1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ô-liu Hoàng Thổ ( II )
    MAI NINH
    Bà kéo khăn len chùm cao cổ cất tiếng dỗ dành :
    - Ăn chút xúp sữa đi cháu, hồi xưa mày vẫn thích, sữa dê không ngấy đâụ Ngày mai mụ Mát sẽ làm bánh đàọ Phải sang thu như bây giờ, đào núi mới thật thơm.
    Tôi ngạc nhiên :
    - Ai ở đây còn sức vào rừng hái đào ? Ghi hả bà ?
    - Ôi Ghi, cái thằng con trai còn sót lại có bao giờ làm chuyện này ! Nó chỉ loay hoay sửa mấy cái xe cho mọi người là đã hết ngàỵ Nó hỏi thăm cháu đấỵ
    Ngừng một chút, bà tiếp :
    - Thì thỉnh thoảng mấy ông già họp nhau cùng đi, chỉ tới bìa rừng đã có tráị Ấy vậy mà năm trước, chó sói tru xa, có ông tưởng chúng sắp xông ra, ngất xỉụ Chao ơi, thú dữ càng ngày càng sinh sản, còn ai vào săn bắn đâụ May chúng chưa vô làng.
    - Trong đất liền không ai ra giải quyết hở bà ? Lơ là tôi hỏi cho có lệ.
    Bà vội lắc đầu :
    - Không, lâu lâu mới có bọn trẻ về thăm bố mẹ ông bà, mà bọn thành thị này có ở lâu đâu cũng chẳng dám vô rừng, chỉ ham xuống biển săn cá, tìm san hô.
    Chiếc thìa khuấy nhẹ vài vòng, bà lại nói nhưng giọng rõ và ấm hơn :
    - Cũng may, từ đầu năm có ông ta xuất hiện.
    Tôi bỏ ngang muỗng xúp :
    - Ông nào ?
    - Ồ, ông Hêm, ông ta xưng là Hêm. Cháu chưa gặp cũng phải, ông ấy ở mút trên kia, thỉnh thoảng mới xuống cửa hiệu mụ Mát.
    Rồi bà đứng dậy khép cánh cửa, nhìn mông ra đêm tối :
    - Người gì mà kỳ lạ, không biết từ đâu đến.
    Chưa bao giờ tôi nghe giọng bà trầm như thế khi nói về một người đàn ông khác ông tôi, đã qua đời lúc bà chưa quá bốn mươị Kể từ lúc ấy, bà cất kín những bộ quần áo màu sắc cùng nữ trang gương lược vào mấy chiếc rương. Chúng đã phủ nhiều lớp bụi trong căn gác chứa đồ cũ từ ngày tôi chưa rời đảọ Mỗi khi nhắc đến, mẹ tôi vẫn cố tình thả vài câu :
    - Người nào cũng như bà mày, ở lại đó là phải muôn đời sống với quá khứ. Cái gì cũng già cỗi, cũng buồn đến chảy thiụ
    Nhưng lúc này tôi không muốn nghĩ tới lời nói dằn nặng ấy, mà chỉ ngạc nhiên trước giọng kể của bà tôi về người đàn ông lạ đó. Chẳng khác thường sao được khi không biết từ đâu đến, và tới đây giữa những con người chỉ còn quá khứ này để làm gì ? Với hành lý là hai chiếc rương sắt, một chiếc có ngăn riêng đựng súng săn và giáo nhọn, vài tấm mộc bằng da dầỵ Cái rương thứ nhì nhỏ xíu với ít quần áo, ngoài ra là những quyển vở học trò bọc bìa xanh. Ai cũng biết thế nhờ anh phu bến tàu khuân vác hành lý cho ông ta đã thầm thì rót vào những vành tai điếc đẫn tò mò.
    Nghe đâu con cháu lão Phê đã cho ông ấy thuê căn nhà bỏ trống từ ngày lão qua đời với một giá rất hờị Người ở đây bàn tán, chẳng biết ông Hêm ăn uống ra sao, làm những gì, ngoài một điều là từ ngày ông đến đảo thì về đêm, nhất là những đêm gió động, tiếng súng săn nổ rõ mồn một từ rừng sâu bên kia dãy núị Và ngoài một lần ông nổi giận tưng bừng giữa quán mụ Mát, như lời bà tôi thuật lạị Ông Hêm xuống quán tìm rượu, không chai nào mụ Mát đem ra hợp ý dù mụ đã cuống quít xuống dưới hầm nhà đem lên mấy chai cuối cùng của một mùa nho đã xưạ Buổi chiều là lúc những người đàn ông trên đảo tụ họp ngồi dưới tàn cây dẻ cao trước quán mụ Mát để uống vài giọt, nhìn bâng quơ và kể nhặt đôi câụ Làm sao họ chẳng giật thót người khi đột ngột ông Hêm hầm hầm bước từ quán ra vừa chỉ tay xuống bãi vườn khô không xa đấy lắm, giăng toàn cỏ hoang và sậy ở lưng đồi, vừa nói như hét :
    - Hai mươi năm trước, dưới đó toàn là nho, bốn năm giống nho khác nhau trộn vào làm thành loại rượu mà chỉ cần nói đến tên là một vinh dự cho cái đảo mấy người đang ở, có biết không.
    Rồi ông đùng đùng trèo lên chiếc xe 4x4, bỏ lại lớp bụi phủ xuống những khuôn mặt khô già ngờ ngẫn. Sau lần ấy, ít người gặp lại Hêm, nhưng tiếng súng săn đều đặn vọng về. Cũng lạ kỳ, không ai tỏ ý phiền trách lời lẽ cọc cằn trưởng thượng mà còn có vẻ an tâm với sự có mặt của ông tạ Như thể một người đàn ông đó đủ bảo vệ họ trước đe doạ của thú rừng. Bà tôi bảo các ông Phi, già Pát, bà Lị.. đã định bụng đem tặng Hêm rau đậu, bột mì. Nhưng anh phu bến tàu, người duy nhất giao dịch với Hêm cảnh cáo là điều đó vô ích, hình như ông ta chỉ ăn thịt thú và uống rượụ Sau lần chê rượu của mụ Mát, ông ta đã gọi gửi ra từ đất liền những thùng gỗ đầy vang đỏ. Anh phu xuýt xoa với những cái nhãn trên chai trang trọng, đẹp tuyệt vờị
    Không hiểu sao tất cả những gì tôi nghe về ông Hêm từ đêm trăng mang hấp lực kỳ lạ. Đến nỗi đôi lúc lôi được tôi ra khỏi vũng sương bủa kín hình ảnh Sam. Thỉnh thoảng khi bước đi trên đá vỡ của bờ tường trong nghĩa trang tôi đã ngửng về phía núi, nhìn nóc nhà cao phủ đá xám của lão Phê. Nếu muốn nhìn thấy ông Hêm tôi phải leo lên đó. Leo hay không ? hoặc là kiên nhẫn đợi một lần ông ta sẽ xuống làng. Cũng có lúc ông ta cần một thứ gì khác chứ, xăng dầu cho cái xe, cà-phê, xà phòng, dao cạo râụ.. hay một cú điện thoại cho ai đó. Tôi không tin rằng ngôi nhà hoang phế ấy còn một đường dâỵ Đêm thường nổi những cơn gió lạnh, tôi vẫn chui rúc trong chăn với hình bóng Sam ray rứt, nhưng cùng lúc cố tình mở hé cửa sổ, đợi chờ. Mỗi lần đoàng một tiếng dù rất mơ hồ tôi vẫn nghe như gần cận, và lạ lùng bà tôi dưới nhà cũng trở mình để thốt lên một âm thanh nhẹ ấm.
    v
    Cuối cùng tôi đã thấy Hêm, cùng với Ghi trên chiếc xe Golf đỏ của một du khách bỏ sửạ Trừ mùa đông biển động, những con tàu vẫn đều đều đưa vào đảo một số khách du lịch tò mò về phong cảnh lạ. Thường họ chỉ ghé qua rồi đi, ở lại một hai đêm là nhiều nhất vì ngoài mấy căn phòng trọ đơn sơ và quán ăn của vợ chồng già Pát thì chẳng còn gì để cung cấp những thứ tiện nghi của đất liền. Lâu lâu có người tưởng sẽ đi xa quanh đảo nên đem cả xe qua, thỉnh thoảng anh chàng Ghi có thêm công việc vá bánh xe nổ bởi đá nhọn trên đường vòng núi, chêm chế xăng dầụ Ghi đã gần hai mươi khi mẹ bắt tôi rời đảo, bây giờ vẫn nước da nâu ánh và chiếc răng khểnh duyên dáng. Ghi mồ côi sớm, chúng tôi gặp lại nhau trong buổi sáng tôi vừa bước vào đã thấy Ghi đang đưa chân đá gom những quả dẻ rụng đầy trên bia mộ bố mẹ anh tạ Ghi hát khẽ một điệu gì đó, hình như tôi có nghe hồi còn bé. Hai đứa nhìn nhau chăm chăm chẳng một câu, rồi sau đó lẳng lặng cùng ngồi trên một phiến mộ mòn nhẵn. Bấy giờ Ghi mới nói :
    - Nghe bà bảo Man tính ở luôn lại đâỵ
    Tôi không trả lời, chỉ giương mắt ngó. Hồi xưa Ghi thường đèo tôi sau xe đạp vòng những con đường lên xuống quanh làng và ra bến xem tàụ Anh cũng hay đem về cho tôi những nhánh san hô hồng như máu dù biết thứ này bán cho du khách sẽ được khối tiền. Tự nhiên nỗi ân hận dậy lên, mấy ngày trở lại đây tôi không hề rời căn nhà và cái nghĩa trang để đi thăm một ai, ngay cả Ghị Chưa biết nói thế nào thì Ghi ném cao quả dẻ nâu đang cầm trong tay về phiá biển :
    - Đừng. Khi nỗi đau đã qua, Man sẽ thấy không nơi nào buồn hơn đâỵ
    Gió rì rào hoà điệu với lời anh và những làn sóng đều đặn nổi cao, lăn chạy rồi tan biến dưới xa kia là chứng cớ đơn điệu rõ ràng. Nhưng làm sao Ghi hiểu nổi tất cả ước mơ tôi đã thành bọt nước, không một hi vọng về sự tái sinh như sóng lại được tuần tự đẩy trồi lên. Phi Châu xa mút với cảnh thổ hoang dã mà Sam chiều ý cùng đi, cho tôi được thoả giấc mơ sờ tay nhào những nắm đất vàng thắm với đủ loại đá khoáng óng ánh nặn thành đủ tượng hình. Trộn bao vỏ cây lạ với vô số lá rừng hoang để chưng cất thành chất mầu làm bóng đẹp lụa là hay nhuộm rưng mái tóc. Nhưng tất cả dự tính sôi sục đó đã tung biến vào hư vô cùng với Sam buổi sớm ấỵ
    Lovetolive[/size=18]
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Mai Ninh
    tên thật Trần thị Mai Ninh sinh năm 1950 tại Sài Gòn du học tại Pháp năm 1968
    hiện định cư và làm nghiên cứu khoa học tại Normandie
    đã cọng tác với các tạp chí : Kiến Thức Ngày Nay (Sài gòn), Diễn đàn (Pháp), Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thơ... (Hoa Kỳ), Việt (úc)
    tác phẩm đã xuất bản :
    Ðời Tôi (dịch từ Ma Vie của Marc Chagall nhà xuất bản Ðà Nẵng ấn hành 1997)
    Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất (truyện, Thời Mới, Toronto Canada 2000)
    Ô-liu Hoàng Thổ ( III )
    MAI NINH
    Có lẽ chán độc thoại, Ghi đứng lên rủ tôi đi trả chiếc xe Golf cho người khách. Ở khúc quẹo cao leo đồi chúng tôi đã thấy người đàn ông đang lững thững rẽ vào lối mòn. Chỉ cái dáng vóc chững chạc ấy tôi biết ngay là Hêm, không thể ai khác. Nghe tiếng xe, ông ta dừng ngoảnh lạị Mắt Ghi cũng xoáy vào Hêm, chân đạp thắng. Mái tóc thưa vuốt ngược ra sau cùng một màu sáng bạc với hàm râu quai nón và bộ ria mép tỉa đều, hai tay trong túi quần Hêm bước tới bên xe, tự nhiên :
    - Hê, chào cô bé và chàng thanh niên.
