1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hải ngoại

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Julian, 02/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Võ Phiến​
    Mười giờ (II)​
    Người đàn bà ấy không có mấy nữ trang, mấy món phấn son trang điểm; nàng bỏ thì giờ vào những thứ vớ vẩn: cái chuông, chậu cây... Hai người sống với nhau như thế cho đến một hôm ông bắt gặp Loan với một vẻ khổ sở. Vài ngày sau, nàng bảo ông biết nàng vừa được tin nhà, nàng phải về quê, ở dưới Sóc Trăng. Hoàn cảnh nàng có gì rối rắm khó khăn lắm. Ông khựng lại, nhìn nàng chăm chú một lát, biết rằng sự thể không thể nào đổi khác được, ông thở dài.
    Hôm cuối cùng, loay hoay thế nào mà họ thức trắng đêm. Buổi tối, ngồi trước hiên nhà mãi cũng buồn, ông lấy xe chở nàng đi ăn cháo cá, rồi hai người ra ngồi bờ sông hóng mát tới khuya. Về, ông lại pha cà-phê uống, rồi ngồi xem sách. Loan lên giường nằm hồi lâu không ngủ được, vẹt màn chui ra. Ông bỏ sách, ngồi với nàng, chuyện trò lẩm cẩm. Đêm hết lúc nào không hay. Lúc nhìn qua cửa sổ thấy chân trời ửng sáng, ông sực nhớ ra, kêu đói, bảo Loan chải tóc tai để đi ăn sáng. Nàng ái ngại:
    ?" Anh thức suốt đêm, có mệt không? Nhà sẵn còn trứng. Hay để em chiên ?oốp la? ăn với bánh mì. Được không?
    Ông lắc đầu. Lúc này ông muốn ngồi ở tiệm, ăn một tô phở nóng, thơm tho.
    Thì đi. Qua cầu Tân Thuận, gặp hơi nước mát, ông hít mạnh vào phổi, thích thú. Rồi ông cao hứng dừng xe lại bên kia cầu tìm một cái quán gần bờ sông, ngồi nhìn mặt nước sáng dưới ánh bình minh, nhìn người qua kẻ lại, thấy khoan khoái, tỉnh người dần. Hỏi chủ quán: không có phở, chỉ có bò kho, có trứng ?oốp la?. Không muốn bỏ một chỗ ngồi thích ý, ông gọi trứng ?oốp la? và quay lại bảo Loan:
    ?" Nhất ẩm nhất trác, định trước cả. Số mình sáng nay ăn trứng thì chỉ được ăn trứng thôi... Huống hồ những chuyện lớn trong đời, chạy đâu khỏi số?
    Nàng nhếch cười buồn bã.
    Ăn xong, đốt điếu thuốc, ngồi trước tách trà thơm, ông lờ mờ nghĩ về những ngày sắp tới. Chắc chắn ông sẽ trả ngôi nhà ở Tân Qui mà trở về bên Sài Gòn. Ở một mình chỗ quạnh vắng, buồn chết. Vả lại, tiền dành dụm đã vơi, ông cần ở gần các tờ báo để làm việc nhiều thêm. Ông nghĩ đến cuộc dọn nhà trong tuần tới, nghĩ đến công việc lấy tin vào lúc mờ sáng ở các tòa soạn nhật báo, đến công việc viết lách liên tu bất tận suốt ngày... Ông thẫn thờ lẩm nhẩm: ?oMệt kinh khủng!?
    Nghe một tiếng cười khẽ, ông ngoảnh lại: Loan cười lớn hơn, nàng lấy tay che miệng cười ngặt nghẽo, rồi lấy tay che cả mắt. Lát sau, khi nàng bỏ tay xuống, nước mắt hãy còn trên má. Lưng bàn tay nàng cũng ướt.

    Loan ra đi tuần trước thì tuần sau ông cũng dọn nhà đi luôn. Hai người để lại trong vườn cũ cái chuông trên cây mít. (Cây trúc tất nhiên là Loan đem theo. Nó lên xe sau cùng, khi nàng đã chất đồ xong và đã lên ngồi trên xích-lô máy nàng mới nhờ người phu xích-lô bê nó đặt lên sàn xe, và nàng bảo ông: ?oĐể lại, anh không trị nó nổi đâu. Nó sẽ vòi vĩnh, làm phiền anh.? Ông biết đó chỉ là một cách nói. Đó không phải là lý do khiến nàng không rời nó.)
    Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu hai một tòa nhà lớn gần chợ Thái Bình. Trong cái hiu hắt của một cảnh sống đơn chiếc, có những buổi xế chiều, sau một giấc ngủ trưa mê mệt, ông thức dậy, nằm thười trên giường, ngao ngán nhìn bức tường phòng trơ trụi không một cái tranh cái ảnh. Cửa sổ đóng kín, căn phòng im mát và râm râm tối. Nằm im hồi lâu, trí nghĩ vẩn vơ từ chuyện nọ sang chuyện kia; trong vắng vẻ tĩnh mịch chợt ông tưởng chừng nghe thấy một tiếng ?oboong...oong...oong!?
    Ông bàng hoàng ngẩn ngơ. Ông không nghĩ đến Loan, nhưng từng giác quan của ông chúng vẫn nhớ nàng. Trong cùng thẳm cõi vô thức của ông cái hơi hướng của những ngày cùng Loan chung sống vẫn còn vương vất. Từ cái này đến cái nọ, từ chuyện này đến chuyện kia, chúng trở về. Cái cổ tay của nàng, bữa cháo khuya trước hiên nhà bên Tân Qui, và ơ kìa! cổ chân, còn cả cái cổ chân của nàng nữa, thật là kỳ cục! và mùi tóc nàng nữa, và cái nhìn mông rất bâng quơ v.v... Ở tuổi ông vẫn còn những vẩn vơ vậy sao?
    Ông tự cười mình, lẩm nhẩm mấy câu lăng nhăng:
    ?oMình về mình nhớ ta chăng?
    ?" Nhớ mình? Ta quyết đoan rằng là: Chưa!
    Nhớ mình? đã nhớ đâu cơ
    Chẳng qua chỉ có vẩn vơ nhớ... nhà
    Vườn quê mỗi buổi chiều tà
    Bâng quơ tai nhớ một và tiếng chuông
    Cà-phê mỗi sáng tinh sương
    Nhớ đôi cành trúc vấn vương bên thềm
    Lưng trời nhớ một cánh chim?
    Mãi sau đó khá lâu, một hôm ông có dịp sực nghĩ đến giọt nước mắt của Loan trong bữa điểm tâm cuối cùng. Trong một thoáng, tự dưng ông tưởng thấy rõ cả cái lý do, như thoắt ?ongộ? sự thực tròn vẹn. Lý do là cái tiếng ?okinh khủng?... Đó là một thói quen của ông. Ông thường nói: ?oDại kinh khủng. Hay kinh khủng. Rắc rối kinh khủng?... Hôm đó ông vừa kêu ?oMệt kinh khủng? thì Loan cười. Nàng cười một thói quen. Rồi lại nghĩ rằng từ đây nàng sẽ chẳng bao giờ còn nghe ?okinh khủng? nữa, chẳng còn gần gũi với cái thói quen hàng ngày ấy của ông nữa, nàng khóc lúc nào không hay. Một thói quen ngộ nghĩnh, chẳng đâu vào đâu, nhưng nghĩ rằng nàng sẽ mất nó mãi mãi, cho nên cuối tiếng cười có những giọt nước mắt.

    Một cuộc chung sống mấy tháng rồi tan rã đã lâu thỉnh thoảng còn hắt về một tiếng chuông mơ hồ như thế. Và ở Sóc Trăng chắc chắn một đôi khi ở chỗ người qua kẻ lại, ở một góc đường, một quán nước, đâu đó chợt thoáng nghe hai tiếng ?okinh khủng? Loan cũng ngẩn người ra bồi hồi.
    Hơi hướng một cuộc tình đã dai dẳng, ông nghĩ đến cái hơi hướng của cuộc đời. Của cả cuộc đời.
    Mai kia, ông ra đi khỏi cõi đời này, chắc đâu cái hơi hướng của nó không đeo đuổi? Ba tấc đất đâu đã thực là đủ sâu? Trong nghĩa trang, những khu nghĩa trang với đồi cỏ xanh mướt, cây xanh mơn mởn, mười giờ lũ chim sẻ, chim quành quạch kêu tíu tít, kêu rối cả lên, và nắng thì chan hòa, những khu nghĩa trang đô thị nằm ngay cạnh các con lộ rộn ràng, sát kề cuộc sống náo nức, trong những khu nghĩa trang như thế làm sao yên được giấc nghìn thu! Khó đa. Cuộc đời còn inh ỏi hơn một tình nhân. Dĩ nhiên ông không muốn nhớ, nhưng không nhớ mà được sao? Một tiếng còi xe, một tiếng gọi la trong vắt của đứa bé ở một góc phố..., những cái ấy hắt lọt xuống lòng huyệt vào nửa buổi mai huy hoàng, nó làm kinh động giấc nghìn thu đến chừng nào. Không nhớ Cuộc Đời, không nhớ ?omình? mà được sao? Mình réo gọi, mình hút ta lên từ đáy mộ mỗi buổi mai mười giờ chứ lị. Những inh ỏi của trần gian, chao ôi!
    ?oMình ?ovề? mình nhớ ta chăng?
    ?" Nhớ mình? Không nhớ được răng hả mình?
    Ba tấc đất, biết bao tình
    Mười giờ mình vỗ rập rình nắp săng
    Mình xua gió thổi mây giăng
    Mình tung ánh nắng vang vang khắp trời
    Mình rung chuyển đất lay đồi...
    Mai kia rồi nữa ta rời xa nhau
    Nhớ mình không nhớ được sao??

    Ông lẩm nhẩm trong trí mấy câu sau cùng, rồi đứng lên, bước ra sau vườn, nhìn bâng quơ: đàn sáo đậu trên dây điện đã bay đâu mất cả. Ông nhìn mông lên trời xanh trống không một lát rồi quay vào nhà.
    Mười giờ, ông bỗng dưng như thể một kẻ lểnh lảng: ở trong nhà thì nghe như có tiếng réo gọi đâu đó xa xa, tung cửa ra ngoài không thấy ai, không thấy gì cả. Trông bên nọ ngóng bên kia dáo dác một lúc, cảm thấy tưng hửng, bèn quay vào.
    Quay vào, thì nghe réo gọi bên ngoài. Văng vẳng, mơ hồ, mà khẩn trương, hối hả. Thoạt tiên mình còn ngờ vực lấy mình, về sau càng lúc càng nhốn nháo cả ruột gan. Tiếng gọi thiết tha quá, cấp bách quá, không sao không đáp ứng được. Lại tung cửa chạy ra. Và nhìn xuôi trông ngược vẫn chẳng có gì. Chỉ có ngọn gió vừa lướt qua. Chỉ có cây gồi già đội một mảng mây trắng to tướng đứng trân trên ngọn đồi...
    Như vậy là chẳng có gì? ?" Lẽ đâu thế? Tiếng réo gọi mơ hồ nhưng không thể chối cãi. Sự Sống đó. Tiếng réo gọi của Sự Sống đó mà. Từ nơi cùng thẳm hư vô, nó gọi ta. Cái lanh lảnh trong một tiếng trẻ con, cái rào rào trong gió lá; một cánh **** chập chờn, một cành tre dưới nắng: Nó đấy. Nó cả đấy. Nó xa xôi tận cùng thẳm mà cũng gần gũi trong gang tấc. Sự Sống đó. Tiếng gọi của Sự Sống nhiệm màu. Tiếng gọi của Trời Đất đó. Của Vũ Trụ Càn Khôn mịt mờ ảo huyễn mà quyến rũ mê hoặc khôn lường đó.
    Rồi mai kia:
    ?oNhớ mình không nhớ được sao??
    Hết
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    VÕ KỲ ĐIỀN​

    RÊU PHONG MẤY LỚP​
    Đình thụ bất tri nhơn khứ tận,
    Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa.



    Sáng hôm nay ông Năm nhấp nhỏm ngồi đứng không yên. Hết ngồi xuống lại đứng lên. Ông bước chầm chậm lại gần cửa kiếng lớn phía sau nhà, nghiêng mình nhìn xéo qua cái hàn thử biểu để ngoài trời. Ông nhướng mắt rán nhìn cái màu đỏ của thuỷ ngân, coi nó lên xuống tới mức nào. Có thấy gì đâu, cái lằn đỏ nhỏ xíu, lờ mờ. Tức mình ông lẩm bẩm, cằn nhằn cái thằng con trai út, đã biểu gắn sát sát bên trong cho dễ đọc, để tuốt đằng xa ai mà thấy. Cái xứ gì, thiệt tình! Lạnh gì mà lạnh dữ, hổng biết xuống tới bao nhiêu độ rồi !

    Nói xong ông đứng áp lại gần cánh cửa để nhìn cho rõ hơn. Cánh tay trái đụng phải khung cửa nhôm lạnh ngắt như một khối nước đá, ông rút tay về, quay lại chậm chạp từng bước, từng bước trở về ngồi trên chiếc ghế thấp. Cặp mắt hấp háy nhìn ra ngoài bầu trời xám xịt. Ông thấy cái sân cỏ xanh đã trở thành một bãi tuyết trắng mênh mông. Có chỗ phẳng phiu trắng xoá, có chỗ được xe xúc tuyết ủi gò cao lên như những đụn cát. Cây cối biến đi đâu mất tiêu hết. Mấy bụi hồng bông đỏ như nhung, mấy bụi mẫu đơn bông lớn bằng cái chén kiểu màu trắng màu hường, cái hàng rào bằng cây trắc bá diệp cao cả thước xanh um của mùa hè vừa qua, tất cả hiện giờ bị chôn vùi dưới những đống tuyết.

