1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn của Quế Hương

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi hoangvan09, 16/02/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Ẩn lan

    Quế Hương

    Mặt trời hắt những tia nắng thăm dò xuống triền non lãng đãng sương mù và khí lạnh rồi tung cả súc lụa vàng mỡ óng ả lên đại ngàn bát ngát. Rừng đồi run rẩy đón nắng, thứ nắng mời thơm lừng, nồng nàn, say đắm, suồng sã đặt môi lên mọi thứ. Trong lặng im muôn vàn tiếng gọi. Chồi gọi cành khô. Cát bụi gọi nhau. Tất cả đều hối hả bởi chỉ cần một cơn gió, cái màu trắng sữa từ núi, từ thung lũng lại ùn ùn toả ra đánh dạt cả màu nắng ung dung dạo chơi trên những ngọn cây chót vót hoặc vắt qua đầu non, trầm mặc như một vị hiền triết nhìn xuống cõi ta bà xanh xanh dưới kia. Ở đó có ba bóng người đang chầm chậm bước. Người đi sau cùng cao lênh khênh, cái gì cũng dài. Tóc phủ vai. áo padessus phủ gối. Anh ta nhấm nháp con đường đất cỏ mọc um tùm dẫn lên đỉnh núi bốn mùa mây phủ một cách nhẩn nha thú vị khiến hai kẻ đồng hành thỉnh thoảng phải đứng đợi càu nhàu:
    - Thua cả rùa! Đường dài đến 19km, cứ ở đó mà tha thẩn.
    - Tao nghiện những nhánh đường mòn hoang vu. Năm mười năm nữa khi con người ?ocứu? lấy nơi này, biến thành Trung tâm du lịch, du hí, chúng sẽ được rải đá, tráng nhựa cho xe hơi chạy bon bon. Khi ấy quán mọc ven đường, gà mắt xanh mỏ đỏ xuất hiện trong bụi, bia lon đồ hộp xả đầy cỏ... chúng sẽ chết vì bụi phù hoa!
    - Thế mày thích ngủ đêm trong ?obiệt thự? hay trong bụi?
    - Bên bờ suối.
    - Cho cọp tha, trăn quấn đầy à?
    - Đừng doạ! Nếu sợ đây đã ở nhà ôm vợ ngủ.
    Gã rậm râu, dáng đậm, gân guốc bật cười nhưng mắt gã vẫn nhìn đăm đăm lên đỉnh núi.
    - Đúng núi đẹp lạ! Tự tại thanh thản trong sương mù, phù vân và vĩnh cửu như đời. Không biết người có trong đó không?
    - Người nào?
    - Một vị đại tiền bối.
    - Đạo sĩ ở ẩn hả?
    - Không, tiền sử. Trước hoặc cùng thời với khủng long.
    - Thế mà tìm! Đồ... đồ đá!
    Một tràng cười rổn rảng vang lên làm những chú chim đang rỉa lông rỉa cánh trên cỏ bay vụt lên.
    - Nói với chúng mày còn thua nói với đầu gối?
    - Thế vị tiền sử đó là ai vậy?
    - Thông hai lá dẹt!
    Tiếng cười lại vang lên. Giòn tan, khoẻ khoắn.
    - Chúng mày chịu tiền, tao sẽ dẫn lên quần sơn Lang Bian - Bidoup để chiêm ngưỡng người. Đó là một hoá thạch sống thật sự, tồn tại như một phép lạ sau những cơn thiên địa đổi dời hàng trăm triệu năm trước. Núi này có loại tùng quí, biết đâu... Gã bỏ lửng câu nói rồi dường như không kìm lòng được lại tiếp tục:
    - Mười năm trước, một đoàn khoa học nước ngoài đã đưa giá 50.000 USD để rước về nước họ hai cây mà không được.
    - 50.000 USD hai cây?
    - Nghe tiền là sáng mắt. Thế mày tưởng tượng một con khủng long nếu còn giá bao nhiêu?
    - Ừ hé! Nếu có, đốn về bán cho mấy nhà thực vật học mộng du.
    - Đốn? Bước qua xác tao đã. Nếu đây mà có, tao nguyện dọn lên núi ở, lấy thân mình bảo vệ ?osứ giả tiền sử? ấy!
    - Ô hô! Hiệp-sĩ-thông-hai-lá-dẹt!
    Họ lại ngoác miệng cười. Anh chàng bốn mắt, vai đeo máy ảnh chỉ góp cười mà không góp lời. Anh ta dán mắt xuống đất như sợ dẫm lên những cánh địa lan màu tím, màu đỏ... rập rờn theo những bước chân đi.
    Họ là những kẻ mơ mộng!
    ° ° °
    Những kẻ mộng mơ ấy đã sống như người mộng du giữa núi rừng mù sương và tĩnh lặng. Mùa xuân, đất trời thi nhau độ lượng. Chung quanh họ, thiên nhiên bày cảnh ái ân đầm ấm khắp nơi. Vẻ đẹp trần gian ở đây tuyệt vời đến nỗi anh chàng nghiện hoang sơ phát cuồng. Anh ta nằm lăn, hôn hít, nhảy tưng tưng vì khoái chí. Anh ta hí, gáy, hú, gầm... như thử tâm hồn đã đồng điệu cùng muông thú và hoang dã hay chưa?
    - Phải xin cho thằng này làm kiểm lâm mất! Này! Vừa thôi, mày hú to thế vượn cái kéo đến cả bầy thì khốn.
    - Nhưng sướng quá! Tao cứ muốn hét, muốn khóc, muốn quỳ lạy.
    - Lạy ai?
    - Lạy Thượng đế. Tôi tin có người từ vẻ đẹp của thiên nhiên. Giá tao biết hoa, lá, đá, suối... nói gì?
    - Nói mày chập điện.
    - Cũng được. Là lá la... và cứ thế anh ta cúi hôn một mảng rêu phong mọc mướt hình hài, liếm giọt nước mắt đá, vuốt ve một đoá hoa dại, thì thầm với lau lách... Núi rừng tinh khiết đã tắm gội linh hồn những kẻ trần tục. Họ lang thang suốt ngày, ăn uống đạm bạc mà vẫn cứ lâng lâng. Mới hai hôm, chàng tóc dài đã rủ rê được một nàng khỉ đuôi dài ngồi trên vai vạch tóc anh ta bắt chấy. ?oHiệp sĩ thông hai lá dẹt? thì cứ vạch rừng nhằm hướng các cây cổ thụ cao ngất như anh chàng lực điền xưa kia ngóng cổ tìm cây tre trăm đốt. Chàng bốn mắt loạng quạng theo gió núi hoa ngàn, thỉnh thoảng lại hỏi:
    - Chúng mày ngửi thấy gì không?
    - Mùi hoa cỏ, lá mục...
    - Cứ có gió là tao ngửi thấy một mùi hương dịu lắm, thanh lắm, lâng lâng váng vất.
    - Mũi tao điếc hoặc là mày loạn khứu giác.
    - Thật đấy! Mùi hương trốn tìm, thoảng có thoảng không. Ông tao bảo trong núi này có một giống lan quý, thơm thuyền hoặc và đẹp không thể tả. Ai thấy rồi không cất bước được.
    - Lan gì mà dễ sợ vậy?
    - Ẩn lan. Đành gọi thế!... Chúng mày thấy gì trên đỉnh núi không?
    - Một con ngựa trắng tung bờm phi về phía đông.
    - Chở ai không?
    - Mây chở mây!
    - Ông tao bảo ngựa chở một người con gái.
    - Ông mày không được bình thường. Còn sống không?
    - Ông tao đi biệt từ năm 51 tuổi, nếu còn sống năm nay khoảng 75. Cô tao bảo chắc ông tao chết vì lan.
    - Vì lan? Hai cái miệng há hốc.
    - Ừ! Đó là câu chuyện lãng mạn cuối cùng của thế kỷ hai mươi. Tao tin thế! Chúng mày nghe không?
    Câu chuyện ấy được kể bên ánh lửa bập bùng trên cái nền cỏ mọc vốn là nền một ngôi biệt thự cách đây hơn nửa thế kỷ. Nghe nói xưa kia có trên trăm biệt thự như thế rải quanh sườn núi từ độ cao 1000-1400m, làm thành một khu nghỉ mát lý tưởng của người Pháp. Đô thị hoang phế bởi thời gian, chiến tranh và cả sự đập phá của con người nay còn lại những mảng tường cụt đầu, những bậc thềm rêu phủ, những hầm rượu chìm trong lau lách, những hàng chữ in mực rêu...
    Cuối cùng thiên nhiên đã lấy lại những gì của nó!
    ° ° °
    Người chùa gọi người đàn ông đứng tuổi say lan ấy là ông Lan Hữu. Ngày hửng chút nắng, có gió may đã thấy ông bước vào cổng chùa để đêm ấy thức đón lan Giáng Thu thơm lừng hương quế. Mồng 9 tháng 2 Âm lịch đã có ông chực sẵn chờ lan Ý Thảo nở. Mùa xuân, đàn ong vàng xúm xít trên chồi kim Phong Hội giục giã ông đón tàu xe, lội bộ cả đoạn đường gập ghềnh để lên chùa... Ngôi chùa nhỏ dưới chân đèo Hải Vân được gọi là chùa Lan. Đó là một thảo lư đúng nghĩa, lộng gió núi và biển nhưng ?otứ thời tịch mịch hoa khai?. Sư trụ trì vốn là một nghệ nhân bon sai, quan niệm cái Đẹp chính là Đạo. ?oTrồng hoa cũng là cách hằng hóa tâm đạo, truyền tiếng nói thầm lặng cửa thiền?. Lan nở rải bốn mùa theo loại, ông Lan Hữu cũng bốn mùa lạy Phật thưởng lan. Chăng ai rõ về ông lắm. Chỉ biết ông trạc dưới năm mươi, khoẻ mạnh, khá phong lưu, ngủ chùa thường xuyên không ràng buộc. Nghe lan quý ở đâu cũng tìm đến xin ngắm hoặc mua. Đối với ông đó là loài hoa đẹp nhất vũ trụ, đẹp từ dáng rễ, dáng lá, từ hoa đến hương. Người trồng hoa và kẻ say hoa dần dần thành tri kỷ.
    Năm ấy, như thường lệ, người chùa Lan lại làm một cuộc ngoạn du nơi thâm sơn cùng cốc để tầm lan. Họ ra đi vào những ngày cuối đông. Những giò lan kiếm được lúc đem về nuôi rất dễ sống. Chuyến đi ấy, có ông Lan Hữu tham dự.
    Anh chàng bốn mắt ngừng kể nhìn ra ngoài trời. Trên cái nền đen nhưng nhức, thăm thẳm của đêm núi rừng, họ bỗng nhận ra đất trời đang vũ hội. Hàng vạn đom đóm núi làm nên hội hoa đăng, chấp chới trên lưng muôn chiếc đèn tí hon chóp đỏ. Côn trùng tấu bản nhạc rừng man dại cho hoa cỏ dìu nhau. Tiếng mầm tách, cỏ hát, hoa cười, tiếng lá rơi khẽ khàng, thanh thản... Sự huỷ diệt, sinh tồn, héo tàn, rực rỡ diễn ra nhẹ nhàng thầm lặng trong bóng tối bao dung, dưới những ngọn nến xanh của những chồi thông non mới nhú trong cây Noel vĩ đại của đất trời. Anh chàng nghiện hoang sơ và hiệp sĩ thông hai lá dẹt đều biến thành trẻ con, nhào ra đuổi theo những ngọn đèn trong mơ. Sao trên trời. Sao trước mặt. Sao trên biển Đông từ những đốm lửa thuyền chài. Sao thực, sao mơ, sao xa, sao gần... chưa bao giờ họ được thấy nhiều sao như vậy.
    Chàng bốn mắt kêu lên:
    - Tụi mày có đọc những vì sao của Alphonse Daudet không? Tao tin đêm ấy cũng như thế này!
    - Cái chuyện có cô chủ nhỏ buồn ngủ tựa đầu trên vai chàng chăn cừu trên núi chứ gì? ?oHiệp sĩ thông hai lá dẹt? lên tiếng.
    - Óc thúi rồi! Không một chút tưởng tượng. Đó là một vì sao mỏng manh nhất, sáng nhất, đẹp nhất, lạc đường bay, rơi xuống trần, đậu trên vai một kẻ trần thế! Lãng mạn thật! Hồi đó đọc xong, tao khoái quá, viết ngay một bức thư tình cho người tao đang yêu, trong đó có câu: ?oAnh mơ một vì sao rụng xuống vai anh?.
    - Có effect không?
    - Có! Nàng khen tao dân khoa học mà viết thư hay.
    Tiếng cười cũng đượm mùi hương, một làn hương thật tinh khiết theo gió phả vào đêm rồi tan trong mênh mông thinh lặng.
    Người kể chuyện thì thào:
    - Nó đấy! Ngửi cứ lâng lâng muốn đi theo.
    - Thôi cha! Cọp đợi bên bờ suối đấy. Vào kể nốt câu chuyện lãng mạn cuối cùng của thế kỷ đi nào!
    ° ° °
    ... Đến cửa rừng, các sư, các chú tiểu xếp áo tu hành cho vào túi, mặc như kẻ tục hành. Họ chia làm ba nhóm. Nhóm thứ ba chỉ có hai người - ông Lan Hữu và một chú còn trẻ rất sành lan được sư trụ trì gọi là Tâm Lan. Nhóm này đi theo hướng núi. Chính ngọn núi này đây. Họ lầm lũi trong cái rét tê buốt chỉ vì yêu lan. Một ngày nắng ấm họ gặp một dòng suối. Càng đi ngược dòng, niềm vui càng oà vỡ. Địa lan rập rờn như ****. Thạch lan vươn những cái vòi thanh thoát với những màu sắc biến hoá diệu ảo. Cao hơn, những giò phong lan bám hờ hững vào cây, thả những chuỗi hoa, vươn những dáng lá đẹp mê hồn. Rừng thơm say đắm. Ông Lan Hữu ngồi bệt bên suối không muốn rời nhưng chú Tâm Lan níu áo bảo đi tiếp. Chú ngửi thấy một thoáng hương dường như xa lắm mà gió vẫn mang thấu nơi này, dịu dàng, dai dẳng.
    Giữa trưa, họ đừng lại bên một thác bạc hùng vĩ cao đến hàng trăm mét, tựa như dải lụa vắt qua mây, triền miên hát điệu phù vân trên đá. Cạnh đó, trên ghềnh đá chênh vênh nhìn xuống lũng nhỏ, một giò lan trong mơ đang thả chơi vơi chuỗi ngọc trắng tinh khiết, đẹp kỳ ảo như ánh trăng. Cả vách núi xanh rêu bỗng bừng sáng bởi cái màu trắng trong vô tận ấy. Không gian ngan ngát mùi hương thanh dịu. Ông Lan Hữu quì vậy, chiêm ngưỡng giò lan trên vách núi. Ông không muốn rời lan, cũng không muốn lan rời chuỗi. Đau lòng lắm nếu tách nó ra khỏi khung cảnh thần tiên cô tịch này. Ông chỉ muốn chiêm ngưỡng và không muốn chiếm đoạt, muốn lưu giữ vẻ đẹp toàn bích đó trong mắt ông rồi mặc nó nở tàn trong đá. Ông nói điều ấy với chú Tâm Lan nhưng chú không hiểu. Chú đi tìm lan chứ không phải thưởng lan. Chú trèo lên rồi trườn ra ghềnh đá cheo leo, quên cả hiểm nguy để gỡ thận trọng từng mẩu rễ. Ông Lan Hữu khóc. Dường như có ai thò tay vào bóp quả tim ông khi những mẩu rễ màu trắng với những đường cong nét lượn bất ngờ, xoải ngang phóng túng bị tách khỏi đá. Bỗng một cơn gió thổi. Sương mù dưới thung lũng ùn ùn toả ra. Người và hoa khuất trong màu trắng đục dày đặc. Khi mù tan tác thành những hình thù kỳ dị nháo nhác kéo nhau đi, nhìn lên mỏm đá ông Lan Hữu thấy hoa còn nhưng chú Tâm Lan đã biến mất...
    ° ° °
  2. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0

    (tiep theo)
    - Rồi sao nữa? Hai cái miệng đồng thanh khi người kể chuyện bỗng câm bặt như hến. Có tiếng chân giẫm lên lá.
    - Gì thế?
    - Báo động. Nếu ngửi mùi cọp thì dọt lên cây mau.
    - Mày thì nhát như cáy, khi nào cũng cọp. Tao e chừng ?ocon nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô?. Ra coi mau!
    Nai không có nhưng trên mảnh sân lau lách một đôi thỏ rừng đang nhảy xổ vào nhau:
    - Tại sao chúng đánh nhau dữ vậy?
    - Chàng thỏ đang cố chiếm trái tim nàng thỏ.