    Chưa để chúng tôi trả lời Hêm hỏi ngay một câu khiến tôi và Ghi giật mình :
    - Chiếc xe đỏ bóng lộn hay chàng trai đã dụ được cô nhỏ ra khỏi vòng tay người chết ?
    Cũng bằng cách tiếp cận nghiễm nhiên thẳng thừng đó Hêm đã đậu xe ngoài nghĩa trang hôm sau khi chiều ngả, áo sơ-mi dầy thong dong bỏ ngoài quần, lanh cặp mắt tinh quái ném qua hàng rào :
    - Chắc chắn là những chùm san hô vừa táp vào cồn cát bên kia hấp dẫn hơn mấy cành sồi già ở đâỵ
    Bất ngờ nghe tiếng ông tôi trố mắt ngạc nhiên, rồi cuối cùng đã trèo lên xe Hêm băng qua nhiều góc biển, ghềnh đá lẫn những vườn ô-liu bắt đầu rụng lá. Qua bao nhiêu năm cảnh vật tưởng từng quen đến thuộc lòng bỗng rạng lên bao sắc nét mới lạ dưới ánh mặt trời chuyển đổi thật nhanh, trước khi biến mất. Gió dưới biển lút qua những rặng cây để bốc lên thổi bay sương núị Núi lừng lững sau căn nhà lão Phê, vân thạch rực lên dưới nắng chiềụ Tôi ngỡ ngàng ngó sững thứ màu hoàng thổ vạch lưng chừng mắt. Hêm dừng xe trong sân, con chó săn dữ tợn xích ở góc phải đón chủ, vùng lên cuống sủạ Bên trái là đống củi than dưới trục sắt quay dùng nướng thịt, còn âm ỉ toả khóị Cửa chính để mở toang, tôi lạ lùng thấy Hêm đi vào lẹ làng như lướt.
    Chưa từng đến nhà này thời còn lão Phê nên tôi chẳng biết không gian mạnh bạo sậm màu của căn phòng khách với những tấm thảm dệt hình ảnh thú rừng cùng những đầu hươu hoẵng cong sừng gắn trên tường đang soi mói lẫn buồn rầu cúi nhìn tôi là thuộc về Hêm hay đã có từ trước. Không, đồ vật cảnh trí này chẳng thể xuất xứ từ lão Phê mà bà tôi vẫn cho là lệt bệt nhất làng. Nhưng anh phu bến tàu đã nói ngày ông ta lên đảo hành lý rất gọn. Chắc Hêm đã gọi gửi qua từ đất liền như những thùng rượu vang thiên hạ xì xàọ Chiếc rương sắt đen bóng chiếm một góc phòng và cây giáo dựng bên tường vuốt một đầu sắc lịm. Tôi đến gần tấm mộc da máng trên cột gỗ sồi đầu cầu thang đưa lên lầụ Những mảng da thú căng láng nổi chi chít đường gân như mạch máu khô, nối với nhau bằng chùm lông hung đỏ như để đóng tuồng. Tôi quay lại hỏi :
    - Chẳng lẽ mộc này dùng đi săn ?
    Hêm đang đứng quay lưng vào cửa sổ, đèn chưa thắp, nhưng tôi vẫn nhìn ra khuôn mặt bỗng nhiên bất động của ông trong ánh sáng là thấp cuối buổi chiềụ Hình như sau đó ông nhếch miệng :
    - Không thể săn bằng giáo ở rừng nàỵ Rõ uổng.
    - Tại sao không đánh cá ngoài biển mà hay vào rừng ? Tôi nói với Hêm những lời trống không kỳ quái, ông ta đáp lại bằng cái giọng thẳng đuột khó hiểu :
    - Săn cá làm gì ! Có chăng tìm sư tử trên cát trắng.
    Tối hôm ấy mẹ vẫn gọi ra từ thành phố ấy, như tôi một mực không cầm điện thoại mặc cái nhìn khẩn khoản của bà tôị Những ngày đầu bà dỗ dành :
    - Không về thì không về, ở lại thì ở lại, nhưng trả lời cho mẹ đi cháu, nói với nó một lờị
    Dĩ nhiên bà hiểu, nếu tôi cất tiếng mẹ sẽ tuôn ra từng tràng về cái không quan trọng, chẳng đáng để bi thương của một mối tình tuổi trẻ, về sự ngu muội tột cùng nếu tôi ở lại nơi này với cái thế giới tàn tạ. Tôi không muốn hình dung lại những đêm khuya sau cửa sổ thấy mẹ xuống xe, chào những người đàn ông đưa đón bằng nụ cười duyên dáng nhưng vẫn khẩy nét gì khinh bạc. Chẳng nhớ từ bao giờ, hình như năm tôi sáu tuổi lúc bố hoàn toàn bặt tin, mẹ bắt đầu dạy tôi phải nhìn những người đàn ông bằng ánh mắt tự trên caọ Mỗi lần như thế tôi lại nhớ khuôn mặt bà tôi nghiêng đắm trên tấm ảnh của ông để đầu giường. Nhưng hình ảnh níu giữ đằm thắm này ngày một mờ đi như trôi theo sóng biển.
    Không hẳn vì bà tôi tỏ ý lo ngại khi cháu mình đã đến nhà Hêm - dù bà chăm chú nghe với tất cả thích thú lời tôi thuật lại cuộc gặp gỡ - cũng không phải sau lần ấy người đàn ông đó đã mất sức hấp dẫn hay không còn là một điều bí ẩn đối với đứa con gái hai mươị Nhưng khi trở về, với đêm tối cùng cảm giác bàn tay Sam vẫn luồn trong chăn gối thì tôi lại thấy nháy mắt tinh lanh, giễu cợt của ông ta nhấp nhánh trong bóng cây ngoài cửa sổ. Chính ánh mắt thấp thoáng màu thú ấy khiến bỗng dưng da thịt tôi chạm vào Sam tê man, rồi trở thành cứng lạnh. Sam mải mê, loay hoay trong khi tôi vểnh tai như đang rình ngóng con mồị Rồi thót giật bắn người cùng tiếng súng nổ, đẩy Sam rơi xuống. Chàng níu lấy vai tôi nhưng chỉ tích tắc đã vụt chìm hay biến lẩn trong bóng đêm, rớt lại tiếng thở dàị Nên vừa sáng ngày, vùng chạy ngay sang khu phần mộ, tôi kết tội mình và dằn vặt gọi tên Sam. Những lần sau tôi đã lặng thinh cúi xuống đám rêu xanh mọc ẩm dưới lớp lá vàng dầy trên lối đi, mặc cho Hêm dừng xe gọi bên kia bờ ràọ Lạ một điều ông ta chẳng bao giờ bước chân vào hẳn trong nghĩa trang như thể có một biên giới vô hình ngăn chia, chặn lốị Càng lạ hơn khi đứa con gái không mấy nhút nhát vốn sẵn chút kiêu ngạo lại giữ được im lặng trước lời lẽ lắm lúc khiêu khích, châm chọc của người đàn ông ấỵ Cuối cùng Hêm rồ xe đi dưới đôi mắt bà tôi chong bên kia khuôn cửạ
    v
    Lần đầu tiên tôi ngồi lại trên thềm giữa bóng nắng trưa soi qua giàn hồng leo đã trụi lá. Bà đứng sau lưng chầm chậm chải gỡ những sợi tóc mà tôi chỉ tự cời bằng mấy ngón tay độ sau nàỵ Tôi muốn nắm lấy bàn tay dài thời gian ấy ấp vào má, tôi sắp quay lại để cặp mắt ươm tro bụi kia nhìn thấy nỗi đau và thương cảm của mình. Vừa lúc đó, cánh cổng sắt kêu nhỏ, bà Li lò dò đi vào với chùm cúc trắng. Li và bà tôi là hai khuôn mặt biểu tượng vẻ đẹp tươi sáng và tín cẩn trong hồn tôi, và chắc chắn cho tất cả những người nhìn thấy họ năm xưạ Giờ đây tuy đuôi mắt và vầng trán nhiều nếp tẻ dài vẫn nụ cười chúm chím nét thơ ngây, gò má Li còn thoáng hồng màu mận chín. Chỉ có những sợi tóc khô xám, dựng đứng ót sau và vắt bừa xuống bên taị Li mừng rỡ thấy tôi ngoan ngoãn ngồi đây thay vì dang tay lần dò trên bức tường long đá như thường lệ. Đặt bó hoa trong lòng tôi, Li cúi hôn âu yếm lên trán. Đứng vụt dậy kéo Li ngồi xuống ghế thay mình, tôi hỏi bà tôi về cái kéo cắt tóc cùng gương lược. Bà hướng mắt lên căn gác xép dưới nóc nhà.
    Căn gác năm sáu tuổi tôi leo lên cùng con búp bê tóc vàng óng ả, ru nó ngủ trong chiếc nôi mây từng buổi trưa hè thoáng gió biển len qua mái ngói, đập rập rình cánh cửa gỗ cong. Chiếc rương của ông Hêm bóng bẩy đường bệ bao nhiêu thì những cái của bà tôi khiêm nhường nằm trên nhau, lặng im từng lớp bụị Hẳn lâu rồi bà chẳng còn đủ sức bắc cái thang gỗ leo lên dù chỉ để chạm tay vào kỷ niệm. Chung quanh tường đầy giá kệ ông tôi đã đóng, đựng rất nhiều vật dụng lẫn sách báo đủ loạị Tủ kính nơi phòng khách dưới nhà toàn bày những cuốn đóng bìa da từng bộ cũ xưa và dĩ nhiên bà bảo là rất quý. Tôi tìm kéo cùng kẹp tóc của bà năm nào để thu vén mái tóc cho Li, loay hoay lật cái này lôi vật nọ, nhiều thứ theo đà rơi xuống sàn gỗ. Có cả những cuốn truyện Grimm cổ tích, tôi nằm cuộn tròn quấn cánh tay bố, thiêm thiếp trong khu vườn thần tiên với giọng bố đọc rì rào tiếng biển. Chẳng ngờ tập báo đó rơi xuống chân mở tung trên một hình ảnh rõ như sự thật. Tôi nhìn vào chăm chăm bàng hoàng, rồi cố giữ nhịp tim chạy bung xuống cầu thang tung ra đường, mặc Li vẫn hân hoan ngồi thẳng người ở ghế chờ tôi làm đẹp và bà cất tiếng gọi theo sửng sốt.
    Ghi đang lúi húi dưới gầm xe, tôi hổn hển hỏi Ghi cho mượn ngay tức khắc một chiếc nàọ Anh vội chùn người ra, nằm ngửa nhìn lên ngạc nhiên, lắc đầụ Xe của anh thì già Pát đã lấy đi chở hàng vào bến. Thất vọng tôi bước ra, chợt thấy cạnh gốc ngô đồng chiếc xe gắn máy xộc xệch anh vẫn dùng chạy rong thăm viếng dân làng, thỉnh thoảng chuyển đưa gói thuốc, cuộn phim hài hay phần bánh mà mụ Mát chia cho ông Đôn đang ốm dở, cài sau yên xẹ Vội vàng tôi nhảy lên đạp máy nhưng vụng về hai ba lần không nổ. Ghi đến gần chẳng một lời, cúi xuống nhặt đưa tờ báo tôi đã đánh rơi rồi ra hiệu để anh đạp hộ. Tôi phóng xe lên đồi, gió tốc buốt chiếc pull mỏng thùng thình. Tóc quất từng vạt, đầu tôi tê điếng. Nhiều lần tờ báo kẹp cứng giữa cần xe chực vuột bay qua vực đá cheo leo trên những đầu ngọn sóng.