    Ở bên kia rào tu viện, chỉ còn sót lại duy nhứt một gốc bạch dương to lớn sừng sững, chơ vơ một mình giữa đám tuyết trắng quạnh hiu, đưa những cành khô thêu lêu lên trời. Bên ngoài gió hú từng cơn, tiếng nghe vù vù như có đoàn xe chạy hết tốc lực. Từng lọn tuyết trắng đổ xuống, hột bay ngang, hột bay dọc, hột quay cuộn tròn, lấm tấm bay đầy trời như có ai đó cắc cớ tung một thúng lông ngỗng ra trước gió. Tuyết đã rơi đều đều như vậy từ giữa đêm qua cho tới sáng nay, liên tục không dứt. Chỗ nào cũng một màu thạch cao trắng bạch. Ngồi chưa yên chỗ, ông lại đứng lên đi về phía trước, mắt ngước nhìn cái mái nhà ở phía bên kia sân đã bị tuyết phủ đầy, miệng láp dáp:
    - Cái điệu nầy có nước sập nhà. Đồ cái thứ tiền chế, làm bằng cây thông bở rệu với vách bằng cạc tông nhét bông gòn, làm sao chịu nổi...làm sao chịu nổi...
    Ông thở dài rồi nhìn trời, dáng lo lắng, rồi ngồi xuống:
    -Nó mà rơi hoài rơi hũy như vầy, chắc phải sập. Cả nửa thước tuyết đè trên nóc, nặng lắm chớ! Cái xứ nói là văn minh, kỹ nghệ tiến bộ, mà sao kỳ cục quá! Nhà cửa phải làm cho kỹ kỹ chớ. Tại sao không chịu xây cất cho nó đàng hoàng một chút. Tuyết mà rớt thêm chừng vài giờ nữa thì thế nào cũng sập...
    Bà Năm dáng người nhỏ nhắn, đang chăm chú theo dõi chương trình ti-vi, chừng như không chịu nổi nữa, bèn cự nự:
    -Ừ, ừ, sập đâu sập phứt cho rồi. Hồi sáng mơi tới giờ, nghe ông nói tới nói lui, tôâi mệt quá !
    Ông Năm biết là vợ trả lời mình nhưng không rõ bà nói gì. Cái lỗ tai đã nghểng ngảng đâu từ mấy năm về trước, tuy có đeo máy nghe nhưng khi tỏ khi không. Ông đưa tay phải lên điều chỉnh cái nút phát âm gắn sát vành tai, miệng hỏi:
    -Bà nói cái gì vậy, tôi nghe không rõ ?
    Bà gằn giọng. Tuổi đã quá già nên khi nói tiếng run run, cái đầu lắc lắc:
    -Hổng có nói cái gì hết á !
    Rồi như chừng chưa hết cơn bực bội, bà tiếp:
    -Mùa đông ở đây thì có tuyết, chớ có gì lạ đâu mà ông cứ nói hoài, nói hoài !
    Ông bèn phân trần, giọng nói thều thào, lẫn trong tiếng xệu xạo của hàm răng giả:
    -Thì bà cũng phải để cho tôi nói chớ. Bà coi nè, từ đầu hôm cho tới giờ, ổng cứ rớt hoài, rớt hoài, hột nào hột nấy lớn bằng ngón chưn cái... Cái mái nhà bằng cạc tông làm sao chịu nổi. Bê tông cốt sắt còn chưa chắc, nói gì tới nhà tiền chế. Tôi nói mà, thế nào cũng sập!
    Bà Năm hứ một tiếng rồi xây lưng qua coi ti-vi, không thèm nghe. Ông tiếp tục lẩm bẩm một mình:
    - Gió lớn quá. Ở gần Bắc Cực nên thổi mạnh dữ. Tại có gió nên tuyết rơi mới nhiều. Mà nó rơi nhiều thì nó chất đầy trên mái nhà. Trời ơi ! nguy quá, cái điệu nầy... Phải chi xây bằng bê tông cốt sắt.
    Ông e bà vợ cự nự nữa, nên chỉ dám nói tới đây thì ngừng ngang, cái điệp khúc "thế nào cũng sập" bị bỏ dở nửa chừng. Nếu không có bà Năm ở đó mà là thằng tư, thằng sáu hay thằng út, những đứa con trai ở gần gũi, thì ông sẽ tiếp tục một cái điệp khúc khác, có thay đổi chút đỉnh. Nhà mình ở Việt Nam cất bằng bê tông cốt sắt chắc lắm, tao tính ít ra phải ở được năm ba trăm năm, mối mọt mưa nắng gì cũng không sợ. Mỗi lần nhắc tới câu "cái nhà mình" ông Năm nhìn ra xa, tuốt trên ngọn bạch dương, lên tận đám mây trắng xám trên trời, cặp mắt đờ đẫn, ngẩn ngơ. Trong tròng đen lờ mờ, hình như có vương một làn lệ mỏng. Không phải ông khóc đâu. Đã trên tám mươi tuổi rồi, tuyến nước mắt hầu như cạn khô. Trong đầu ông hình ảnh căn nhà vuông vuông, xinh xắn hiện ra, rõ ràng từng nét. Căn nhà mà ông đã gom góp công sức, tiền của, mồ hôi, nước mắt, suốt đời cực nhọc mới thực hiện được. Nó không đồ sộ, nguy nga, lớn lao gì nhưng nó là của ông. "Nhà mình" ôi ! hai cái chữ tầm thường đó có tác dụng như nhát búa đập mạnh vào tim vào óc, ông nghe như tê liệt toàn thân. Ông đứng lên hết muốn nổi, ngồi bệt xuống ghế. Trong đầu ông, không còn gì để đáng nhớ. Mặc kệ mùa đông Canada với gió bão lạnh lẽo gào thét bên ngoài cửa kiếng, mặc kệ cây bạch dương chết cóng đứng run rẩy ngoài sân tu viện quạnh hiu, mặc kệ những đụn tuyết lem luốc, cao ngùn ngụt bên kia vệ đường, mặc kệ những cây cối, bông hoa rữa mục bị chôn vùi, ông quên quên hết. Chỉ còn một hình ảnh duy nhứt mà ông nhớ rất rõ. Rất rõ, từng nét. Cái hình ảnh "căn nhà mình" hiện lên với từng góc cạnh. Những cục đá nghiêng, những viên gạch bể, những lằn nứt nẻ, răn reo ở góc tường, những ổ cắm điện cháy đen, những vòi nước rỉ, những vết loang mốc meo trên trần nhà mưa dột ... ông làm sao quên. Chính tay ông tạo ra nó mà, cũng chính tay ông sửa chữa mà.. Trong cơn mơ mơ, màng màng ông chợt tỉnh, lò dò, đứng dậy đi vô phòng, cái lưng còng xuống, cái chưn bước thật chậm.
    Ông đưa tay run run mở cánh cửa. Có tiếng đồ vật va chạm, tiếng lục lọi giấy tờ, sổ sách. Hồi lâu, có tiếng ông hỏi vọng ra:
    -Hôm đi ra Tân Sơn Nhứt, cái xấp hình tôi soạn cất trong cái hộp sắt tây, tụi nhỏ nó dẹp đâu rồi, tôi không thấy ! Coi chừng mất hết đa !
    -Làm sao mà mất được. Ông để đâu thì còn ở đó. Tụi nó đâu có lấy làm gì mấy tấm hình cũ xì, đen thui !
    Tiếp theo, bà bèn bình luận :
    - Cái gì của ông cũng quí hết ! Thử đem liệng ngoài đường suốt ngày coi có ai thèm lượm không ?
    Nghe vợ nói, ông tức mình cãi lại:
    -Ai mà dại gì liệng bậy liệng bạ vậy bà ! Từ Việt Nam tôi cắc ca cắc củm đem qua đây có bao nhiêu đó ! Làm mất của tôi là không được đa!
    Bà Năm lùng thùng trong cái áo ấâm bằng len xám dầy mo, đứng dậy vói tay tắt ti-vi, xỏ chưn vô đôi dép nhung đỏ bầm, lê bước lẹp xẹp vô phòng bên cạnh, miệng hỏi vói:
    -Để tôi vô kiếm lại thử coi tụi nó có dẹp ở đâu không! Mà ông muốn kiếm tấm hình nào?
    Ông Năm rán nói lớn để cho vợ nghe:
    -Thì cái hình chụp "căn nhà mình" đó, tôi muốn coi lại một chút!
    Rồi ông chép miệng thở dài:
    -Tính ra mình đi được vừa đúng một năm. Không biết bây giờ ở bển ra sao rồi! Mấy chậu kiểng không ai tưới, chắc chết khô hết !... Ờ, ờ, bây giờ đang mùa đông, còn một tuần nữa là tới Tết. Cây mai ngoài sân...rồi ai lặt lá...để cho nó ra bông đây ?

    *
    Cái mặt trời ban sáng còn lấp ló trong mây, chưa lên khỏi nóc nhà ở phía bên kia đường. Cảnh vật còn nhập nhoà tranh tối tranh sáng. Trên các ngọn cỏ bên đường còn mờ mờ sương đọng. Các căn nhà ở hai dãy phố chợ Bình Dương vẫn còn đóng cửa im lìm. Trên đường đã có người gánh hành ra chợ bán, những gánh khoai nặng trĩu, những gánh rau cải, xanh um, tươi mát. Vài chiếc xe ngựa chở đầy bạn hàng máng đầy những gióng gánh ngổn ngang, móng sắt nhịp lọc cọc, lọc cọc trên mặt đường nhựa đen. Tiếng người nói chuyện, tiếng guốc, tiếng dép, tiếng xe kéo...vang vang trong trong cái im mát của buổi sáng. Sau một giấc ngủ ngắn, phố xá tỉnh lỵ bắt đầu vươn mình trở lại cái sinh hoạt ồn ào hàng ngày.
    Trong nhà ông, bà Năm đã thức sớm hơn thường lệ. Ông đi ra đi vô, coi đồng hồ, miệng thúc giục:
    -Coi chừng loay hoay, trễ hết ngày giờ. Ông thầy đã dặn đi dặn lại, tuổi tôi với tuổi bà, năm nay mà cất nhà thì phải cúng vào giờ Thìn, để qua giờ khác là xấu lắm. Cả năm nay chỉ có được ngày nầy là tốt thôi. Qua cái giờ đó là phải chờ năm tới !
    Rồi ông thúc hối:
    -Mấy đứa nhỏ chuẩn bị nhang đèn, bông hoa đủ chưa ?
    Trong bếp tiếng nước sôi rì rào, tiếng dao chặt thịt lụp cụp, tiếng dĩa chén chạm nhau, mùi cà phê bốc lên ngào ngạt. Có tiếng bà Năm nói với con gái:
    -Con luộc cho má miếng thịt ba rọi để trong dĩa, nhớ bỏ luôn cái hột vịt theo. Còn tôm thì để khi gần xong chỉ cần nhúng vô cho chín rồi lấy ra liền... Cúng thần thánh phải đủ bộ tam sênh mới được.
    Quay qua thằng con trai lớn, bà dặn:
    -Con đi lấy cái lục bình, rửa sạch để cắm bông cúng. Mà, giờ Thìn là mấy giờ vậy ông ?
    Ông Năm lẩm bẩm:
    -Giờ Thìn, giờ Thìn...một giờ của Tàu là hai giờ của Tây... Ừ, ừ, dễ mà ! Giờ Ngọ là mười hai giờ trưa. Mình tính trở ngược lại, Thìn, Tỵ , Ngọ.... vậy là đúng tám giờ sáng.
    -Tới tám giờ sáng lận hả ! Phần tôi coi như xong rồi. Thôi, ông lo mặc quần áo, khăn nón đi là vừa... Nhớ khấn vái cho kỹ. Thằng tư với thằng sáu, hai đứa bây khiêng cái bàn qua bên đất, để ở chính giửa, rồi bày biện đồ để cúng. Hôm nay cúng đất đai dương trạch để cất nhà mới. Phải thành tâm kỹ càng nghe con...thì mới ăn ở bình yên, làm ăn khá giả. Nhứt là tao mong cho nó vững bền... để lại tới đời tụi bây, rồi tới đời con tụi bây...
    Thằng tư cười khì khì:
    -Má lo xa chi cho mệt vậy. Bền vững chắc chắn thì có ông kiến trúc sư tính kỹ rồi, má ơi ! Còn muốn hoà thuận, yên vui thì tụi nầy không oánh lộn nữa, vậy là huề.... Thôi khỏi cúng, mắc công quá mà. Cái bàn làm bằng thứ cây gì mà nặng quá sức, khiêng muốn cụp xương sống đây nè !
    -Cái thằng làm biếng nhớt thây, ăn nói tầm bậy tầm bạ hết sức, hổng nên nghe con, lẹ lẹ đi cho kịp giờ. Ba mầy đóng bộ xong hết rồi kìa...
    Ông Năm đi rảo một vòng, nhìn miếng đất trống phẳng phiu, quang đảng, trong bụng vừa ý hết sức. Phía trước mặt là công viên thành phố, khoảng khoác, xinh xắn. Phía sau hơi xa là một dãy đồi cao, thấp thoáng qua các rặng cây sao, cây dầu cao vút, là nóc toà hành chánh với dinh tỉnh trường lờ mờ... Y như cảnh núi Khu Tượng, nơi mà ông đã sống qua thời thanh xuân. Ông " đụng " bà Năm ở đó, rồi sanh được ba đứa con đầu lòng ở bên bờ sông Dương Đông. Đảo Phú Quốc ở vịnh Xiêm La, cái hòn đảo nhỏ, bốn bề sóng vổ rì rào. Tụi nhỏ đã hít thở cái không khí nồng mặn của muối, đen đủi phong sương giữa nắng gió trùng dương. Quanh nhà toàn là những thân dừa cong vẹo, ngả nghiêng, tàu lá xơ rơ vì gió bão. Cái giếng nước phía sau đỏ lờ lợ vì nước rể dừa tiết ra. Những ngày mưa dai dẳng nhìn lên dãy Khu Tượng thấy dạng núi lờ mờ trong sương khói, giống như hình con voi nằm phục. Trước là đầu voi với cái vòi cong vòng, sau là đuôi voi với hai chưn sau quỳ xuống, cái lưng mập phình ra mà dài. Trên đó người ta làm rẫy, trồng tiêu với trồng sầu riêng... Đất đai trù phú, phong thổ phì nhiêu, đẹp đẽ như vậy, vì thời cuộc ông phải đành đoạn bỏ hết mà đi.
    Bây giờ về đây cư ngụ, ông phải gầy dựng lại tất cả với hai bàn tay trắng. Đất cũ đãi người mới. Ông lời hơn vì có được thêm năm đứa con nữa. Thôi, đời ông vậy là yên nơi yên chốn rồi, không phải đi đâu nữa. Nhứt định ở luôn tại cái tỉnh nhỏ nầy. Ông phải tiện tặn, dành dụm, làm việc siêng năng, để mong cất được một căn nhà làm cái tổ ấm cho gia đình. Phòng của ông bà ở chính giửa, tám phòng của tám đứa con phải ở chung quanh, để tụi nó lúc nào cũng quây quần, xum họp bên ông. Bàn thờ của tổ tiên dòng họ ở trên lầu. Con cháu ông sẽ nối tiếp cái công trình nầy dài lâu một trăm năm, hai trăm năm...