    - Bằng cách uýnh nàng chí tử?
    - Nhưng chúng mày coi, thỏ đực chỉ nhắm túm gáy thỏ cái. Hễ trúng là nàng thua trận, mềm nhũn. Giao ước rồi mà!
    - Ngộ nhỉ!... Xuống gần xem cho rõ nào!
    Đôi thỏ rừng nghe động, chạy vụt vào bụi, nhưng bên hồ vọng nguyệt còn một chú gấu thò tay khoắng nước.
    - Lạnh quá! Vào trong kể tiếp đi. Đang đoạn hồi hộp.
    Người kể chuyện nhìn lên đỉnh núi. Con ngựa trắng vẫn tung bờm phi về phía đông. Trên lưng chở mảnh trăng gầy hiu hắt.
    ° ° °
    Chú Tâm Lan tỉnh dậy trong một chiếc lán. Người chú như ai dần. Tay phải và chân phải đều đau khôn tả. Chú nhớ mình đang ở trên một ghềnh đá gỡ những mẩu rễ lan. Vậy đây là đâu? Vực sâu hay cõi trời?... Mù hay mây? Chú cố ngồi dậy, nhưng không thể. Cảm giác đau khiến chú biết mình còn sống. Một thoáng hương dịu dàng khiến chú tỉnh hẳn nhìn quanh. Chiếc lán nhỏ đơn sơ nhưng gọn gàng chứng tỏ có người đang ở. Ngoài kia, trước mặt chú, trên vách đá, chao ôi là lan! Rộn ràng, sung sức, đủ màu, đủ vẻ. Giữa đám nhan sắc ấy, có cả nó. Vẫn cái màu trắng đến vô cùng ấy, vẫn dáng hoa kiều mị ấy, vẫn mùi hương thanh khiết ấy... Dẫu trong đám, nó vẫn riêng một cõi với vẻ đẹp hoàn chỉnh của một thiên sứ. Đang chiêm ngưỡng giò lan, chú bỗng nghe tiếng chân. Rồi một cô gái giắt đầy hoa lá tiến đến bên chú. Trong vòm lá di động ấy có cả một chú chim đang thản nhiên rỉa lông cánh. Chú Tâm Lan ngạc nhiên nhìn cô bé. Cô cũng giương đôi mắt nai ngó chú, dạn dĩ tò mò. Chú cụp mặt xuống không dám nhìn cô lâu. Còn cô, tự nhiên đưa tay sờ nắn những chỗ đau trên người chú mặc cho chú kinh hãi co rúm người lại. Cô bé đi ra rồi trở vào với đôi tay bụm đầy nước kề sát miệng chú. Nước trong tay cô chảy tràn xuống cổ, xuống áo khiến chú phải hé miệng. Nước ngọt và thơm lạ lùng. Do chú khát mà thấy vậy hay do mùi hương từ cái vòng đeo tay xâu bằng hoa dại của cô? Sợ hãi, chú nhắm mắt niệm Phật liên hồi. Khi chú mở mắt, cô bé đã đi khỏi lán.
    Một người đàn ông chưa già mấy nhưng tóc trắng như bông lau, da vàng như là úa chữa chân cho chú. Sáng nào ông ta cũng thay thuốc, bó lại bằng vỏ cây và cho chú uống một thứ nước sắc đắng nghét. Ông ta ít nói, câm lặng như núi, đi đứng chậm chạp, nét mặt buồn bã như người ốm. Còn cô gái thì ngược lại. Cô liến thoắng suốt ngày dẫu chẳng ai trả lời cô. Có lần cô hét bên tai chú Tâm Lan: ?oNói gì đi chứ? Nói đi!?. Cô chăm sóc một vạt khoai sắn. Thỉnh thoảng gùi về một gùi nấm, măng, mật ong, gùi theo cả tiếng hát trong vắt lạc lõng: ?oCây không biết nói. Núi không biết thưa. Một mình ta nói. Buồn ơi là buồn!?. ?oA di đà Phật?. Câu cuối cùng cô học của chú Tâm Lan.
    Thú rừng với cô là bạn. Cô ríu rít trò chuyện với chúng bằng một thứ ngôn ngữ chỉ riêng cô và chúng hiểu. Đôi khi chú hoảng hồn nhìn một con nhím xù gai trong gác lán, một chú gấu con lững thững bên cô. Chú Tâm Lan thích nhìn cảnh cô huýt gió gọi chim như một nữ chúa rừng xanh hoặc vắt vẻo trên cây cùng sóc, cùng khỉ. Lán gần một con suối, ven bờ đầy cỏ mượt và hoa dại. Nhìn xa, **** như làn mưa hoa, còn hoa đủ màu chấp chới như ****. Cô ngồi giữa chúng như thể cô đã hoá thân thành chúng. Dần dần chú sợ hãi không nhìn những cảnh ấy nữa. Chú quay mặt vào vách lán và niệm Phật. Sự tĩnh lặng của chú thường bị khuấy động bởi từ đâu quanh đó, cô ném vào chú một thứ trái cây rừng. Cô ném giỏi lắm. Nếu chú từ chối quà tặng, lập tức cô sẽ thò tay vào túi lấy ra một viên cuội nhỏ nhàu trắng. Cô bắn nó chính xác đến độ kinh ngạc.
    Ngày thứ tư, cô đem cho chú một điều bất ngờ - ông Lan Hữu. Ông gầy nhọ, hốc hác, trầy trụa vì đói và trèo, bò... Ông đang khốn khổ thì gặp cô. Ông hỏi thăm cô về người bị nạn và cô dẫn ông về đây. Chú Tâm Lan thở phào nhẹ nhõm. Từ đây, chú đã thoát nạn vừa nhắm mắt để cô đút ăn vừa niệm Phật sám hối. Ông Lan Hữu có thể dìu hay cõng chú rời khỏi nơi đây. Khác với sự khắc khoải của chú, gương mặt ông Lan Hữu sáng niềm bình an và hoan lạc. Cõi tiên chính là đây chứ đâu nữa - đầy vẻ đẹp và hương thơm trong lành và tinh khiết. Hai cha con chủ nhân cũng thật tuyệt vời. Ông bố bí ẩn như cây thông già. Cô con trong ngần như nước suối. Đối với ông, cô là giò phong lan tuyệt vời nhất. Cô tự nhiên, mạnh mẽ và thanh khiết như bà mẹ thiên nhiên. Cô dẫn ông đi hái nấm, ngắm lan rừng. Cô rủ ông trèo cây và trong khi ông ôm cây lóng nga lóng ngóng thì cô đã tót lên cao cười khanh khách. Có khi cô ngủ luôn ở đó, bám chặt vào cành, đẹp nao lòng như một nhành phong lan. Ông ngồi đợi cô dưới gốc cây. Còn cô bao giờ cũng dặn ông: ?oĐừng mét ba cháu. Ba cháu sợ nhất hai điều: Thấy cháu ngủ cây và nghe tiếng súng... đoàng đoàng...?. Mặt cô tái mét, hai tay cô bịt chặt tai bởi chính âm thanh mình phát ra. Dường như tiếng súng tưởng tượng ấy bắn trúng tim cô. Cô lắp bắp: ?oHắn rơi xuống... hắn... đang... ngủ... hắn ngủ mãi rồi, không thức dậy chơi với cháu nữa?. Cô oà khóc. Ông không biết hắn là ai nhưng những giọt nước mắt trong veo của cô làm ông bối rối đến muốn khóc theo.
    Ông Lan Hữu trầm ngâm khi chú Tâm Lan bàn cách rời thung lũng. Chú tin rằng khoảng một tuần nữa chú chống gậy đi được. Chú cũng ngỏ ý nhờ ông Lan Hữu xin chủ nhân một giò lan quý dâng chùa. Ông Lan Hữu tần ngần chưa dám nói thì chủ nhân đã đoán ý ngỏ lời:
    - Nó có hai giò tất cả. Trên kia một và đây một. Tôi không hiểu tại sao nó hiếm vậy nhưng nếu ông thích, ông có thể đem về một giò. Chỉ sợ thiếu đá núi để bám, khí núi để thở, sương núi để uống, nó sẽ chết...
    - Chùa Lan cũng kề bên núi ông ạ!
    - Thế thì được - Người đàn ông vàng vọt ngập ngừng rồi tiếp - Tôi có thể tặng ông cả vách lan với điều kiện...
    ° ° °
    ?oĐiều kiện gì?? Hai kẻ bó gối ngồi bên bếp lửa đồng thanh kêu lên nhưng anh chàng bốn mắt lém lỉnh đã tốp lại đúng lúc. Anh ta bảo muốn ngủ một giấc để có sức đi tìm thung lũng ngàn hoa. Anh ta tin nó có thật trên đời như hiệp sĩ thông-hai-lá-dẹt tin có vị sứ giả tiền sử. Anh ta chui vào túi ngủ nhưng hai tên hóng chuyện đã lôi anh ta ra, gắn vào môi anh ta điếu thuốc. Ngoài kia rừng thông vẫn xạc xào trong gió. Cây chụm vào cây thủ thỉ. Gò đồi soãi những đường cong nét lượn thanh tân tắm ánh trăng non và trên cao, núi hiện ra trong mây mù, cô đơn và bí ẩn. Rít một hơi thuốc, người kể chuyện lại tiếp tục.
    ° ° °
    ... Tên Suối, năm nay nó 18 tuổi. Thế là đã 15 năm tôi bỏ phố lên rừng. Mười lăm năm ấy nó không hề được xuống núi. Mỗi năm đôi ba dạo, tôi đích thân gùi măng, nấm, mật ong xuống đổi gạo mắm. Nhưng sang năm, tôi e... không còn đi được nữa. Tôi sẽ được yên nghỉ cạnh em nó nhưng còn nó...? Giọng ông ta bỗng nghèn nghẹn, đứt quãng rồi lại vang lên đều đều như tiếng suối chảy miên man.
    Con người có thể thay đổi đến nhận không ra. Mười lăm năm rồi tôi không ăn một miếng thịt thú, nhưng mười lăm năm trước đó tôi là một sát thủ rừng xanh. Tôi lội nát những cánh rừng để đáp ứng nhu cầu cho những nhà thuốc đông y, những quán nhậu, những tay buôn lậu thú quí hiếm... vừa có tiền vừa thoả mãn nỗi đam mê man rợ khi thấy những con thú dũng mãnh, đẹp đẽ nằm sóng soài, bất động trước tài bách phát bách trúng của mình. Tôi có vợ, sinh con bé này... Rồi vợ tôi lại có thai... Một lần, tôi hạ một con khỉ chó mặt đỏ. Nó rơi xuống trước mặt tôi, không chỉ một mình, trong ngực nó là một chú khỉ con đang bám vú mẹ. Máu từ người mẹ nó xối xuống nó mà nó vẫn bú, mắt mở to ngơ ngác nhìn tôi. Khỉ mẹ chết, ánh mắt kinh hoàng đau đớn. Khỉ con chết theo mẹ hai hôm sau. Tôi đem chúng về nhờ người bán thuốc nấu cao cho vợ tôi uống mong rằng khi sinh con trai, nó sẽ cứng cáp... Vợ tôi sinh một đứa con trai bình thường như mọi đứa khác. Nhưng một tháng sau, tiếng khóc nó cứ e é như khỉ... Đôi con ngươi đổi màu rồi mù... Da sạm lại và mọc lông... Vợ tôi bỏ đi... Tôi tuyệt vọng muốn tự tử... Thế rồi... tôi bỗng nhớ ra cái thung lũng kín đáo tuyệt vời tôi phát hiện được trong một chuyến đi săn... Lúc đó con bé này ba tuổi. Thằng em nó mười một tháng.
    - Cháu đâu rồi?
    Người đàn ông già đưa tay chỉ cái gò be bé như nấm mồ bên bờ suối, giọng ráo hoảnh:
    - Nó... nằm đó! Nó dễ nuôi lắm, chỉ cần chút cháo, trái cây rừng mớm vẫn lớn. Nó thích ngủ cây... thích chuyền cành... thích rúc vào ngực tôi... thích ngửi tay chị nó...
    Ông già bỗng im bặt. Thế nhưng ông Lan Hữu vẫn nghe tiếng lô xô của ngàn con sóng âm thanh thổn thức. Bóng ông ta đông lại trong nỗi buồn khắc nghiệt. Ông Lan Hữu cũng im lặng. Vang trong đầu ông, giọng hát lảnh lót của cô bé: ?oCây không biết nói. Núi không biết thưa?.
    Tu một ngụm nước, nuốt vội nỗi nghẹn ngào, cái giọng trầm đục ấy lại vang lên như cố trút cho xong câu chuyện:
    - Con Suối lớn mau, khoẻ như cây rừng, nhanh như con nai con sóc, đẹp như giò phong lan. Tôi không bao giờ kể chuyện dưới ấy nhưng nó vẫn trèo lên đỉnh nhìn về phía ấy. Nó thích cài hoa soi bóng dưới suối. Rồi một ngày... tôi bắt gặp nó ngủ trên cây... Tim tôi thắt lại vì sợ hãi... Nó không hề có nét giống khỉ. Nó đẹp như bà chúa lan. Thế nhưng biết đâu, những người thợ săn lại hoa mắt...
    Tôi lại bệnh nặng, một trong tứ chứng nan y. Tôi không sống nổi. Tôi dặn nó nếu tôi chết thì nó phải xuống dưới kia. Nhưng tôi biết dưới kia còn mất an toàn hơn ở đây vì nó không hề được trang bị để sống với con người.
    - Và ông muốn tôi đem cháu về - Ông Lan Hữu cất tiếng hỏi.
    - Vâng. Đem về và dạy dỗ nó những gì tôi chưa dạy. Xin ông đùm bọc nó bởi không chỉ rừng mới có thú dữ... Tôi chết nó mới chịu rời nơi này. Tôi phải chuẩn bị tinh thần cho nó. Hẹn ông Rằm tháng Hai.
    Ông Lan Hữu đưa tay nắm chặt đôi bàn tay vàng bệch của ông già đau khổ. Từ đôi hốc mắt sâu hoắm tưởng chừng đã khô kiệt, những giọt lệ chầm chậm ứa ra như rỉ từ đá.
    Gần đó, quay về phía mặt trời lặn, chú Tâm Lan đang tĩnh toạ. Dường như chú không nghe câu chuyện bởi vầng trán chú thanh thản thế kia! Còn cô gái, cô ngồi bó gối nhìn sững gương mặt sáng láng bất khả tổn thương ấy...
    ° ° °
    - Cuối cùng sao mày? Đồ điêu, cứ ngừng ở đoạn hồi hộp.
    Người kể chuyện lắc đầu:
    - Nhưng tao chỉ nghe cha tao kể lại ngang đó.
    - Tại sao?
    - Vì ông cũng chỉ biết ngang đó.
    - Xạo?
    - Thật! Rằm tháng Hai, y hẹn ông tao trở lại thung lũng ấy... Chỉ có ngàn thông và suối hoa.
    - Hay ông mày lạc đường?
    - Không. Lũng nhỏ có thể nhiều nhưng kề bên cái thác như dải lụa vắt qua mấy từng mây thì chỉ có một. Ông tao bảo giò lan trên vách núi vẫn còn.
    - Vậy thì họ đi đâu?
    - Không biết. Chỉ biết ông tao trở về như người mất hồn. Đừng bảo tuổi già ổn định. Đấy chính là tuổi bất ổn nhất. Ông biến đổi hẳn.. Không hay lên chùa, cũng không say lan nữa. Ông hay xuống phố, vào chợ, thậm chí vào quán bia... Có lần tao đòi đi theo mua đồ chơi, tao thấy ông lạ lắm. Ông cứ dáo dác nhìn dòng người xuôi như nước như cố tìm ai, miệng lẩm bẩm: ?oDòng đời như nước, biết cuốn về đâu?...?. Có nhiều khi ông ngồi dậy trong đêm, lặp đi lặp lại một câu: ?oChẳng lẽ đó là một giấc chiêm bao??. Ông không tin và ông bỏ đi tìm. Khi ông đi rồi, cha tao lên chùa Lan. Cha tao cố ý tìm giò lan hương sắc lạ mà ông kể nhưng ngoài những giống lan đã biết, không có giò lan nào như thế. Cha tao lân la hỏi, một vị sư trả lời: ?oBa năm trước, chùa có một giò quí hiếm lắm nhưng cái đẹp thường phù du. Chăm sóc mấy, nó cũng cằn dần rồi chết?.
    - Đó là giò lan chú Tâm Lan xin về?
    - Không biết. Chùa Lan biết mấy lan đẹp, lan quí. Biết đó có phải là giò lan trên vách đá ấy không? Nhưng càng lớn tao càng tin. Con người cần tin để biết kiếm tìm như ?oHiệp sĩ thông-hai-lá-dẹt?. Chúng mày có tin câu chuyện tao kể thì mai mình đi tìm cái thác ấy.