    Khi tôi lên đến nơi Hêm đang ngồi thềm cửa, khẩu súng săn dựa bên và nùi giẻ vất dưới chân, tay đang xoay vòng rượu đậm trong ly thuỷ tinh. Vẫn trên yên xe, tôi hoang mang nhìn đăm đăm vào khuôn mặt ông, nắng sáng trên hàm râu quai nón và làn da rạm dầỵ Nhưng bỗng dưng bộ mặt ấy nhoà đi như vừa bị xoá trắng bởi những vệt sơn quẹt vội, thế rồi nó lại bất ngờ hiện ra cùng tiếng gọi thản nhiên :
    - Chào cô bé, lại đây ngồi chơị
    Gấp rút là thế nhưng bây giờ co chân bên cạnh Hêm trên bực đá này tôi chưa nói được câu nào, tờ tạp chí kẹp giữa hai đầu gối, trước tôi ne né, sau lại nhìn ông trâng trâng. Hêm biết nhưng lặng thinh để tôi trơ tráo, hẳn xem như một trò đùa, mãi sau bâng quơ :
    - Khi người ta đắp xong nấm mộ, họ nghĩ rằng chẳng bao giờ gặp người chết nữạ
    Tôi rùng mình gai người nhưng cố hỏi giật giọng :
    - Ông từ đâu tới ?
    Lovetolive[/size=18]
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ô-liu Hoàng Thổ ( IV )
    MAI NINH
    - Từ sâu trong Thung lũng Mặt trờị Hêm điềm nhiên trả lời, hướng mắt thật xa về phía vầng sáng tròn to đang sửa soạn lặn dần vào biển. Ông chợt quay lại lặng lẽ nhìn tôi rồi chậm rãi :
    - Cái xứ đó hùng vĩ nhưng không hoang dại quyến rũ bằng Châu Phi mà cô muốn đến. Sao không đi đi, ở lại đây chẳng ích gì cho ai, cả người chết của cô và đám ông già bà lãọ
    Người chết của cô, Sam của tôi ! Cơn giận nghẹn ngực và sự lạ lùng chen sợ hãi khiến hồi lâu sau tôi mới nói được :
    - Ai chết ! Còn những người già ấy, họ thương tôị
    - Ừ, họ thương nhưng họ làm được gì ! Giả thử anh chàng của cô bị một du khách chạy xe ngang đây đụng chết rồi bỏ đi như vậy thì sao ? À, hằng ngày họ sẽ sắp hàng ngồi trên băng đá ở lối vào làng để kiến nghiệm từng chiếc xe vụt qua mà không thể nhận ra cái nào là thủ phạm.
    Tức thì hiện ra trước mắt tôi những bộ mặt nhăn nhúm, những con mắt lờ đờ ngoái từ trái sang phải theo chiều xe rồi loà dần loà dần. Tôi không còn đủ sức để ngạc nhiên về một điều gì nữa trước người đàn ông này mà khuôn mặt bây giờ đã trở thành một mảng trắng chờn vờn, tiếng nói lúc rành mạch lúc rền rền như chuông vọng cõi xạ Tuy thế tôi cố cãi rằng bọn người thành phố càng tệ mạt hơn, dửng dưng và không hiệu lực gì trong việc tra tìm chiếc xe giết người, húc Sam hôm ấỵ Hêm chặn lại bằng một câu rất gọn :
    - Chính mình còn bỏ trốn ra đây thì ai hơi đâu bận tâm. Đâu cũng thế, điều cần thiết là phải biết có mặt đúng chỗ.
    Sau đó dường như ông ta còn muốn tôi phải nghe nhiều thứ nữa, những mũi dao xoáy trong mảng óc nhờn liệt của tôị Hết chịu đựng nổi, tôi đứng dậy bước vào nhà. Vẫn những đầu hươu và lợn rừng chăm bẳm nhưng không gian lần này khác hẳn trước, ảo ảo hư hư. Ngay cả mấy cuốn vở kẻ dòng bìa xanh bây giờ tôi đã biết là gì của ông tạ Nhưng khi lật ra, thật chẳng ngờ chúng hoàn toàn trinh nguyên, không nét chữ. Hêm đứng sau lưng từ bao giờ tựa đợi chờ câu hỏị Thấy tôi chỉ nhìn vào những trang giấy mà không nói, nên cuối cùng ông tự trả lời :
    - Bắt đầu từ dạo đó, được thênh thang một mình vứt bỏ mọi ràng buộc, gia đình, bạn bè, danh vọng, thế sự, chiến tranh, ngay cả những đống sách vở mà mình cho rằng không có chúng thì con người chỉ là thứ bọt nước rong rêu tầm thường. Chẳng muốn đọc gì nữa nhưng nghĩ rằng thỉnh thoảng nên ghi chép vài điều lý thú.
    - Nhưng... những quyển vở này chưa có chữ nàọ Tôi ngắt lờị
    - À, ờ...tôi sẽ khởi đầu, mà cũng có thể không bao giờ. Biết đâụ
    Lúc này thì tôi đã bớt lao đao và hoang mang. Đôi mắt tinh nhanh và vành miệng sóng mũi Hêm dần dần hiện ra rõ nét hơn. Chỉ những lằn nhăn vầng trán là còn lẫn lộn trong vệt sơn nhoà nhoà hư thực. Chúng tôi trở ra ngồi lại thềm đá cửa, buổi chiều đã thực sự rơi xuống sau rặng cây đen biên giới bìa rừng. Hêm kể về hành trình khởi đi từ Thung Lũng Mặt Trời, sang Havane, vòng qua Paris, xuống Madrid, quay lại Kenya nhưng ông không ghé thăm trò chuyện với bất cứ quen biết nào xưa cũ. Khi ông nói đến Phi Châu hồn tôi lại sục bùng những mơ ước náo nức tưởng phải vùi chôn. Tôi hỏi ông tất cả về nơi ấy và cuối cùng, khi bóng tối đã choàng khắp khu đồi, chỉ để vương chút ánh đỏ lập loè từ đống củi tro mà chừng như Hêm cố tình giữ lửa, tôi mới nói ra câu muốn hỏi từ đầu :
    - Làm sao cho Sam có thể trở về cõi người như ông ?
    Hêm im lặng vài giây rồi xoay hẳn lại nhìn tôị Cũng chính lúc ấy thì khuôn mặt ông hoàn toàn hiển lộ, trọn vẹn vòm trán nám nâu đầy tàn nhang nhưng mạnh mẽ, bộ râu bạc sáng ánh trăng. Ông cầm tờ báo vẫn nằm trên đùi tôi nhưng không mở ra lại đặt xuống. Bỗng ông đưa hai tay nắm cứng hai bờ vai tôi, giọng thẳng thừng :
    - Không có biên giới giữa sống và chết. Không phải chỉ đoàng đoàng hai phát súng tự chĩa vào mình là có thể chấm dứt tất cả. Tôi và đám già lão thân thuộc của cô ở đây ai sống và ai chết ? Tôi bảo đảm Sam đang ngao du đó đây như tôi thời đầu được giải thoát. Còn cô, đừng tưởng cách duy nhất để tang Sam là lầm lũi ở lại đảo này, đấy chỉ là một sự chạy trốn dễ dàng nhưng vô ích, một cái chết dần mòn, ngu xuẩn.
    Cầm ly rượu Hêm đã rót, tôi ngắm màu nho thẫm như máu sắp đông, dưới cặp mắt chăm chú của ông tạ Ha, tôi biết Hêm đợi con bé ngồi cạnh nói một câu phản kháng hay công kích nhưng tự nhiên tôi thấy cổ mình khô rát nên đưa ly uống cạn. Mùi nồng bốc lên mũi, rạo trong ruột, và lạ thay tôi bắt đầu nghĩ đến những miếng thịt rừng cháy thơm trên lửạ
    v
    Từ đầu trưa khi những người đàn ông còn cố giữ điềm tĩnh để ngồi đợi dưới cây dẻ trước cửa hàng mụ Mát thì ngoài sân lẫn trong nhà bà tôi hầu như tụ họp gần đủ các phụ nữ của làng nàỵ Tôi bận tíu tít suốt từ sáng, bà tôi cũng không ngừng chạy ra chạy vào lấy thêm ghế, pha thêm trà và đưa tôi tấm khăn cùng quét gom những mớ tóc rớt xuống sàn. Bao nhiêu tiếng nói rộn rã, nét hớn hở không khác trẻ con chờ ngày hội lớn hiện rõ trên những khuôn mặt chùng dấu thời gian. Họ nghe lời Li quảng cáo ùn ùn kéo đến cho tôi cắt tóc, chải chuốt, điểm thêm chút phấn hồng. Mụ Mát đeo tấm tạp dề phục phịch chạy tới, chỉ kịp ló đầu vào dặn tôi cố đợi mụ đóng cửa tiệm sớm. Bà An kéo theo Êmi, Mun rồi đến Nina đem theo mấy chiếc áo mặc vào, thử cái này cái khác nhờ tôi chọn lựạ Tất cả xúm xít ngắm nghía đầu tóc mới, chăm chú trầm ngâm lẫn ngỡ ngàng trước gương như thể đã quên mất bóng dáng mình từ lâu lắm. Có những mái tóc còn mềm nhưng màu đã bệch đi với nước thời gian và gió biển. Chúng càng khiến tôi nôn nao tiếc nuối dự án dùng lá rừng thảo mộc chế thành màu nhuộm tóc của Sam, từ bạc rựng sáng đến nâu óng chuốt, đồng hung, thu đỏ. Những sợi tóc già nua này phải được hun lên bằng sức nóng cùng sắc mầu của trời và đất để giữ lấy sự sống.
    Lúc tất cả những người đàn bà đã vội vã gom thu áo sống với nữ trang, những thứ ướp sâu mùi thời gian trong lòng gỗ cũ được dịp rũ tung giữa khí trời, và ra khỏi nhà để cùng nhau lên đường thì bà tôi xem chừng thấm mệt. Bà ngồi xuống chiếc ghế bành vẫn kê bên cửa sổ, nhắm mắt và thở nhè nhẹ. Tôi đến cạnh vuốt những sợi tóc thân quen và đôi vai mà hôm nay tôi mới nhận ra là gầy guộc, nhớ xa xót hình ảnh bà cười đôn hậu, cặp má đầy và ánh mắt còn xanh trong vào những ngày tôi ngồi trên đùi mẹ trong vườn nắng. Nhưng hình như bà mỉm cười, bà đang trả lại tôi nét cười thanh thả ánh điều gì thích thú. Tôi vội lôi chiếc thang gỗ, trèo lên gác xép, mở tung chiếc rương trên cùng, may thay trong ấy là quần áọ Chiếc áo nhung dài màu ngọc lam phớt dịu lên người bà, những nếp tóc tôi cuốn lọn rồi kẹp cao lộ vuốt gáy thanh mảnh. Tôi đeo vòng trai muốt trắng quanh cổ bà rồi hôn khẽ lên má. Bà đẩy nhẹ cháu mình ra, đáy mắt reo vui bởi hai giọt nước ngập ngừng.
    Chúng tôi được Ghi đưa xe lên căn nhà cao mút của lão Phê khi lửa đang bùng cháy giữa khuôn sân. Mấy ngọn đuốc sáng cắm đó đây rạng tươi vải vóc, khuôn mặt và mái tóc của những người khách Hêm mời đêm naỵ Có nụ cười nhút nhát móm mém chen với tiếng nói bỗng nhiên rộn rã, hả hê. Bà tôi hơi e dè vịn cánh tay tôi và láy mắt về phía mùi thịt bốc khói ngậy thơm trên than củi, thầm thì :
    - Toàn đám răng rụng gần hết, làm sao ăn hở cháụ Mà không biết là thịt gì nữa, có ai quen ăn mấy thứ này đâụ
    Tôi trấn an :
    - Hình như gà rừng bà ạ, dễ thôị
    Vừa lúc ấy, Hêm đã đến bên :
    - Chưa lần nào tôi ngửi ra gấu hay sư tử ở đây, chỉ vài chú heo, nai, chán thật.