    Ông mỉm cười tươi tỉnh, trang nghiêm, bật hộp quẹt, đốt đèn cầy, cắm trên hai cái chưn bên lư hương bằng đồng sáng trưng. Ông đưa tay lấy bó nhang mới, xé bao lấy ra ba cây. Thật khoan thai, ông châm vào ngọn lửa. Mùi nhang trầm thơm, toả ra, quyện vào mùi long não hăng hắc của chiếc áo dài đen nổi bông hình chữ thọ, cái khăn đóng bằng sa mỏng, vấn thành nhiều vòng vừa lấy ra trong tủ áo. Nắng đã chiếu sáng cả khu đất trống. Từng tia nắng vàng chanh quét trên đám cỏ dại um tùm, mùi đất hăng hăng. Ông thoáng thấy chú hai Lung, người cai thầu và đám thợ vừa tới. Xe cộ, dụng cụ ngổn ngang, nào xẻng cuốc, nào dây nhợ, người ta chất đầy chật cả lối đi. Mặt tươi tỉnh hy vọng, ông cầm nhang chắp hai tay lên đầu, miệng khấn lâm râm:
    -Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật.... Nay tôi khấn đất nước ông bà trong kiểng sở làng Phú Cường nầy, gồm Thổ Công, Thổ Trạch, Thổ Địa, Thổ Thần, Chúa Xứ, Sơn Thần, Thuỷ Thần...
    Vái tới đây tự nhiên ông thấy lằn khói nhang xám trắng đương bốc vươn lên cao, bỗng cuộn tròn rồi tạt ngang. Một luồng gió ở đâu đó thổi qua lạnh ngắt, ngọn đèn cầy nhỏ lại lờ mờ như muốn tắt. Ông sợ quá, khom lòng bàn tay che gió. E rằng chưa đủ, ông kêu lên:
    -Chú hai, chú hai gió lớn quá, lại phụ tôi một tay!

  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Chú hai Lung chạy lại, đứng chắn lấy làn gió nghịch. Ngọn đèn từ từ lớn hơn và sáng tỏ trở lại. Ông Năm bình tâm khấn tiếp:
    -Tôi vái tất cả năm vị ngũ hành Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đông phương Giáp Ất Mộc, Nam phương Bính Đinh Hoả, Trung ương Mồ Kỷ Thổ, Tây phương Canh Tân Kim, Bắc phương Nhâm Quí Thuỷ, tám vị bát quái Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài... Quí ông thực như phong, hành như võ...
    Câu khấn vái dài quá, ông ngừng lại một hơi để thở. Cả không gian chung quanh, ông quên quên hết. Trong đầu chỉ còn một niềm thành kính vô biên. Sau câu khấn, trong ánh sáng lung linh của cặp nến đỏ, mùi trầm ngào ngạt của khói hương, ông như cảm thấy tất cả những vị thần linh mà ông vừa nhắc, tề tựu đông đủ. Có người mặt đỏ, người mặt đen, mặt trắng, mặt xanh, với áo bào, mũ mãng sặc sỡ, uy nghi. Tất cả tọa ngự ở trên bàn thờ, nhìn xuống ông yêu thương triều mến, dáng vẻ sẵn lòng bảo hộ, giúp đỡ, lắng nghe lời cầu nguyện. Ông sung sướng quá, rán mà nhớ những điều mong ước hầu nói lên hết cho đủ. Các vị nầy sẽ giúp ông cho được như ý... Ông lâm râm khấn tiếp, giọng rõ ràng hơn:
    -Ngũ hành phân bát quái, tám hướng định quân thần. Hoả Thần làm chủ tể, ấm lạnh nhờ ông. Nay tôi xin phép để cất một cái nhà trên miếng đất nầy, để cho vợ chồng tôi, cùng mấy đứa con ở, làm ăn bình yên mạnh giỏi...
    Khấn tới đây, ông bỗng nhớ tới lời bà Năm dặn dò, ông lập lại:
    -Cho vợ chồng tôi cùng mấy đứa con, rồi mấy đứa cháu, ...rồi tới cháu của cháu tôi, nối tiếp hoài hoài... không dứt... được ăn ở bình yên mạnh giỏi, vô tai tịnh sự, điều lành đem tới, điều dữ lánh xa, quan thương dân chuộng, kẻ yêu người trọng, tà ma kinh khiếp, quỉ mị kiêng oai...
    Khấn tới đây, ông thấy đã là quá đủ, không nên đòi hỏi xin xỏ nhiều hơn nữa. Cũng như mọi người, ông cũng mong ước được giàu sang, phú quí, con cái hiển đạt, làm quan làm quyền... Nhưng ông nghĩ cúng kiếng với thần linh, cầu được bình yên mạnh khoẻ là quá đáng rồi, không nên để thần thánh khi dễ vì mình quá tham lam. Ông bèn xá ba xá, cắm nhang vô một cái ly nhỏ đựng đầy gạo trắng. Ông lùi ra sau vài bước, phủ phục xuống lạy ba lạy. Không gian như lắng đọng xung quanh. Tim ông đập manh hơn bình thường. Hai lòng bàn tay ông ướt đẫm mồ hôi. Ông sung sướng trong niềm xúc động bồi hồi. Ánh nắng vàng tươi sáng rờ rỡ, chan hoàø trên mọi lối. Nhìn lên bàn thờ ông thấy các thần thánh cùng ông bà tổ tiên trong dòng họ như nhìn ông mỉm cười, gật đầu chấp nhận lời khấn nguyện.

    Năm nay ông vừa đúng năm mươi tuổi, cái tuổi mà Đức Khổng Tử cho là biết được mạng trời. Trời quả đã thương ông thiệt tình! Cha mẹ mất sớm, lăn lóc ra đời trong lứa tuổi còn nhỏ xíu, ông đã trải qua biết bao nhiêu cay đắng và khổ nhục. Con đã đông mà nhà lại nghèo, ông và vợ lo trong lo ngoài, tiện tặn dành dụm, mãi cho tới nay mới đủ tiền cất một cái nhà để ở. Cái nhà ước mong của cả một đời người... Ừ, phải, cả một đời người !
    Ông đứng dậy mặt sáng rạng rỡ. Quay qua người cai thầu, ông nói:
    -Chú hai, chú hai ! chú cũng nên khấn với quí vị thần hoàng bổn thổ để cho công việc xây cất trôi chảy, thợ thuyền được phò hộ bình yên!
    Chú hai Lung nghiêm trang gật đầu, đứng vào chiếu đốt nhang, cung kính. Ông Năm bước ra phía ngoài đường cái, đứng bên cây cột đèn, nhìn trở vô coi đám thợ đương đóng cọc giăng dây để đào móng. Bà Năm đứng kế đó, gặp ông bèn hỏi:
    -Ông khấn vái cúng kiếng xong hết rồi hả ?
    -Ừ, ừ, xong rồi, đủ hết !
    Bà mỉm cười, mãn nguyện sung sướng. Bất thình lình bà nghĩ tới một chuyện thế nào ông cũng không để ý, lo quá bà níu lấy tay áo dài của ông:
    -Ông có trình với quí vị ông tên gì, mấy tuổi, cư ngụ ở đâu không ?
    Ông Năm vỗ trán bối rối, kêu lên:
    -Thôi rồi, lo nói đủ thứ chuyện mà quên mất việc trình tên trình tuổi, tôi không có nói chỗ đó !
    Bà Năm dậm cẳng cằn nhằn:
    -Có bao nhiêu đó mà cũng quên, rồi làm sao mấy ổng biết ai mà phù hộ. Thành ra mấy lời khấn vái kể như bỏ. Công trình mẹ con tôi cực khổ từ khuya cho tới giờ...
    Ông Năm thất vọng, buông xuôi hai tay, không nói không rằng, đứng nhìn xe cộ người ta xuôi ngược trên đường. Hồi lâu, ông quay qua nói như an ủi bà nhưng thiệt ra là cho ông:
    -Chắc không sao đâu bà. Thần thánh linh thiêng, các ngài biết hết. Tôi có nói xin phép cất nhà cho cả gia đình tôi ở... Mấy ổng phải biết tôi là ai chớ, nếu không biết sao gọi là thần, bà khỏi lo. Bà thấy tôi nói có đúng không ?
    -Không đúng cũng phải đúng. Ông nói cái gì cũng phải hết. Tôi cãi đâu có lại ông. Mà ông có nhớ khấn xin ở cho được lâu, thiệt lâu không ?
    Mặt ông Năm tươi rói:
    -Có chớ, không có sao được. Tôi nói chỗ đó rõ lắm mà, tới hai lần. Tôi cầu cho cả gia đình ăn ở mạnh giỏi, tới đời con, đời cháu, đời chắt, đời chít... Bà yên tâm đi !
    *
    Ông Năm sau khi cầm tấm hình cái nhà vừa lục lọi ra được, trở về ngồi trên cái ghế nệm. Bên ngoài bão tuyết vẫn thổi rào rào, những hột tuyết tròn bay tung đầy trời. Ông có sá gì cái mực thuỷ ngân lên hay xuống tới bao nhiêu đâu. Bây giờ trong đầu ông là cái miếng đất với căn nhà ở đó có nắng ấm, có cây cối xanh tươi, có cả một đoạn đời dài mà ông đã sống qua. Ông thương yêu nó biết bao nhiêu. Vậy mà phải bỏ đi đành đoạn. Ông phải làm đơn để xin hiến cho nhà nước... Căn nhà mà ông ước mong lâu bền tới đời con, đời cháu, đời chắt, đời chít, được chú hai Lung cất bằng bê tông cốt sắt, bây giờ nó chỉ còn lại có chút xíu, nhẹ hửng. Nó còn lại trong tấm hình nhỏ bằng bàn tay, màu đen trắng loang lổ, vàng ố, lờ mờ. Ông chỉ thấy được cái mặt tiền với hai cái khung cửa sắt kéo nặng nề, cái lan can trên lầu có để con voi với chậu bông sứ Thái Lan. Còn phía sau với khu vườn có cây nhãn, cây mận, cái cổng sắt kiên cố cùng bụi tre ngà, ông không thấy gì hết. Ông rán hỏi vói qua phía trước:
    -Bà ơi! Hôm trước thằng Hoàng mới qua được đây, có nói gì về cái nhà của mình không, bây giờ nó ra sao rồi ?
    Giọng bà Năm trả lời, chậm chạp nhè nhẹ:
    -Ờ, ờ, tôi quên nói với ông, bữa trước gặp nó, có hỏi thăm cái nhà. Nó nói bây giờ người ta lấy làm Hợp Tác Xả than cũi, nước mắm, dầu hôi, tèm lem tuốc luốc lắm !
    Ông Năm kêu trời, than nho nhỏ:
    -Rồi mấy cây nhãn, cây mận của tôi ? Còn cây mai già giữa sân nữa ?
    Bà Năm tiếp tục nói, giọng bình thản:
    -Cái vườn phía sau họ chặt trụi lũi hết, làm chỗ đậu xe cam nhông, bụi đất mù trời. Tụi tài xế bộ đội phóng uế bừa bãi, bà con lối xóm bực mình lắm mà không ai dám nói gì.
    Ông Năm ngồi dán người xuống ghế, lỗ tai lùng bùng. Ông thấy những biểu ngữ giăng giăng, những rừng cờ đỏ sắt máu, những đoàn người mặt đầy hận thù tràn vào tỉnh lỵ, tiếng nhạc đập đùng đùng chói tai. Ông thấy rất rõ những đứa con ông, những đứa cháu ông lần lượt bị bắt giam. Ông thấy tận mắt người ta bị bắt giết, đánh đập, giam cầm... Ông thấy những cảnh chia ly, đầy đọa, tang tóc, khổ đau. Ông thấy được những việc, những người mà cả đời chưa bao giờ được thấy qua. Tất cả đều quá lạ lùng, không thể nghĩ đến nổi. Xã hội mới, đất nước đổi mới là vậy đó sao ? Ông có quá lỗi thời, cũ kỹ, già nua ? Cái nhà bê tông cốt sắt trong đầu quay mòng mòng, tấm hình trong tay rơi xuống đất nhẹ đến nổi không nghe tiếng. Bên tai, ông nghe tiếng vợ móm mém, nói văng vẳng khi gần khi xa:
    - À, nó nói cái năm mà vợ chồng mình hiến nhà cho nhà nước để được đi đó, hồi chưa bị chặt thì cây mai trổ bông nhiều lắm, rụng vàng cả đường đi!
    Ông Năm bất động, hồi lâu tỉnh lại nói nho nhỏ:
    -Tại sao mình đi mà nó lại không biết, trổ bông chi cho nhiều vậy! Tại sao vậy ? Nó không biết thương tôi với bà sao mà... Hay là nó chưa biết nhà đã đổi chủ từ lâu !

    1987

  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phan Huy Đường​
    Bộ xương người trị giá một tỷ đôla​

