhiều lần ngỏ ý đuổi về. Những lúc ấy chị Ái trở thành kẻ quyết chiến. Nước mắt, sức mạnh dữ dội của tình yêu, cả tiền bạc nữa hỗ trợ chị... Anh đã nằm hết tháng thứ ba. Nhìn chị Ái tôi thấy sợ. Những gì liên quan đến con bệnh, chị khắc cốt ghi tâm còn mọi thứ đều lơ đãng. Chị mất dần khả năng ăn ngủ. Thế nhưng chị không có vẻ bất hạnh. Hoàn toàn hiến dâng mình cho kẻ khác xem ra cũng là một thứ hạnh phúc.
    - Chị còn nhớ cái lần tụi mình tắm sông không?
    - Nhớ.
    Chị òa khóc. Tôi để mặc. Nước mắt sẽ kéo chị trở lại với cõi người đau khổ.
    Chị Ái rủ tôi tắm sông. Chị muốn thử nghiệm hiệu quả cho chuồn chuồn cắn rốn. Xuống nước chúng tôi vẫn đeo cứng phép. Cuối cùng chị Ái bảo : "Đồ rệp. Ngó tau bơi nì!". Chị thả tay, hí hửng quẫy đạp vài cái rồi không thấy đâu cả. Tôi thất thanh kêu cứu. Một bóng người lao vút đến, lặn xuống và túm lấy mái tóc dài của chị Ái lôi lên. Tôi nhận ra thằng Chuột. Thằng Chuột đem chị lên bờ vác ngược chị chạy. Sau đó hắn đặt chị xuống và để hai tay trên ngực chị ấn lên ấn xuống. Lập tức tụi đứng coi ré lên: " Thằng Chuột bóp vú con Ái?". Chị Ái tỉnh lại nghe thế, hất tay hắn rồi co cẳng đạp giữa tiếng reo hò khoái chí của tụi nhỏ. Hắn lắp bắp: "Tui thấy họ cứu người chết đuối làm vậy mà!". Nhưng tụi kia vẫn ré: "Thằng Chuột dê! Thằng Chuột dê!". Hắn xấu hổ bỏ đi. Chị Ái lườm theo. Chẳng đứa nào coi việc hắn cứu chị Ái đáng phải cám ơn.
    - Sau này anh ấy bảo anh ấy lo nên đi theo, luẩn quẩn gần đó. Còn chị bị mạ quất cho mấy roi vì tội đạp người cứu mình. Mạ bảo: "Đồ vô ơn. Không có hắn mi thành ma rà rồi!". Chị trả thù mấy roi bằng nghỉ chơi với hắn. Hắn năn nỉ: "Tui sợ cô thành ma rà mới làm thế! Tui không dê! - Tau mà thành ma rà mi tắm tau dận nước". - "Cũng được!" - "Rứa mi không sợ làm ma ư?" - "Cô làm ma, tui cũng thích làm ma"... Hồi ấy sao chị quá quắt ngoa ngoắt thế không biết? - Chị Ái cười rơi nước mắt rồi nhìn anh thì thầm - Anh ấy nghe đấy! Anh ấy thích nhắc chuyện ngày xưa lắm? Giờ chị có thương anh ấy mấy cũng không bù nổi tình thương và lòng quý trọng anh ấy dành cho chị. Anh ấy bảo hình bóng chị đã động viên anh ấy ngoi lên từ đáy cuộc đời. Trong giấc ngủ cũng đau đáu ước mơ vượt lên số phận. Thỉnh thoảng chị nhận một món quà tự làm ngồ ngộ, dễ thương đến nỗi chị cứ đem khoe. Bao giờ cũng kèm một câu: "Tôi đang chạy cho kịp. Hãy đợi tôi!". Chị cứ tưởng của một thằng man man nào đó... Anh ấy ra trường, hai đứa chị lấy nhau. Nếm mùi vị nghèo gần trọn đời nên sợ lắm. Gì cũng làm, làm quần quật để tạo dựng cơ nghiệp, để chị sung sướng. Chị sống với ảnh được năm năm hai tháng bốn ngày. Kể 4 năm yêu nhau là chín năm. Kể cả lúc anh ấy là "thằng Chuột" và cả sau này, lúc anh ấy đã ra đi. Vậy là cả đời. Hai đứa chị sinh ra là để hợp nhất với nhau...
    Chị nói với tôi nhưng vẫn nhìn anh và tôi có cảm tưởng anh ấy đang nghe chị. Ngay cả lúc này vẫn không thấy chị bất hạnh. Yêu là thế sao? Là cuộc đời này tỏa sáng vào cuộc đời khác và người đó trở nên tốt hơn, mạnh hơn? Nếu thế thì quả tôi chưa yêu và được yêu bao giờ!
    - Nhọc nhằn lắm mới có ngày hôm nay. Thế mà cứ chuốc vạ vào thân, lận khổ trong người. Giếng của người ta mắc chi mà! - Tôi đau lòng buột miệng.
    - Đi đêm lắm có ngày gặp ma. Em coi nì - Chị giở tấm ra đắp chân anh. Một bàn chân bị mất ba ngón.
    - Sao thế?
    - Cái giá của một lần cứu một thằng bé chạy lúp xúp theo trái banh rớt trên đường ray khi tàu đang vào ga. Kho khối sắt khổng lồ sầm sập lướt qua, tim chị như bị nghiến... Chị cầm tay anh ấy trước, vào lúc đó!