    Tôi nghịch ngợm nhìn Hêm :
    - Đâu còn thời ông hạ được cả một con hà mã !
    Ông nháy cười trả lạị Còn bà hết ngó tôi rồi quay sang Hêm, ngơ ngẩn chẳng hiểu gì. Hôm ấy trăng lên thật cao, trời khá lạnh, khí núi sương sương, vậy mà bà tôi cùng tất cả những con người kiên trì với nơi chốn hầu đã bị đời bỏ quên, nói cười rộn ràng bên lửa ấm. Gương mặt đầy nếp nhăn của họ căng lên, hồng đỏ qua màu rượụ Những hàm răng trệu trạo nhóm nhém từng miếng thịt vàng chất ngọt, chảy lan xuống cằm. Họ nắm tay nhau nhảy tròn theo điệu nhạc do Ghi và anh phu bến tàu thay nhau cho quay mấy cái đĩa bốn lăm, ba mươi ba vòng cũ rích nhưng là loại nhạc quen thuộc dân làng năm xưạ Rồi là tango, pasodoble và một điệu valse chầm chậm thư thả. Tấm áo xanh mềm mại của bà tôi lánh óng mỗi lần tôi ngóng qua tia lửạ Cùng một lúc tôi cũng chạm vào ánh mắt Hêm đứng dựa cửa nhìn họ với ly rượu trong taỵ Có lúc dường như ông nhắm mắt lại, cả khuôn mặt bỗng nhiên lại toang mờ vệt sơn hư ảọ
    Tôi không nói từ biệt Hêm buổi sáng hôm sau trước khi bước xuống tàụ Ghi đứng cạnh bà im lặng. Bà đưa khăn thấm nước mắt nhưng tôi biết bà yên lòng hơn ngày tôi đặt chân lên bờ. Qua những cành ô-liu trơ lá tôi cố tìm nhưng không thấy được rõ ràng căn nhà lão Phê, chỉ thoáng một góc mái nhô lên xám bạc. Vách hoàng thổ rưng mắt dưới mặt trờị Chẳng cho ai biết, nên cuộc ra đi cũng có nghĩa trở về này chỉ có bà và Ghi đưa tôi ra bến. Những thân thể già nua kia còn đang yên ngủ, thả dài nghỉ ngơi sau một tối đêm được rộn rạo hân hoan trở ngược thời gian. Lúc Ghi đưa cho chiếc túi hành lý tôi rút ra tờ tạp chí có tấm chân dung in chồng lên góc một bức hình gia đình bạn bè Hêm và ông cố đạo đang đọc kinh hạ huyệt giữa một vùng đất mênh mông. Có những cột chữ thông báo một mất mát lớn cho thế gian, theo người viết. Định đưa nó lại cho bà, nhưng chợt hiện ra ánh mắt Hêm tinh quái, Hêm đang nói thật nhỏ, chỉ đủ tôi nghe :
    - Hãy để tôi được rong chơi, đừng làm họ sợ, không thấy rằng họ đang vui saọ Đường đi Phi Châu chẳng có gì khó khăn. Tôi sẽ nói lại với Sam, khi nào gặp.
    Mai Ninh
    (đầu tháng 11, hai ngàn)
    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Tình Yêu Cuộc Sống ( I )
    Jack London
    Họ hì hụi tập tễnh xuống bờ suối, và có lần gã đi đầu trong số hai người loạng choạng giữa lớp đá lởm chởm. Họ mệt, yếu lử lả và mặt họ thuỗn ra cái vẻ nhẫn nại do chịu đựng gian khổ đã lâu. Họ đeo những bó nặng bọc mềm có quai đeo vào vai. Những bọc này còn có những đai đầu quàng qua trán cho đỡ nặng. Mỗi người mang một cây súng trường. Họ bước đi trong tư thế lom khom, vai chúi hẳn về đằng trước, đầu còn nhô xa hơn, mắt cúi gằm xuống đất.
    - Giá như chúng mình có hai viên đạn ở chỗ giấu của chúng mình - người thứ hai nói.
    Giọng gã hoàn toàn vô cảm một cách buồn tẻ. Gã nói không một chút hào hứng; và người đi đầu trật trà trật trưỡng trong dòng suối trắng như sữa sủi bọt trên những mô đá, không buồn trả lời.
    Gã kia theo sát gót hắn ta. Họ không cởi giày, tất gì hết, mặc dầu nước giá lạnh, lạnh đến nỗi đau cả mắt cá và bàn chân tê cóng. Có những chỗ, nước xô vào đầu gối họ, và cả hai chệnh choạng quờ tìm chỗ đặt chân.
    Gã đi sau trượt chân trên một phiến đá nhẵn lì, suýt ngã, nhưng hết sức cố gắng gượng dậy, đồng thời ré lên một tiếng kêu đau. Gã có vẻ lả đi, chóng mặt và trong khi lảo đảo, giơ bàn tay rảnh ra như muốn níu vào không khí. Khi đứng vững rồi, gã bước tiếp nhưng lại lảo đảo và suýt ngã lần nữa. Rồi gã đứng im và nhìn người kia, tay này không ngoảnh đầu lại lấy một lần.
    Gã đứng im cả một phút như bàn luận với chính mình, rồi lên tiếng gọi:
    - Này Bil, mình bị trẹo mắt cá rồi.
    Bil vẫn ngật ngưỡng đi qua dòng nước trắng sữa. Hắn không quay lại nhìn. Gã kia ngó theo hắn đi và tuy mặt gã vẫn đờ đẫn như trước, nhưng cặp mắt thì lại như mắt một con nai bị thương.
    Người nọ tập tễnh lên bờ bên kia và tiếp tục đi thẳng không nhìn lại. Gã ở giữa dòng ngó theo. Môi gã run rẩy khiến lớp lông nâu phủ bên trên động đậy rõ rệt. Cả lưỡi gã cũng thè ra liếm môi.
    - Bil ! - gã gọi to
    Đó là tiếng kêu khẩn cầu của một người khoẻ mạnh trong cơn quẫn bách, nhưng Bil không ngoái đầu lại. Gã kia nhìn theo hắn đi, tập tễnh đến tức cười và loạng quạng tiến dần từng bước theo bờ dốc thoải hướng tới nét lượn mềm in lên nền trời của trái đồi thấp. Gã nhìn theo cho đến khi Bil đi qua đỉnh đồi và biến mất. Rồi gã xoay hướng nhìn và từ từ đảo mắt vòng quanh thế giới còn lại với gã giờ đây khi Bil đã đi khỏi.
    Gần chân trời , vầng dương thoi thóp mờ mờ, gần như bị những đám sương mù và hơi không ra hình thù gì che khuất, gây một cảm giác về tảng khối và đậm đặc không đường nét hoặc không cụ thể. gã rút đồng hồ ra xem, dồn trọng lượng toàn thân trên một chân. Đã bốn giờ và vì đận này đã gần cuối tháng bảy hay đầu tháng tám - trong vòng một, hai tuần nay, gã không còn nhớ đích xác ngày tháng - gã biết là mặt trời lúc này ang áng chỉ hướng tây bắc. Gã nhìn về phía nam và biết răng đâu đó bên kia những trái đồi heo hút này, là Hồ Gấu Lớn; gã cũng biết rằng ở phía ấy vòng tròn bắc cực cắt ngang vùng hoang địa Canada. Con suối mà gã đang đứng giữa dòng là một nguồn tiếp nước ra sông Mỏ Đồng, sông này lại chảy theo hướng bắc đổ vào Vịnh Đăng Quang và Bắc Băng Dương. Gã chưa bao giờ tới đó, nhưng gã đã thấy nơi ấy một lần trên một tấm bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn.
    Một lần nữa, mắt gã lại đảo khắp một vong cái thế giới quanh gã. Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là đường chân trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to, cây nhỏ cũng chẳng có cỏ, chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều mênh mông và ghê gớm, khiến cái sợ mau chóng nhóm lên trong mắt gã.
    - Bil ! - gã thì thào, một lần rồi hai lần : - Bil !
    Gã co ro giữa dòng nước trắng sữa, như thể khoảng không rộng lớn đang ép lên gã với một sức mạnh áp đảo, đè dí gã một cách thô bạo với sự uy nghi đầy tự mãn của nó. Gã bắt đầu run lên như cơn sốt, cho đến khi cây súng rơi đánh tõm khỏi tay gã . Điều đó có tác dụng khuấy động gã. Gã đấu tranh với nỗi sợ và trấn tĩnh lại, mò xuống nước nhặt cây súng lên. Gã nhích cái bọc qua về phía vai trái, để chuyển bớt một phần trọng lượng khỏi đè lên phía mắt cá bị thương. Rồi gã từ từ và thận trọng tiến vào bờ, mặt nhăn nhó vì đau.
    Gã không dừng lại. Với một sự tuyệt vọng như điên, bất kể đau, gã hối hả lên dốc tới tận đỉnh đồi, nơi ban gã đã đi khuất, dáng vẻ còn tức cười hơn nhiều so với tay bạn tập tễnh, ngật ngưỡng nọ. Nhưng tới đỉnh, gã trông thấy một thung lũng nông, trống vắng sự sống. Gã lại đấu tranh với cái sợ, vựot lên được , nhích thêm cái bọc qua nửa vòng phía vai trái và tiếp tục lảo đảo xuống dốc.
    Đáy thung lũng sũng nước được lớp rêu dày, tựa bọt biển, hút xâm xấp trên mặt. Nước ấy, cứ mỗi bước, lại bắn vọt từ dưới chân gã và mỗi lần gã nhấc chân lên, lại nghe kêu đánh oạp khi lớp rêu ướt miễn cưỡng nhả ra. Gã lách đường từ đám lầy này sang đám lầy khác và dò theo dấu chân của người kia, dọc, ngang những gờ đá lô nhô như những hòn đảo nhỏ giữa biển rêu.
    Tuy có một mình, nhưng gã không lạc. Gã biết đi quá nữa, gã sẽ đến chỗ có những cây vân sam và linh sam chết nhỏ xíu và quắt queo bên bờ một con hồ nhỏ, Titsinisili, tiếng địa phương có nghĩa là " Vùng đất của những chiếc que nhỏ ". Và chảy vào hồ ấy, là một con suối nhỏ, nước không lờ lờ màu trắng sữa. Trên bờ dòng suối này có cỏ bấc, điều này gã nhớ rất rõ, nhưng không có cây to, và gã sẽ ngược theo nó đến đầu nguồn của một đường phân thuỷ. Gã sẽ qua đường phân thuỷ đó, tới đầu nguồn một con suối khác chảy vào sông, ở đấy gã sẽ tìm thấy một chỗ cất giấu dưới một cái xuồng lật xấp, với nhiều phiến đá xếp chồng lên trên. Và trong chỗ cất giấu ấy, sẽ có đạn cho cây súng rỗng không của gã, lưỡi câu và dây câu, một cái lưỡi nhỏ , tất cả những thứ đó dùng cho việc giết và bẫy mồi làm thức ăn. Gã cũng sẽ tìm thấy bột mì, không nhiều, một miếng thịt lợn và chút ít đậu.
    Bil sẽ đợi gã ở đó và họ sẽ chèo xuồng xuôi về nam trên sông Đijơ đến Hồ Gấu Lớn. Và họ sẽ xuyên qua hồ về phía nam, cứ phía nam đi miết cho đến khi tới sông Meckenji. và lại hướng nam, vẫn hướng nam, họ sẽ tiếp tục đi, trong khi mùa đông hoài công đuổi theo họ, băng đóng trong những xoáy nước, và ngày trở nên lạnh giá và hanh, cứ hướng nam mà tiến, đến một trạm ấm áp nào đó của công ty Vịnh Haxđơn, ở đó có cây mọc cao và thoáng, ở đó có ê hề đồ ăn, thức uống.