    199x, Tổng thống Liên bang Hoa-kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Richard Steel, người giàu nhất nước Mỹ, kể như người giàu nhất thế giới, Nhà Tỷ-phú, nhẩy lên máy bay phản lực riêng, phóng qua thành phố Hồ Chí Minh, cầm đầu một bộ tham mưu đồ sộ, chí ít cũng hơn trăm mạng. Ông đã dành cho mình mọi phương tiện để thành công. Những người có ít nhiều khả năng phục vụ hữu hiệu mục tiêu của ông đều có mặt. Một mục tiêu không tưởng, chẳng khác chuyện vác đá vá trời : tìm bằng được John, con ông, đã mất tích từ năm 1972 trong một trận dội bom vĩ tuyến 17. John là con trai duy nhất của ông. Ông sẽ tìm nó. Ông sẽ mang hài cốt nó về Mỹ, như ông đã hứa với vợ khi bà lâm chung. Đứa nhỏ sẽ an nghỉ bên cạnh mẹ trong lăng mộ của gia tộc Steel. Nhà Tỷ-Phú đã quyết tâm, không có gì ngăn cản được. Suốt đời, ông chưa hề cho phép bất cứ ai, bất cứ điều gì bó tay ông. Ông là kẻ hiếu thắng. Ông luôn luôn thắng.
    Cả bộ tham mưu nín thinh. Như bị ý chí quyết liệt của Nhà Tỷ-phú thôi miên, mọi người đã làm việc cật lực. Nhưng chẳng ai tin chiến dịch này sẽ thành công. Nhà Tỷ-phú hớp cạn ly whisky :
    ?" Mọi chuyện cho ngày mai đã sẵn sàng chưa, đại tá Wood ?
    Đại tá chỉ huy bộ tổng tham mưu. Xưa kia, ông làm việc cho bộ quốc phòng, chuyên trách vấn đề tù binh và lính Mỹ biệt tích trong chiến tranh, lãnh đạo phái đoàn Mỹ trong tất cả những cuộc điều đình với chính phủ Việt Nam. Ông đã phân tích tỉ mỉ, từng cái một, bốn ngàn hồ sơ mà tụi Việt đã trao cho Mỹ trước khi Mỹ bãi bỏ cấm vận. Không hề có một dấu vết về John Steel. Nhà Tỷ-phú đã thuê ông để điều khiển toàn bộ chiến dịch.
    Đại tá càu nhàu :
    ?" Mọi sự đã xong, kho, nhà cửa, dụng cụ, hệ truyền thông. Tổng hành dinh đã sẵn sàng hoạt động từ một tuần nay. Ông có thể liên lạc trực tiếp với cả thế giới qua vệ tinh. Ông có thể theo sát mọi công việc tại trận. Bộ chỉ huy nằm trong một cánh của biệt thự. Quyển Thánh Kinh của bà đặt trên bàn thờ nhà nguyện, cạnh phòng ngủ của ông. Hôm qua, tôi đã kiểm soát lại mọi chuyện. Tất cả vẫn đâu vào đấy.
    ?" Thế còn chiến dịch quảng cáo ?
    ?" Sáng mai, đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí quốc gia và địa phương sẽ có mặt tại cuộc họp báo của ông. Khoảng gần nghìn người. Chúng ta đã mua một trăm ngày quảng cáo trên trang đầu của tất cả các báo, mua quyền phát tin hàng giờ trên rađiô, gửi thông điệp trên tivi mỗi tối, đúng giờ cao điểm. Chúng ta đã thuê tất cả những bảng quảng cáo trên đất nước này và dựng thêm khắp nơi. Không một ai có thể không biết tới lời cầu mua của chúng ta. Sáng mai, bắt đầu. Ông chỉ còn một chuyện phải làm, chọn người đàn bà phục vụ.
    Đại tá đưa cho Nhà Tỷ-phú một quyển an-bum :
    ?" Đã mua hết. Không ngại sida hay bệnh tật. Bác sĩ của ông đã khám xét tất cả. Họ đều còn trinh và lành mạnh. Người ông chọn sẽ được đưa tới biệt thự ngay tối nay. Cô ta sẽ không được ra khỏi nhà với bất cứ lý do nào. Biệt thự này được canh gác rất nghiêm ngặt.
    Nhà Tỷ-phú lướt mắt nhìn quyển an-bum. Quả nhiên, các cô gái đều trẻ đẹp. Ông không quan tấm lắm. Ông không ham mê nữ sắc, chỉ theo lệnh của bác sĩ, ******** mỗi ngày để bảo đảm sự cân bằng thể lực và tâm lý, thế thôi. Nhà Tỷ-phú liếc qua những lý lịch, ngừng lại trước cô con gái đầu tiên biết nói tiếng Anh lưu loát.
    Đại tá ho.
    ?" Ngừng lại lúc này vẫn còn kịp. Tôi không tin ý của ông. Tôi quản lý hồ sơ này hơn hai mươi năm rồi. Kế hoạch của ông thật là điên khùng? Khả năng thành cộng hoạ may là một phần triệu.
    ?" Ờ, tôi mua khả năng ấy. Tôi đã trích ra một tỷ đôla để mua nó. Tổng sản lượng quốc dân của nước này là 150$ một đầu người. Chúng ta dư tiền mua cái một phần triệu ấy. Tôi cho anh 100 ngày để tìm ra nó. Chúng ta sẽ thành công. Hãy dẹp đầu óc quan liêu đi, những đống hồ sơ, những toan tính chính trị, những chiến lược chiến thuật thật khôi hài tội nghiệp. Tôi không điều tra, tôi không điều đình, tôi hành động. Tôi mua. Lầu Năm Góc của các anh đã thất bại, nhưng tôi sẽ thành công.
    Sáng hôm sau, toàn bộ báo chí quốc gia và địa phương tụ lại trong phòng họp báo của Nhà Tỷ-phú. Nhà Tỷ-phú chẳng phải loại người nói suông, chịu mất thời giờ. Ông vào thẳng cốt lõi vấn đề :
    ?" Tôi đã dành một ngân sách một tỷ đôla để tìm con tôi, John Steel, phi công trong Không lực Hoa Kỳ, biệt tích trong trận đánh ngày 24 tháng 12 năm 1972 trên vĩ tuyết 17. Người nào giúp được tôi tìm lại nó hay hài cốt của nó, tôi cho người ấy làm triệu phú suốt đời. Tôi sẽ trọng thưởng mọi nguồn tin chính đáng. Ngoài ra, tôi mua 150$ tiền mặt tất cả những bộ xương hoang. Tôi nhấn mạnh, tất cả, bất kể là xương đàn ông, đàn bà hay trẻ con. Cứ tìm chúng, cứ mang tới cho tôi, tôi sẽ thanh toán sòng phẳng. Văn phòng chúng tôi sẽ mở cửa 24 giờ trên 24, đúng 100 ngày. Mọi người tới đó sẽ được đón tiếp tử tế.
    Và ông rời phòng họp.
    Tin loan đi như lửa bốc. Mỗi sáng, báo chí đều đang trên trang đầu chân dung của John Steel, kích thước, những nét đặc thù của chàng, địa chỉ, số điện thoại, số fax của Trung Tâm Tìm Kiếm, một bản đồ dẫn đường, những trạm xe ca trong các tỉnh lân cận, giờ xe lửa khởi hành, máy bay cất cánh? giá chẵn 150$ cho nguyên bộ xương, bảng giá lẻ cho từng khúc. Mỗi giờ, đài phát thanh lại loan bố tin cầu mua. Mỗi tối, đài truyền hình lại nhắc nhở. Nội một đêm, áp-phich phủ cà Hà Nội, Sàigòn, các tỉnh lẻ và ngay cả những làng mạc hẻo lánh. Một cái đầu lâu? 150$? một lời thầu? vang vọng triệu triệu lần trong cả nước. Người người tranh luận say sưa, từ Bộ chính trị ĐCS tới dân khố rách áo ôm trong những chòi nghèo nàn, kinh tởm nhất. Có người ủng hộ, có người chống. Chẳng ai nghĩ tới chuyện cấm đoán. Phải công nhận, đó là chuyện nhân đạo. Người Việt vốn biết thờ tổ tiên, tưởng niệm người chết, không thể ngăn cản việc này. Với lại, quan trọng hơn cả, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam lại gặp dịp may lớn thế. Một tỷ đôla đổi lấy một bộ xương ! Mà ai ai cũng có quyền thử lòng số phận, kẻ quyền lực cũng như dân đen. Chưa bao giờ người ta được hưởng công lý và dân chủ đến thế.
    Hôm đầu, không ai đến Trung Tâm.
    Hôm thứ hai, lúc đêm xuống, một gã khả nghi, tóc tai bù xù, mặt nấp sau bộ râu rậm rạp, lẻn vào phòng tiếp khách, một túi vải bẩn trên vai. Trong đó, có một bộ xương khá lớn. Hắn dốc túi vải, lĩnh 150$ thủ túi, và biến.
    Nhà Tỷ-phú ra lịnh xét nghiệm ngay bộ xương. Trong phòng thí nghiệm được đặc biệt xây cất cho việc ấy, Giáo sư Smith và đồng nghiệp có đầy đủ những dữ liệu, máy móc để xác nhận từng đốt xương của John. Ở đây, có tất cả những hình ảnh, những rađiô-X của John từ thuở sơ sinh tới ngày biệt tích. Hình dáng, kích thước của từng cái xướng đã được chụp ảnh, đo đếm, tính toán, và lưu trữ trong một căn cứ dữ liệu dưới dạng hình và dạng số. Một ống kính chụp ảnh bộ xương, rồi chuyển cho một định trình thông minh nhân tạo - chạy trên một máy tính vận động theo cấu trúc của mạng óc - xác định có khúc xương nào là của John Steel hay không.
    Giáo sư :
    ?" Không phải nó. Bộ xương này kể cũng lạ. Với hình dáng ấy, nó có thể là của một người Mỹ cũng như của một người Việt Nam. Theo máy tính là nửa này nửa nọ. Có lẽ là một thằng lai. Mình làm gì với nó bây giờ ?
    ?" Cứ để nó qua một bên. Đó là thằng đầu. Một thằng lính vô danh chân chính. Kiếm được John rồi, tôi sẽ tặng cho nó một ngôi mộ tại Hoa Thịnh Đốn xứng đáng với bi kịch của nó.
    Ngày thứ ba, một đám người rách rưới đến trước quầy. Họ đều được tiếp đón tử tế, trả tiền đàng hoàng đúng theo bảng giá đã cộng bố : 150$ cho một bộ xương nguyên vẹn, 10$ cho một cái sọ, 5$ cho xương chày? 10 xu cho những đốt xương nhỏ.
    Hệ thống phân loại do Đại tá thiết kế bắt đầu hoạt động, đổ xương đàn bà, trẻ con vào những kho riêng biệt. Xương đàn ông được nhập kho ngay cạnh sở chỉ huy, nối liền với phòng thí nghiệm bằng những toa xe tự động chạy trên đường rầy. Những con RôBô thông minh phân chia xương xẩu theo 214 loại xương người : xương sọ, xương sống, xương đòn, xương vai, xương cẳng tay? Rồi sàng lọc sơ bộ, xương Việt Nam đưa vào kho đồ phế thải, xương Mỹ đua qua máy điện tử để xem xét một lần cuối.
    Như trong các nước nghèo, thuật rỉ tai truyền miệng hữu hiệu kỳ diệu. Chưa hết một tuần mà thiên hạ đều biết rằng Nhà Tỷ-phú là người trọng tín, tiền trao cháo múc. Một biển người liền bu quanh Trung Tâm, người này mang tới một cái sọ, người nọ mang theo xương chày, xương sườn, xương bánh chè, xương trụ, xương đùi, một đốt xương tay? Chỉ việc tới quầy, trao xương dưới một máy ảnh, là có liền đôla thủ túi? Chỉ có xương chó, xương mèo, xương khỉ? mới bị trả lại.
    Từ khắp nơi những dòng người dài đằng đẵng đổ về Trung Tâm. Chưa bao giờ người ta lại quốc đất, đào non, bới rừng đến thế? Thỉnh thoảng, có đàn bà, trẻ con bị trúng mìn và bom nổ tung. Nhà Tỷ-phú bồi thường gia đình hậu hĩ, mua xương họ gấp đôi giá thường. Bới cả ký ức loài người cũng chưa bao giờ thấy được một mật độ xương người đặc như thế trên từng thước vuông đất. Có đủ thứ xưong, đàn ông đàn bà con nít phụ lão trẻ sơ sinh Việt Lào Khmer Thái-Lan Cao-Ly Úc Tân-Tây-Lan Pháp trắng đen vàng đỏ nâu, vượn cổ Úc châu? và vài khúc xương Mỹ. Nhà Tỷ-phú gửi xương người Tây Âu cho chính phủ nước họ, xương thiên cổ vào viện bảo tàng. Xương còn lại chất vào kho, đàn ông với đàn ông, đàn bà với đàn bà, phụ lão với phụ lão, trẻ sơ sinh với trẻ sơ sinh. Có xương rõ ràng còn mới, cạo rửa chưa sạch, còn dính sợi gân, mẩu thịt. Chẳng sao. Nhà Tỷ-phú không muốn làm bất cứ ai nản lòng, cứ trả tiền, không cãi cọ nửa lời.
    Một tháng sau, kho đã chật ních. Đại tá :
    ?" Làm sao bây giờ ? Ta chất chúng trong kho dành cho người Mỹ ?
    ?" Không được. Anh hãy mua những thửa ruộng quanh đây mà chất. Chúng ta làm đến đâu rồi ?
    ?" Hơn bốn trăm nghìn bộ.
    ?" Tuyệt. Vượt kế hoạch rồi đấy. Khả năng thành công của anh sẽ vượt tỷ lệ một phần triệu. Nếu khả năng ấy có thực, chúng ta sẽ chụp được nó.
    Những thửa ruộng tức khắc biến thành kho lộ thiên. Phương Bắc, đàn ông. Phương Nam, đàn bà. Phương Đông, con nít. Phương Tây, trẻ sơ sinh. Lúc đầu, chỉ là những ngọn đồi khiêm tốn.
    Ngày qua ngày, xương cốt rải rác trên đất Việt tuôn về Trung Tâm. Chẳng bao lâu, những ngọn đồi biến thành núi, thấy rõ từ xa hàng cây số. Hệ thống đường rầy chi chít nhanh chóng lan rộng. Bốn còn đường nhựa trắng láng từ Trung Tâm phóng tới chân trời. Bây giờ, đi vào Trung Tâm như đi miền núi, phải băng qua một hốc sâu giữa hai bức trường thành xương cốt.
    Một phóng viên đăng trên tờ New York Times bức hình công trường đồ sộ này dưới tựa : "Vì tình phụ tử, công trình ngông cuồng nhất của nhân loại". Vài ông triết gia già nua của Châu Âu già cỗi cất lời phản đối. Họ chẳng hiểu biết gì cả về kinh tế thị trường. Được đào tạo kỹ hơn, vài cậu triết gia trẻ cũng thuộc thế giới ấy đã khéo bình tới bình lui đúng theo chuẩn media. Vài nghệ sĩ Việt đã thất thanh tố cáo xì-căng-đan. Một dân biểu quốc hội cả gan đề nghị thành lập ban điều tra. Chính phủ Việt Nam hoảng hốt tuyên bố quanh co về Nhân Quyền, nghĩa vụ nhân bản. Nó chẳng thể không phản ứng, cũng chẳng thể làm hơn. Nhờ tỷ đôla nọ, cả tỉnh đã hết thất nghiệp. Cả nước cũng bớt đói.
    Đã tới hai phần ba kế hoạch. Đã bắt đầu thiếu đất để chất xương. Trên mấy héc-ta còn lại, Nhà Tỷ-phú sai cất lò hoả thiêu. Ông điều khiểu sát mọi công việc. Ngày nào ông cũng tham dự những đợt sàng lọc. Ông ít ăn, mỗi đêm chỉ ngủ non bốn tiếng. Ông làm việc không ngừng từ mờ sáng tới đêm. Sau mười giờ tối, ông mới nhường quyền cho Đại tá, trở về nhà. Ông tắm ào, ngốn một khúc bánh mì thịt, tu nửa chai whisky, ******** với người đàn bà phục dịch, rồi rút vào nhà nguyện, cầu Chúa, và tưởng niệm, giao cảm với vợ. Mỗi đêm, ông lại nhớ con. Một chàng trai trẻ thế, to lớn thế, đẹp thế, thông minh thế. Với cặp mắt xanh thế. Một cuộc đời đầy tương lai, đầy hứa hẹn như thế. Chỉ mới hôm qua, chưa đầy hai mươi năm. Từ ấy, đêm nào ông cũng đặt tay trên Thánh Kinh, thề tìm lại nó. Mỗi sáng, mới 4 giờ, ông đã có mặt ở phòng chỉ huy.
    Ngày thứ tám mươi, thủy triều xương cốt bắt đầu suy giảm. Tới ngày thứ chín mươi, nó cạn trông thấy. Những xương cũ càng lúc càng hiếm. Nhà Tỷ-phú càng chăm chú quan sát hơn. Không mệt mỏi, ông khuyến khích, cổ vũ, động viên người làm :
    ?" Nếu quả thực khả năng thành công là một phần triệu thì chính là ở lúc này.
    Ngày tiền định lần tới. Những kẻ bán xương càng lúc càng thưa. Mỗi ngày nhiều lắm còn được dăm chục. Họ mang đến những bộ xương mới toanh hay đã có ít nhất cả trăm năm. Ngày áp chót, chỉ còn một lão ăn mày mang tới quầy một ngón chân mới lóc sơ chút thịt. Nhân viên cho hắn mười xu cuối cùng còn lại trên số tiền một tỷ đôla.
    Đó là ngày thứ một trăm. Suốt ngày, không có ai tới. Ngồi trong ghế bành, Nhà Tỷ-phú nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường. Mũi kim lặng lẽ quay. Ráng chiều thiêu đốt văn phòng. Những tủ gỗ hồng rực ánh lửa. Đồng hồ báo hiệu ngày tàn. Nhà Tỷ-phú thở dài, đẩy lui ly whisky, đứng dậy.
    Ba tiếng gõ nhẹ vang lên trên cánh cửa. Người phiên dịch len vào văn phòng, bước nhẹ như bông :
    ?" Có một ông lão xin gặp ông chủ.
    ?" Cho ống ấy vài đôla và vứt xương của ông ấy vào một đống. Chiến dịch đã kết thúc rồi.
    ?" Ông ấy không có xương để bán. Ông chỉ muốn trao lại cho ông chủ cái này.
  5. tbm