    Họ chui vào túi ngủ. Anh chàng tóc dài lục đục mãi rồi chui ra, ngồi trên những bậc thềm rêu phủ nhìn lên đỉnh núi. Anh ta bỗng thấy trên lưng ngựa một bóng người, một cô gái tóc như dải mây, rực sáng như ánh trăng. Anh ta chạy bổ vào gọi bạn.
    - Mau ra coi! Trên lưng ngựa có người!
    Họ chạy ra. Núi hiện ra trong mù, cô đơn và bí ẩn nhưng trên lưng ngựa chỉ có làn mây trắng.
    - Đồ xạo!
    - Rõ ràng tao mới thấy mà! Hay đây là... ngọn núi ảo ảnh?
  3. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Quế Hương
    Ngã Ba Trần Ai
    Phần 1
    Bà lại rón rén nhìn qua ổ khóa. Trong căn phòng thoáng mát yên tĩnh có rèm cửa, lọ hoa, tranh tường, chồng bà, nhà văn kiêm biên kịch vẫn một cẳng hạ thổ, một cẳng thượng ghế, tay chống cằm, mắt ngó mây bay!
    Quần đùi, áo may-ô và kiểu ngồi ấy khiến lão thật xấu xí. Thì ra chính công việc đã cho lão cái vẻ. Khi lão cắm mặt gõ như điên vào cái máy đánh chữ cũ kỹ, lão trông khác kia! Tóc rủ xuống trán, đầu gục như tải quá nặng, gương mặt đồng ám, lão trông cũng "văn sĩ" ra phết! Đôi tay lão nhảy múa như điên khiến cái máy đánh chữ già nua thỉnh thoảng phải dừng lại thở hào hển, ngắc ngứ lấy hơi trước khi bắn ra một chuỗi tành tạch quái dị khác. Mặt lão cũng không hẳn của lão nữa. Thường nó nhàn nhạt như canh thiếu muối. Thế mà lúc ấy lại là chiến trường sôi động của hỉ nộ ái ố. Mim mím. Cười cười. Thi thoảng rưng rưng theo sự tan nát do lão sắp đặt. Đằng đằng sát khí như sắp choảng nhau với cái gã khốn nạn nào đó mà lão đẻ ra... Ấy là lúc lão không thuộc về bà hay xóm Quậy nữa. Lão không nghe tiếng bà nói, không càu nhàu bởi những tràng văng tục, cãi nhau, lè nhè say xỉn gần như thường trực ở cái ngã-ba-đau-khổ sát bên hông nhà, cách cái bàn thấp lè tè vừa là bàn ăn, bàn tiếp khách lẫn bàn viết của lão chỉ một bức tường. Thế mà từ cái bàn đa dụng bên hông chợ đời ấy, ý tình tuôn dào dạt. Chữ nối chữ, tờ nối tờ. Kín giấy, lão lại thả cho rơi tự do xuống nền nhà, trên chiếc chiếu bà hứng sẵn. Lúc chưa rơi, nó là của lão. Nhưng khi nó nằm xoài trên chiếu, nó là của bà. Bà nhẹ nhàng nhặt lấy, vuốt ve, sắp theo thứ tự. Với bà, chúng như những tờ vé số. Có khi chỉ đôi ba tờ mỏng mảnh, khoảng hai ngàn từ, trúng cái giải năm mười triệu bạc. Có khi cả xấp mà như mớ giấy lộn, lỗ tiền giấy mực, gửi EMS. Bà xúi lão viết nhiều loại. Bà giảng giải cho cái đầu óc giàu mộng mơ mà nghèo thực dụng kia coi việc sáng tạo như công việc bếp núc của bà. Nấu được món canh chẳng lẽ không kho nổi món cá, không nướng được chả, không xào được mực. Chữ sẵn trong đầu, chỉ cần gia giảm, xào xáo như bà nấu ăn đấy thôi!
    Giờ đây, sau bao tháng năm làm việc hết công suất, bán đi cái nhà cũ, nhận trước tiền của một hãng phim đặt một kịch bản nhiều tập, lão đủ cho bà đổi nhà. Nửa tháng đầu, lão không làm việc để hưởng khoái cảm được ở nhà ra nhà, sống cạnh người ra người. Lão đi dạo, làm quen những người hàng xóm lịch sự mở miệng không kèm tiếng chửi thề, ngắm khoảng không gian thoáng đãng có màu trời, sắc nước trước nhà. Quen với bức tường mốc meo chắn trước cửa bao năm nay, lão vẫn lấy làm lạ về khoảng trống đó lắm. Chiều chiều lão đạp xe đi đâu đó. Tối leo lên sân thượng ngắm trăng sao. Khi bà sốt ruột nhắc lão chuyện viết trả nợ, lão vào thư phòng đóng cửa lại. Cả nhà rón rén như mèo khi qua cái tịnh thất ấy. Thỉnh thoảng, bà đẩy cửa bưng vào một phin cà phê hay một bình trà. Theo thói quen, bà đưa mắt nhìn xuống nền nhà. Trên nền gạch hoa láng bóng lạnh lẽo không một mẩu giấy bởi máy tính vẫn trùm chăn ngủ còn nhà văn ngồi ngó đâu đâu! Đặt phin cà phê xuống, bà nhắc khéo:
    - Hôm nay tốt ngày.
    - Ừ.
    - Nhìn gì đấy ?
    - Mây.
    - Mây có gì mà nhìn ?
    - Bức tranh vân cẩu...
    Thì ra tại mây. Nhưng cũng không hẳn mây bởi có khi lão ngồi thừ không ngắm gì cả. Hỏi ra mới biết lão đang tống phiền não qua bà để lòng lão trống rỗng.
    - Không nhẹ nặng, thành bại. Sướng lắm ! - Lão cười.
    - Không ra tiền là bại ! - Bà khẳng định.
    Bà chì chiết nữa cũng mỏi miệng vì lão đã coi đồng hồ rồi đi, đi đâu không biết. Bà nghi hoặc ngó theo rít lên: Hay có con đĩ nào ?
    Chơi chán, lão vào phòng viết mặc chỉnh tề như đi lãnh thưởng. Máy tính cũng ra khỏi chăn, mở mắt sáng trưng. Thế nhưng cuối buổi mong chờ, bà chỉ nhặt được những tờ giấy in ra vo lại, lăn lóc trên nền nhà. Còn lão chảy dài trong ghế!
    Dạo này, giấc ngủ của lão thường vỡ từng mảnh. Lão bảo tại tụi thằng Bì đi nhậu về xỉn ở ngã ba xóm cứ dô... dô... dô... à lê... a lê... à lề đến 1 giờ sáng. Rồi anh - em - nhà - vô - phước diễu hành cả đêm. Thằng anh đi ra, thằng em đi vào. Chúng kéo lê dép mòn cả hẻm. Hơn 4 giờ sáng tụi đập chó chở những con chó máu me vào bán cho bà hàng chó ở cuối xóm. Tiếng tru của chúng trong cơn hấp hối lạnh cả người... Lão cứ nằm xuống ngồi dậy như thế cả đêm trong căn phòng yên tĩnh thoáng mát chỉ có gió lay động rèm cửa và ánh trăng rọi vào. Bà càu nhàu. Lão ôm gối qua phòng viết.
    Thế này là thế nào nhỉ ? - Đến phiên lão tự hỏi mình. Lão đang ở nhà mới, trong một khu phố mới chẳng mấy ai biết ai. Ngày làm ăn, tối đóng cửa nhà ai nấy sống. Chỉ có những ngọn đèn trước hiên hoặc trên ban-công thức, tỏa ra thứ ánh sáng đường bệ lạnh lùng như những tên lính canh. Thế mà lão cứ giật mình thon thót bởi những âm thanh náo động đã xa lắc xa lơ. Khi còn ở xóm Quậy, ngày làm việc mệt nhọc, vào giường lão lăn ra ngủ giữa những tiếng ồn. Bây giờ giữa yên ắng, lão lại mất ngủ vì xóm Quậy. Thế là thế nào ?
    Đêm trở thành ngày luôn khi người ta mất ngủ. Lão bật đèn, vớ gì đọc nấy. Đôi khi cả sách của lão. Thường lão chán đọc những gì mình viết tựa như bác hàng phở chán phở. Khi tác phẩm in thành sách, quy thành tiền và dư luận, lão như đứa trẻ trơ trọi lúc người lớn bận rộn. Lão được tự do làm những điều vớ vẩn - chơi với chó mèo, lang thang, nhậu rượu đế ở quán bà Lành với dân xóm Quậy. Thi thoảng lão cũng chửi thề cùng họ đôi ba tiếng. Giờ đọc lại những gì mình viết, lão chợt nhận ra những nhân vật của lão đều mang ít nhiều hình bóng của xóm Quậy, ngay cả con chó, con mèo. Nhân vật chính trong truyện Đồ ngu như chó! chính là con Xỉn nhà Hai Xị chứ đâu ! Khi cho nó chết bởi tên chủ mà nó nặng tình, lão nhớ lão đã không cầm nước mắt. Con khướu nhà ông đường sắt cũng vào trong cái truyện cực ngắn 100 chữ ! Có điệu hót ra rả của con chim bị nhốt trong ***g mà mỗi người dịch mỗi kiểu. Bà cụ kế bên chép miệng: "Khổ chưa... khổ chưa!". Lũ trẻ đứng ngoài hàng rào nhại: "Ngộ Không... Ngộ Không! ". Bà Tư bán xôi kế đó ganh tị: "Chi khổ... chi khổ! Không làm mà vẫn có ăn như mày tao tình nguyện biến thành chim !". Thế là nên truyện! Bây giờ xa xóm Quậy, sáng sáng lão vẫn nghe nó hót, tiếng hót như gai nhọn đâm lỗ chỗ mảng trời xanh trước mặt. Thì ra truyện của lão, xuơng cốt đích thị là của xóm Quậy! Lão đã rứt trộm những mảng tường sặc mùi nước tiểu, âm thanh quái dị, ngôn ngữ quái chiêu, những mảnh đời méo mó của cư dân xóm, nhào nặn mông má đôi chút rồi để họ oằn vai chuyển tải ý tưởng cho lão. Lão đã bắt họ rướn cao quá tầm. Bây giờ chữ hết thiêng, họ ngã nhào xuống, trở lại nguyên trạng, giương mắt chế giễu lão. Cái áng mây màu hồng lững lờ trên mảng trời trước mặt bỗng uốn éo rồi mang hình dáng "Hương ngựa" đang đánh mông gợi tình. Góc mặt gồ ghề lồi lõm vì bị tạt a-xít của ả giấu sau mớ tóc dài hoang dại. Chỉ có thân hình như sóng lượn của ả cứ dập dềnh trong giấc ngủ của lũ đàn ông nóng máu. Ả quyết trả hận cho gương mặt đẹp bằng cách dùng ngực đồi mông núi hạ đo ván những thằng có tiền. Nghe nói ả tiếp khách trong ánh đèn mờ ảo, với cái mạng che mặt của nữ hoàng Ai Cập. Quái dị nhưng đầy hấp lực. Đêm đêm có cả xe hơi ngừng ở xóm Quậy đưa ả trở về. Mùi nước hoa đêm nồng nặc sặc sụa của ả bám vào truyện của lão, thoảng mùi hồ ly !
    oOo
    Lão trở thành cư dân của xóm Quậy chỉ vì nghèo. Thế nhưng muốn hòa nhập với xóm, nghèo chưa đủ. Ít học. Nhậu cấp tá. Còn chửi thề phải cấp kiện tướng! Không nhậu dứt khoát không là dân xóm Quậy, mở miệng không văng tục cũng dứt khoát là thứ lộn sòng. Trẻ con học nói sau tiếng ba... ba... mẹ... mẹ là tiếng chửi thề đầu môi của xóm Quậy. Ai không hội đủ các yếu tố ấy thường là dân ngụ cư, đến ở tạm đợi làm ăn kha khá cuốn gói ra khỏi xóm. Căn nhà thổ tả lão mua đúng mười một chỉ vàng nghe nói đã đổi chủ đến lần thứ năm. Hôm dọn đến, thấy hai xe ba gác thì gần một xe sách, cư dân xóm Quậy bĩu môi: "Đ. m, kiểu này cũng sớm xéo! ". Sớm của lão là 18 năm 4 tháng! Vợ chồng lão đếm từng ngày, làm việc như điên cũng để có cái ngày cuốn xéo ấy. Bạn bè, bà con ai đến chơi ở lại một lần sau cạch luôn. Ồn như cái chợ, chợ họp ngay ngã ba xóm sát bên nhà lão, không để bán buôn mà chỉ vì dân xóm Quậy có thói quen tụ tập ở đấy. Nhậu về xỉn đó. Gây nhau đó. Kể chuyện mánh mung, quậy phá, rủi ro đó. Hẹn hò trai gái đó. Đái đó. Hết đám lớn đến đám choai choai, đàn ông đến đàn bà. Đích thị đó là chỗ giải tỏa sự đời của dân xóm Quậy. Những tuần đầu, tiếng chửi thề, văng tục liên tu bất tận từ đó vẳng ra cứ ong óng trong đầu lão khiến lão tưởng chừng phát điên. Còn vợ lão bị dị ứng bởi mùi nước đái nồng nặc hách xì liên tục. Than phiền, góp ý, lý sự lập tức bị quẳng dơ lên mái nhà. Vợ lão bàn nhập gia tùy tục, phép vua thua lệ... xóm ! Sống yên lặng tử tế là được. Tử tế đến mức cho mượn tiền đến người thứ ba mới nhớ chẳng ai thèm trả. Vật dụng trong nhà cũng lần lượt đội nón đến ở nhà hàng xóm. Tiếc của đòi lập tức sinh chuyện. Xóm Quậy chỉ nể mặt những ai hàm hồ ngang ngược sẵn sàng xắn quần ngang bẹn quậy tung xóm chỉ vì một cây kim ! Nhận ra điều đó, vợ lão khóc. Lão an ủi bằng một câu "ranh ngôn" để mụ hiểu bên Tây cũng vậy chớ riêng gì xóm Quậy: "Con người là đồ súc sinh. Nếu ta tàn bạo, nó kính trọng và sợ. Nếu ta tốt, nó móc mắt ta. Hãy giữ khoảng cách". Việc cần làm ngay là học chửi !
  4. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    (2)
    Rồi cũng quen dần. Thì ra con người dễ cam chịu với tất cả những gì thoạt đầu tưởng không chịu nổi. Thứ nắng hướng Tây xỉa xói vào mặt người, tiếng ồn tạp chủng, bức tường chắn luôn vấy nước đái và cả lời chào bằng chửi thề. Đôi khi lão còn bắt gặp lão cười một mình khi thưởng thức tràng chửi vô tiền khoáng hậu của những mụ đàn bà xóm Quậy. Từ ngã ba trần ai, vốn từ, vốn sống của lão cũng phong phú hẳn. Dân xóm Quậy phần lớn đạp xích lô, phụ thợ nề, cạo sườn, bán hột vịt lộn, đi xe thồ, bia ôm, dẫn mối, ăn cắp, ngồi không, cho thuê từng phân nhà nên ngã ba là nơi thu gom mọi vẻ trần ai trong những câu chuyện. Dân ở đây ruột để ngoài da có gì kể hết. Lão nhặt đủ thứ tiếng lóng và chửi thề, những mánh khóe hành nghề, đánh quả, biết được mùi vị từ xa của những quán kà-rà-ôm-ké, mát xa mát gần, thịt chó, thịt mèo, thịt dê, thịt lừa... Dần dần, ăn xong, lão bắc ghế hóng chuyện ngã ba. Chuyện trong xóm, chuyện ngoài đường, chuyện đẩu đầu đâu! Những chuyện ấy dần dần nhập tâm, chạy tọt vào trang viết của lão. Hồi mới về, lão chỉ mới tập tễnh viết dăm bài cho báo địa phương. Những gì nghe, nhìn, nhặt nhạnh từ ngã ba trần đời được lão để tâm vì nó ngồ ngộ, sau đó lão biến chúng thành những truyện ngăn ngắn bằng cách mông má, hư cấu, thêm thắt. Không ngờ gửi đâu được đăng đó, lại còn có giải nữa. Thế là lão trở thành nhà văn xóm Quậy. Xóm Quậy chẳng hề biết chuyện vặt của xóm thành chuyện văn chương. Họ gọi lão là thằng cha pê-đê. Đàn ông gì thời buổi này lại không nhậu, không chửi, cũng không ngồi lê đôi mách ở quán cà phê !