    Đó là những ý nghĩ của người đàn ông này, khi gã gắng sức dấn bước. Nhưng dầu nỗ lực mấy về thể xác, gã cũng nỗ lực không kém về tinh thần, cố nghĩ rằng Bil không bỏ gã, rằng Bil chắc chắn sẽ chờ gã ở chỗ cất giấu. Gã buộc phải nghĩ vậy, nếu không thì việc gì phải ráng sức, cứ nằm xuống và chết cho rồi. Và trong khi mặt trời như quả cầu mờ từ từ lặn xuống mé tây bắc, gã điểm qua suốt lượt, nhiều lần, từng phần một chặng đương trốn chạy xuống phía nam của gã và Bil trước khi mùa đông tới. Và gã xem đi xét lại những đồ ăn ở nơi cất giấu và ở trạm của mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuôtcông ty Vịnh Haxđơn. Đã hai ngày, gã không ăn gì cả, trong một thời gian dài hơn thế nhiều, gã phải bóp miệng, không có đủ những gì gã muốn ăn. Nhiều lúc, gã cúi xuống nhặt những quả tai tái mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuốt. Đó là một tí hạt bọc trong một tí cùi nước. Bỏ vào mồm, cùi nước tan ra và hạt nhai găn gắt, đắng nghét. Gã biết quả ấy chẳng bổ béo gì, song cứ kiên nhẫn nhai, với một hi vọng lớn hơn kiến thức và bất chấp kinh nghiệm.
    Đến chín giờ, gã vấp ngón chân vào một mô đá và chỉ vì mệt và yếu, gã lảo đảo, quỵ ngã. Gã nằm nghiêng một lúc, không động cựa. Rồi gã rút tay ra khỏi quai đeo bọc và lóng ngóng gượng ngồi dậy. Trời chưa tối hẳn và trong ánh hoàng hôn còn vương lại, gã rờ rẫm quanh, tìm những mảng rêu khô giữa những phiến đá. Khi đã vun lại được một đống, gã đốt lên một ngọn lửa, một ngọn lửa lom rom, lem nhem, và đặt lên một bình thiếc đựng nướcđể đun sôi.
    Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi bảy que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói bằng giấy dầu, cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá đã rỗng không , một bó khác vào đai trong của chiếc mũ nhàu nát, bó thứ ba vào dưới ngực áo sơ mi. Làm xong việc đó, gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại. Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que.
    Gã hong giầy tất bên bếp lửa cho khô. Đôi giày da đanh rách bươm, ướt sũng. Bít tất nhiều nhỗ thủng, chân gã trầy da cà rướm máu. Mắt cá giần giật và gã xem xét kỹ chỗ đau. Nó đã sưng lên to bằng đầu gối. Gã xé ở một trong hai tấm mền ra một miếng dài và buộc chặt lấy mắt cá. Gã xé thêm nhiều dải khác buộc quanh hai chân thay cả giầy lẫn tất. Rồi gã uống bình nước nóng bốc hơi, lên giây đồng hồ và mò vào giữa hai lớp mền chăn.
    Gã ngủ như chết. Bóng tối ngắn ngủi vào khoảng nửa đêm, đến rồi đi. Măth trời lên ở mạn đông bắc, chí ít là ngày đã rạng ở khu vực ấy, vì mặt trời bị những đám mây xám che khuất.
    Sáu giờ, gã thức giấc, nằm ngủ bình thản. Gã nhìn thẳng lên bầu trời xám và biết rằng mình đói. Khi chống khuỷu tay xoay người đi, gã giật mình vì một tiếng khịt to và trông thấy một con tuần lộc caribu đực đang nhìn gã với vẻ tò mò cảnh giác. Con vật cách gã không quá mười lăm mét và lập tức trong óc gã bật lên hình ảnh và vị thơm ngon của một miếng bit-tết caribu rán xèo trên bếp lửa. Như cái máy, gã với tay ra lấy cây súng rỗng không nhằm và bóp cò. Con tuần lộc khịt khịt và nhảy đi, móng nện lóc cóc khi chạy qua những mô đá.
    Gã rủa một tiếng rồi quẳng cây súng rỗng không khỏi mình. Gã rên to khi bắt đầu nhổm người đứng dậy. Đó là một công việc chậm chạp và gay go. Các khớp xương của gã như những bản lề gỉ. Chúng ngúc ngắc khó khăn trong hốc xương vì cọ sát nhiều, và mỗi động tác gập vào hay duỗi ra đều chỉ thực hiện được với sự cố gắng ghê gớm. Cuối cùng khi gã điều khiển được đôi chân, lại mất độ một phút nữa để đứng thẳng lên được, đứng như tư thế của một con người.
    Gã bò lên một cái gò nhỏ và nhìn khắp xung quanh. Không có cây to, cũng chẳng có cây bụi, chẳng có gì ngoài một biển rêu xám, lác đác điểm xuyết bằng những tảng đá xám, những hồ nhỏ màu xám, những suối nhỏ màu xám. Bầu trời cũng xám. Không có nắng, cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của mặt trời ; gã không còn biết đâu là phương bắc và gã đã quên đêm qua gã đã đến chỗ này bằng cách nào. Nhưng gã không lạc. Điều đó thì gã biết. Chẳng bao lâu gã sẽ đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ . Gã cảm thấy nó nằm bên trái đâu đấy không xa, có thể nagy sau trái đồi thấp sắp tới.
    Gã quay lại xếp cái bọc cho vuông vức để lên đường. Gã kiểm tra cho chắc chắn là vẫn còn ba gói diêm riêng rẽ, tuy nhiên gã không mất thì giờ đếm lại. Nhưng gã có lần chần, cân nhắc về một cái túi da nai bè bè. Nó không to. Gã có thể che dấu nó dưới hai bàn tay mình. Gã biết nó nặng mười lăm "pao" - bằng phần còn lại của cái bọc- và nó làm gã băn khoăn. Cuối cùng, gã để nó sang một bên và cuộn cái bọc lại. Gã ngừng lạ, đăm đăm nhìn cái túi da nai bè bè. Gã nhặt vội nó lên, đưa mắt nhìn quanh ra chiều thách thức, tựa hồ sự hoang sơ đang chực cướp nó đi vậy, và khi gã đứng dậy để loạng choạng đi vào ngày mới, thì nó đã được gói gọn trong cái bọc trên lưng.
    Gã rẽ sang bên trái, thỉnh thoảng dừng lại để ăn những trái cây đầm lầy. Mắt cá gã đã cứng ngắc, bước đi cà nhắc hơn, nhưng cái đau ấy hồ như chẳng thấm gì so với cái đau hành hạ dạ dày. Những cơn đói quặn thắt ruột thắt gan cứ nhay huỷ cho đến khi gã không thể giữ cho đầu óc tập trung vào lộ trình gã phải theo để tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Những trái cây đầm lầy không làm sao giảm nhẹ được sự nhay nghiến đấy, mà chỉ làm cho lưỡi và vòm miệng gã đau rộp lên.
    Gã tới một thung lũng, tại đó gà gô núi đá vỗ cánh rào rào bay lên từ những gờ đá và bãi lầy. "Kéc ... kéc ... kéc ", chúng kêu như vậy. Gã lấy đá ném nhưng không trúng con nào. Gã đặt cái bọc xuống đất và rón rén đến gần chúng như mèo định lén bắt chim sẻ. Đá nhọn cứa qua ống quần đến độ đầu gối gã để lại một vết máu. Nhưng cái đau ấy chìm trong cái đau đói bụng. Gã bò ngoằn ngoèo trên lớp rêu ướt, quần áo ướt đẫm, người rét run ; những cơn sốt cuồng đòi ăn quá lớn, khiến gã không còn biết tới cảm giác đó. Và lũ gà gô vẫn bay lên rào rào trước mặt gã, đến khi tiếng "kéc ... kéc" của chúng trở thành một sự trêu chọc đối với gã, và gã rủa chúng, quát ngậu lên với chúng.
    Một lần, gã bò tới một con, chắc đang ngủ. Mãi đến lúc nó vụt lên từ hốc đá ngay trước mặt gã, gã mới trông tháy nó. Gã chộp một cái, cũng bất thần như con gà gô bay lên, và trong tay gã còn lại ba cái lông đuôi. Nhìn theo nó bay, gã thấy căm thù nó như thể nó đã hại gã một điều gì ghê gớm lắm. Rồi gã quay lại và khoác cái bọc lên vai.
    Giờ này qua giờ khác gã đi vào những thung lũng hoặc những chỗ đất thấp lầy còn nhiều thú săn hơn nữa. Một đàn tuần lộc caribu đi qua, có toíư hơn hai chục con, ở trong tầm súng như trêu ngươi. Gã cảm thấy một khao khát cuồng dại muốn đuổi theo chúng, tin chắc mình có thể bắt được chúng. Một con cáo đen tiến về phía gã, mồm ngậm một chú gà gô. Gã la lên. Đó là một tiếng kêu ghê sợ, nhưng con cáo hốt hoảng nhảy đi, không buông rơi con gà gô.
    Xế chiều, gã lần theo một con suối, nước lờ lờ chất vôi, chảy qua những vạt cỏ bấc rải rác. Nắm chặt những bụi cỏ bấc ấy ở quãng gần rễ, gã nhổ lên một cái gì từa tựa một đọt hành non, không lớn hơn chiếc đinh ván. Nó mơn mởn và răng gã cắm ngập vào đó, gặm rau ráu tưởng chừng sẽ là món ăn tuyệt diệu. Nhưng thớ nó rắn cấc. Nó gồm những sợi đẫm nước, như những trái cây bãi lầy nọ, và chẳng có chất dinh dưỡng gì. Gã quẳng cái bọc xuống và quỳ gối bò vào đám cỏ bấc, gặm và nhai trệu trạo như trâu bò.
    Gã rất mệt và nhiều lúc muốn nghỉ, nằm ềnh ra và ngủ ; nhưng gã vẫn bị thôi thúc dấn bước liên tục bởi cái đói hơn là bởi nỗi mong muốn tới được Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Gã sục những vũng nước mò ếch nhái và lấy móng tay đào đất tìm giun, mặc dầu gã biết ở mạn cực bắc này chẳng làm gì có ếch nhái cũng như giun.
    Lovetolive[/size=18]
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Tình Yêu Cuộc Sống ( II )
    Jack London
    Gã hoài công soi mói từng vũng nước, cho đến khi hoàng hôn đến, gã mới phát hiện ra một con cá lẻ loi, bằng cỡ một con cá tuê, trong một cái vũng như vậy. Gã thọc tay xuống nước đến tận vai, nhưng con cá lẩn thoát. Gã với cả hai tay ra chộp nó, khuấy tung lớp bùn đục lờ dưới đáy. Thế là nước đục ngầu lên khiến gã không thấy nó đâu nữa và buộc phải đợi cho bùn lắng xuống.
    Cuộc săn bắt tiếp tục, cho đến khi nước lại đục ngầu lên. Nhưng gã không thể đợi được nữa. Gã tháo chiếc xô thiếc và bắt đầu tát nước. Thoạt đầu gã tát như điên, bắn vung cả lên người, và hắt nước gần quá thành thử lại chảy về vũng. Rồi gã làm thận trọng hơn, cố gắng bình tĩnh, mặc dầu tim đập vào thành ngực thình thịch và hai tay run lên. Được nửa giờ, vũng nước gần cạn khô. Chỉ còn không đầy một cốc nước. Mà chẳng thấy cá đâu. Gã tìm ra một khe nứt giữa lớp đá, nó đã chui qua đó trốn sang cái vũng bên cạnh to hơn, một cái vũng mà có bỏ cả một ngày, một đêm gã cũng chẳng thể tát cạn. Nếu có biết cái khe nứt ấy thì gã ắt đã lấy một hòn đá bịt lại từ đầu và giờ đây con cá ắt đã là của gã.