    tbm Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2002
    Bài viết:
    1.226
    Đã được thích:
    0
    Hồi trước có dịch được 1 truyện ngắn chuối vật . ( Đây là truyện nước ngoài , nhét nhờ vào mục hải ngoại )
    http://evan.vnexpress.net/Functions/WorkContent/?CatID=2&TypeID=3&WorkID=382&MaxSub=382
    Được tbm sửa chữa / chuyển vào 02:40 ngày 22/09/2004
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Người phiên dịch xòe bàn tay đưa ra một gói nhung đen. Nhà Tỷ-phú nhặt lấy nó, chán nản. Ông hững hờ mở xem. Ông thấy một thánh giá bằng bạch kim, có một trái tim ngọc đỏ khảm ở giữa. Nhà Tỷ-phú rùng mình. Con trai ông đã chết. Nó chẳng thể nào chịu rời chiếc thánh giá này. Mẹ nó đã đặt mua cho lễ rửa tội của nó tại hiệu kim hoàn lớn nhất Paris. Nhà Tỷ-phú ngả mình xuống ghế bành, khẽ nói:
    ?" Ðưa người ấy vào.
    Ðó là một cụ già mảnh khảnh, mày tóc bạc phơ, chòm râu nhọn trắng phau, khẳng khiu trong bộ đồ nhà quê mầu đất đỏ Cao Nguyên, rộng thùng thình. Cụ chống gậy tre dịu dàng bước tới, dừng chân trước bàn giấy. Nhà Tỷ-phú dang tay mời ngồi. Cụ lắc đầu.
    ?" Ông tìm thấy thánh giá này ở đâu?
    ?" Nó là của tôi.
    ?" Ông biết con trai tôi ở đâu không?
    ?" Biết.
    ?" Hãy chỉ cho tôi. Tôi sẽ đổ vàng ngập nhà ông suốt ba đời.
    Ông cụ lắc đầu. Nhà Tỷ-phú :
    ?" Vậy thì ông muốn gì, xin cho tôi biết.
    ?" Người hãy đốt những núi xương kia. Hãy trải tro tàn trên đất Việt, từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau. Làm xong, hãy tới nhà ta, ở làng Nhân, chân núi Bình. Ta sẽ trả lại hài cốt đứa con trai cho người.
    ?" Nội bẩy ngày nữa, tôi sẽ tới.
    Cụ già không trả lời, quay đầu, chậm chạp bước ra khỏi phòng. Chiếc gậy tre của cụ vang trên sàn gỗ, khô khan, đều đặn, như báo hiệu bức màn sân khấu sắp mở.
    Nhà Tỷ-phú liền triệu tập bộ tham mưu của mình. Ông hạ lệnh đốt hết xương trong nội sáu ngày. Ðại tá tái mặt :
    ?" Làm sao nổi! Những lò thiêu đã chạy hết ga. Dân chúng đang than phiền mùi hôi và khói. Chúng tôi phải chật vật hết sức mới vỗ yên được phần nào chính quyền.
    ?" Câm đi! Cái gì mà làm không nổi? Chúa đã tạo được cả thế giới này trong bẩy ngày. Tại sao chúng ta lại không đốt được đống xương kia trong thời gian ấy? Hãy tăng các đơn vị lên bốn lần, nhân lương bổng lên gấp hai, và tổ chức ngay sản xuất liên tục. Nếu thiếu lò thiêu thì mua gỗ, than, dầu lửa mà đốt. Cần bao nhiêu ngọn lửa nhóm bấy nhiêu. Tôi muốn, bẩy ngày nữa, máy bay cất cánh, trải đống tro khốn nạn kia từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mâu. Tuân lệnh!
    Bới cả ký ức loài người cũng chưa bao giờ thấy được lửa và khói nhiều đến thế trên một mảnh đất. Một hỏa ngục, lúc nhúc đàn ông, đàn bà, trẻ con nhọ nhem đen ngòm. Người nối người thành xiềng, thành xích, đan chéo nhau, xiết chặt những lò thiêu, những cồn lửa trong một cái lưới mênh mông chập chờn. Xương cốt chuyền từ tay này qua tay kia, từ những núi xương tới những miệng lửa hừng hực. Khói ngộp trời, dầy đặc, cay, khét. Ngay từ ngày thứ ba, không ai phân biệt được ngày với đêm nữa. Bóng người ngọ nguậy, dần dật trong bóng đêm. Sáu ngày sáu đêm liền, khói đen ập xuống cả tỉnh, nặng như chì, bào mặt, chích mắt, cào cổ họng. Người ta chui vào nhà, chặn cửa ra vào, cửa sổ. Và khấn. Trẻ sơ sinh im thin thít. Trái đất chỉ còn là một lời cầu nguyện mênh mông, đen ngòm, bị lửa thiêu tí tách liên miên.
    Ðến chiều thứ sáu, những lò thiêu, những cồn lửa, những lời cầu nguyện dần tắt. Một mặt trời máu phụt đốt bầu trời, rồi bóng đêm tràn ngập mặt đất. Từ phương Ðông một luồng gió ấm dâng lên, nhẹ nhàng lùa tan khói. Vài ngôi sao nhợt nhạt bắt đầu lấp lánh. Ánh trăng lạnh lùng soi sáng cõi vô ngôn.
    Chợt có tiếng gà gáy, chó sủa xa xa. Một trẻ thơ mơ khóc. Một mặt trời run rẩy, ngượng ngùng, hé mặt vén màn sương. Tiếng máy rù rì đơn điệu nơi chân trời. Một đoàn phi cơ hú rách bầu trời, trải sau đuôi những giải tro xám mênh mông. Một trận mưa tro tuôn xuống cõi trần. Không một mảnh đất nào thoát thân. Không khí đặc sệt. Tro bám vào cây, cành, hoa, trái. Tro len lỏi vào nhà. Tro làm mắt mù, mũi nghẹt. Tro chét bùn đầy cuống họng. Suốt ngày, từ Bắc chí Nam, cả nước quằn quại trong cơn bão lốc mầu tro xám, trong tiếng may bay rú. Về chiều, cơn bão lắng đi, rồi đêm lặng lẽ trở lại.
    Hôm sau, Nhà Tỷ-phú đến gặp cụ già:
    ?" Ông lão, tôi đã thực hiện điều ông mong muốn. Xin trao lại hài cốt con tôi.
    Ông lão dịu dàng nhìn Nhà Tỷ-phú, nhè nhẹ nói :
    ?" Ta cảm ơn người. Hôm nay đồng bào ta mới tìm lại được nấm đất tổ tiên. Nơi an nghỉ của người chết là nơi có người đang xây dựng những nền văn minh. Hãy đón con người về. Nó nằm dưới cái miếu trong vườn của ta.
    Nhà Tỷ-phú lao vào trong vườn. Dưới gốc cây đa, có một cái miếu bằng đất nung. Trong miếu, vài thanh nhang đang cháy. Nhà Tỷ-phú sai người làm đào mả. Họ vác xẻng cuốc tiến tới.
    Gần ngay đó, một đứa bé, tựa lưng vào một rễ cái của cây đa, lặng lẽ nhìn. Nhà Tỷ-phú bước tới nó, cúi mình đưa cho nó một đôla. Ðứa bé hất tay Nhà Tỷ-phú, nhẩy ra xa, chạy nấp sau lưng ông cụ. Nón lá của nó rơi vào huyệt đạo. Nhà Tỷ-phú nhặt chiếc nón lá, bước về phía đứa bé. Ông rùng mình. Sau màn nước mắt, mắt đứa trẻ bừng lửa, xanh biếc căm thù.
    Nhà Tỷ-phú nhấm nháp whisky, nhìn cỗ quan tài sang trọng. Hài cốt con ông an nghỉ ở đó. Một lần nữa, ông lại thắng. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ của một người cha, ông đã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của vợ. Máy bay phản lực của ông đợi ông cả tuần nay. Nhưng ông chưa thể đi được. Ông không thể rời xứ này mà không biết con mình đã chết ra sao. Ông đã sai người phiên dịch điều tra tại làng Nhân ở chân núi Bình.
    Người phiên dịch len lỏi như mèo vào văn phòng.
    Nhà Tỷ-phú quay chiếc ghế bành lại:
    ?" Thế nào?
    ?" Tôi đã làm tất cả nhừng gì phải làm. Tốn cả núi của. Người ta đã kể hết.
    ?" Tốt lắm. Anh thuật lại đi.
    ?" Ông nhất định muốn biết mọi chuyện?
    ?" Ðúng. Tôi muốn biết tất cả.
    ?" Họ đã giết cậu ấy. Cậu đã kịp nhẩy dù ra ngoài trước khi máy bay nổ. Cậu bị gẫy chân trái. Có lẽ cậu đã bò rất lâu trong rừng. Ông già bắt gặp cậu nằm ngất xỉu trên một bờ suối và tha về nhà. Không ai biết cậu đã sống bao lâu trong nhà ông lão. Một buổi chiều, cậu rời chỗ ẩn, đi ra suối. Một đứa trẻ thấy cậu. Nó báo động cả làng. Người ta tức khắc bắt cậu. Làng ấy đã từng bị dội bom liên miên. Có nhiều người chết, căm thù ngất trời. Dân làng liền thành lập một toà án nhân dân. Họ kết án tử hình cậu và con gái ông lão. Họ bắn cậu tại trận. Cô gái có mang nên được tạm tha. Khi thằng bé ra đời, người ta trao nó cho ông già, và dắt cô đi.
    ?" Cảm ơn anh, anh về đi. Chớ hé một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này nhe. Ðó là lệnh của tôi, anh hiểu chứ ?
    ?" Tất nhiên rồi, thưa ông.
    Nhà Tỷ-phú nhấm nháp whisky. Ông lặng nhìn cỗ quan tài sang trọng. Hài cốt con ông an nghỉ ở đó. Một nỗi đau dịu dàng tràn ngập lòng ông. Ông ngồi bất động hàng giờ đằng đẵng. Ðột nhiên ông lắc đầu, đứng dậy, kêu người đàn bà phục dịch:
    ?" Em làm ơn giúp anh nhé.
    Ông mở quan tài. Họ khiêng xương bỏ vào lò thiêu. Trong khi bộ xương cháy rụi, họ đặt hài cốt người lính vô danh vào trong quan tài.
    Ngày hôm sau, Nhà Tỷ-phú lại đến gặp cụ già. Ông ôm trong lòng một hũ tro. Cụ già đang ngồi dưới bóng cây đa. Ðứa bé đứng sau lưng cụ, hai tay gầy còm ôm cổ cụ. Mắt nó xanh, xanh biếc căm thù. Nhà Tỷ-phú thở dài:
    ?" Cụ ơi, xin trả lại cụ nắm tro tàn của con cụ. Ðúng thế, nơi đây mới là ngôi nhà cuối cùng của nó. Xin vĩnh biệt.
    ?" Vĩnh biệt. Chúc người luôn luôn được an bình.
    Nhà Tỷ phú nhìn đứa bé mắt xanh một lần cuối. Ông bước đi, bình thản, vững vàng. Ông cảm thấy bình yên một cách lạ lùng.
    Nhà Tỷ-phú mang bộ xương người lính vô danh về Mỹ, an táng nó long trọng bên cạnh mả vợ ông, trong ngôi mộ tổ tiên ông. Ông cưới người đàn bà phục dịch. Họ đã từng hạnh phúc. Họ đã từng có đông con. Trong đám hậu duệ đông đảo của con người ấy, đã từng có nhiều phụ nữ, nhiều đàn ông lừng danh trong văn chương, văn học, được người đời quý trọng, yêu mến. Một trong những người đàn bà ấy đã trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của Liên bang Hoa Kỳ.

    Nguyên tác : Un squelette d?Tun milliard de dollars, in Un amour métèque, l?THarmattan, Paris, 1994. Bản dịch tiếng Anh, Nina McPherson : The Billion Dollar Skeleton, In Story, USA, Autumn 1994 và The Other Side of Heaven, Curbstone Press, USA, 1995.
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Trần Vũ​
    Mùa mưa gai sắc​


    Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu, những trận mưa rào còn bất chợt đổ về qua qua ấp Tây Sơn, thứ mưa nóng và ẩm của vùng Qui Nhơn sỏi đá. Suốt quãng đời niên thiếu, hình như Huệ chỉ đi chơi xa có hai lần. Một lần lên Phú Xuân và một lần bơi xuồng băng ngang đầm Thị Nại. Cả hai lần, lần nào cũng có hai anh lớn của Huệ: Nhạc và Lữ.
    Hôm ấy ám trời, cả một mặt đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước. Nhạc bản tính tục tằn không ngớt lầm bầm trong miệng, quở trách trời đất. Nhạc quở những hạt mưa nhỏ mọn đương vãi xuống khoang thuyền làm hỏng cuộc vui. Lữ không nói gì, chỉ im lặng nhìn những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi, trong ba anh em Lữ là người ít cá tánh nhất. Ánh mắt Lữ, lúc nào cũng phảng phất nghĩ ngợi, một chút buồn, một chút thiền vị vu vơ, chứa mà không chứa đạo Phật. Đợi Lữ leo lên ngồi rồi Huệ mới lấy sức, dẫm chân xuống nước, đẩy xuồng cho xa bờ. Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp tách dần ra cho đến lúc không còn trông thấy nữa. Nhạc làu bàu hối Huệ bơi ra giữa đầm. Nhạc ngồi ở mũi xuồng, đúng chỗ, đúng vai vị của người con cả. Đầm Thị Nại không biết tự thưở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng. Tiếng động duy nhất phát ra từ mái chèo khoắng nước trong tay Huệ. Huệ cũng ít nói, nhưng không câm lặng như Lữ, chỉ nói những khi cần, cùng những gì đáng nói. Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về sau, nhấc lên rồi lại thả xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy.
    Mặt nước u tịch, im lìm, chốc chốc lại vang tiếng khạc nhổ của Nhạc. Nhạc mắng Lữ và Huệ chọn đi đâu không đi, ra chỗ buồn tênh. Thái độ gắt gỏng cộc tính của Nhạc, hơn một thói quen, thành thứ nền nếp trong nhà đến độ Lữ và Huệ không buồn chú ý. Suốt buổi đi chơi, ba anh em không ai vãn chuyện. Gần về, Huệ chỉ nói một câu duy nhất:
    - Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh, mai mốt có quyền chức, tôi sẽ cho thay nước.
    Nhạc đang ngồi xếp bằng ở mui, nghe Huệ nói, liền khạc thêm đờm xuống đầm, cho là chuyện không đâu. Còn Lữ nói một câu vô thưởng vô phạt:
    - Đầm này không sạch bằng cửa sông đổ ra An Nhơn.
    Huệ cũng không bằng lòng, gắt:
    - An Nhơn cũng không sạch.
    Những khi giận, hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên ở đồng tử, nên nhìn rất sợ. Nhạc và Lữ biết rõ tánh Huệ nên im lặng không nói thêm điều gì. Đoạn đường từ đầm về bờ, chỉ còn tiếng mái chèo Huệ sục sạo cắm xuống mặt nước. Sông xẻ hai bên mạn xuồng, trong ba anh em bao giờ Huệ cũng là người cầm mái, tạo ra sóng.