    Lão nhớ chuyện tình đầu tiên lão viết sặc mùi ngã ba! Hồi ấy, cứ khoảng 11 giờ đêm, lão lại nghe tiếng xe đạp phanh ở ngã ba rồi có tiếng thì thầm: "Em vô ăn khoai đi, còn nóng đấy, anh ủ trong ngực" - "Còn tiền ăn sáng? "- Giọng đứa con gái dấm dẳng - "Mai ăn đỡ gói xôi, đêm nay có cua, mốt em ăn bún". Đứa con gái ngoe nguẩy bước, nện guốc thình thịch. Đêm nào cũng vậy, trả đứa con gái xuống ngã ba bao giờ gã cũng có một món quà cho cô ăn khuya tùy theo những đồng tiền vét túi. Dần dần lão biết đó là một gã soi cua đêm còn đứa con gái là con bà bán vịt lộn trong xóm. Nhà ấy nghèo, con đông, lại chẳng đứa nào có công ăn việc làm nên nhông nhông quậy phá. Đứa con gái tên Dẹp. Thế nhưng người nó tròn lẳn. Đêm đêm lão bắt gặp mình chờ đôi tình nhân trở về. Lão muốn biết anh chàng soi cua giấu gì trong ngực áo cho con bé đêm ấy. Tùy món quà hôi hổi sát trái tim gã trai mà tiếng guốc cô vào hẻm nhẹ hay nặng. Có khi cô nói: "Đi soi đi !". Thế là biết đêm ấy hột vịt lộn hoặc bánh bao ủ trong ngực và chắc chắn sáng mai con bé được điểm tâm bằng phở hoặc bún bò. Mối tình nối giữa cái dạ dày nhiều đòi hỏi và cái ví lép không thọ lâu dài. Mùa mưa gió anh chàng không đi soi cua được. Món quà ủ ấm trong ngực đơn sơ dần đi khiến con bé chẳng bỏ công ra ngã ba nữa mặc cho mưa gió quất vào mặt người chờ. Những đêm ấy trái tim mùa đông của lão cũng không ngủ yên. Lão trông mùa mưa chấm dứt. Thế nhưng khi mùa xuân đến, gã soi cua không còn dịp mua quà khuya cho con kia nữa. Sau Tết, con bé bô bô kể ở ngã ba nó chài được một lão Hồng Kông ở quán bar nó mới làm tiếp viên. Nó chài hay đến nỗi mùa hè năm đó nó lấy chồng nước ngoài. Đám cưới của cô Đẹp (nó tự đổi tên) là một sự kiện ở xóm Quậy. Gần như cả xóm được mời đi ăn cưới nhà hàng. Ba năm sau, con bé về thăm xóm, sang đẹp như bà hoàng. Nó cho mẹ tiền sửa nhà, cho xóm tiền tráng xi măng con hẻm và bắc một bóng đèn điện ở ngã ba trần ai. Con Đẹp đi, mang ra khỏi xóm hai đứa con gái muốn vẻ vang như chị Đẹp. Cũng từ đó, con hẻm tráng xi măng trơn tru sạch sẽ, hai đầu thông với hai con đường đêm ngày rầm rập tiếng xe qua. Lão lại chịu đựng thống khổ mới - không khí sực mùi xăng bụi và tiếng xe máy đinh tai điếc óc do bức tường chắn hẻm giam lại.
    Thế mà cái hẻm dung tục sền sệt tiếng chửi thề, nồng nặc nước đái và rượu ấy lại cho lão cảm hứng để viết đến mấy truyện tình ! Ngoài chuyện tình thổ tả của con Dẹp và gã soi cua, chuyện tình của mụ Ba bán bún bò cũng làm ngòi bút lão rối loạn. Mụ ta quê tận xứ lụa Hà Đông, dắt con vào Nam tìm chồng. Tìm ra thì ông ta đã có vợ khác. Mụ xuôi lạc về đây, với gánh bún nuôi ba đứa con khôn lớn. Vào độ tuổi "tri thiên mệnh", cháu nội ngoại đùm đề, trái tim khô héo của mụ đột ngột được tưới mát bởi một cựu chiến binh già cô đơn, khách của gánh bún và đùng đùng tuyên bố tái giá. Nhà mụ đì đoàng suốt ngày bởi cuộc chiến không ngang sức giữa một bà già đơn độc và một bầy con dâu rể cháu đông thấy sợ. Đến lúc đó mụ mới chợt nhận ra chúng không hề yêu mụ. Chúng chỉ yêu con bò sữa vắt cạn thanh xuân, vắt kiệt sức lực phục vụ chúng. Mụ bán nhà, quẳng cho chúng hơn nửa rồi thuê phòng hiên ngang sống với lão kia. Xóm Quậy cười hô hố khi mụ cặp tay lão già đi qua ngã ba với đầu tóc nhuộm đen, sực nức son phấn và huê tình. Chúng trêu: "Bà Ba bán bún bò bị bò báng bể bụng". Mụ cười tươi rói. Mảnh tình cuối cùng ấy có tác dụng như giọt nước cành dương. Cả hai đều trẻ lại có mươi tuổi, ngời ngợi hạnh phúc đến phát ganh. Lạ một điều từ khi có chồng mụ Ba bán bún bò không sa sả chửi nữa dù trước đó mụ rất ghiền chửi, không chửi con chửi cháu thì chửi hàng xóm, cô hồn. Giờ mụ hay cười, ánh mắt mơ mòng, tong tả giành giật từng mẩu thời gian để yêu. Lão chồng mở lớp dạy chữ, kiểu bình dân học vụ cho con nít xóm Quậy. Lớp không bàn, không ghế, không bảng. Lũ học trò bò lê bò càng trên nền nhà loang lổ học vần, học viết, học tính. Thỉnh thoảng thầy còn bỏ tiền túi mua kẹo thưởng cho thằng quậy nhí nào suốt buổi học không mở miệng chửi thề. Mụ Ba bán bún bò rất hãnh diện vì được gọi là cô, ăn theo chồng. Dáng đi, kiểu nói của mụ cố ra vẻ bà giáo. Tiếng ồn của nhà thầy cô trở nên dễ nghe nhất xóm. Nhưng hạnh phúc thường mong manh. Sau ba năm mật ngọt, thầy ngủ luôn không dậy dạy nữa. Đêm đêm xóm bồn chồn theo tiếng khóc như rút ruột của cô Ba. Cạn nước mắt, cô xài nước bọt. Chửi ra rả. Bù ba năm nín chửi. Cô chửi thần chết ganh ghét giành giật hạnh phúc của cô, giờ cô mất nhà, mất con, mất cháu, mất cả khả năng sống. Khi tiếng chửi như dao bằm thớt im bặt, xóm Quậy kinh hoàng nhận ra cô đã thành cố chỉ trong một tuần cô đơn! Cố nằm trên giường, quầng tóc bết dính mồ hôi nước mắt không còn một sợi đen. Gương mặt rúm ró, chằng chịt nếp gấp vết cào, nước mắt nước bọt, bị tàn phá còn hơn trận bão. Đôi mắt sưng húp như hai cái chén con, cái miệng đanh đá khép chặt như một vết thương, những con sóng xô lệch vầng trán kinh dị đến nỗi lũ con gái xóm răn đe nhau yêu xớt xớt kẻo như mụ Ba bán bún bò !
    Nhưng đó là mụ Ba bán bún bò trong truyện. Ngoài đời, mụ còn sống nhăn, sinh thói uống rượu một mình trong quán bà Lành. Bây giờ chớ dại mà đụng vào mụ. Chửi cấp chín !
  5. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Phần 2
    Phú ơi là Phú...!". "Phú ơi là Phú !". Đang lơ mơ ngủ ngồi trong ghế, lão bỗng choàng dậy bởi tiếng mụ Cháu. Rõ ràng tiếng mụ, gọi như không gọi. Chẳng vọng vào con. Chẳng vọng vào ai. Thằng con điên cứ đi. Xóm cứ dửng dưng. Mụ đi sau, nó đi trước. Nó đi trước, mụ theo sau. Hai mẹ con cứ thế vô ra xóm hàng chục bận.
    Thằng Phú tay bao giờ cũng sờ cằm, miệng nhai răng nhóp nhép. Ông bố già ho lao da bọc xương của nó thì cắp tay sau đít, cũng "hàm liên tục". Nhà có năm người thì ba vô ra mòn hẻm. Còn hai thằng anh ngồi nhẵn cả ngã ba! Khi chưa có bệnh cao huyết áp, bà mẹ bán hột vịt lộn. Giờ chỉ có thằng con thứ hai thi thoảng được kêu phụ thợ nề. Được đồng nào lập tức đem ra quán bà Lành đổi rượu, về ngã ba xỉn, quậy tưng bừng hoa lá, hết gáy như gà đến vỗ ngực la "Tao là ma-xi-a đây!". Nó muốn nói là mafia đấy. Thằng anh cả, người nhẹ hẫng như sắp bay, ai hỏi trả lời: "Dại chi làm, chơi sướng hơn". Xóm gọi là nhà "hai đờ" - điên và đói. Giờ tự nhiên nhà "hai đờ" lại hiện ra, bơi liêu xiêu trong nắng. Bóng ngả vào những trang viết chứa chan nỗi khổ và tình người của lão như mỉa mai: "Được cái mồm. Thử đưa tay kéo chúng tao vào bờ đi nào!".
    Lão bắt tay viết truyện Nhà hai đờ với mục đích tốt đẹp - nhuận bút cho nhà ấy. Nhưng mãi vẫn không xong. Hội bia bọt la cà tán gẫu làm lão mất thì giờ không ít. Phần cái động cơ nhân đạo ấy không hề hấp dẫn. Phần lão sinh chứng ngủ gật. Vào giường, mắt mở thô lố. Nhưng ngồi trước máy tính khoảng nửa giờ là "cái ngủ" ùn ùn kéo đến. Thần trí lơ mơ, đôi tay gà gật trên bàn phím, lão làm việc trong trạng thái ngủ, thành thử Nhà hai đờ vẫn là bản Lambada nổi loạn của những con chữ. Chúng muốn điều khiển lão thay vì để lão điều khiển như bấy lâu nay. Nổi cáu cuối buổi làm việc, lão vo viên sản phẩm. Bộ xương "Hai đờ" mãi không đắp nổi thịt da để trở thành một tác phẩm. Thì ra biến điều thiện thành hành động không dễ chút nào!
    Lão coi đồng hồ rồi lật đật đạp xe đi. Xỉn mẹ, Xỉn con không có đồng hồ nhưng bao giờ cũng có mặt ở điểm hẹn khoảng 5 giờ chiều. Đồng hồ sinh học của chúng chỉ xê xích với đồng hồ khoa học của lão nhiều nhất là mươi lăm phút. Về thấu xóm cũ, lão đã thấy hai mẹ con nó ngồi chồm hổm đợi trước cánh cửa đóng kín. Đó là cánh cửa hông nhà cũ của lão. Hồi lão còn ở, cứ vào giờ ấy cửa lại mở ra để chờ một con chó đen xơ xác không hề nhậu nhưng lại có tên Xỉn. Những ngày có xương lão chờ nôn nóng nhất. Lão ngóng nó như ngóng người thân và khi con chó cái xơ xác vì đẻ và thiếu ăn xuất hiện, ngửi ngửi cánh cửa rồi bước vào, nằm xoài gác mõm lên nền, thở hắt ra như một kẻ trở về nhà nằm trên giường sau một ngày mệt mỏi, lão nghe lòng cười. Nó nằm, chưa ăn ngay đâu. Con nhà nghèo nhưng ra vẻ lắm! Nó nằm một lúc để hưởng cảm giác an bình thương yêu cho đến khi lão đẩy thức ăn đến, vuốt đầu nó, dịu dàng bảo: "Ăn đi con!" mới đứng dậy ăn. Chủ nó rất ít khi cho nó ăn. Gã sống bằng rượu hơn bằng cơm và thường hãnh diện khoe: "Tao nuôi chó khỏe re! Không tốn cơm mà vẫn béo tốt". Lão kết bạn với con chó cái này có mấy năm rồi. Bao giờ cũng thấy nó có bầu, có con. Con mở mắt, chủ đem đổi rượu, chỉ giữ lại một con khỏe nhất, đẹp nhất nuôi lớn bán thịt. Con Xỉn bao giờ cũng dắt con đó ra trình diện với lão. Đó là thời kỳ nó xơ xác nhất vì cho con bú và nhường cho con ăn. Vợ lão cằn nhằn ghê lắm nhưng lão không hề nhượng bộ. Lão yêu con Xỉn, yêu cái cách nó đón nhận tình cảm của lão và biểu lộ tình cảm của nó - lặng lẽ, từ tốn, tự trọng. Nó nằm dài, tin tưởng cho lão vuốt ve chuyện trò nhưng chưa bao giờ liếm tay, liếm người mừng đến cuống quýt như đối với gã chủ sặc mùi rượu của nó. Loài chó không muốn hai chủ, nó phân biệt rạch ròi ai là chủ, ai chỉ là người tốt với nó. Chính nó đã làm nên dòng nước mắt khi lão giã từ xóm Quậy. Từ đó cứ khoảng 5 giờ chiều là lão lại trở về xóm cũ với bịch thức ăn thừa của nhà hoặc một gói xương từ chỗ nhậu. Con Xỉn vẫn chờ lão trước cánh cửa hông nhà cũ cùng con nó.
    Khi xa xóm Quậy, lão chợt nhận ra đó cũng chính là xóm Khổ. Khổ tứ xứ, khổ thâm căn về hội tụ đó. Khổ nối khổ, nghèo nối nghèo, quậy nối quậy. Nơi khác đến nhập xóm cũng khổ lây như gã -chở-giường-đi-lại-chở-giường-về! Chiều qua lão lại gặp gã ở ngã ba, mặt chảy dài, vêu vao. Đứa con nhỏ ngồi trên giường cùng với nồi niêu mền chiếu. Chiếc giường dừng ở ngã ba như mọi bận để gã trút nỗi niềm với xóm còn con vợ xắn quần chõ miệng về phía nhà mình chửi. Về nhà gã thì cha mẹ gã không chấp nhận con gái xóm Quậy là con dâu. Lên nhà cha mẹ vợ thì năm lần y năm bận ở khoảng một hai tuần. Lần này để được ở lâu, gã bỏ cả nửa chỉ vàng sửa lại mái tôn. Thế mà chỉ mươi hôm lại bắt đầu chửi nhau loạn xạ. Cái giường của gã bị quẳng ra đường, đe dọa chẻ chụm nếu không chở đi. Nó đứng bơ vơ ở ngã ba xóm, chất đầy rối rắm đau khổ. Xe qua lại phải lui đi ngả khác vì cái giường cứ ì ra đó. Đám đông ở ngã ba cũng không chịu giải tán, tụ tập đông vui, nói cười ầm ĩ. Sự cố cuộc đời đối với dân xóm Quậy chẳng có gì quan trọng. Quen rồi!