    Nghĩ thế, gã vật mình vật mẩy trên nền đất ướt. Mới đầu gã khoc khe khẽ một mình, rồi khóc to tướng với cả cảnh hoang sơ vô tình bao quanh gã ; và hồi lâu sau, người gã còn rung lên những tiếng nấc khan.
    Gã đốt một đống lửa, uống hàng ca nước nóng cho ấm người ; và hạ trại trên một gờ đá như đêm trước. Việc làm sau cùng của gã là lo cho số diêm thật khô ráo và lên dây đồng hồ. Những tấm mền thì ướt và dính nháp. Mắt cá gã đau giần giật. Nhưng gã chỉ biết rằng gã đói và, qua giấc ngủ náo động, gã mơ thấy tiệc lớn, tiệc nhỏ và thức ăn bày la liệt theo đủ mọi cách có thể tưởng tượng được .
    Gã thức dậy, rét run và nôn nao. Không một chút nắng. Màu xám của đất và trời đã trở nên đậm hơn, sâu hơn. Một ngọn gió rét căm căm thổi và những bông tuyết đầu tiên làm trắng xoá những đỉnh đồi. Không khí quanh gã dày đặc thêm và quánh dần trong khi gã đốt một đống lửa và đun thêm nước. Tuyết ướt, gàn như mưa, và những bông tuyết vừa to vừa sũng nước. Thạot đầu, mới chạm đất, chúng đã chảy liền, nhưng mỗi lúc một xuống nhiều, phủ kín mặt đất, dập tắt lửa làm hỏng cả chỗ rêu dự trữ làm chất đốt của gã.
    Điều đó thành một tín hiệu cho gã khoác cái bọc lên vai và ngật ngưỡng bước tiếp, không biết là đi đến đâu. Gã không bận tâm đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ, cũng như đến Bil và chỗ cất giấu dưới cái xuồng lật sấp bên dòng sông Đir nữa. Thống ngự gã lúc này là động từ "ăn". Gã đang đói điên người. Gã chẳng để ý gì đến hướng đường gã đang đi theo, chừng nào hướng ấy dẫn gã qua những bãi thấp. Gã dò dẫm qua tuyết ướt lần tới những trái cây đầm lầy mọng nước và đi bằng cảm giác trong khi gã nhổ những rễ cỏ bấc. Nhưng cái món này thật vô vị không thoả mãn được gì cả. Gã tìm được một thứ cỏ có vị chua và kiếm được bao nhiêu cỏ ấy, gã ăn tuốt, cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì nó là loại cây bò sát, dễ bị lấp dưới tuyết dày hàng mấy phân.
    Đêm ấy, gã không có lửa, cũng không có nước nóng, gã chui vào chăn ngủ giấc ngủ đứt quãng vì đói. Tuyết chuyển thành mưa lạnh. Gã tỉnh dậy nhiều lần để cảm thấy nó rơi trên khuôn mặt úp sấp của mình. Ngày đến, một ngày đen xám và không có mặt trời. Mưa đã tạnh. Cái nhói buốt của cơn đói đã biến đi. Về sự háo hức muốn có cái ăn, mức nhạy cảm đã kiệt. Bụng gã âm ỉ một cái đau nặng trịch, song nó không quấy rầy gã nhiều như trước. Gã trở nên duy lý hơn, và một lần nữa gã lại quan tâm chủ yếu tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ và chỗ cất giấu ở bờ sông Đir.
    Gã xé mảnh còn lại của một tấm mền thành từng dải để buộc đôi bàn chân tướp máu. Gã cũng buộc chặt lại chỗ mắt cá bị thương và chuẩn bị cho một ngày đương. Khi đụng đến cái bọc, gã ngừng lại hồi lâu suy tính về chiếc túi da nai bè bè, nhưng rốt cuộc vẫn mang nó đi theo.
    Dưới mưa, tuyết đã tan chảy và chỉ còn những đỉnh đồi là phô màu trắng. Mặt trời ló ra và gã định vị được các hướng địa bàn, mặc dầu giờ đây gã biết là mình đã lạc. Có lẽ, trong khi lang thang những hôm trước, gã đã quá lệch về bên trái. Giờ đây gã ghé sang phải cho cân lại độ có thể sai lệch khỏi hướng chính gã cần đi theo.
    Mặc dầu cái đói không còn hành hạ dữ dội như trước nữa, nhưng gã nhận biết rằng mình rất yếu, gã buộc phải dừng lại nghỉ luôn, để nhá những trái cây đầm lầy và những vạt cỏ bấc. Gã cảm thấy lưỡi mình khô và to tướng như mọc đầy một lớp bông nhỏ li ti, và có vị đắng ngắt trong mồm. Tim gã làm rầy gã ghê gớm. Đi được ít phút, nó đã bắt đầu nện không thương xót thình thịch, thình thịch, thình thịch, rồi nhảy loạn xạ trong một thôi đập xao xuyến, đau đớn, khiến gã nghẹn thở , lử lả và chóng cả mặt. Đến giữa trưa, gã tìm được hai con cá tuê ở một cái vũng to. Không thể tát cạn nó được, nhưng bây giừo gã bình tĩnh hơn và xoay xở bắt được chúng vào trong cái xô thiếc. Chúng không dài hơn ngón tay út của gã, nhưng gã không đói lắm. cái đau âm ỉ trong bụng gã đã lắng xuống và yếu đi. Như thể dạ dày gã đang ngủ gà ngủ gật vậy. Gã ăn cá sống, thận trọng nhai một cách vất vả,vì việc ăn là một hành động thuần tuý lý trí. Tuy gã chả muốn ăn chút nào, nhưng gã biết mình phải ăn để mà sống.
    Chiều đến, gã bắt được thêm ba con cá tuê, ăn hai con và để dành một con cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Mặt trời đã sấy khô những mảng rêu rải rác và gã có thể sưởi ấm bằng nước nóng. Hôm ấy gã không đi được quá mười dặm ; và hôm sau, cất bước khi nào tim gã cho phép, gã đi được không quá năm dặm. Nhưng dạ dày gã lại không hề làm gã khó chịu tí nào. Nó đã ngủ. Một điều nữa : gã đang ở một vùng đất lạ và tuần lộc caribu tại đây tăng nhiều hơn, cả sói nữa. Lắm lúc tiếng hú của chúng vang qua cảnh tiêu điều, và một lần gã trông thấy ba con lẩn tránh trước mặt gã, trên đương đi.
    Lại một đêm nữa ; và sáng hôm sau, duy lý hơn, gã cởi dây da buộc cái túi da nai bè bè. Từ mệng túi đã mở, chảy tuôn một dòng bụi vàng thô và quặng vàng. Gã chia đại khái số vàng ra làm hai phần, giấu một nửa vào một gờ đá nhô ra, gói nửa kia vào một mảnh chăn và bỏ trở vào túi. Gã cũng bắt đầu dùng những giải của cái chăn còn lại để buộc chân. Gã vẫn níu giữ cây súng vì ở chỗ cất giấu bên sông Đir có đạn.
    Đó là một ngày đầy sương mù, và ngày hôm ấy cái đói lại thức dậy trong gã. Gã rất yếu và bị chóng mặt đến nỗi đôi lúc hoa mắt không thấy gì. Bây giờ, đối với gã, vấp ngã không phải là chuyện không bình thường, và một lần bị vấp ngã, gã ngã trúng giữa một tổ gà gô núi. Có bốn chú gà con mới nở được một ngày, những đốm sống phập phồng, vừa một miếng, không hơn, và gã ăn chúng ngấu nghiến, nhét chúng vào mồm nhai sống nuốt tươi ràu rạu giữa hai hàm răng như nhai vỏ trứng. Gà gô mẹ ***g lộn quanh gã, kêu rầm rĩ. Gã dùng cây súng như một chiếc chuỳ để đánh nó, nhưng nó tránh xa khỏi tầm với. Gã ném ba hòn đá về phía nó và một hòn ngẫu nhiên trúng, làm gãy một bên cánh. Rồi nó chao chao chạy đi, kéo lê chiếc cánh gẫy, gã đuổi theo sau.
    Mấy chú gà con chỉ làm cho gã thêm háu đói. Gã nhảy loi choi một cách vụng về với vết thương mắt cá chân, chốc chốc lại ném đá và kêu la khàn giọng, lắm lúc lại lặng lữ chạy lật đà lật đật, mỗi lần ngã lại hằm hằm bò dậy một cách kiên nhẫn, hoặc đưa tay lên dụi mắt khi cơn chóng mặt đe doạ quật ngã gã.
    Cuộc săn đuổi đưa gã qua bãi đất lầy xuống đáy thung lũng và gã bắt gặp những vết chân trên lớp rêu sũng nước. Không phải vêt chân gã, gã có thể thấy rõ là thế. Chắc là vết chân Bil. Song gã không thể dừng lại, vì con gà gô mẹ vẫn chạy tiếp. Gã sẽ bắt nó trước, rồi quay lại dò tìm điều tra sau.
    Gã quần con gà gô mẹ kiệt sức, nhưng gã cũng tự làm mình kiệt sức. Con gà nằm nghiêng thở dốc. Gã cũng nằm nghiên thở hồng hộc, chỉ cách nó khoảng ba, bốn mét mà không sao bò được tới nó. Và khi gã hồi tỉnh lại, nó cũng hồi sức, vỗ cánh chạy khỏi tầm với, khi ga vươn bàn tay đói lả về phía nó. Cuộc săn đuổi lại tiếp diễn. Đêm xuống hẳn và gà gô mẹ chạy thoát. Yếu ớt, gã loạng quạng vấp và lao đầu ngã sấp mặt xuống, toạc cả má, chiếc bọc vẫn trên lưng. Hồi lâu, gã không động cựa ; rồi gã xoay nghiêng người, lên dây đồng hồ và nằm đó đến sáng.
    Lại một ngày mú sương. Nửa cái màn cuối cùng đã xé ra để làm giẻ bọc chân. Gã không thấy lại được dấu chân Bil. Chẳng hề gì. Cái đói đang đôn thúc gã quá xá ... có điều ... có điều gã băn khoăn không biết Bil có lạc nốt không. Đến trưa, cái bọc trở nên quá nặng, không chịu nổi. Gã lại chia đôi số vàng, lần này thì đơn giản là dốc toẹt một nửa xuống đất. Đến chiều, gã vứt nốt số còn lại và gã chỉ còn độc nửa cái chăn, cái xô thiếc và cây súng.
    Một huyễn cảm bắt đầu quấy rầy gã. Gã tin rằng mình còn một viên đạn. Nó nằm trong ổ nòng súng và gã đã quên béng mất. Mặt khác, gã luôn biết rằng ổ đạn rỗng không. Thế nhưng huyễn cảm ấy vẫn dai dẳng. Gã xua đuổi nó hàng giờ liền, rồi mở súng ra và thấy tận mắt là ổ đạn rỗng tuếch. Sự thất vọng cũng cay đắng như thể gã thực sự chờ đợi thấy viên đạn trong đó.
    Gã lụi hụi đi tiếp được nửa giờ thì cơn huyễn cảm lại nổi dậy lần nữa, gã lại cố dẹp đi mà nó vẫn dằng dai cho đến lúc gã mở súng tự thuyết phục là chẳng có gì. Đôi lúc đầu gã phiêu diêu đi xa hơn, và gã lụi hụi đi như thằng người máy, với những ý nghĩ ngộ nghĩnh và ngông cuồng kỳ lạ gặm nhấm óc như những con sâu. Nhưng những cuộc du ngoạn khỏi thực tại ấy đến ngắn ngủi, vì bao giờ những dằn vặt của cái đói cào cấu cũng gọi gã trở lại. Một lần, đang phiêu du như vậy, thình lình gã bị kéo giật trở lại bởi một cảnh khiến gã suýt ngất xỉu. Trước mặt gã sừng sững một con ngựa. Một con ngựa ! Gã không thể tin ở mắt mình. Một màn sương dày rủ trong mắt gã, điểm những chấm sáng lấp lánh. Gã dụi mắt như điên để nhìn cho rõ và nhận ra không phải một con ngựa mà là một con gấu lớn màu nâu. Con vật đang ngắm nghía gã với một vẻ tò mò hung hãn.