    *

    Lần ra Phú Xuân thứ nhất, trong đời Huệ, có lẽ cũng là lần quan trọng nhất. Phú Xuân ở vào thời điểm đó mang sắc đẹp của một người đàn bà cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều, sau bao nhiêu đời chồng đâm ủ ê, bệ rạc. Song trong đôi mắt của Huệ, xuyên qua cặp mắt của Lữ, trước cái nhìn ham muốn của Nhạc, Phú Xuân giữ nguyên vẹn nét lộng lẫy, thứ lộng lẫy tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ở ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly không có để mặc trên mình. Hôm ba anh em Huệ tới Phú Xuân, trời cũng vần mưa, nhưng không phải thứ mưa dông cẩu thả, ít nước nhiều hơi không đủ làm mọc những ruộng lúa phì nhiêu quanh thành Qui Nhơn. Mưa ở Phú Xuân là những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương. Nhạc đã trưởng thành, nhưng không bao giờ chững, không đủ sức kềm chế trước vẻ lẳng lơ lộ liểu, da thịt mời gọi của Phú Xuân. Vẫn bản chất tham lam của người đã chọn cho mình nghề biện lại, Nhạc vỗ đùi rồi để bàn tay ở lại tự mân mê như đang sờ nắn chỗ kín của một người đàn bà chốn kinh kỳ:
    - Trên đời được làm Nguyễn Vương thì mới đáng sống!
    - Anh làm Nguyễn Vương cho tôi một chỗ trong cung, tôi thích dãy lầu nóc giá chiêng phía hữu.
    Lữ cảm hứng từ tham vọng của Nhạc, góp ý.
    Mưa vẫn ướt mặt ba người. Những hột mưa đài các lạnh lẽo tiếp tục rưới xuống dinh thự nhà Chúa. Song mưa không làm tắt nỗi ánh lửa cháy rập rờn trong đôi mắt Huệ. Tia lửa ngời lên như muốn táp vào mặt Nhạc.
    - Sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn. Mà được như Nguyễn Vương cũng chưa phải là tất !
    Nhạc quay phắt lại, giận gữ vì bị xúc phạm, nhưng chất cộc cằn thô tục ngồn ngộn trong con người Nhạc chưa kịp phát ra đã chạm phải ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ đành nén giọng, chỉ rít qua kẽ răng:
    - Thế nào mới không ngu xuẩn, mới gọi là tất ?
    - Giết Nguyễn thì được Nguyễn, giết Trịnh thì được thêm Trịnh, Nam lẫn Bắc Hà thế mới gọi là Đế !
    Buổi trưa ở Phú Xuân, Huệ khơi dậy lần đầu tiên ý niệm vương đế. Cái ý niệm phải thực hiện để khỏi sống kiếp người ngu xuẩn. Năm đó Huệ chỉ mới mười sáu tuổi, lứa tuổi thật thà và hay ước vọng. Huệ mơ ước, nhưng không đủ thật thà để nói với Nhạc cái người dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình. Sau này khi đã toại ước, Huệ cũng không còn là Huệ ở đầm Thị Nại, ao ước có quyền chức để thay nước đầm đã quá cũ kỹ, nổi rêu xanh. Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần người chết. Ở khía cạnh đó thì Huệ vẫn mãi mãi là Huệ. Nhưng có điều Huệ không ngờ ở đất Bắc Hà, có một người cũng nghĩ như Huệ. Song đó lại là chuyện khác.

    *

    Tháng sáu năm Bính Ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết. Tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề suốt bốn mươi bảy năm ở ngôi, chỉ làm nổi một việc là cho thê thiếp lâm bồn hai mươi mốt vị công chúa. Cảnh Trịnh Khải bị thọc tiết ở làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên sau khi bại trận thê thảm trước quân Tây Sơn ngay cửa Tây Long, càng làm long thể vua Lê thêm bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng. Trong khuê phòng, Ngọc Hân như lửa cháy. Suốt mấy đêm liền, canh này qua canh khác, Ngọc Hân bồn chồn trong tiếng trống giục điểm canh. Đã đành cái tin Trịnh Khải mất mạng ở làng Hạ Lôi làm nàng thỏa mãn. Ngọc Hân không ngớt bắt kẻ hầu kể đi kể lại chi tiết cảnh Trịnh Khải rút dao tự đâm cổ chết. Máu Trịnh Khải đỏ gấc? đỏ bầm? hay đỏ tươi như thảm điều lót chân cho Khải mỗi lần hắn ghé qua cung Vạn Thọ? Trịnh Khải trong mỗi bữa ăn ở phủ Chúa, khi yến tiệc tàn thường vung tay quát tả hữu:
    - Đem mấy cân thịt thừa qua cung Vạn Thọ kẻo lão già chết đói!
    Ngọc Hân nhớ đời những câu mỉa mai ấy. Hai bàn tay nàng bấu chặt lấy tấm màn nhung vì phẫn. Ngọc Hân đã thề độc sẽ rửa mối nhục cho vua cha, nhưng bay giờ Trịnh Khải thác rồi, mà không bởi tay nàng, khiến Ngọc Hân tuy thỏa mãn nhưng chưa hả dạ. Nụ cười trên môi Trịnh Khải, nụ cười mang nốt ruồi dư giật giật mỗi khi chiếc cằm bạnh ra phán lệnh còn sống trong trí não Ngọc Hân. Nàng nghiêng người nắm ghì lấy tay nhũ mẫu, giọng kích động :
    - Rồi sao nữa? Máu hắn chảy nhiều không? Hấp hối trong bao lâu? Có rống gào không?
    - Bẩm nghe bảo Chúa đau đớn lắm, lúc chết gào tên "Huệ".
    Thoắt cái, Ngọc Hân buông tay nhũ mẫu. Tấm trướng bao phủ đất không che được những nghĩ ngợi rối rắm trong đầu Ngọc Hân chỉ trực trào ra ngoài. Nhũ mẫu nàng vẫn nhắc đến tên con người đã làm kinh thiên động địa đất Bắc Hà. Nguyễn còn, Trịnh còn, thì Lê không phất. Nguyễn vong, Trịnh diệt, nhưng còn Tây Sơn thì Lê cũng mạt. Tất cả bỗng trở nên giản dị trong đầu Ngọc Hân. Nàng với tay lấy tráp phấn son rồi gọi nhũ mẫu đi lấy xiêm áo cho mình.
    Năm Bính Ngọ, Ngọc Hân chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà. Ngọc Hân biết mình đẹp, và biết sắc đẹp là vũ khí duy nhất của người đàn bà. Nàng dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày. Những ngón tay tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó. Ngọc Hân không vội, chậm rãi dồn hết công phu vào việc trang điểm. Lúc bà nhũ mẫu mang xiêm y tới sau lưng, người bà chợt rợn lên vì hình ảnh lúc ấy trước mặt, không phải hình ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời.
    Ngọc Hân thay áo, thứ hàng lụa mỏng mát rượi chảy mềm trên thân thể nàng. Dăm cánh hoa cúc vàng điểm lăn tăn ở chéo áo như hé mình bung cánh nở đẹp lạ thường ở mỗi bước chân uyển chuyển của Ngọc Hân. Hôm nay Huệ và Chỉnh vào gặp vua Lê. Ngọc Hân quát nhũ mẫu lấy giấy bút cho mình làm vội bài phú để lấy lòng Huệ. Ngọc Hân chấm bút vào mực, nóng nảy viết thoăn thoắt một lúc 164 câu. Trong lúc sơ ý, nàng để ống tay áo nhúng vào liễn mực thấm loang một góc. Đến khi đọc lại đến đoạn mà nay áo vải cờ đào... mới chợt nhận thấy tay áo mình bị ố. Chỗ lụa lấm đen làm nàng khó chịu, toan đi thay, nhưng rồi chợt nghĩ biết đâu chỗ mực lem ấy sẽ làm Huệ cảm động. Ngọc Hân đọc lại bài phú, lời lẽ nhún nhường mà sắc, các thanh chập vào nhau như tiếng dây chuông rung ở cửa lầu phủ Chúa. Huệ là kẻ biền võ, nhưng đọc thì ắt phải xúc động. Đã có tiếng trống hiệu đón người ngựa của Tây Sơn vào cung Vạn Thọ, Ngọc Hân búi lại tóc, tra thêm chiếc trâm cài có nạm ngọc, dấu hiệu của trinh tiết không thể thiếu trong buổi ra mắt đầu tiên. Âm trống chưa dứt và tiếng đập mạnh của trái tim trong ***g ngực làm nàng nghe như tiếng chân Huệ dõng dạc bước lên điện. Cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà, Ngọc Hân quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá nào kể cả bán thân xác. Nhũ mẫu gọi hai tỳ nữ đi theo nàng, lúc ra khỏi khuê phòng, Ngọc Hân không quên đem theo bài phú xếp trong áo.

    *

    Hữu đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh dõng dạc đi lại, điệu bộ của con lang đi theo chấm mút bữa ăn còn sót của hổ. Khuôn mặt Chỉnh dài, cái cằm nhọn, cánh mũi mỏng quá độ dễ làm liên tưởng đến mỏ quạ. Chỉnh nói chuyện nhưng không nhìn Hiển Tông xem như không có. Ngọc Hân vừa giận, vừa thất vọng. Huệ không đến, Chỉnh đi lại một mình bàn chuyện tấn phong Nguyên Súy cho Huệ ở điện Kính Thiên. Vua Lê ?" con heo già ?" chỉ biết giương đôi mắt lờ đờ thở ì ạch, tán đồng, thứ công việc mà người ta đãi công bằng chiếc ngai sơn son thếp vàng lâu ngày tróc lở như lên hủi. Xong chuyện, Chỉnh cho vua Lê lui gót rồng, còn lại một mình hắn cười khẩy săm soi sàm sỡ nhìn Ngọc Hân. Khóe miệng Chỉnh khinh khỉnh, khẽ nhếch lên đuổi hết tả hữu ra ngoài, đai áo óp vào rồi phình ra theo nhịp thở có mùi trầu cay bám đỏ ở những kẽ răng Chỉnh mỗi lúc gần sát mặt Ngọc Hân. Chỉnh đưa đẩy mấy câu vu vơ bàn chuyện hôn nhân sắp tới, tia mắt chỉ chực dịp là thả vào ngấn cổ Ngọc Hân để đo lường sắc trắng của da thịt với vải lụa bạch. Ngọc Hân nhìn trừng Chỉnh, nhưng cái thế của nàng chưa cho phép đối đầu với Chỉnh. Chỉnh nắm Ngọc Hân như nắm chuôi dao, muốn chém vào đâu thì chém. Chỉnh xòe một bàn tay trước mặt Ngọc Hân, bàn tay có đeo chiếc nhẫn khảm phượng, phần thưởng thi Hương Cống của vua Lê ban cho Chỉnh lúc xưa.
    - Thiên hạ vạn kẻ, nhưng nhân tài ở đất Bắc Hà chỉ một mình ta. Ta về với Tây Sơn, Bắc Hà chỉ là cái đất không!
    Chỉnh hầm hè.
    Chưa rõ Chỉnh muốn gì, Ngọc Hân nửa muốn bước lùi một bước để tránh hơi thở ám mùi trầu lẫn mùi giềng của gã, nhưng lại sợ Chỉnh khi mình chịu kém, nàng dùng dằng chưa biết tính sao. Chỉnh lại cất giọng:
    - Cuộc hôn nhân này, phú quý vinh hoa chỗ nằm bên cạnh Thượng Công thì chớ quên ta.
    Chỉnh vừa nói, bất ngờ chụp lấy vai Ngọc Hân, rồi lợi dụng Ngọc Hân đương bối rối, Chỉnh luồn ngay tay vào trong yếm ghì chặt lấy ngực nàng.
    - Buông ra!
    Ngọc Hân vùng vẫy, đẩy Chỉnh, cố lùi ra sau nhưng lưng đã chạm bức chắn bình phong. Vừa hổ ngươi, vừa nhục, Ngọc Hân vung tay tát trái Chỉnh. Song Chỉnh phản ứng bằng tất cả nhanh nhẹn tốc chiến của thủy quân Tây Sơn, bẻ quặt lấy tay nàng.
    - Tri hô cầu cứu đi! Để cho Thăng Long rõ cái nhục của cung Vạn Thọ!
    Chỉnh chồm người, gầm gừ, đầy đắc thắng, bàn tay vẫn luồn trong yếm đào, vừa mân mê, vừa đe dọa. Thư phòng vắng người, như tất cả đang đồng lõa với Chỉnh. Một bức hoành phi sau lưng Chỉnh chạm lộng đôi Giao Long đang cấu xé nhau như hoạt cảnh diễn ra. Ngọc Hân giận tím mặt. Bàn tay Chỉnh đọng mồ hôi ẩm ướt trên da thịt khiến nàng lợm giọng. Ở người con gái khác sẽ là mối nhục ngàn đời đưa đến tự vẫn, nhưng với Ngọc Hân đó là lối xử ngu xuẩn. Máu nóng dồn lên làm đôi mắt nàng vốn sắc sảo càng thêm sắc. Tia mắt Ngọc Hân dữ dội đến độ, đương suồng sả, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh mắt đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn trừng phạt của Huệ trước cảnh hành quyết. Lần vào Gia Định tàn sát tập thể các chú khách, Huệ đã nhìn những xác người Minh Hương bằng cặp mắt của Ngọc Hân đang nhìn Chỉnh lúc này. Chỉnh cảm thấy khó chịu, khô ở đầu lưỡi, gượng gạo sửa lại đai áo. Ngọc Hân tiếp tục nhìn trừng trừng cho tới lúc Chỉnh phải quày quả bỏ ra. Ngọn gió luồn từ cánh cửa Chỉnh không khép thổi lùa thốc qua gian phòng. Những lá thế kỳ, cườm hoa mừng chiến thắng Tây Sơn diệt Trịnh treo khắp nhà như cung Vạn Thọ đang có lễ tang. Khuôn mặt Ngọc Hân vẫn tím xanh vì giận dữ. Nếp vải xổ ở ngực áo như còn bày năm dấu tay Chỉnh in trên mình nàng. Ý nghĩ căm ghét quan lính Tây Sơn càng tăng trong đầu Ngọc Hân. Đến lúc nắng xếch qua riềm cửa, rọi lòe khóm trúc trồng ở chậu đồng, Ngọc Hân mới bỏ vào trong, nhưng bàn tay Chỉnh cũng đã theo nàng vào khuê phòng.
    Suốt trưa đó, Ngọc Hân bứt rứt, khó chịu, ý nghĩ có mối thù chưa trả làm nàng như đứng trên giàn hỏa. Đến chiều, bức bối không sao chịu nổi, Ngọc Hân sai thị tỳ cùng nô tài khiêng kiệu đưa nàng ra cửa Tuyên Vũ xem bêu xác Trịnh Khải. Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc. Cả xác của Nguyễn Noãn gia thần Trịnh Khải và Đỗ Thế Long bị quy phản dìm chết ở sông Phú Lương cũng được vớt về căng lên cho mọi người làm gương. Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới. Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng. Lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình. Ngọc Hân lấy móng tay vẽ mơ màng lên khăn tay. Hai gã nô tài đợi lâu, dợm chân định đưa kiệu về, Ngọc Hân đã ngửng phắt lên bắt ngừng, để nàng được dịp ngắm Trịnh Khải cho thỏa thích. Nhưng lần này ở chỗ móc xác Trịnh Khải, Ngọc Hân mường tượng ra thủ cấp của Chỉnh.