    "Ri-ri-ri-ri... ri-ri-ri... Ri-ri-ri...". Lão dỏng tai đón âm thanh quen thuộc như vọng tự thời thơ ấu phát ra từ đám cỏ dại lẫn với đất đá bên lề đường, dấu vết của công trình đô thị hóa. "Cơ-ri-ri... Cơ-ri-i...". Chao ôi chuyển gam rồi! Đúng là giọng một anh chàng dế cô đơn đang da diết gọi tình. Một anh chàng dế lạc loài vì lưu luyến chỗ cũ. Đáp trả chỉ có tiếng nhạc xập xình văng vẳng từ đám "cù lao nhân tạo" mọc khoảng hai tháng nay trên đám ruộng rau mênh mông trải dài bên kia đường, cách nhà lão khoảng vài chục mét. Đèn xanh đỏ chớp lòe như vạt đom đóm dỏm. "Cầu khỉ" bắc qua quán cũng dỏm nốt nhưng trò khỉ thì thật nên thiên hạ dập dìu lui tới. Hồi lão mới về ở, bên kia con đường mới mở rộng mang dáng dấp xa lộ là ruộng rau, ruộng lúa bát ngát hương đồng gió nội. Giờ đường đến đâu, quán đến đó. Đủ loại - cà phê vườn, biệt thự quán, cù lao quán, bạch đàn quán, tre trúc quán... Chỉ trong vòng mấy tháng, khu phố mới ngó ra con đường mới quay cuồng trong dịch mở quán. Dịch phát triển mạnh đến nỗi vợ lão đứng ngồi không yên, hăm he: "Viết không ra thì tránh bên cho tui làm. Tui mở Đồng Sông quán. Ông kéo giới văn nghệ sĩ của ông đến. Bảo đảm vài năm tui mua biệt thự cho ông". Lão phải xáng vỡ một cái bình pha lê mới trấn áp được nỗi sợ trước viễn cảnh ấy. Thế nhưng Đồng Sông quán vợ lão phác họa lại lừng lững hiện ra, rõ ràng đến từng dải yếm. Này thơ đề vách theo lối thư họa. Này tranh khỏa thân sao chép của các danh họa. Này gái đẹp vận váy thâm, yếm đào chuốc bia Heineken và rượu ngoại. Rồi tên quán. Ai lại gọi bằng cái tên nhà quê đặc thế! Đổi là Điền Dã quán nghe vừa chữ vừa nghĩa. Ả vào tận phòng văn núp sau các con chữ. Ả cũng theo lão về tận xóm cũ khiến lão buột miệng nói với hai mẹ con Xỉn: "Rồi chúng mày tha hồ gặm xương!". Ả bám dai như đỉa. Cả trong giấc ngủ bể nát của lão, ả vẫn mọc thêm lông, tóc. Lão làm việc trong trạng thái hoang mang không biết mình thích hợp với nhà văn xóm Quậy hay chủ quán Đồng Sông ? Truyện của lão cũng bắt đầu mất hồn vía. Xác chữ ngổn ngang, ý tứ lẩy bẩy như âm binh chưa đủ ngày tháng. Lão đâm nhớ cái ngã ba trần ai, nơi xóm Quậy giải tỏa sự đời. Sự đời ở đó diễn ra hồn nhiên như thế giới vẫn đầy man rợ, dối lừa, xinh đẹp. Dân xóm Quậy không hoài công chia cái thế giới nhỏ hẹp của họ thành hạnh phúc-đau khổ, thiện-ác, hữu hạn với vô cùng... Họ để nguyên trạng và điềm nhiên dự phần. Tiếng đời ở đó vọng đến khiến lão thành nhà văn. Còn đám ruộng rau xanh rì, rặng bạch đàn ngả ngớn sát con đường lịch sự láng cóng kia có cơ biến lão thành chủ quán thịt rừng. Ngồi trên sân thượng bằng phẳng có ban-công mà lão cứ có cảm giác chông chênh như trên sóng tôn nhà cũ. Căn gác xép ọp ẹp có một ô cửa nhỏ mở ra mái tôn, vừa là sân phơi quần áo vừa là chỗ hóng mát. Lão để ở đấy mấy chậu cây tưới ngày hai bận mới cầm cự với cái nắng ghê người. Khi bức bối bực bội chạm sắc lá xanh lòng dịu lại. Nằm trên sân tôn ngắm mảnh trăng gầy, lão an ủi: "Nguyệt lai môn hạ, nhàn". Nhưng "nhàn" cứ giật mình thon thót bởi những câu chuyện ngã ba. Trăng cũng tái mặt vì tiếng gào ăn, gào thuốc của thằng Phú điên, tiếng hờ người tình đã khuất của mụ Ba bán bún bò, tiếng bà-già-mèo tha thiết gọi con... Bà già ấy cũng có tên tuổi hẳn hoi nhưng xóm Quậy thường đặt tên lần nữa cho ai nhập xóm. Chồng con bốc hơi mỗi người mỗi kiểu để bà già một mình trên trần thế. Bà-già-mèo bán vé số nuôi thân và khoảng nửa chục con mèo. Nuôi lớn độ vài ký, thanh niên xóm Quậy lại bắt làm thịt nhậu còn chơi ác thả lông trước cửa. Mụ chửi nhưng hơi sức chẳng còn bao lăm nên chẳng đứa nào sợ. Mất con nào mụ đau con ấy. Nếu không có nhúm lông để chắc rằng con vật yêu thương đã chết, mụ gọi nó đến khản cả tiếng. Biết tẩy, tụi ác ôn bắt mụ bỏ tiền chuộc. Thèm rượu đến xin đểu. Tính mạng mỗi con mèo được tính bằng xị. Bà già đột tử khi chứng kiến cái chết thương tâm của con mèo đen mắt vàng mà bà yêu nhất. Con mèo ấy đã trèo lên được bức tường ngăn xóm để nhảy vào nhà thì bị thằng Bì trông thấy. Nó túm đuôi giật xuống và cứ thế cầm đuôi quay tít rồi quật mạnh xuống mặt đường. Bà-già-mèo đi bán vé số về chứng kiến từ xa vừa chạy vừa la nhưng không làm gì được. Âm thanh phát ra chỉ là tiếng ú ớ cuồng loạn. Bà già té quỵ, đầu va xuống đường nhưng không chết vì vết thương ở đầu mà vì vỡ tim. Xóm Quậy rúng động vì hai cái chết tươi cùng một lúc ấy. Thằng Bì bị công an giam mấy ngày giáo dục rồi cũng thả vì người ta không thể ở tù vì giết một con mèo. Sau "sự cố" ấy, không khí xóm Quậy trầm xuống hẳn, ít ra ba ngày xóm lo đám tang. Chuyện ấy cũng ám ảnh lão cả mấy tháng trời nhưng biến nó thành truyện thì lão không làm. Cái ác hồn nhiên và cái đẹp rưng rưng chua xót ấy ngôn từ của lão không đủ sức diễn tả!
    Chiều nay lão lại đem xương về xóm Quậy cho con Xỉn. Nhưng lão chỉ thấy một mình Xỉn con ngồi chóc ngóc trước cửa hông nhà cũ. "****** đâu?"- Lão bàng hoàng - " Âu... âu... âu... âu ?" - Cún con cũng ngơ ngác hỏi lão, mắt như có nước - Thôi rồi! - Lão rên lên, thả rơi gói xương trên tay. Chuyện ********, xóm này xảy ra như cơm bữa, nhất là khi cuối xóm có một nhà làm thịt chó. Ngày hôm nay không giống ngày hôm qua làm sao lão lại cứ tin rằng con Xỉn mãi chờ lão vào 5 giờ trước cánh cửa nhà cũ? Lòng tê tái, lão bế Xỉn con lên nhưng nó nhoài người xuống, nhìn lão như muốn hỏi tại sao mẹ nó không hiện ra. "Về với tao, không như ******!" - Lão nhìn quanh rồi bế thốc cún lên. Đêm ấy, cả nhà không ngủ được vì tiếng khóc của Xỉn con. Nó nhớ mẹ và xó bếp tồi tàn quen thuộc.
    Con chó nhỏ chỉ còn là một nhúm mềm oặt trên xa lộ khi lão tìm thấy. Nó bị xe tông trên đường tìm về nhà cũ. Giữa máu me và dòng nước mắt, lão chợt thấy mình đã cập bờ, không lênh đênh nữa.
    Ít ra trên trang viết, lão không bất lực như trong cuộc đời !
  6. AliceTran

    AliceTran Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/09/2005
    Bài viết:
    59
    Đã được thích:
    0
    Đọc truyện này tôi rơi nước mắt...Một chút đồng cảm với con bé Tội...Truyện của QH giản dị mà chân thật.
    Tiên ngồi khóc
    Minh họa: Hoàng Tường
    TTCN - Ba đứa không có số ký danh lẽo đẽo theo tôi tự tìm chỗ ngồi. Thằng Sơn cắm cúi làm bài. ?oChuyên gia phao? Phong loay hoay phù phép. Hắn lôi trong người cuộn tài liệu môn văn thu nhỏ nhưng giám thị không thấy.
    Thiệt nhà nông với những móng tay cáu bẩn đọc bên tai tôi câu giáo khoa nhưng tôi không chép. Tôi nộp bài. Cô giám thị nhìn đôi mắt đỏ hoe và đoạn bài hoen ố nước mắt của tôi đưa cho tôi tờ giấy: ?oChép lại đi! Còn giờ?.
    Tôi thầm cám ơn cô vì cô không hỏi tại sao em khóc. Tôi về chỗ nhưng không chép lại, nhả đầy trang giấy cô đưa mẩu tin đóng đinh trong hồn tôi: Cứu bạn, ba học sinh lớp 12 chết đuối... Bốn chứ. Kể cả đứa chết cạn. Còn hơn cả chết bởi không vết thương nào âm ỉ đớn đau hơn sự hối hận!
    Tôi đã đọc đâu đó câu: Con người là một sinh vật có thể đẩy đồng loại của mình vào chỗ chết trong bất cứ tình huống nào.
    Tôi không rớt tốt nghiệp nhưng ngày thi đại học tôi đi lang thang. Đầu óc tôi là một mớ bòng bong, thi cũng rớt. Tôi cũng không thể ngồi trong giảng đường khi ba đứa giỏi hơn tôi vì tôi mà học với giun dế! Mẹ cố lôi tôi về với cái thời trước cơn mưa với nhiều món cám dỗ: xế mới, những bộ đồ hiệu đắt tiền...
    Nhưng mẹ không biết rằng sau cơn mưa tôi không còn là con bé Sim ham chơi nữa. Tôi đã là một bà già có số tuổi bốn lần 18! Con Thạch Thảo triết lý: ?oSống chết có số. Tụi nó không chết vì cái kính cận của mi rơi xuống hồ hôm đó thì cũng bị xe tông chết ngày hôm sau. Mi tự dày vò cũng không làm chúng sống lại?; ?oNếu tao không xuống hồ rửa chân...?; ?oThế thì tại cái chương trình học đằng đẵng 12 năm chẳng có môn dạy bơi phòng khi học trò xuống nước. Tại...?; ?oThôi!?- tôi hét.
    Vườn nội mênh mông trống vắng. Những đứa con lớn từ đó, ra đi... Mùi ổi chín, mít chín chỉ gọi chim về. Tôi thường kể cho chúng bạn nghe về khu vườn ấy và hẹn thi xong sẽ kéo về làm khỉ. Thế mà!
    Tôi gọi điện về nhà. Giọng mẹ đẫm nước mắt. Còn ba bình tĩnh dặn dò. Cả nhà xao xác hoảng loạn khi tôi bỏ thi không về, giờ yên lòng vì tôi ở bên nội.
    Tôi đi thi. Dáng xiêu đổ. Mắt sâu hoắm. Tôi không chỉ sống cho đời mình mà còn ba cuộc đời nữa vì tôi mà đứt đoạn ở tuổi 18. Chúng bắt tôi ngồi dậy, bắt tôi đi.
    * * *
    Ngày định mệnh nắng vàng như mật. Tôi dừng xe trước nhà Thạch Thảo với một bịch đồ ăn:
    - Rủ nhóm mình lên thung lũng Tình Yêu học sử. Ở nhà học không vô.
    - Nhưng thằng Thiệt bận làm rẫy.
    - Tao rủ là hắn đi!- Tôi nghếch mặt nhớ 18 đóa hồng ngậm sương trên thềm nhà vào sớm tinh mơ sinh nhật thứ 18.
    Khi tôi và Thạch Thảo đến, Thiệt nhà nông đang quần xà lỏn bón phân. Hắn bẽn lẽn chạy vào thay quần dài. Mãi mãi hắn bỏ vồng cải dở dang cho mẹ hắn...
    Học không bao nhiêu nhưng ăn và cười thì nhiều lắm. Cười cho đến khi cơn mưa đột ngột trút xuống thung lũng. Chúng tôi ở trong rừng thông không nơi trú ngụ. May mà Thiệt nhà nông lo xa. Hắn lôi trong túi xách áo mưa và ô. Bảy năm học chung, thế mà cái giờ duy nhất chúng tôi đứng sát bên nhau dưới cái ô, trong cơn mưa xối xả ấy, hắn ôn cho tôi năm câu sử!
    * * *
    Tôi ghé vào quán Dã Quỳ, nơi ba tháng trước thằng Sơn chiêu đãi nhóm trong lần sinh nhật 18. Làm sao nó biết đó là sinh nhật cuối cùng! Hôm ấy lần đầu tiên tôi uống cà phê, tim đập thình thịch vì thứ nước đen sánh, thơm lừng. Lần đầu tiên thằng Phong hút thuốc, sặc sụa vì khói. Lần đầu tiên. Lần cuối cùng. Lúc nào cũng có thể vậy.
    Quán vắng. Chúng ngồi quanh tôi. Gương mặt thông minh búng ra sữa của thằng Sơn phình to, đôi tay chai sần lam lũ của thằng Thiệt bợt bạt, mái tóc model của thằng Phong lềnh bềnh. Tôi đẩy ly cà phê chảy tong tong như máu ứa từ nỗi buồn đen thẫm chạy ra khỏi quán.
    Con tàu sầm sập tiến vào sân ga nhưng tôi không đủ can đảm về với tụi nó. Tôi mua vé đi miền Trung. Ngực tôi đang đè nặng bởi những giọt lệ không trào và tôi muốn về òa ra trong vườn nội.
    * * *
    Ăn xong, nội nhai trầu đưa võng ru tôi như ngày tôi còn bé. Tôi quên cả khóc, ngủ đẫy giấc trong cái mùi khó tả đẫm hương quê. Khi mở mắt, tôi chạm phải ánh nhìn của một con bé gầy nhom như mèo đói ngồi trên cành vú sữa chìa qua vườn nội.
    - Té chết! Qua đây!
    Con bé nhìn tôi như ngạc nhiên về lời mời. Còn tôi ngạc nhiên nhìn bức tường chắn mới mọc. Tôi nhảy xuống võng trèo lên cây khế. Vườn ngăn ranh giới nhưng cây hai vườn vẫn kết nhau. Lá cành chạm nhau, rầm rì tỉ tê trong gió.
    - Bé tên chi?
    - Tội.
    - Tên chi?
    - Tội - nó lặp lại.
    - Tên chi tội nghiệp rứa? - tôi phá lên cười.
    Có tiếng chân nội. Con Tội lật đật trụt xuống. Lập tức nó biến mất sau bức tường.
    - Khế ơi! - Khế là tên nội đặt cho tôi hồi còn bé bởi tôi rất thích ăn khế ngọt.
    - Khế trên cành nội ơi!
    - Con gái mà trèo cây như khỉ. Vô ăn khoai!
    Tôi bê rá khoai bốc khói ra võng. Đang ăn, tôi chợt thấy ba đứa chìa tay. Những bàn tay bợt bạt, nhăn nhúm. Tôi thả rơi khoai, tối sầm lòng. Rồi cơn mưa nước mắt vỡ òa trong nắng.
    - Lớn rồi mà khóc!
    - Lớn mới có chuyện khóc! Trèo cây hoài thế?
    - Cây Vú Mẹ chơi với em - nó khoe.
    - Sao không chơi với bạn?
    - Ngoại chưa xin bạn được.
    - Xin bạn? - tôi phì cười.
    Một bầy con nít con chú, con bác, con cô ào vào vườn vây quanh tôi. Chúng dắt tôi về thời thơ ấu với trò chơi trốn tìm. Đang trốn, tôi bắt gặp ánh nhìn nặng trĩu khát khao của con Tội trong vòm lá.
    - Cho nó chơi với - tôi chui khỏi chỗ nấp.
    - Cho ai?
    Tôi chỉ lên cây.
    - A! Con Xiđa. Xiđa là xa đi, xáp gần tao đánh chết!- một đứa bảo rồi nhặt hòn đá ném lên cây vú sữa.
    Những đứa khác bắt chước. Tôi la lên nhưng chúng vẫn ném. Con Tội lật đật tụt xuống. Nghe như trái mít rụng.
    Tôi trèo lên cây nhìn xuống. Con Tội ôm cẳng nhăn nhó dưới đất.
    - Sao chúng mày ác thế?
    - Trước sau chi hắn cũng chết! - con Thúy tỉnh bơ đáp. Nó còn dặn tôi:
    - Đừng chơi với hắn lây xiđa chừ!
    Tụi nhỏ về, con Tội lại trèo lên cây vú sữa nhìn tôi đau đáu. Tôi nhìn lại, vừa thương vừa sợ.
    - Sợ gì? Tao có bị xiđa đâu mà tao cũng chết! - thằng Sơn hất mái tóc bám rong rêu nhìn tôi.
    * * *
    Nội xách giỏ đi chợ, tôi đi theo. Chợ quê thơm mùi rơm rạ. Gì cũng tươi mới, ít ỏi. Bầu bí mới cắt. Mớ tôm cá mới rớ. Chục trứng tươi hồng nằm khoanh trong rơm... Tôi thấy bà Tám cuối chợ. Rổ khế đầy nằm tư lự bên cạnh.
    - Khế! - tôi kéo áo nội nhưng nội ngó lơ.
    - Ăn đồ mụ nớ lây xiđa!
    - Rứa mụ nớ bán cho ai?
    - Thường phải chợ làng bên. Hôm ni răng rứa không biết...
    - Mua hoa quả mắc chi mà...
    - Con rể, con gái bị xiđa chết hết. Mụ đem đứa cháu mồ côi về nuôi. Hắn cũng bị xiđa rứa mà mụ còn cố xin cho hắn đi học. Hắn vô lớp mô, phụ huynh lớp đó rùng rùng tới lôi con về. Rứa là hết học.
    Hình ảnh mụ Tám ngồi ở góc chợ với rổ khế ế buồn thiu theo tôi trên đường làng yên ả. Nội dắt tôi đi vòng để khỏi ngang qua nhà con Tội.
    - Nếu cháu bị xiđa nội cũng rứa hả?
    - Cái miệng ăn mắm! Bởi rứa... tau mới xây bức tường để xiđa khỏi bay qua.
    - Xiđa không bay, chỉ lây qua đường máu và khi... quan hệ... Cháu học cháu biết. Nội cho con Tội qua chơi đi nội! - tôi nài nỉ.