    Lovetolive[/size=18]
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Gã đã nâng súng lên vai rồi mới nhớ ra là không có đạn. Gã hạ súng xuống và rút con dao săn bên hông ra khỏi vỏ. Trước mặt gã là thịt và sự sống. Gã lướt ngón tay cái trên lưỡi dao. Lưỡi săc, mũi nhọn. gã sẽ lao cả người vào con gấu và giết chết nó. Nhưng tim gã bắt đầu báo động : thình thịch, thình thịch, thình thịch. Rồi tiếp theo là nhịp nhảy lên cuồng loạn và sức nén ép như một vành đai sắt thít quanh trán, cơn chóng mặt len lỏi bò vào trong đó.
    Sự can đảm tuyệt vọng của gã bị một nỗi sợ dâng trào mãnh liệt đánh bật ra. Gã đang yếu thế này, nhỡ con vật tấn công gã thì sao ? Gã đứng thẳng lên trong tư thế hùng dũng nhất, nắm chặt con dao và nhìn chằm chằm vào con gấu. Con gấu vụng về tiến lên vài bước, lùi lại và trút ra một tiếng gầm gừ thăm dò. Nếu con người chạy ắt nó sẽ đuổi theo. Nhưng con người không chạy. Lúc này, trong gã dấy lên lòng can đảm của khiếp sợ. Gã cũng gầm gừ, man rợ, gớm ghiếc thốt lên nỗi sợ vốn là thích hợp với sự sống và vốn xoắn xuýt quanh những rễ sâu nhất của sự sống.
    Con gấu né sang một bên lủi đi, gầm gừ đe doạ. Bản thân nó cũng kinh hãi trước cái sinh vật bí ẩn hiên ngang thẳng đứng, không biết sợ ấy. Nhưng con người không động đậy. Anh ta đứng sững như một pho tượng cho đến khi cơn nguy hiểm qua hẳn, bấy giờ mới chịu khuất phục run bắn lên một hồi và quỵ xuống lớp rêu ướt.
    Gã định thần lại và đi tiếp, bây giờ lại sợ theo cách khác. Không phải là sợ sẽ chết một cách thụ độngvì không có cái ăn, mà sợ sẽ bị tiêu diệt một cách cuồng bạo trước khi cái đói làm suy kiệt nốt chút xíu cố gắng cuối cùng trong gã nhằm vươn tới sự sống sót. Vùng này có chó sói. Suốt cảnh tiêu điều này, vẳng tới vẳng lui tiếng sói hú, dệt cả bầu không khí thành một tấm màn đe doạ có thể sờ mó thấy, đến độ gã bỗng giơ tay lên trời, đẩy không khí ra khỏi mình, như thể nó là thành vải của một cái lều bị gió thổi ép vào.
    Thỉnh thoảng, sói đi từng tốp hai hoặc ba con, kéo qua đường đi của gã. Nhưng chúng tránh gã. Chúng không đủ đông, vả lại, chúng đang săn tìm tuần lộc caribu, tụi này không đánh trả, trong khi cái sinh vật đi thẳng đứng này có thể vừa cào vừa cắn.
    Xế chiều, gã bắt gặp những ống xương rải rác ở chỗ lũ chó sói đã giết một con thú. Đám xương tàn, trước đó một giờ, còn là một chú tuần lộc Caribu non kêu quang quác, chạy nhảy và đầy sức sống. Gã ngắm đống xương đã lóc sạch thịt và nhẵn bóng, với sinh bào hồng hồng bên trong còn chưa hết hẳn. Liệu có khả năng, gã cũng có thể như thế trước khi ngày tàn không ? Sự sống là thế ư ? Một sự hão huyền và thoảng qua. Chỉ có sống là đau đớn mà thôi. Chết thì chẳng đau gì hết. Chết là ngủ. Có nghĩa là thôi, là nghỉ ngơi. Thế thì tại sao gã lại không bằng lòng chết.
    Nhưng gã không lý luận rông dài. Gã đang ngồi xổm trên lớp rêu, với một cái xương trong miệng, mút mát những vụn sinh bào còn nhuộm hồng hồng chất xương. Cái vị thịt ngọt, loãng và thoáng thấy thoáng mất gần giống như một hồi ức làm gã tức điên. Gã ngoạm hàm vào những đốt xương và nhai rào rạo. Lúc thì xương gãy, lúc thì răng gã gãy. Rồi gã bỏ xương vào giữa những hòn đá, nghiền nát nhừ và nuốt chửng. Trong lúc vội vàng gã giã cả vào ngón tay mình, và có lúc lại ngạc nhiên thấy những ngón tay không đau lắm khi bị kẹp vào đá.
    Rồi đên những ngày tuyết xuống, mưa rơi kinh khủng. Gã không còn biết mình hạ trại lúc nào, nhổ trại lúc nào. Gã đi ban đêm cũng nhiều bằng đi ban ngày. gã nghỉ luôn ở nbất cứ chỗ nào gã ngã xuống, bò đi tiếp bất cứ lúc nào ngọn lửa sống đang tabnf trong gã bùng lên và đỡ mù mịt hơn. Với tư cách là một con ngưới, gã thôi không ráng sức nữa. Chính là cái sinh lực trong gã không muốn chết, nó thôi thúc gã dấn bước. Gã không đau đớn. Thần kinh gã đã cùn mòn, tê dại đi trong khi đầu óc gã đầy viễn ảnh kỳ lạvà những giấc mơ thú vị.
    Nhưng gã vẫn mút và nhai những đốt xương nát của con tuần lộc non, mà những dư tàn nhỏ nhất của nó đã vun vén lại và đã mang theo. Gã không vượt đồi, cũng chẳng qua những đường phân thuỷ nữa mà cứ tự động theo một con suối lớn chảy qua một thung lũng rộng và nông. Gã không nhìn thấy con suối ấy cũng như thung lũng ấy. Gã không nhìn thấy gì ngoài những tấm ảnh. Hồn và xác hoặc đi hoặc bò cạnh nhau, nhưng riêng rẽ, vì sợi dây buộc chúng lại với nhau quá mảnh.
    Gã thức dậy minh mẫn, nằm ngủ trên một gờ đá. Mặt trời chiếu rực rỡ và ấm áp. Xa xa gã nghe thấy tiếng những con tuần lộc non kêu quác quác. Gã nhớ mang máng là đã có mưa, có gió, có tuyết rơi, nhưng còn về việc gã đã bị dãi gió dầm mưa hai ngày hay hai tuần thì gã không biết.
    Gã nằm gần như không động đậy một lúc, ánh mặt trời hiền hoà chảy tràn trên gã và toả hơi ấm thấm đẫm cái thân hình khốn khổ của gã. Một ngày đẹp, gã nghĩ. Chưa chừng gã có thể xác định được mình đang ở đâu cũng nên. Bằng một cố gắng cực nhọc gã xoay người nằm nghiêngã. Phía dưới gã, một con sông rộng và lờ đờ chảy. Vẻ lạ lẫm không quen thuộc của nó khiến gã bối rối. Gã chậm rãi đưa mắt nhìn theo dòng sông uốn lượn thành những khúc rộng giữa những ngọn đồi trọc đìu hiu, đìu hiu hơn, trơ trụi hơn và lún thấp hơn mọi trái đồi gã gặp cho đến nay. Chậm rãi, từ tốn, không chút khích động hoặc chỉ với sự quan tâm hết sức bình thường, gã theo dõi dòng chảy của con sông lạ về phía đường chân trời, và thấy nó đổ vào một vùng biển sáng lấp lánh. gã vẫn không thấy náo nức gì. Thật khác thường , gã nghĩ một tấm ảnh hay một ảo giác, có vẻ là một tấm ảnh thì đúng hơn, một trò ranh ma do tâm trí rối loạn của gã. Gã chắc chắn vậy khi nhìn thấy một con tàu nằm thả neo giữa vùng biển lấp lánh. Gã nhắm matứ một lát, rồi lại mở ra. Kỳ lạ thay, tấm ảnh ấy vẫn còn ! Thế nhưng lại không kỳ lạ. Gã biết chẳng làm gì có biển hay tàu nào giữa vùng đất cằn này, cũng như gã đã biết chẳng có viên đạn nào trong cây súng rỗng không.
    Gã nghe thấy một tiếng khụt khịt đằng sau mình, một tiếng thở dốc gần như bị nghẹn, hoặc một tiếng ho. Rất chậm chạp, do quá yếu và người cứng đờ, gã xoay nghiên mình sang mé kia. Gã không trông thấy gì gần kề, nhưng gã kiên nhẫn chờ. Lại thấy tiếng khịt và ho, và in bóng giữa hai tảng đá lởm chởm cách đó không đầy sáu mét, gã nhận ra cái đầu xám của một con sói. hai cái tai nhọn không dựng hoắt lên như gã thường thấy ở những con sói khác, đôi mắt mờ và vằn tia máu, cái đầu như gục xuống rũ rượi và tuyệt vọng. Con vật chớp mắt lia lịa dưới nắng. Nó có vẻ ốm. Khi gã nhìn, nó lại khịt và ho.
    Chí ít điều này cũng là thực tế, gã nghĩ và quay người sang mé kia để có thể thấy được sự thực của cái thế giới ban nãy bị tấm ảnh che phủ. Nhưng birn vẫn lấp lánh đằng xa và con tàu nhìn rõ mồn một. Rút cục, nó có phải là thực tại không ? Gã nhắm mắt một hồi lâu suy nghĩ, thế rồi vỡ lẽ ra. Gã đã hướng về phía đông bắc, tách xa khỏi đường phân thuỷ sông Đir và đi vào thung lũng Mỏ Đồng. cái con sông rộng và lờ đờ này là sông Mỏ Đồng. Vùng biển lấp lánh kia là Bắc Băng Dương. Con tàu kia là một tàu đánh cá voi từ cửa sông Mêchkengi lạc về hướng đông, viễn đông, và nó nằm bỏ neo trong vịnh Đăng Quang. Gã nhớ lại bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn mà gã đã xem cách đây đã lâu, và gã thấy mọi sự trở nên rõ ràng, hợp lý.
    Gã ngồi dậy và tập trung chú ý vào những công việc trước mắt. Những dải mền bọc chân đã mòn xơ ra và đôi chân gã chỉ còn là những cục thịt trầy trụa không ra hình thù gì. Cái chân cuối cùng của gã đã đi tong. Cả súng lẫn dao đều đã mất. Gã đã đánh mất cái mũ ở đâu đó, cùng với bó diêm dắt ở vành trong, nhưng số diêm trước ngực vẫn nguyên vẹn và khô ráo trong cái túi đựng thuốc lá sợi, bọc bằng giấy dầu. Gã nhìn đồng hồ. Nó chỉ mười một giờ và vẫn đang chạy. Hiển nhiên là gã vẫn lên giây đều.
    Gã bình tĩnh và tự chủ. Tuy cực kỳ yếu sức, nhưng gã không cảm thấy đau đớn gì cả. gã không đói. ý nghĩ về thức ăn thậm chí cũng chẳng thú vị gì đối với gã và mọi điều gã làm đều do lý trí đơn thuần. Gã xé ống quần đến tận đầu gối để buộc chân. Không biết làm sao mà gã vẫn giữ được cái xô thiếc. Gã sẽ uống một chút nước nóng trước khi bắt đầu làm cái mà gã thấy trước sẽ là một chặng hành trình ghê gớm để tới con tàu.