  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Đám cưới của Huệ sau chiến thắng vang dội được xem là một ngày trọng thể. Trong phủ Chúa, binh lính Tây Sơn tạm đóng đại bản doanh, người con rể của Thăng Long đi lại với tất cả dáng vẻ của một con hổ sau bữa tiệc hoẵng. Huệ ở thời kỳ này đã khác xa Huệ của Thị Nại, hay Huệ của Phú Xuân. Trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân, Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó. Những tấm khiên lớn bằng đồng bóng loáng soi khuôn mặt Huệ đỏ sần lên vì rượu. Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm nhắc:
    - Sắp tới giờ, Thượng Công nên đi rước dâu.
    Huệ đang dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống, buông đao, ngửng lên nhìn Nhậm. Huệ thấy Nhậm y như lời Chỉnh thường rỉ tai: Vũ Văn Nhậm hữu dõng vô mưu, đầu óc trống trải, tựa như một cánh đồng khô, không hoa, không lúa. Huệ gắt:
    - Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy!
    Chỉnh từ nãy ngồi ở ghế trường kỷ, không ngớt rót rượu cho Huệ, nghe Nhậm bị mắng, khẽ nhếch môi nhưng không cười. Chỉnh vươn tay bẻ một nụ vạn thọ cắm vàng hoe trong lọ độc bình.
    - Ý của Tả đô đốc là muốn Thượng Công giữ tiếng. Bề ngoài mình vẫn mang danh nghĩa phù Lê. Sá gì cái chức Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công. Ngai vàng của Hiển Tông, Thượng Công muốn ngồi lúc nào bọn tôi cũng kéo sẵn!
    Mấy lời của Chỉnh làm đẹp lòng Huệ. Đang bẳn gắt, Huệ trở ra vui. Lại dùng đoản đao chém cổ bầu rượu. Hiểu lòng Huệ như Chỉnh, thiên hạ không có mấy người, kể cả Ngô Thì Nhậm sau này khi Huệ ra Bắc lần thứ nhì thu phục được. Vui vẻ nên Huệ trở nên hào phóng, trở lại trướng ngồi. Sau lưng Huệ là một tấm cờ đào to bản vẽ chính giữa một chữ "Tâm" thật lớn. Huệ vẫn hãnh diện về cách đãi người của mình, không "Dũng", không "Mưu", nhưng chính cái "Tâm" mà Huệ tự nhận là thiên tài lớn. Quân Tây Sơn đi đến đâu, Huệ cấm không được tơ hào, nhưng dân các vùng phải nuôi ăn và cúng góp. Huệ sai Nhậm:
    - Thằng Chỉnh nói hợp ý ta ta. Ngươi xuất kho hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn mang sang cung Vạn Thọ, nói là của ta thí cho!
    - Lễ vật cầu hôn của Thượng Công dâng lên Hiến Tông.
    Chỉnh chữa lại.
    Nhậm từ nãy nóng bừng mặt vì mấy lời bàn của Chỉnh, nhưng vốn chậm chạp, còn lúng túng chưa kiếm được cách "phóng trả lao", thì Huệ đã giục:
    - Thằng chết bầm! Còn đứng đó!
    Nhậm vội vã cúi chào lãnh mệnh đi. Nhậm đi khuất, chất hào phóng trong người Huệ cũng tan đi. Huệ đâm tiếc của, nhưng ngại nói ra mất mặt trước bề tôi, đành hỏi vờ:
    - Ta xuất kho nhiều như thế, liệu đủ chăng?
    - Thấm vào đâu!
    Chỉnh vẫn vân vê nụ vạn thọ, trả lời. Những cánh vàng mềm mềm áp trong tay khiến Chỉnh vụt nhớ tới Ngọc Hân, nhớ sắc đẹp mê hồn mà sắc sảo, Chỉnh lỡ đụng vào đứt tay, vết thương không khép miệng. Tự nhiên Chỉnh ghen tức với Huệ, vò nát nụ vạn thọ, mỉa:
    - Dân Bắc Hà chăm cúng góp. Thượng Công muốn bao nhiêu trong kho cũng có!
    Nhưng Huệ không hiểu thâm ý, mãn nguyện ngả người lên bệ Chúa. Cuối tháng sáu, tiết trời Thăng Long đã chực bước sang tháng bảy nên hầm bức. Huệ cởi hẳn chiến bào nằm duỗi người dang vai như dáng nằm của loài hổ chùi mình trên cỏ trước cơn rượn đực. Chỉnh biết ý Huệ không còn muốn tiếp chuyện, lẳng lặng bỏ về. Những cánh vạn thọ còn dính ở kẽ tay khiến lòng Chỉnh bâng khuâng, vừa tiếc Ngọc Hân, nửa giận Huệ. Mưu phản ngấm ngầm từ lúc đó.

    *

    Đêm hợp cẩn của Ngọc Hân, mưa xé qua rèm trướng phủ Chúa. Tất cả hầm bức của ban ngày nổ tung xuống nóc lầu Tửu Các. Trước đây là chỗ riêng của Trịnh Cẩn. Tiếng sấm dậy vạch chớp những đường dài lòe rực nơi ô cửa. Tâm thần Ngọc Hân dao động theo dông bão trộn lẫn những bối rối lo lắng tìm cách khuất phục Huệ. Nằm một mình trên chiếc giường của Trịnh Cẩn, Ngọc Hân không ngớt nghĩ ngợi tới những người con gái đã vào nằm trong lòng giường này. Từ thời Trịnh Tùng Bình An Vương đến Tôn Đô Vương là Trịnh Cán, tính ra tất cả chín đời Chúa, hai trăm mười ba năm ròng rã. Bao nhiêu người con gái tan xương nát thịt dưới mình Chúa? Bây giờ tới phiên Ngọc Hân. Nếu không là Huệ, thì trước sau nàng cũng phải thất thân với Trịnh Khải. Trước sau Ngọc Hân cũng phải trao thân cho kẻ nắm quyền ở Bắc Hà, như cánh cửa ải phải đi qua. Việc quan trọng là sau khi qua ải, phải làm thế nào để khôi phục vương triều Lê. Ngọc Hân cắn môi, day trở một lúc rồi không nằm được nữa, những kèo cột chống rường và thượng lương chống đỡ nóc lầu như cứ muốn ngã vật đè lên đầu nàng. Ngọc Hân bực bỏ ngồi dậy, xoay mặt vào vách đợi Huệ.
    Đêm khuya lắm. Tiếng trống kéo dài thõng thượt chạy xoáy qua khắp hành lang. Huệ vẫn còn ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai. Rượu là thứ rượu đế của làng Vân ngoại thành Thăng Long cay xè lưỡi, nhưng xuống đến cổ thì ngọt lừ hương vị của men rượu hạ thổ như đưa hết âm khí của đất Bắc Hà vào mình, khiến bao nhiêu nước trong người Huệ theo mồ hôi xuất hạn đầm đìa, như muốn dành chỗ để chứa rượu. Uống đến thau chót, Nhậm đã say lắm, nhưng còn sực nhớ điều gì, khuyên Huệ:
    - Lầu Tử Các ngày xưa là chỗ ở của Trịnh Cán, làm Chúa chưa đầy hai tháng thì bị truất, Thượng Công hợp cẩn ở đó không nên!
    - Thượng Công oai vũ uy dũng, cho sống thì sống, bắt chết phải chết, cớ sao phải sợ?
    Chỉnh ngà say, nhưng cũng cất giọng, theo thói tật hễ Nhậm bàn điều gì thì Chỉnh phải bác đi. Huệ lừ lừ dốc hết thau rượu, rồi đứng lên, hai ngọn lửa trong mắt vẫn không suy suyển, rượu chỉ làm sức cháy phừng lên mãnh liệt hơn.
    - Đạo làm tướng không biết sợ! Chỉ có mệnh trời mới hại được ta!
    Huệ tiện tay lật bàn. Chỉnh và Nhậm ngã chúi xuống nền nhà. Nhậm nhằm cơn, ói mửa tung tóe. Chỉnh vừa lấy tay lau mặt, vừa gạt chén đĩa thau chậu quanh mình, nhìn Huệ hậm hực cố gượng dậy. Song Huệ đã lừng lững bỏ đi. Ánh đèn ***g treo ở xà thượng, về khuya, vắt lên lưng Huệ những vằn vện của cột mái trông như tấm lưng hổ đi kiếm mồi.

    *

    Lúc Huệ dẫm chân lên thang lầu Tử Các, mùi xạ hương tẩm trong chăn gối bỗng tan mất nhường cho hơi rượu nồng nặc. Chưa trông thấy, nhưng Ngọc Hân biết ngay Huệ đến. Nàng xoay mặt đợi, hơi nép vào tấm màn thêu quanh giường. Đã chuẩn bị sẵn, nhưng lúc Huệ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề chạm long ly qui phượng, rồi giật mạnh tấm màn gấm che ngoài, Ngọc Hân cũng thót người sợ hãi. Tia lửa lập lòe từ mắt Huệ cháy rờn rợn như muốn đốt nàng. Huệ quả như lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ. Huệ cất tiếng nói. Giọng ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ vào giữa khuya. Huệ nói gì, Ngọc Hân không hiểu, hơi rượu ngập ngụa kèm theo chữ mất chữ còn phát ra từ thân hình quá đẫy đà chỉ chực đổ xuống. Giọng vỡ của Huệ làm Ngọc Hân nhớ tới lời đồn, trước đây giọng Huệ thanh, từ khi kéo quân ra Rạch Gầm đánh quân Xiêm tự nhiên mất giọng, tiếng bể như tiếng rạch nước đổ xuống trũng sâu. Dân dã bảo là điềm trời không thuận cho Huệ diệt Nguyễn Ánh. Ngọc Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết. Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh, nhưng với Huệ ?" uy-vũ-dũng ?" cái nhìn chỉ làm cho Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dễ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y như dáng hổ đang ngoạm hoãng. Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết. Đao phủ Tây Sơn xử trảm bằng cách chém ngửa nghịch nhân, mã tấu phập xuống tiếng thét của tội đồ bị đứt ngang ở cuống họng chỉ phát ra được tiếng nấc khô. Tiếng nấc khô của Ngọc Hân lúc nãy.
    Mùi mỡ trong đèn chai cháy èo uột ngọn lửa lúc tối lúc sáng, căn phòng của Trịnh Cán đóng xong vai trò lịch sử rơi chìm vào giấc ngủ đẫm mùi rượu đế của Huệ. Cơn dông chùng xuống sau gần suốt đêm quất qua lầu Tử Các. Những hột mưa gai sắc như muốn trổ mái bắn xuống mình Ngọc Hân ẩm ướt, tủi hổ. Lúc cơn mưa tạnh hẳn, bóng trăng bắt đầu lấp ló, chạy ngang trên trục xà hạ, thì Ngọc Hân không còn thấy đau đớn, chỉ trông rõ xác Huệ bị bêu ở Tuyên Vũ. Thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu. Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng mình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn.