    - Không!
    - Mai cháu về - tôi dỗi.
    Sợ tôi về, nội cho chúng tôi chơi cách tường. Con Tội mừng lắm. Nó tọt lên cây Vú Mẹ. Tôi leo lên cây khế, còn nội không an lòng đứng dưới đất canh. Tôi giục:
    - Nội đi chợ đi!
    Nội xách giỏ đi còn ngoái dặn:
    - Nhớ đừng quan hệ nghe!
    Tôi cười suýt té. Ba đứa trên cây cũng ngoác miệng cười. Làm sao tôi cắt nghĩa cho nội hiểu cái chữ chết tiệt ấy. Con Tội không biết chi cũng góp cười. Chỉ có bà Tám đứng dưới đất là góp khóc. Bà chắp tay lạy tôi khi tôi chơi với đứa cháu côi cút, bất hạnh của bà.
    * * *
    Lên tám nhưng sống cô lập con Tội không biết chữ cũng không biết gì về thế giới rộng lớn quanh nó.
    Thấy con Tội khao khát học, tôi nảy ý định dạy nó. Có dịp là tôi tót lên cây khế qua vườn con Tội. Ở đó đứa học trò đầu đời bé nhỏ của tôi háo hức nuốt lia lịa những con chữ viết bằng cành cây trên mặt đất vào bụng.
    Nó thuộc nhanh bảng chữ cái làm tôi kinh ngạc. Mẹ rất mừng khi qua điện thoại biết tôi không còn câm lặng hay khóc. Tôi bảo mẹ gửi cấp tốc cho tôi bộ sách lớp 1, truyện tranh, truyện cổ... để tôi làm cô giáo.
    - Khi nào con về?
    - Con ở với nội hết mùa hè.
    Khác với thân xác nhỏ bé chứa đầy mầm chết, tâm hồn con Tội là một tờ giấy trắng tinh khôi. Tôi thận trọng in lên đó những sắc màu tươi đẹp của cuộc sống. Khi phải bay ra khỏi cuộc đời này, thiên thần nhỏ bé ấy sẽ chở trên đôi cánh những gì tốt đẹp của trần gian.
    Tôi thường kể chuyện cổ tích cho nó nghe. Nỗi khắc khoải mơ hồ về thân phận mình khiến con bé luôn đặt câu hỏi.
    - Đời chừ có tiên không?
    - Có.
    - Tiên cứu giúp ai?
    - Những kẻ tốt bụng, khốn cùng.
    - Răng tiên không cứu em? Ai cũng bảo em sắp chết. Chết là đi mãi không về mà em thì muốn về kẻo ngoại buồn.
    Khi tôi đọc chuyện Cái bình nứt con Tội cũng thắc mắc:
    - Có người nứt không?
    - Người nứt là người không hoàn hảo, bị khiếm khuyết.
    - Thế em là người nứt - nó ngẫm nghĩ rồi tuyên bố.
    * * *
    Mùa hè ấy qua nhanh. Con Tội biết đọc, biết viết. Còn tôi, vết thương buồn kín miệng. Nỗi đau ở tuổi 18 lấy của tôi sự hồn nhiên và biến tôi thành một con người khác. Tôi thắng con quỉ buồn rầu đeo bám, quyết định học lại thi vào trường y để có cơ hội chuộc lỗi.
    Con Tội rất thích tôi làm bác sĩ. Nó tin tôi sẽ chữa lành bệnh cho nó đi học. Nó giăng ước mơ khắp cành Vú Mẹ, vẽ lên cả trời xanh. Tôi chưa thấy đứa bé nào nhạy cảm và thông minh như con bé ấy. Dường như khi giam mình trong bệnh hoạn, cô đơn, tâm hồn nó lớn thay cho thể xác.
    Đêm cuối cùng ở quê, tôi không ngủ được. Vườn nội ngời ngợi trăng. Chỉ có trăng quê mới hào phóng lai láng thế. Ba bạn tôi đứng ở sân, múc từng gáo trăng dội lên nhau cười khanh khách. Lần đầu tiên tôi thấy chúng không hiện lên với bộ mặt đau khổ, oán hờn.
    Cây Vú Mẹ lá cành rung động. Tôi nghe tiếng đập muỗi lép bép. Thì ra con Tội đang ngồi trong bóng tối nhìn qua. Nó biết ngày mai tôi đi...
    * * *
    Tôi thi đỗ vào trường y nhưng quên phắt con Tội.
    Khi tôi về thăm nội, con bé láng giềng tội nghiệp đã đi xa. Bà Tám lập cập trao cho tôi tờ giấy nhàu nhò bò lổm ngổm một hàng chữ to đùng sai chính tả: em gặp tiêng rồi tiêng đeo gươn trèo cây như khỉ tiêng trèo lên cây khế ngồi khóc.
    Trên cành Vú Mẹ, bốn đứa hái hoa nắng ném nhau. Năm chứ! Cả con Sim 18 hồn nhiên, lắm tội. Chúng chơi trong im lặng. Không tiếng. Không hình. Không màu. Nhưng tôi vẫn thấy bởi chúng trong lòng tôi đi ra...
  7. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Quế Hương
    Đồng Hành
    1. Chị đi qua, tẻ nhạt và cũ kỹ như cái áo đề mốt thơm mùi long não lấy từ hòm gỗ ủ hương kỷ niệm. Khu cư dân tôi ở thì mới toanh. Nhà nhiều tuổi nhất chưa tròn mười. Cơ ngơi phó giám đốc xí nghiệp gỗ sực nức mùi rừng.
    Bác sĩ khoa lây chơi gam màu trắng lạnh cho vi trùng sợ. Nhà ông giáo về hưu rợp bóng cây. Cây bò lên cả lan can, phủ mảnh sân bé bằng manh chiếu, thả từng chuỗi hoa tím chạm đất. Ong kéo tới từng đàn, có lần đốt khách sưng vù mặt. Nhà ấy khách thưa dần, đi ngang qua chỉ còn nghe tiếng ho. Nhà chị cách nhà tôi bởi nhà ông giáo, cầu kỳ nhất dãy với vô số hình khối, đường cong, nét lượn, ngược với nữ chủ nhân giản dị đến đơn điệu.
    Sáng tối, giữ eo tôi cũng đi bộ chục vòng trên những con đường nội bộ rộng 5 m. Chụm lại thành nhóm vừa đi vừa so bụng và nói đủ thứ chuyện. Chỉ có chị đi một mình với con chó. Cứ thấy cột điện là nó dừng lại tè vài giọt đánh dấu. Quay vòng giáp mặt nhau, nếu ai ngó chị thì chị chào bằng một nụ cười rất nhẹ. Ai lơ, chị cũng lơ.
    - Bà đó chó mèo hành. Sáng dắt chó. Tối đem thức ăn cho mèo hoang.
    - Tẻ nhạt thế đàn bà cũng chán!
    - Ông chồng ít thấy nhỉ!
    - Ở nhà ngó bả thêm buồn.
    - Bà ta mà tân trang, mình cũng chịu thua đấy chứ!...
    Cứ thế, đài phát thanh mồm sáng sớm không bao giờ cạn đề tài. Hết người này đến người khác. Nhà này đến nhà khác. Chuyện này đến chuyện khác.
    2. Đi công tác về, tôi được thông báo:
    - Nhà bà chó mèo hành Việt kiều thuê 300 đô đấy! Từ đây đến Tết.
    - Thế bả ở đâu?
    - Nhà ngang.
    - Việt kiều nào thế?
    - Em bà Thu.
    Bà Thu rỉ tai đang tìm vợ cho ông em. Gà trống nuôi con thấy không đành. Cô vợ trước cùng học bên Tây, cùng đỗ tiến sĩ, xứng đôi vừa lứa chẳng hiểu sao mà rã...
    Đài phát thanh mồm hào hứng phát tin về ông tiến sĩ độc thân. Từ sở thích. Đứa con trai. Tiền tương. Học vị. Ai sẽ là đối tượng bà Thu nhắm nhe. Đủ chuyện.
    - Cô được đấy! - một bà chỉ cô Ngà tuổi băm dáng xì-po. Nhà đẹp, người đẹp, có tất cả ngoại trừ ông chồng.
    - Em xin. Làm nghề chụp ảnh cưới thấy sự phù du của hạnh phúc mà sợ.
    - Thử một lần coi. Có khi may mắn.
    - Sống thế này gọn nhẹ, đi đâu thì đi, cặp ai thì cặp.
    Chủ nhà vẫn đi qua, tẻ nhạt và khó nối kết. Con chó vẫn co cẳng tè mười mấy cột điện. Sáng nay đài phát thanh mồm loan tin nóng sốt: ông tiến sĩ không ăn cơm nhà bà chị nữa. Ông ấy nhờ chủ nhà nấu luôn cho hai cha con.
    3. Dãy tôi ở xuất hiện một con mèo trắng khoảng mấy tuần tuổi kêu meo meo thảm thiết. Không biết nó đi lạc hay bị quẳng. Nó vừa lò dò bước vào sân bị ông chồng cực ghét mèo của tôi đá bay ra đường.
    - Sao anh ác thế?
    - Mùi *** đái của giống này kinh dị lắm.
    - Ghét mèo thì nuôi chuột.
    - Xưa rồi Diễm! Giờ có keo dính chuột khỏe re!
    Nhỏ nhoi, đói khát, sợ hãi, con mèo vẫn quẩn quanh kêu khào khào như sắp tắt hơi. Bà Tư bực mình xách ném vào bãi đất trống đổ xà bần. Không chết lại ngoi ngóp bò ra, lại tìm tới người. Mèo ơi, người đã chối bỏ mày. Họ không cần mày nữa bởi vì keo dính chuột đỡ phức tạp hơn mày. Thôi ra bãi rác sống ngày nào hay ngày ấy. Tôi xách con mèo lên, ngang qua cổng chị, nghĩ sao thả đại vào sân.
    4. Meo...
    Con chó nhảy xổ ra.
    Con mèo cong đuôi xù lông gừ gừ...
    Không kịp ngạc nhiên chị bế con mèo giơ cao.
    Con chó đứng hai chân, chồm tới...
    "Đưa con mèo cho tôi!" - người thuê nhà xuất hiện sau lưng chị.
    Con chó chạy theo nhưng cánh cửa nhà ngang đã khép lại.
    5. ''''Con mèo sao rồi anh??
    - Nó tìm chỗ ngủ độc lắm. Thò đầu vào chiếc giày tôi. Chị xem này, dễ thương chưa?
    - Cám ơn anh...
    - Vì sao?
    - Thay cho con mèo.
    - Chị có gì cho nó ăn không?
    - Có. Anh để cái thau cát này cạnh nó. Nó sẽ biết làm gì đấy. Ai quẳng vào đây ác thế không biết. Tôi thương mèo nhưng... không thể nuôi!
    - Chị từng nuôi hả?
    Mẹ nuôi con tam thể đẹp lắm nhưng ba dội nước sôi chết rồi... - con bé 10 tuổi đứng cạnh mách.
    6- Anh đứng trên nhà lớn nhìn xuống nhà ngang. Khoảng trời bé tẹo, một mảnh sân con, một bộ bàn ghế. Chiếc máy may. Và bếp. Anh thích ngửi mùi thức ăn phả ra từ đó. Mùi cá kho tiêu. Mùi canh mít nấu lốt. Mùi ruốc sả... Những mùi ấy xông vào khứu giác, sục vào ký ức khiến anh đói cồn cào. Lâu lắm rồi, dễ chừng đến 20 năm anh chưa được ăn lại một bữa cơm gia đình có mùi nồng cay của ruốc ớt và vị tê tái rả rích của mưa dầm. Có khi anh nhìn qua cửa sổ bữa cơm chiều dọn ở nhà ngang. Đĩa rau luộc xanh nõn. Những con cá bống thệ cong vòng nâu sẫm... Hai mẹ con lặng lẽ ngồi ăn. Con chó ngồi chầu hẫu dưới đất. Một bức tranh buồn.
    Tiếng máy may ở nhà ngang vọng lên cũng buồn như tiếng mưa, rào rào, triền miên, day dứt. Đường may nối đường may, dằng dặc như ngày nối ngày.
    Thoạt đầu anh định trả nhà vì mình đã quá thừa thãi nỗi buồn. Hít thở thêm bầu không khí đặc quánh cô đơn này thêm rầu. Nhưng anh dùng dằng. Dễ gì có cả một ngôi nhà yên tĩnh để thuê. Một chủ nhà không nhiều chuyện, nấu ăn lại cực ngon. Mỗi bữa ăn đối với anh đều bất ngờ bởi sự kết hợp tài tình giữa thanh đạm và tinh tế. Vả lại con anh rất thích chơi với con bé con chủ nhà...
    7. Con chó, con mèo đã quen nhau. Con mèo đôi khi còn nhào tới ôm cổ con chó. Con chó gừ gừ càu nhàu nhưng không cắn. Chúng đuổi nhau quanh sân. Con mèo thua chỏng vó hươ huơ mấy cái chân có vuốt sắc hoặc tót lên cây trêu ngươi.
    Hai đứa bé cùng tuổi huyên thuyên bằng thứ ngôn ngữ hầm bà lằng tiếng Việt xọ tiếng Mỹ. Chị nhìn chúng chơi, nghe chúng nói. Khuôn mặt buồn như bếp lạnh được tiếng cười nhóm lửa, bùng lên những tia nồng nàn. Má căng ra. Đôi mắt mùa đông có nắng... Lúc ấy người khách thuê nhà rời mắt khỏi chiếc laptop nhìn chủ nhà lạ lẫm.
    Cũng lạ lẫm anh nhìn người đàn bà chăm chút hai đứa trẻ, hai con vật và cây cối. Lạ lẫm nhìn chị tẩn mẩn tách xương xóc khỏi đồ ăn thừa vì sợ con heo bà xách nước cơm ăn mắc họng... Chị giăng sợi thương sợi buồn quanh thế giới chị ở đơn giản như nhện giăng tơ.
    8. Giữa tháng chạp, chị làm mứt gừng. Gọt, xắt, luộc, rim, âm thầm một mình ở nhà bếp đến tận khuya. Mùi gừng ấm nồng khiến anh thấy lạnh. Anh xuống bếp, thấy chị ngồi như gục xuống bên lò than tàn.
    - Nghe mùi mứt... tôi nhớ mẹ quá chị ạ! - anh ngập ngừng.
    - Anh nếm không?
    - Có.
    Họ uống trà ủ hương mộc và ăn vụn gừng. Chị bảo tinh túy thau mứt tụ ở đáy.
    - Ngon đến bối rối! Thế này coi như tôi được ăn tết sớm!
    - 28 nhà tôi về.
    - Anh ấy làm nghề gì?
    - Giang hồ... Nhà như quán trọ...
    Chị nâng chén trà lên môi, tay run run. Đột ngột chị để xuống, nhìn thẳng vào mắt anh:
    - Anh chia tay với chị ấy có dễ dàng không?
    - Cô ấy bỏ cha con tôi đấy chứ. Cô ấy không thích hợp đời sống gia đình. Nấu nướng, chăm con cái, làm việc nhà là khái niệm xa lạ. Cô ấy thích hội họp, tiệc tùng, báo cáo nghiên cứu, tóm lại chuyện to tát phi thường. Còn những điều bình thường... tôi làm.
    - Hôn nhân là một cuộc phiêu lưu, không phải ai cũng may mắn.
    - Còn chị?
    Anh kịp níu hai từ ấy lại khi gặp mắt chị. Đôi mắt quạnh quẽ như bãi bờ hun hút trải bơ vơ đến tít tắp khiến lòng anh rùng mình. Một bóng trắng nhỏ nhoi phóc lên chân chị, khoanh tròn như cuộn len, rù rù khoái trá.
    - Con mèo!
    - Ừ. Tôi chẳng biết làm gì với nó đây? -giọng chị nghèn nghẹn - Anh không thể đem theo. Tôi không thể nuôi...
    - Tôi nhờ chị Thu...
    - Nó sẽ quay về!
    - Tôi cột nó lại...
    9. Ông Táo được tiễn về Trời bởi một mâm cỗ đẹp như tác phẩm nghệ thuật. Anh biết cũng là tiễn cha con anh. Họ ngồi chung mâm. Lần đầu tiên chị ăn cùng. Con chó và con mèo gặm xương dưới gầm bàn, bên nhau.
    - Như một gia đình - anh nói bằng mắt.
    - Một bức tranh ghép - nụ cười buồn trả lời.
    Thằng con anh biết mai đi cứ níu chị hỏi vì sao không cho nó ở nữa. Con bé ghé vào tai trả lời:
    - Vì ba tớ về!
    Anh tặng con bé một con miu nhồi bông trắng muốt nhưng nó chỉ quan tâm đến con miu dưới gầm bàn:
    - Rồi ba có tạt nước sôi con mèo không hả mẹ?