    - Thế chị yêu vì anh ấy tốt hả?
    - Vì tất cả.
    - Chị có hối tiếc vì yêu muộn không?
    - Không, có lẽ chị yêu anh từ sớm lắm, từ hồi còn là con bé ngoa ngoắt mà chị không ý thức đó thôi. Anh ấy là mối tình của cả đời chị. Là đầu. Là cuối. Là duy nhất.
    - Chị có biết anh ấy... sắp chết? - Tôi thì thầm.
    - Anh ấy chỉ đi trước thôi và anh ấy sẽ đợi chị. Bao giờ anh ấy cũng đợi chị.
    Khoa hội chẩn và quyết định thứ hai tới cho anh về. Họ trưng bày những chứng cứ y học để cho chị Ái thấy đã vô vọng và không nên mất công sức, tiền bạc nữa. Hãy để thân thể bất lực của anh an nghỉ. Chị Ái bỗng trở nên ngoan ngoãn.
    Thứ hai có ý nghĩa là còn một ngày một đêm nữa. Chị Ái xin chuyển anh vào một phòng nhỏ, được ở một mình với anh và tự chị sẽ rút ống thở ra khỏi anh. Khoa đồng ý. Hai mươi bốn giờ ấy, phòng bệnh trở thành phòng của đôi tình nhân tạm biệt nhau. Tôi bứt lén một ít lan dại mầu tím trong bồn cỏ bệnh viện cắm vào ly nước. Rằm cho ánh trăng - hào phóng, lênh láng phủ lên muộn phiền, tiều tụy, chết chóc... Cửa khép. Chị ở trong ấy cùng anh. Tôi ngồi ngoài cùng lão. Lão đã đến. Không chuông mà văng vẳng tiếng chuông gọi hồn. Không áo quần mà có tiếng sột soạt. Không hơi thở mà vẫn thấy khí lạnh... Tôi lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt thời gian và tôi khóc. Còn lão điềm nhiên đợi xong chuyện.
    Họ nằm bên nhau. Chị Ái ôm cổ anh thủ thỉ. Mơ hồ như tiếng vọng. Nhẹ như gió thoảng. Trăng sáng đến rợn ngợp, càng khuya càng sáng. Đêm không đen, đêm nhờ trắng. Trên cái nền trắng của hư vô ấy, tôi thấy tình yêu, khổ đau, sự sống, cái chết nắm tay nhau khiêu vũ dưới trăng. Tôi dí mắt vào cửa kính. Lão cũng thế. Đêm múc trăng dội xuống họ. Gương mặt tái nhợt của anh gối trên cánh tay ngà của chị tôi ngời ngợi ánh trăng. Tôi có cảm giác hàng mi anh run rẩy khi chị hôn mắt, tay anh khẽ khàng động đậy khi chị ôm anh và tôi nghe... lão thở dài!
    Đêm cạn đáy, tiếng thì thầm bặt. Có lẽ họ đã thiếp trong tay nhau. Tôi thấy lão len lén đi xuyên qua tường.
    Lão trở ra với cái bị phồng to. Tôi thấy rõ ràng lão quệt nước mắt. Lão lướt qua tôi như làn gió lạnh, nhanh đến nỗi tôi không kịp cảm ơn. Phải, tôi muốn cảm ơn: "kẻ thù" của chị tôi, người đã đánh bại chị sau ba tháng đối mặt. Cảm ơn lão đã bền lòng đợi chị thiếp ngủ để làm nhiệm vụ. Chị tôi hẳn không đủ sức rút những giọt sống cuối cùng ra khỏi nửa sinh mệnh của chị.
    Khi tôi và người bác sĩ trực bước vào, hai người vẫn ở trên giường. Gương mặt anh thanh thản trong giấc vĩnh cửu. Gương mặt mệt mỏi và nỗi đau dồn nén trăm ngày của chị dãn ra trong giấc ngủ đầu tiên trên giường sau bao đêm trắng, ở bên anh. Trăng đã ra khỏi phòng lâu lắm rồi nhưng một mảnh tai tái ngủ quên trên tóc chị, trắng như khăn tang cho đến hết đời chị tôi!
    Những gì diễn ra sau đó dường như không liên quan đến chị nữa. Người ta bảo lạy, chị lạy. Dìu đến lò thiêu, chị đi... Nhưng chị chẳng ăn nhập gì đến khung cảnh tang tóc chung quanh. Có lẽ chị không cảm thấy mất anh vì anh vẫn tồn tại trong chị. Đêm đầu tiên về lại nhà mình, nằm trên chiếc giường đã trở thành mênh mông, chị nằm một phía, phía kia có anh. Khuya chị bật dậy. Tôi nghe chị gọi: "Anh, anh ở đâu? Em không thấy tay anh". "Anh ở bên em, em yêu!" - Tôi nghe tiếng đáp.
    Tôi rón rén trở lại giường mình. Ngày mai tôi yên tâm trở về. Không sợ chị đơn độc. Không sợ chị yếu đuối. Có lẽ tôi lại mất việc. Nhưng tôi sẵn sàng bắt đầu lại. Tôi đã học nhiều điều trong hơn tháng kề cận họ. Đời rộng mênh mông bởi tôi đã nhìn ngắm nó dưới góc độ vĩnh cửu.
    (Hết)

Chia sẻ trang này