  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lúc tôi ra Thăng Long, tiết trời tháng bảy nặng nề lắm. Những cánh lá bàng to như xác trâu mộng, rụng ì ạch xuống kinh thành đã cũ mục, dậy mùi cũ kỹ, từ triều đại đến máu huyết. Huệ đợi tôi ở phủ Chúa, Huệ hơi ngượng, tia mắt dữ dội của Huệ nhìn lên tấm vải cờ đào vẽ chữ "Tâm". Nhưng rồi như nhận ra chữ "Tâm" không đúng với lối hành xử của mình, Huệ lại nhìn xuống ngón chân bị dập từ thưở thiếu thời, máu bầm làm đen móng. Trong thiên hạ, có lẽ chỉ mình tôi là Huệ không dám hành xử chữ "Tâm", dùng ngọn lửa của đôi mắt để đốt? Huệ sai Nhậm lấy rượu ra uống. Tôi cùng uống thố rượu mời của Huệ. Giống như thời ở Qui Nhơn, hết thố này qua thố khác, hết chậu này sang chậu khác, bao giờ Huệ cũng say trước tôi. Tôi được trời phú cho khả năng ngậm rượu. Rượu tôi uống vào, bao nhiêu cũng chảy sang mình Huệ. Làm như thân thể cả hai nối với nhau bằng một sợi giây vô hình. Uống một lát, rồi Huệ quát đuổi Nhậm và Chỉnh ra. Phủ Chúa lộng lẫy mà lạnh lẽo sự lẻ loi cô độc của Huệ. Tôi nhắc chuyện Nhạc ở Qui Nhơn không bằng lòng việc Huệ ra Bắc. Thái Đức sắp kéo binh ra. Nhưng Huệ thờ ơ lắm, không để tâm, hay không xem Nhạc ra gì. Nhìn mấy bông vạn thọ cắm vụng về trong lọ, tôi hỏi Huệ:
    - Phủ Nguyên Súy sao chưng thứ bông quê mùa này? Đất Bắc Hà không thiếu hoa đẹp, hồng gai, phong lan, thủy tiên, hoa loa đỏ...
    - Ta không biết thưởng hoa!
    Huệ lắc đầu, chán chường đáp. Rồi không dằn được, trong vật vã của cơn say, Huệ kể hằng đêm phải lôi Ngọc Hân ra đánh mới thỏa mãn. Khuôn mặt Huệ lúc đó đau khổ lắm. Huệ lại kể hôm giữa tháng bảy, "con heo già" mất, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ lên ở ngôi. Ý Huệ không thuận, bởi Huệ muốn ngồi trên ngôi báu đó, nhưng lòng dân chưa ngã ngũ. Lễ Thành Phục Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang, trước linh sàng Hiển Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê, chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ. Lúc chém: Nhậm cằm dao chém ngửa, máu bắn cả vào ỷ Hiển Tông đặt trên linh sàng nơi cửa Đông. Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân người có tội hay biết, chạy đến cửa cung kêu khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan, chém cả thảy mười bảy người. Càng kể, hai mắt Huệ càng ngầu đỏ vẩn đục. Huệ ngồi trên một chiếc rương to, hai người ôm không hết. Như muốn cởi hết tâm sự lòng, Huệ đứng dậy, chậm rãi mở rương, bên trong chồng chất từng xấp phướng. Từ trong chiếc rương hòm như bốc lên cả một khối chì chiết. Lá phướng dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết. Huệ lần giở, lá phướng di chuyển rơi thõng xuống rương, rơi đến đâu tên tuổi người chết bật ra đến đó. Đến phần phướng trắng, Huệ dừng lại. Cả mình mẩy tôi đều rợn lên vì ở phần phướng còn trống, Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướng đã chép. Và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc!
    Không khí trong phủ Chúa lúc đó nặng nề, u uẩn không sao thở được. Người tôi khô đi vì sợ. Tấm bản đồ Huệ cho vẽ treo cạnh đầu hổ, phía Tây vẽ hết biên giới Tiêm La, phía Bắc lên hết vùng Lưỡng Quảng, còn phía Nam qua khỏi Vĩnh Trấn chấm biển. Gió đẩy tấm bản đồ lắc lơ, như nhắc nhủ những tham vọng của Huệ. Những tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân. Lúc đó Huệ chỉ nghĩ tới Nam, Bắc Hà, bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác. Nơi nào có đất, có người, thì coi như của Huệ. Huệ đã thay đổi, chỉ có Nguyễn Nhạc còn bằng lòng mãi với chiếc ngai của Nguyễn Vương. Lần ở phủ Chúa, là lần duy nhất Huệ thố lộ tâm sự với tôi nhiều như vậy. Ở đầm Thị Nại, Huệ chỉ mở miệng một hai câu, phơi cả lòng mình cất trong rương là quá nhiều. Nên Huệ trở ngay lại với tính bẳn gắt. Khạc nhổ, lầm bầm chửi rủa, đóng mạnh rương, rồi trở ra bàn gục mặt vào thau rượu. Huệ uống tới lúc ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy, dìu đặt nằm ở bệ Chúa. Từng cánh vạn thọ vàng rụng rây rắc xuống ***g ngực Huệ, thở đều đặn nhịp sống của đất nước. Buổi trưa xác xao đến độ buồn tẻ, tiếng ngựa hí, tiếng trống dồn binh không có, vắng lặng tẻ nhạt, chỉ lâu lâu mới có tiếng quân cờ Chỉnh và Nhậm đang đánh, đập lẻ tẻ ngoài mặt phản.
    Tôi đứng một mình một lúc không biết làm gì, lần ra Bắc này gặp Huệ sao tôi không được vui, lòng cứ phân vân vì những biến chuyển nội tại đang xảy ra. Tên Nhạc chép trên lá phướng như một vết dao cắt ruột. Lương tri tôi khổ sở nghĩ ngợi, bỏ mắt Huệ hành xử chữ "Tâm" với Nhạc sẽ là vết nhơ muôn đời. Nghĩ tới lui không được kế gì, tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và Nhậm đánh cờ.
    Thế cờ của Chỉnh sáng lắm, linh hoạt, xảo quyệt, quyền biến. Đôi mã giao chân xấn xổ tạt bên hữu, nhảy bên tả, áp đảo Nhậm trông thấy. Ở ngoài nhìn thì Nhậm có vẻ lúng túng, xoay trở chậm chạp. Công không ồ ạt, chỉ lo thủ, xây đắp tường thành, bẫy Tượng, gểnh Sĩ. Chẳng mấy chốc Chỉnh đã xua hết quân sang sông. Cống Chỉnh đánh cờ bằng phong thái tự tin của mình ngày xưa đi thi Hương Cống, tin ở tài biện luận xuất chúng, trước sau thì Chỉnh cũng đỗ. Nhưng đánh càng lâu, thế cờ càng đổi khác. Nhậm nếu chậm chạp, nhưng một khi đã làm xong hết những công việc chậm chạp của mình thì trở thành một pháo đài kiên cố. Quân Nhậm còn đủ Sĩ Tượng, năm Chốt giàn đồng, hai Pháo Thần Công, trong lúc Chỉnh chỉ còn độc mỗi một mình một ngựa. Chỉnh lùi mã về Bắc, hy vọng cố thủ, nhưng cung vua đã mất hết Sĩ Tượng, thế trận của Chỉnh trống trải, toang hoác, Nhậm muốn vào ra lúc nào tùy ý. Kết cuộc ván cờ không có gì lạ, Nhậm kiêu hãnh trong lúc Chỉnh bực bội.
    Tôi đứng im theo dõi, ván cờ định mệnh, muốn bàn với Chỉnh, Nhậm khuyên Huệ đừng giết Nhạc, tránh cảnh nồi da sáo thịt. Song nhìn khuôn mặt họ, cằm nhọn lưỡi cày của Chỉnh, vai u thịt bắp nồn nận ở Nhậm, tôi hiểu họ không có giá trị gì với Huệ. Cái người khuyên Huệ đãi chữ "Tâm" đích thực với Nhạc, chỉ có thể là tôi, vào lúc thời cơ thuận tiện nhất.
    Chỉnh và Nhậm còn đang tranh cãi, Chỉnh đòi bày lại cờ, Nhậm dứt khoát tuyên bố mình đã thắng Chỉnh, cờ soái về tay, cả hai không ngờ Huệ đã thức giấc từ lúc nào. Huệ đưa tay chụp bắt quân Tướng của Nhậm, cả bọn mới đực ra rồi vội vã cúi chào. Vẻ mặt Huệ lúc đó, không còn biểu hiện thành thật nào nữa, Huệ đã ra khỏi trạng thái tâm sự với tôi lúc nãy, trở lại nguyên vẹn vai trò Chúa Tây Sơn.
    - Đất Đại Việt chỉ có một chủ!
    Huệ quát bằng giọng Rạch Gầm, bốn ngón cái và trỏ bẻ đôi quân tướng của Nhậm.
    *
    Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn ba tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thứ thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xoã chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ một dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đầu roi vút tiếng rít như rạch rách tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như vệt ong đốt, hay những giọt mực son rỏ lên vũng sữa, Huệ vung tay tới tấp.
    Khác với đêm hợp cẩn, Ngọc Hân rên rỉ, oằn oại kêu rất lớn. Nhưng nếu Ngọc Hân đau đớn, thì nỗi đau đớn đầy đắc thắng. Huệ quất roi như một kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì. Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến. Khuôn mặt Huệ toát ra vẻ mãn nguyện, thỏa mãn. Huệ chỉ buông roi khi Ngọc Hân đã ngã khụy dưới chân giường. Cảnh giao hoan của Huệ với Ngọc Hân, cũng không còn là cảnh cưỡng bức ban đầu, nếu dáng ngồi đè của Huệ vẫn in dáng hổ nhai mồi, thì hai cườm tay Ngọc Hân đã quấn chặt lấy cổ Huệ, và trên lưng Huệ đầy những vết cào của một con sư tử cái.

  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    *

    Tôi chơi với Hân từ thưở bé. Từ thưở Hân còn ưa chơi ô quan trong sân cung Vạn Thọ. Bao giờ tôi cũng về phe Hân. Vua Lê có hai mươi mốt vị công chúa, họ thường nhiếc tôi là cái đuôi của Hân. Tôi với Hân như đôi bạn, chẳng vậy mà ngày xuất giá, Hân chỉ mang theo mình tôi để hầu cận, người nhũ mẫu nuôi Hân từ thưở lọt lòng, Hân cũng không thiết. Hân mặc bộ áo lụa có thêu bông cúc, thân áo mềm như cuống hoa hải đường chỉ nở một lần rồi chết. Tôi lấy thau nước cho Hân rửa mặt. Nhìn khuôn mặt đẹp, mà nét mày não nùng, tôi không khỏi xúc động. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người xưa nói: hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù! Đất đai ở Bắc Hà này là của họ Lê, Hân tin như mấy đời nhà Lê tin vào mệnh trời, thế nước có hưng thì cũng có suy, nhưng bản mệnh họ Lê là trị vì trăm họ. Hân lấy gương lược chải lại tóc, lúc cong tay búi tó, Hân chợt chú ý chỗ ống tay áo mình lấm mực. Hân thõng tay nghĩ ngợi, rồi quay phắt lại hỏi tôi:
    - Bài phú hôm nọ còn giữ không?
    - Bẩm còn.
    - Đưa đây!
    Hân hơi gắt, mỗi lần mưu tính chuyện gì, Hân thường trở nên nóng nảy. Tôi hấp tấp chạy tìm lục trong số rương hòm vật dụng của Hân mang theo sang phủ Chúa. Mấy chiếc hài cườm, dăm cây quạt bông, một tập Chinh Phụ Ngâm ép ở giữa là bài phú. Hân sai tôi lấy bút, mài mực ra liễn. Hân đọc suốt lại 164 câu, rồi chữa, bỏ những đoạn mừng Tây Sơn vào Thăng Long, vẫn giữ nguyên những đoạn kể chiến công, chỉ thêm thắt chữa lại cho bài phú trở thành bài văn tế Huệ. Hân bảo tôi đè giấy, để mình ghi tựa. Ba chữ "Ai Tư Văn" sắc như dao khắc trên mặt gỗ. Nhẩm đi nhẩm lại, Hân nói với tôi vẫn câu "Mà nay áo vải cờ đào" là hay hơn cả. Không nói ra, nhưng nhìn đôi môi khinh bỉ, tôi hiểu Hân muốn ám chỉ ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng dõi quý tộc vương đế chính thống lâu đời như Hân. Âm hưởng của bài tế não lòng làm tôi rợn.
    - Phu nhân viết chi những lời ai oán. Thượng Công đã mệnh một đâu?
    - Rồi sẽ mệnh một! Viết sẵn sau này sẽ có dịp dùng!
    Hân đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi như sực nhớ ra điều gì, cầm lại bút, nhúng mực nắn nót đề ở cuối bài tế ba chữ: Lê Ngọc Hân. Hình như Hân do dự một giây rồi mới hạ bút quả quyết thêm vào hai chữ: Công Chúa. Không phải Nguyên Súy phu nhân, nhưng mãi mãi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, không bao giờ là người của Tây Sơn. Làm xong bài tế, Hân có vẻ vui thích lắm. Ánh mắt long lanh như buổi trưa cùng tôi đứng ở Nghênh Phong Lầu nhìn xuống sân phủ, đám vệ sĩ của Huệ loay hoay trui nướng cóc. Mùi cóc nướng, mùi thịt ướp sả, khói than, mồ hôi, da thịt trai tráng nồng nặc cả bao lơn. Trong bọn có gã vệ sĩ riêng của Huệ, người đen như cột đình, to lớn, kềnh càng chẳng khác một con khổng tượng. Gã vệ sĩ "cột đình" nắm hai chân sau cóc xé toạc nhai nhồm nhoàm, vừa ăn vừa lấy đoản côn đánh thùng thùng vào tấm khiên lớn đeo ở vai. Tấm thớt lưng săn chắc hung đỏ như thứ đồng dùng đúc lư, tưởng đứng đâu là chôn vững vàng xuống mặt đất vậy mà bất ngờ đổ kềnh, ngã nhào chúi sấp người đập mặt vào bếp lửa. Cái "cột đình" dẫy lên, hai tay co giật, hai chân đạp đạp như đôi chân của loài ếch. Gã trợn ngược mắt, xủi bọt ở mép rồi đứng tròng. Cả đám lính xô vội vỉ cóc đang nướng chảy mỡ, rùng rùng kéo chạy. Quang cảnh diễn ra thật gấp. Hân bấm mạnh tay tôi như khám phá ra điều gì. Miếng mật cóc đắng gã "cột đình" ăn phải, không ngờ ám ảnh Hân. Khi rỗi ngồi một mình, Hân thường ấp tay lên tay tôi, nhắc lại chuyện mật cóc ấy. Con khổng tượng, con thú lớn nhất của loài thú cũng có thể bị giết bởi thứ mật của con vật bé nhỏ nhất.
    Tôi kéo tay Hân, rủ ra ngoài bao lơn. Lầu Tử Các vắng lặng, trống trải, từng lớp bụi bay mờ trong nắng. Lá trúc rắc đầy bực tam cấp. Hân ngồi xuống bên cạnh tôi, lúc nãy sắc sảo linh hoạt bao nhiêu, bây giờ thẫn thờ như mất hồn. Hân sống như người bệnh trí từ hôm về với Huệ. Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời. Ngày mai Thái Đức đưa quân vào thành, rồi Huệ chuyển quân về Nam. Từ nhỏ tôi với Hân chưa bao giờ rời Thăng Long một bước, giờ phải xa kinh thành, qua xứ Nghệ hiểm trở để ra Phú Xuân. Đường vô xứ Nghệ quanh co... Tôi chắc lưỡi. Gió thổi phất những lọn tóc mai của Hân bay sẽ như sợi chỉ loảng. Màu hoa loa đỏ treo ở chậu bình bao lơn, cũng thẫn thờ đỏ như màu gấc ở đĩa xôi cúng vua Lê đặt ngoài hiên đã nguội khói. Mắt Hân nhìn về phía cung Vạn Thọ xa vắng. Hân bất chợt hỏi:
    - Nguyễn vong, Trịnh mạt, Tây Sơn diệt thì thiên hạ chỉ còn cách phù Lê phải không?
    Hân lấy chân du di tới lui trên mặt tam cấp, hỏi lại: Có phải không? Tôi siết tay Hân. Những đường gân xanh đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những đường gân của nặng nhọc tinh thần.
    - Huệ này! Thằng Nhậm có ý đồ riêng, thằng Chỉnh không ngay thẳng, hắn lại trêu tôi, tìm cớ mà giết đi để trừ họa!
    Hân nhìn tôi đăm đăm, như đang nói chuyện với Huệ. Giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo làm tôi hoảng:
    - Phu nhân! Tôi đây mà!
    - Láo! Vua băng sao không quỳ xuống!
    Hân ***g lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở. Nhục cha chưa trả, đã nhục con. Tang lễ vua Hiển Tông, tôi cùng nằm với Hân trên đất, cho đô tùy khiêng linh cửu dẫm lên như một nghĩa cử trả ơn cuối cùng. Huệ thì đứng dõng dạc, ngạo mạn, người ngựa ***g lộng cờ đào như diễn tập. Họ Lê đã mạt thật rồi!
    Chính sử của mỗi triều chép mỗi khác. Sau này tôi vẫn tự hỏi: những âm mưu của Ngọc Hân là đáng thương hay đáng tội? Chép trong chính sử Tây Sơn thì đáng tội. Xét theo sử triều Lê thì đáng phục. Nhưng sống trong một đất nước chỉ biết lấy chữ ?~?~Sát?T?T làm chuẩn thì mới thật đáng thương.
    Mấy lá trúc vàng, rây rắc gió cuốn rụng xuống Thăng Long xao xác hơn bao giờ.

    Hết

Chia sẻ trang này