    10. Thằng bé đi để lại trên má con bé nụ hôn và vệt nước mắt.
    Chị lau như sợ nó thành vết thương.
    11. Đang dọn dẹp, tôi dừng tay bởi một tiếng kêu xé toạc đêm. Chạy ra thấy con mèo trắng từ cổng nhà chị tuôn ra. Nó quằn quại gào điên dại. Bóng thứ hai là chị. Chị ngồi bệt bên con mèo bất hạnh, túm thân hình rúm ró bị tuột từng mảng lông da vào vạt áo, run bần bật. Bóng thứ ba là con bé. Nó không dám tới gần, đứng xa khóc như ai dội nước sôi vào tim nó.
    Tôi đến bên chị, nghẹn ngào:
    - Chính em... chính em quẳng con mèo vào nhà chị... Tưởng nó được sống...
    - Gửi rồi nhưng bứt dây chạy về...
    12. Đầu năm đi lại trên những con đường nội bộ, ngang qua nhà chị, đài phát thanh mồm bình luận:
    - Nhà đẹp thế này mà cưa đôi, uổng nhỉ!
    - Dàn xếp được thì kẻ ở, người đi mắc mớ gì cưa!
    - Ngó nhà và bả là biết lệch pha rồi. Nhà đi đằng nhà, người đi đằng người!
    - Bà ấy mủ mỉ mù mì mà quyết liệt thật. Nhất định ly dị.
    - Nghe đâu vì con mèo bị dội nước sôi! Vô duyên!...

    Chị ra đi cũng lặng lẽ như chị có mặt. Mười vòng ngang qua đó, tôi vẫn nghe mùi hương nguyệt quế dịu nhẹ đeo đẳng mãi cho đến khi chủ nhà cho đốn cây, quét vôi sơn cửa đón nữ chủ nhân mới. Một bà láng lẩy sực nức mùi mánh mun huê tình hứa hẹn sẽ khiến ngôi nhà thời thượng nhảy lambada...
  8. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    Apsara hoang dại
    1- Trở lại Mỹ Sơn nhân ngày hội của đất Quảng, tôi được xe của khu du lịch đổ xuống tận chân tháp. Hoang phế, lãng quên, vùi dập đã lùi vào dĩ vãng. Thánh địa ngày nay là viên ngọc quý lấp lánh huyền hoặc. Quần thể kiến trúc độc đáo bằng đất nung và đá trải dài liên tục gần thiên niên kỷ của vương quốc cổ Champa đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới dẫu chỉ còn một mảnh hình hài thương tật. Vẫn đầy mê hoặc. Đẹp đến thương tâm.
    Xưa chỉ có những con người chay tịnh hàng tháng trời mới được đặt chân lên đất thánh. Giờ thì mọi du khách đều được khu du lịch chắp cánh để vào thung lũng thần linh. Thế mà tâm hồn tôi vẫn không chịu bay, cứ đau đáu nhọc nhằn men theo kỷ niệm...
    - Người Chăm dùng voi kéo gỗ và gạch đá trên con đường này đây! - Một vị đưa tay chỉ con đường đã hiện đại hóa đang bị chiếc xe du lịch nuốt chửng.
    - Người ta bảo những vết lõm núi do đục lấy sa thạch, những thửa ruộng lấy đất làm gạch xây tháp vẫn còn.
    - Giá mà viếng thánh địa bằng xe trâu nhỉ?
    - Rõ dại! Thế này hơn chứ. Về quá khứ bằng phương tiện hiện đại.
    Người họa sĩ râu tóc man dại chào tôi với nụ cười trắng lóa trong nắng. Những trang Nhật ký bằng tranh xé ra từ cõi lòng sâu nặng với văn hóa Champa dựng rải rác quanh đó. Sơn dầu, bút sắt hay acrylic chúng đều có tên Mỹ Sơn. Mỹ Sơn 1. Mỹ Sơn 2. Mỹ Sơn 3... Tôi thích mảng tranh bút sắt của anh - Linga đường bệ trơ trọi, mảnh tháp thương tích lơ phơ ngọn cỏ gió đùa, đôi mắt vời vợi, tít tắp, lung linh ánh lửa u uẩn huyền bí của hậu bối nghệ sĩ Chăm xưa...
    - Bán được mấy bức rồi?
    - Chỉ mấy lần ba chân bốn cẳng khuân tranh chạy. Dạo này thung lũng cứ mưa chiều - Anh trả lời, nụ cười trong râu an lạc hiền hòa. Dường như ai mê Mỹ Sơn cũng phảng phất nụ cười an nhiên của đá.
    Tôi rời mắt khỏi những bức tranh bởi tiếng trống bập bùng mời gọi.
    - Đến xem đi ! Không phải khi nào cũng được coi múa Chăm trên nền tháp cổ. Họ sắp đi rồi - Họa sĩ giới thiệu.
    Trên nền tháp, một vũ nữ đang múa. Chậm rãi và uyển chuyển, dường như cô không dùng sức mà dồn hết tâm ý vào động tác. Động tác nhẹ nhàng tĩnh tại mà cứ khiến tâm hồn người xem bập bùng nhảy múa. Du khách đứng quanh như bị hớp hồn theo pho tượng Chăm biết cử động.
    Điệu múa đã chấm dứt nhưng khát vọng hóa thân thành tượng vũ nữ thiên tiên Apsara đã tạc người nghệ sĩ vào nền ngôi tháp cổ đổ nát. Váy áo dát nắng vàng, nét mặt đắm chìm trong hoan lạc tự tại, cô không còn thuộc về thế giới phù hoa hư ảo của trần thế, không còn nghe tiếng vỗ tay rào rào của khách tham quan thánh địa.
    Tôi ngắm cô, sững sờ thấy dưới bờ mi phải giọt nước mắt đen quen thuộc. Phải em đấy không, Apsara hoang dại ngày ấy?
    Nữ nghệ sĩ múa Chăm trước mặt tôi không còn trẻ nhưng nõn nà, đầy đặn, gương mặt đẹp phảng phất nỗi buồn lưu lạc. Còn em... Trồi lên từ ký ức tôi là con bé chăn bò gầy đen như que củi, tóc cháy nắng, đói khát quanh năm. Một giọt lệ đen dưới bờ mi phải.
    Vũ nữ thiên tiên sắp bay về trời. Dàn nhạc đệm cho cô đang thu xếp kèn trống. Không dằn lòng được, tôi buột miệng gọi: "Apsara hoang dại!".
    Cô quay phắt như bị điện giật.
    Là em.
    2 - "Đồ con rắn, hở chút là lủi vô cỏ!"- Lão già nhìn quanh rủa rồi đưa tay lên miệng: "U...u...u....u...". Tiếng hú vừa dứt, một cái bóng nhỏ nhoi với đuôi tóc đong đưa theo bước chạy xuất hiện. Khi bóng rõ thành con bé gầy đen, lão già vung tay. Cái roi rít lên một tiếng lạnh người. Con bé chỉ kịp đưa tay che mặt. Lằn roi bỏng rát vắt chéo qua sườn để lại một vệt dài rướm máu. Nén đau, nó lủi thủi cầm mấy cái can nhựa ra giếng. Múc đầy nước, nó dắt con bò già đến ra hiệu nằm xuống, buộc lên lưng.
    "Lấy tiền. Cho bò ăn. Kiếm củi và... thứ chi đó đem về".
    Xong mệnh lệnh, lão vung roi. Con bò ỳ ạch bước. Con bé lật đật chạy theo. Lão già vói theo: "Kiếm được thì về ăn cơm, không thì ăn cỏ".
    Con đường mòn ngoằn ngoèo như con rắn khổng lồ men vách núi bò xuống thung lũng Mỹ Sơn dài khoảng sáu, bảy cây số. Lội qua khe Thẻ, vạch lau lách cao quá đầu người... Nhưng con bé quen rồi. Bao lần kiếm củi, chăn bò, bao lần trốn lão cụt vào thánh địa tràn ngập tiếng chim và gạch đá im lặng. Dọc đường con bé cho vào miệng những thứ có thể ăn được. Từ khi vào thung lũng với nhiệm vụ mới, nó thường bị đói. Lão cụt thấy nó về tay không với con bò bụng no cỏ chở đầy củi là nó bị nhịn. Đêm đói cồn cào không ngủ được, nó như con chuột sục tìm cái ăn mọi xó xỉnh. Gạo sống, sắn khô, những củ khoai non nhổ vội trong bóng tối... Không dễ dàng gì đánh cắp cổ vật đào xới vì họ canh phòng kỹ lưỡng. Nó cũng không muốn lấy của thần linh.
    Bọn trẻ chăn bò thường kể chuyện ma Hời trừng phạt những kẻ lấy cắp đồ thánh. Sớm muộn gì cũng chết thảm. Để được ăn cơm, thỉnh thoảng nó cũng đem về một vài mảnh tượng vỡ nhặt trong đống gạch đá. Lão cụt không hài lòng nhưng cũng để đấy đợi dịp bán cắt cổ người cần mua. Vừa nhấm nháp sim chín, đọt mâm xôi, nó vừa hái hoa. Nó thích có một bó hoa dại còn lóng lánh sương và đẫm tiếng chim. Khi thung lũng thần linh hiện ra lộng lẫy trong nắng sớm, huyền bí trong sương bạc, con bé dừng chân. Nó không hiểu được vẻ đẹp của những ngôi tháp lở lói rêu phong kia nhưng vẫn bị mê hoặc. Cái đống hoang tàn đổ nát bằng gạch đá đó chắc phải giá trị lắm, ông Tây to đùng râu ria xồm xoàm như người rừng và bao nhiêu người nữa mới bỏ nhà cửa vào lũng dựng lán nghiên cứu tu sửa. Lão cụt cũng bảo trong đó có nhiều thứ quý giá vì đó là thánh địa ngàn năm của người Hời. Dưới nền tháp cổ có vàng. Những pho tượng đá cũng có thể đổi thành vàng. Gặp dịp là chôm, nhặt. Mày nhỏ không ai để ý.
    Lão đã đào nhặt cho đến khi một mảnh mìn cắt cụt một tay như lời cảnh báo mà vẫn không chừa nỗi khát khao đổi đời từ kho báu của ma Hời. Khi thánh địa trở thành công trường trùng tu, cấm dân đào xới, lão nghĩ đến nó...
    - Con câm đem nước tới !
    - Khát quá tui uống nước suối rồi. Chết biết liền.
    - Ông kiến trúc sư bảo chỉ tắm rửa, khoan uống. Chất độc hóa học từ rừng đầu nguồn nước thời chiến tranh có thể làm nhiễm độc suối.
    - Coi nó thồ nước từ làng vào khổ nhọc chưa tề! Ra đỡ cho nó.
    Cái lán nhỏ bằng tranh tre và tiếng người ồn ã khiến thung lũng ấm sự sống và hơi người. Từ khi có họ, con bé rất thích vào thánh địa. Đám người kia ngại uống nước suối nên nó mới có công việc thồ nước. Nó ngồi đợi lấy tiền và trong thâm tâm, nó đợi ông Tây tốt bụng, có nụ cười dễ mến trong râu.
    "Ông Tây" sau khi lội quanh các tháp đang sải những bước dài mạnh mẽ về phía lán. Trước khi chở nước cho đội trùng tu, con bé cũng đã gặp ông một lần trong thung lũng. Ông Tây to lớn rậm râu, da đỏ au ấy rất hiền. Ông ta bập bẹ tiếng Việt với lũ trẻ chăn bò, còn về lán lấy suất cơm trưa của mình cho chúng, khi chúng ăn thòm thèm gói cơm ghế sắn chấm muối đem theo. Thấy nó đứng một mình lại chẳng có gì ăn, ông Tây đã cho nó một gói mì ăn liền. Đó là của ngon đầu tiên nó nếm trong đời ngoài cơm độn, khoai sắn và quả dại. Hương vị gói mì và ánh mắt ấm áp của người cho đọng mãi trong lòng nó nỗi dịu êm chưa từng thấy.
    Ông Tây chào nó với nụ cười nhân hậu trong râu. Nó rụt rè đưa cho ông bó hoa dại giấu sau lưng.
    "O! Đep lam! Cam... on!".
    "Con câm biết tặng hoa cho thủ trưởng, trời ạ!".
    "Múc cho nó chén cháo! Nó phải đói lắm, chỉ thấy da với xương".
    3 - Năm 1978, thánh địa Mỹ Sơn được khai quang và tháo gỡ mìn. Bị rừng rậm nuốt chửng năm thế kỷ rồi bom đạn vùi dập mấy mươi năm, thánh địa ngàn năm rực rỡ huy hoàng của vương quốc Champa ngày ấy giờ hoang vu, đầy mìn và rắn độc. Cả rừng tháp cổ đứng kề nhau trong thung lũng tuyệt đẹp bọc tứ bề núi nay chỉ còn khoảng hai mươi tháp. Không cái nào nguyên vẹn. Hoặc sụm xuống cả cụm dưới trận mưa bom hoặc tật nguyền, lỗ chỗ thương tích. Đỏ rực trong chiều tà những ngôi tháp lở lói vẫn như những ngọn lửa khát vọng đang cháy. Cháy trong thăng trầm dâu bể. Trong núi thẳm rừng sâu. Trong mịt mù quên lãng. Trong bạo tàn bom đạn. Trong ngưỡng vọng muộn màng...
    Hai năm sau, Ba Lan và Việt Nam hợp tác trùng tu. Nhân công lấy tại địa phương. Tôi là một kiến trúc sư làm việc trong công trình ấy.
    Thung lũng hoang vu bắt đầu ấm hơi người. Phát quang, dọn dẹp, sắp xếp hàng ngàn mét khối gạch đá được khai quật... Bề bộn, cực nhọc và nguy cơ chạm mặt với tử thần bởi bom mìn còn sót lại nhưng thật vinh dự. Chúng tôi bê lên từ đống đổ nát những mẩu thịt da tươi nguyên của một nền văn hóa, xót xa trước những mẩu vỡ, reo mừng trước một tác phẩm điêu khắc đẹp không tả xiết bởi đôi tay nghệ nhân đã thành cát bụi. Công việc quyến rũ đến nỗi không ai nhớ đến hiểm họa chiến tranh còn lẩn quẩn bên mình.
    Ông kiến trúc sư người Ba Lan, trưởng dự án trùng tu Mỹ Sơn suốt ngày quần soọc, ở trần, bất chấp muỗi, rắn, nắng thiêu đốt, cứ đo chụp, ghi chép, phác họa từng chi tiết vào sổ tay và luôn miệng thán phục: "Très intéressant!". Để đỡ thì giờ đi lại, ông ở lại Mỹ Sơn, ngủ dưới vòm tháp. Đời người dễ gì được ngủ khách sạn ngàn sao, được ru bằng nhạc dế, được mơ thấy vũ nữ Chăm ngực trần trong đá bước ra dưới trăng mờ.
    Chúng tôi thảy đều bị thế giới gạch đá điêu tàn ấy mê hoặc. Tôi hay lang thang khi xong việc. Trong thinh lặng, tôi có cảm giác hoa lá kỳ ảo nảy nở, bắt gặp ánh mắt phù phép của đạo sĩ trên đài thờ hoặc nụ cười hoan lạc của vũ nữ thiên tiên trên đá. Ông kiến trúc sư thích ghi chép bằng hình vẽ, phác họa mọi thứ vào sổ tay. Duy gạch Chăm thì ông săm soi từng mạch gạch, nhặt nhạnh từng mảnh vỡ còn nguyên vẹn niềm kiêu hãnh và bí mật mong tìm lời giải đáp: làm sao người xưa không cần sử dụng vật liệu kết dính mà vẫn dựng nên đền tháp ngất ngưởng với thời gian thế kia?
    Hội Những kẻ Chàm ám mới gia nhập thêm hội viên. Một ông già người Chăm từ Phan Rang ra thánh địa hành hương, xin ở lại giữ tháp và một con bé chăn bò. Con bé rất khó đoán tuổi - hình hài còi cọc, phẳng phiu như đứa trẻ lên mười nhưng đôi mắt hoang dại mênh mang buồn. Hỏi gì nó cũng không nói, cứ nhìn chăm chắm như sợ người ta cắn. Chúng tôi gọi nó là con câm.
    Một bữa khi lang thang cùng ông kiến trúc sư, chúng tôi bắt gặp con câm bỏ mặc bò ăn cỏ, mê mải bắt chước dáng điệu của một vũ nữ chạm khắc trên đá. Hai cánh tay gầy đen đủi của nó dang rộng, mặt ngẩng say sưa. Bộ ngực lép kẹp ưỡn cong phô những giẻ sườn. Nó đắm chìm rất lâu trong tư thế ấy. Ông kiến trúc sư giỏi ký họa ngẩn người xúc động trước giấc mơ vịt con xấu xí biến thành thiên nga, lấy sổ tay hí hoáy vẽ. Khi phát hiện ra chúng tôi, dải lụa trên tay con bé lập tức trở lại nguyên hình cọng cỏ tranh sắc nhọn rơi xuống đất. Nó xấu hổ lùi lũi dắt bò đi.
    Sau đó ông kiến trúc sư biến bức phác họa thành tranh màu nước treo trên vách lán. Apsara hoang dại trong tranh không có nét tươi tắn duyên dáng và thân thể căng trào sự sống như trên đá. Mảnh như cọng cỏ, áo quần tóc tai tơi tả nhưng vẫn có gì lôi cuốn ở khát vọng hóa thân cháy bỏng.
    Sáng hôm sau vào đổ nước, con câm ngẩn người ngắm nó trong tranh. Phải lâu lắm nó mới dời mắt dắt bò đi rồi đột ngột quay lại, đến trước chúng tôi, hết chỉ vào tranh lại chỉ vào nó.
    - Hắn muốn đổi bò lấy tờ giấy vẽ hắn! - Một anh chàng đùa rồi đến dắt con bò.
    Con câm giằng lấy sợi dây cột bò, tức tối bặm môi, ngửa cổ. Từ cái miệng câm lặng của nó đột ngột vọt ra tiếng "N...ư...ớ...c...!".
    Rời rạc, choi chói, những âm tiết đẩy nhau ra khỏi cổ họng đang căng như dây đàn nắm tay nhau đứng dậy liêu xiêu ngân rung trong nắng. Con câm như vừa thoát khỏi cơn đau đẻ. Mặt đỏ bừng, mồ hôi rịn đầy trán, lưỡi môi còn rung cong bởi sức nặng của cái tiếng khó nhọc vừa ném ra nhưng mắt nó thì ngời ngợi như nữ thần chiến thắng.
    - A, hắn nói được!
    - Rứa mà tưởng câm!
    - Hắn rặn ra được một tiếng thủ trưởng ơi! - Anh chàng tếu táo chỉ về phía con bé khốn khổ và gập người nhại lại tiếng "N...ư..ơ..c" của nó. Tuy chỉ biết lõm bõm tiếng Việt, con người to lớn có đôi mắt màu biển xanh và bộ râu của ông già Noel vẫn hiểu anh kia nói gì. Ông ta đến trước con câm và chỉ vài động tác tay đã khiến bộ mặt nhăn nhó của con bé gầy nhom dãn dần. Nó gật đầu lia lịa, còn cười bằng mắt. Thì ra nó muốn đổi bức Apsara hoang dại lấy nước. Bao nhiêu nước cũng được.
    Apsara hoang dại không còn treo trên vách lán nhưng con bé vẫn được trả tiền chở nước. Nó còn có bạn để chuyện trò bằng ngôn ngữ cử chỉ. Thỉnh thoảng tôi gặp hai người bên thềm tháp. Như tạ gạo bên que củi. Tạ gạo đang ra sức dạy cho que củi phát âm. Ông bảo con bé không câm bẩm sinh, có lẽ chỉ câm sau một biến cố nào đó quá lớn mà thôi. Phải giúp nó nói trở lại.
    Con câm có nụ cười tuyệt xinh nhưng hiếm khi nở trên môi. Chúng tôi cho nó ăn, dạy nó nói. Còn nó cho chúng tôi những trận cười, giò phong lan tuyệt đẹp, nhánh dành dành tim tím, cành lau trắng ngả nghiêng. Con bé giống viên gạch Chăm, nói nhiều điều trong câm lặng.
  9. hoangvan09

    hoangvan09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2003
    Bài viết:
    1.027
    Đã được thích:
    0
    (tiep theo)
    4 - Con câm nói trở lại vào ngày bị rắn cắn. Hồi ấy Mỹ Sơn nhiều rắn lắm. Thường chúng không cắn người. Nhưng con bé say sưa học múa với tượng đã giẫm phải nó. Con bé nhào ra đám người đang làm việc, thét lanh lảnh: "Rắn! Rắn!". Mọi người chẳng ai để ý lời nói trơn tru bởi họ bận nhào vào cứu chữa. Ông kiến trúc sư xé ngay áo cột ga rô, rửa vết cắn. Định bế nó chạy ra bệnh viện huyện thì ông già Chăm xuất hiện. Ông bảo thời gian ra đến bệnh viện đủ nọc độc vô tim. Thấu tim là vô phương cứu chữa. Thà để nó cho ông. Con bé nghe nói trườn ra khỏi tay bế nằm trên thềm tháp mở to đôi mắt khát sống nhìn ông già. Rồi từ cửa miệng nó bật ra cả câu, rõ ràng từng âm tiết: "Đừng để cháu chết!".
    Nó nói lại thế đấy. Trơn tru, mạch lạc như chưa hề câm lặng.
    Con bé được uống thuốc gia truyền tẩy nọc của ông già Chăm và đắp chữa vết thương. Nó chịu đựng thật dũng cảm những cơn đau khủng khiếp do nọc rắn gây ra. Đau lắm. Gió thổi bay sợi tóc cũng đau. Quằn quại.
    - Lủi vô cỏ thì ráng đỡ - Lão già cụt tay bảo.
    - Hắn đau dữ rứa mà không thương. Bộ con câm không phải cháu ông hả ?
    - Tui lượm hắn trong thánh địa, kề bên mẹ hắn đã chết nổi dòi rồi. Lúc đó hắn chừng bốn, năm tuổi, cứ rúc vô mẹ mặc kệ dòi bò trên mặt. Tui đem hắn xuống suối tắm. Cũng không nghe hắn khóc. Đem về nuôi. Cũng chưa hề nghe hắn nói dù cái chi hắn cũng hiểu. Con ni lì lắm. Trời đánh không chết mô.
    Con câm quay mặt khi ông già nói. Không hiểu sao, tôi cũng không thích lão. Có lẽ vì những lằn roi lão dành cho con bé thỉnh thoảng lộ qua manh áo rách...
    Ông già Chăm trở nên nổi danh vì rắn. Ngoài tài chữa rắn cắn, ông còn có biệt tài chinh phục rắn độc như một nhà ảo thuật Ấn Độ. Chúng tôi đã được xem ông điều khiển một con hổ mang uốn éo theo tiếng sáo của ông. Ông bảo sẽ dạy rắn canh chừng cổ vật quý hiếm của tiền nhân. Con câm được đổi tên vì nó không còn câm nữa. Ông già Chăm, người cho nó sống lần thứ hai đặt tên nó là Tagiglao, một loài hoa nở rộ ở quê ông vào mùa hội Katê. Còn tôi vẫn thích gọi nó là Apsara hoang dại.
    5 - Bức tượng sư tử đầu voi rất đẹp tìm thấy trong đống gạch đổ nát đột nhiên biến mất. Ông kiến trúc sư tiếc đến đau đầu. Ban chỉ huy dự án họp bàn những biện pháp ngăn chặn - cấm chăn trâu bò trong thung lũng thần linh, không cho kẻ lạ vào công trường, gom cổ vật cử người canh giữ khi chưa kịp chở về Đà Nẵng...
    Apsara hoang dại buồn hẳn. Nó vào từ giã chúng tôi. Mắt đỏ hoe, nó vung tay lia lịa như có vẻ bức xúc lắm.
    - Con này tụt lưỡi lại rồi, không nói được nữa! Chẳng hiểu nó muốn gì. Thông dịch viên đi vắng.
    Ông già Chăm đến trước con bé, vỗ vỗ vào vai nó:
    - Tagiglao, con muốn nói là con không lấy cắp tượng phải không ?
    Con bé gật đầu òa khóc.
    Tối hôm sau, chúng tôi quây quần bên đống lửa uống rượu gạo tán gẫu. Xin xỉn, nằm trên nền tháp nghe dế Mỹ Sơn miên man hòa tấu bản nhạc đêm hoang dã. Gió lùa qua cổ tháp âm u mang theo hơi thở của ngàn xưa. Đêm thơm mùi thiêng liêng của lễ thánh tẩy. Tiếng ngựa xe của đoàn quân chiến thắng trở về dâng chiến lợi phẩm cho thần. Giữa lúc mơ màng tỉnh say ấy tôi bỗng nghe tiếng rên.
    "Hình như có ai rên" - "Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than" - Duy trả lời bằng câu thơ Chế Lan Viên. Anh chàng khác phụ họa: "Ma Hời cười đó mà!". Nửa khuya như có tiếng cười thâu đêm". Họ bỗng ngừng đùa vì thủ trưởng đã ngồi bật dậy nghe ngóng rồi chụp cây đèn pin sải những bước dài. Khi chúng tôi theo kịp đã thấy ông quỳ bên một hình hài. Đèn pin soi rõ con bé chăn bò quen thuộc! Nó nằm trên cỏ, ôm khư khư một vật gì đó. Thấy ông kiến trúc sư, nó lẳng lặng đưa cho ông. Dưới ánh trăng ngàn chúng tôi nhận ra bức tượng quý bị mất. Ông kiến trúc sư bế con bé về lán. Nến soi rõ hàng chục vết xước, vết roi, đôi chân trần giẫm đá sỏi, gai góc ri rỉ máu. Nó nằm lả vì kiệt sức nhưng mắt lấp lánh cười. Dường như nó mãn nguyện đã đem pho tượng về trả chúng tôi.
    O nuôi cho nó uống nước đường và làm một tô mì gói. Nhìn con bé ăn mới hiểu nó khốn khổ đến thế nào. Ăn hối ăn hả như sợ người ta giằng lại. Ăn không sót chút nước, chút vụn mì. Ăn đến đâu hồi sinh đến đó. Mắt sáng lên. Môi đỏ ra. Bờ mi phải đọng một nốt ruồi như giọt lệ đen. Dưới ánh đèn cầy leo lét, tôi nhận ra Apsara hoang dại xinh đẹp và đói khổ đến dường nào. Ăn xong, nó nằm vật xuống ngủ ngay không một lời giải thích. Tấm hình hài bé bỏng tả tơi nói thay nó nỗi hãi hùng trải qua trên đoạn đường rừng xuyên bóng đêm.
    6 - Con bé chăn bò sợ lão cụt đánh không dám về. Nếu chúng tôi không thương tình cho nó ăn có lẽ nó đã chết đói. Mỗi khi lão cụt hùng hổ vào thung lũng tìm giết đứa nuôi ong tay áo, nó lại chui rúc trốn. Nó trốn chui trốn nhủi cho đến một sớm mai người ta phát hiện lão già tham lam nằm chết gần ngôi tháp làm nhà kho trưng bày, người sưng vù, tím ngắt. Ông già Chăm bảo thần linh trị tội lão.
    Dù lão cụt đã chết, chúng tôi đã dùng nước suối, con bé vẫn gần như có mặt thường xuyên trong thung lũng suốt mấy mùa trùng tu. Nó lớn lên như cây hoang dã, trơ trọi, khốn khổ mà vẫn như đóa hoa dại của núi rừng. Nó mê gạch đá không thua gì chúng tôi, chăm chút nhặt nhạnh từng mảnh vỡ trong đống đổ nát đem cho ông Tây vì nó đã từng chứng kiến ông khóc trước một bức tượng vỡ.
    Tôi biết con bé vẫn âm thầm học múa với các tượng vũ công, vũ nữ. Nó kiên trì tập đứng cho giống tượng. Đứng được lại tập tòe chân, nghiêng người, chỉ tay... Nhiều khi tôi không nhận ra con bé chăn bò khốn khổ. Tay chân nó gầy khô đen đủi, ánh mắt u hoài man dại. Thế nhưng khi đứng trước tượng và đắm chìm trong khát vọng hóa thân, nó bỗng khác hẳn. Nó như được tượng nhập. Ánh nhìn bình thản. Gương mặt lai láng niềm hoan lạc thuần khiết. Những ngón tay cáu bẩn đầy uy lực bởi độ mềm dẻo đến kinh ngạc. Tấm thân lau sậy vẽ những đường cong sóng lượn. Ông kiến trúc sư tiên đoán nó sẽ trở thành người múa Chăm giỏi vì nó lĩnh hội nghệ thuật từ thinh lặng của đá.
    Ông già Chăm thương nó lắm, bảo sẽ đem về Phan Rang cho học múa, học hát. Tiếng hát nó trong như suối rừng già, không lẫn tạp âm. Có lẽ vì được ấp ủ, chưng cất trong lòng bao nhiêu năm tháng.
    7 - Người múa Chăm tài sắc vẹn toàn trước mắt tôi bây giờ là Apsara hoang dại ngày ấy.
    Chúng tôi ngồi bên thềm tháp nhắc lại chuyện cũ. Đột nhiên cô bảo:
    - Bây giờ em biết vì sao những viên gạch Chăm không cần chất kết dính vẫn gắn chặt nhau rồi!
    - Hình như người xưa mài chập để kết dính chúng lại.
    - Là chúng hôn nhau. Nụ hôn nóng bỏng khát vọng của một dân tộc!
    Tôi ngạc nhiên nghe em nói. Con câm hoang dã luôn sợ người ta cắn ngày xưa bây giờ nói năng suy nghĩ như thế đó.
    - Anh còn nhớ ông Tây không?
    - Ông ấy người Ba Lan, người ta thường gọi là Kazik.
    - Nhưng em thích gọi là ông Tây. Ấn tượng thời thơ dại khó phai mờ. Thỉnh thoảng em lại ăn ngấu nghiến một tô mì gói. Bức tranh ông Tây vẽ em, em vẫn giữ. Khi ngã lòng, ngọn lửa khát vọng của Apsara hoang dại lại kéo em đứng dậy. Cứ thế. Khi ông già Chăm mất, em tự nuôi sống mình, học hành và trở thành người múa Chăm trong đoàn ca múa nhạc dân tộc...
    Dấu ấn ông Tây vẫn còn quanh đây - những mảng xi măng hiện đại trên nền gạch rêu phong bí ẩn. Những con tiện bổ sung trên ô cửa sổ cố ý làm khang khác con tiện gốc đứng cạnh như muốn thưa tôi thuộc về hậu thế... Kazik quyết định trùng tu tháp Chăm theo quan điểm hiện đại. Giữ nguyên vẹn di tích gốc, không làm giả, chỉ gia cố kỹ thuật để duy trì hiện trạng. Phần gạch thuộc về dĩ vãng còn xi măng thuộc về công trình tu sửa. Rạch ròi mới cũ phân minh.
    - Em có gặp Duy gạch Chăm không ?
    - Ông ấy bây giờ là Duy tháp Chăm đó! Có thể làm hẳn một cái tháp Chăm, chỉ thiếu rêu phong.
    Tôi ngắm những cộng sinh thiên nhiên phất phơ trên đỉnh tháp, thân tháp. Khát vọng tái tạo những ngôi tháp vang bóng một thời vẫn không nguội lạnh trong lòng những người thương tiếc Mỹ Sơn nhưng hẳn tháp Chàm phải trơ trọi lắm khi đứng ngoài dâu bể thời gian.
    - Anh có thấy vệt nắng đi qua đỉnh tháp không?
    - Không. Trong này tối thui.
    - Thế mà ngày nhỏ ngồi thu lu trong lòng tháp trốn lão cụt em thấy đó... Em tin vệt nắng đi qua đỉnh tháp là do thần linh dạo gót trên trời và em cầu nguyện thần cho em nói trở lại...
    - Bây giờ em cầu nguyện gì đi ! Tôi cũng cầu đây.
    - Anh cầu gì ?
    - Trăm năm sau Thung lũng thần linh vẫn còn tháp Chàm.
    - Trăm năm thôi à? Em cầu đến nghìn năm lận.
    - Thế em không thấy đền tháp tuy đã trở thành di sản thế giới vẫn ở trong tình trạng phế tích, có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào à? Chắc nhất là cầu thần từng mùa mưa khi chưa có biện pháp trùng tu, bảo vệ.
    Tôi cười. Em cũng cười. Bỗng nhận ra không phải ai mê Mỹ Sơn cũng phảng phất nụ cười an nhiên của đá !
  10. doilanhuthedo

    doilanhuthedo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2005
    Bài viết:
    55
    Đã được thích:
    0
    Tôi, kẻ xa nhà, đọc nghiến ngấu những khúc truyện như khi được trở về và gặp được bờ môi của người con gái tôi thương.
    Hay quá. Truyện nào cũng có hồn, đầy day dứt và nhớ thương.
    Biết viết sao để diễn tả tâm trạng của tôi về những khúc truyện của Quế Hương. Thật ra, tôi đã đọc trên rải rác những tờ báo, tạp chí về nhưng tác phẩm của Quế Hương. Nhưng thật sung sướng khi mà vừa thả hồn bay bổng và nghiến ngấu đọc nhưng thấm từng dòng chữ, một hơi đọc hết cả tập truyện.
    Cám ơn Quế Hương và ngừơi đánh máy đã post bài lên. Và cả người chủ trang web nữa.

Chia sẻ trang này