    Gã cử động chậm chạp. Run rẩy như bị chứng liệt. Khi bắt đầu thu thập rêu khô lại, gã không nhấc nổi chân được nữa. Gã thử đi thử lại rồi đành bò quanh bằng tay và đầu gối vậy. Một lần gã bò đến gần con sói ốm. Con vật miễn cưỡng lê ra khỏi đường đi của gã, liếm những chỗ nứt nẻ trên mình bằng một cái lưỡi hầu như không còn đủ sức để uốn nữa. Gã nhận thấy lưỡi nó không có cái màu đỏ lành mạnh thông thường. Nó nâu nâu vàng ệch và như phủ một lớp nhầy ram ráp và gần như khô.
    Sau khi uống một ca nước nóng, gã thấy mình có thể đứng dậy và thậm chí có thể đi với mức một người sắp chết có thể đi. Cứ khoảng một phút, gã lại phải nghỉ. Bước chân gã khật khưỡng, y hệt như bước chân của con sói theo sau gã. và đêm ấy, khi bóng tối xoá mờ vùng biển lấp lánh, gã biết mình mới chỉ tiến gần thêm nó được độ hơn bốn dặm, không hơn.
    Suốt đêm, gã nghe thấy tiếng ho của con sói ốm, và thỉnh thoảng, tiếng quác quác của bầy tuần lộc non. Xung quanh gã đều có sự sống, sự sống cường tráng, rất sinh động và tốt lành, và gã biết con sói ốm bám theo con người ốm với hy vọng là con người sẽ chết trước. Sáng dậy, mở mắt ra, gã thấy nó đứng lom khom, đuôi cụp giữa hai chân như một con chó khốn khổ, thiểu não. Nó run cầm cập trong làn gió sớm lạnh giá và nhe răng cười buồn nản khi con người nói với nó bằng một giọng không hơn gì một tiếng thì thầm khàn khàn.
    Lovetolive[/size=18]
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Tình Yêu Cuộc Sống ( IV )
    Jack London
    Mặt trời lên rực rỡ và suốt buổi sáng, con người chập chững vưà đi vừa ngã về phía con tàu trên biển lấp lánh. Thời tiết thật tuyệt. Đó là cỡ thu muộn ngắn ngủi ở vùng vĩ độ cao. Nó có thể kéo dài một tuần. Mai kia, nó có thể qua đi.
    Đén chiều, gã bắt gặp một vệt đường. Đó là dấu vết của một người khác. Không đi mà bò bốn châ. gã nghĩ đó có thể là Bil, song chỉ nghĩ một cách đờ đẫn, không chút quan tâm. Gã chẳng tò mò muốn tìm hiểu gì. Thực tế, cảm giác và xúc động đã từ bỏ gã. Gã không còn biết đau. Dạ dày và thần kinh gã đã ngủ rồi. Tuy nhiên, sự sống trong gã vẫn thúc gã dấn tới. Gã thì rất mệt, nhưng nó lại không chịu chết. chính vì nó không chịu chết mà gã vẫn cứ ăn trái cây đầm lầy và cá tuê, uống nước nóng và thận trọng canh chừng con sói ốm.
    Gã đi theo dấu vết của người kia, anh chàng bò lê ấy, và chẳng mấy chốc đến chỗ tận cùng của nó : một chút xương mới lóc hết thịt, quanh đó lớp rêu sũng nước in hằn vết chân của nhiều con sói. Gã trông thấy một cái túi da nai bè bè, hệt như túi của gã, bị xé toạc ra bằng răng nhọn. Gã nhấc nó lên, tuy nó hầu như quá nặng đối vời những ngón tay yếu ớt của gã. Bil đã mang nó đến phút cuối cùng. Ha ha ! Gã sẽ cười vào mũi Bil. Gã sẽ sống sót và sẽ mang cái túi đến con tàu trên biển lấp lánh kia. Tiếng cười của gã khàn khàn và ghê rợn như tiếng quạ kêu, và con sói ốm cũng cất tiếng tru sầu thảm hoà theo. Con người bỗng nhiên ngừng bặt. Làm sao gã có thể cười vào mũi Bil nếu như cái này là Bil, đám xương trắng hồng và sạch bong này là Bil ?
    Gã quay đi. ồ, Bil đã bỏ rơi gã, nhưng gã sẽ không lấy số vàng này, cũng chẳng mút xương Bil làm gì. Tuy nhiên, nếu là trường hợp ngược lại, ắt Bil sẽ chẳng tha, gã vừa chệnh choạng bước tiếp vừa nghĩ vậy.
    Gã tớu một vũng nước. Cúi xuống tìm cá tuê, gã bỗng giật đầu lại đằng sau như bị ong châm. Gã đã trông thấy mặt mình phản chiếu trong đó. Nó gớm ghiếc đến nỗi khua được sự nhạy cảm trong gã thức dậy đủ lâu để thấy bàng hoàng. Có ba con cá tuê ở trong vũng, vũng quá rộng không tát cạn được, và sau mấy lần lấy cái xô thiếc vục bắt không được, gã bỏ cuộc. Gã sợ vì quá yếu sức, có thể ngã tòm xuống và chết đuối. Chính vì lý do ấy mà gã không dám cưỡi lên một trong những khúc gỗ dạt vào những hố cát ven bờ sông để buông trôi theo dòng nước.
    Hôm ấy, gã đã giảm được ba dặm khoảng cách giữa gã và con tàu. Hôm sau được hai dặm, vì bây giờ gã cũng bò, như Bil đã từng bò. Và đến hết ngày thứ năm, con tàu vẫn cách độ bảy dặm thì gã thậm chí mỗi ngày không vượt nổi một dặm. Cữ thu muộn vẫn còn , và gã vẫn tiếp tục bò rồi lại ngất xỉu, loanh quanh luẩn quẩn hoài, và con sói ốm vẫn ho và khụt khịt sau gót gã. Đầu gối gã đã trầy cả thịt như bàn chân gã, và mặc dầu gã đã cởi áo sơ mi làm đệm lót cho cho đầu gối, gã vẫn để lại đằng sau một vệt đỏ trên rêu và đá. Một lần, ngoái nhìn lại, gã thấy con sói thèm thuông liếm vệt máu của gã, và gã hình dung đậm nét cái kết thúc của mình có thể sẽ như thế nào ... trừ phi gã xơi tái được con sói. Thế rồi bắt đầu một tấn bi kịch để tồn tại, khốc liệt chưa từng thấy : một con người ốm phải bò lết, một con sói ốm phải tập tà tập tễnh, hai sinh vật kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia.
    Giá nó là một con sói khoẻ mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đếm việc phải làm mồi cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào. Gã vốn khó tính. Đầu óc gã lại bắt đầu lang bang và bị những huyễn tượng ám ảnh , trong khi những giây phút sáng suốt trở nên mỗi lúc một hiếm và ngắn hơn.
    Một lần, gã tỉnh dậy khỏi một cơn ngất nhờ một tiếng khụt khịt sát bên tai. Con sói khập khiễng nhảy lùi lại, mất thăng bằng và ngã nhào trong cơn suy kiệt. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng gã không thấy buồn cười. Thậm chí gã cũng không thấy sợ. Gã đã vượt quá xa những phản ứng đó. Nhưng lúc ấy, trí óc gã sáng suốt, và gã nằm suy tính. Con tàu chỉ còn cách không quá bốn dặm. Gã có thể trông thấy nó rõ ràng khi gã dụi lớp sương mờ khỏi mắt, và gã trông thấy cánh buồm trắng của một con thuyền nhỏ rẽ nước trên biển lấp lánh. Nhưng gã không bao giờ có thể bò nốt bốn dặm ấy. Gã biết vậy. Tuy nhiên rất bình tĩnh trong nhận thức, gã biết mình không thể bò nổi nửa dặm. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống. Thật là vô lý nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ. Số mệnh đòi hỏi gã quá nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không chịu chết. Có lẽ đó là điều cực kỳ điên rồ, những ngày trong móng vuốt của cái chết, gã lại thách thức cái chết và khước từ không chịu chết.
    Gã nhắm mắt lại với sự tĩnh tâm một cách thận trọng. Gã cố vượt lên sự suy nhược như một lớp sóng trào dâng, bập bềnh xô vào mọi ngóc ngách trong người gã. Nó rất giống biển, cái sự suy nhược giết người ấy, nó cứ dâng lên hoài và từng tí một nhận chìm ý thức gã. Đôi lúc, gã gần như bị chìm nghỉm , loạng quạng vung tay đập chân bơi qua quên lãng. và một lần nữa , do một phép màu nào đó cảu tâm hồn, gã lại tìm thấy một mảnh ý chí và rẽ sóng lao vụt đi mạnh hơn.
    Không động đậy, gã nằm ngửa, và gã có thể nghe thấy tiếng hít vào thở ra khò khè của con sói ốm mỗi lúc một sát lại gần hơn. Nó tiến lại gần, gần nữa, qua một quãng thời gian tưởng như bất tận và gã không nhúc nhích. Nó đã kề bên tai gã. Cái lưỡi khô sần sùi có vào má gã như giấp ráp. Hai tay gã phóng ra, hay chí ít là gã muốn phóng tay ra. Các ngón tay quắp lại như móng vuốt, nhưng thộp vào quãng không. Sự nhanh nhẹn và chính xác đòi hỏi sức khoẻ, mà gã thì không có sức khoẻ đó.
    Sự kiên trì của con sói thật ghê gớm. Sự kiên trì của con người cũng ghê gớm không kém. trong nửa ngày liền, gã nằm im không cựa quậy, đấu tranh để khỏi thiếp đi, chờ con vật định ăn thịt gã. Mà gã cũng muốn ăn thịt nó. Đôi khi, biển-suy-nhược dâng trào trong gã và gã mơ những giấc mơ dài, nhưng suốt thời gian đó, tỉnh hay mơ, gã vẫn chờ tiếng thở khò khè và cái lưỡi thô liếm láp.
    Gã không nghe thấy tiếng thở, và truồi dần từ một cơn mơ nào đó đến cảm giác thấy chiếc lưỡi kia lia dọc bàn tay. Gã chờ. Những chiếc nanh ấn khe khẽ, rồi mạnh hơn ; con sói đang huy động hết sức tàn trong một cố gắng để cắm ngập răng vào miếng mồi nó đã chờ đợi bao lâu. Nhưng con người đã chờ sẵn từ lâu và bàn tay nát bươm nắm lấy hàm nó. Trong khi con sói vật lộn một cách yếu ớt và bàn tay bóp lại một cách yếu ớt, thì bàn tay kia từ từ trườn qua thành một gọng kìm. Năm phút sau, cả trọng lượng của con người đè lên trên con soid . Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con sói nhưng mặt con người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông. Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình . Cái đó chẳng lấy gì làm thú vị. Nó như chì nóng chảy đọng vào dạ dày gã, và gã được tọng vào hoàn toàn chỉ do ý chí của gã mà thôi. Sau đó con người lăn kềnh ra, nằm ngửa lên và ngủ . . .
    . . . Có một số thành viên của đoàn thám hiểm khoa học trên chiếc tàu đánh cá voi Bedfod. Từ trên bông, họ nhận thấy một vật kỳ lạ trên bờ. Vật ấy di chuyển xuôi bãi biển về phía mặt nước. họ không thể xác định đó là loại gì. Và, vốn là những nhà khoa học, họ trèo vào chiếc xuồng bên sườn tàu, đáp vào bờ để xem cho rõ. Và họ thấy một cái gì còn sống nhưng khó mà có thể gọi là một con người. Nó loà lẫm, không ý thức. Nó oằn oại trên mặt đất như một con sâu kỳ quái. Phần lớn những cố gắng của nó đều vô hiệu. nhưng nó bền bỉ, nó vặn mình, quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm sáu mét.
    Ba tuần sau, người đàn ông nọ nằm trong một chiếc giường trên tàu đánh cá voi Bedfod, và nước mắt ròng ròng trên đôi má hốc hác, gã kể lại lai lịch mình là ai và đã trải qua những nông nỗi gì. Gã cũng nói lõm ba lõm bõm về mẹ gã, về miền nam Califonia đầy nắng và một ngôi nhà giữa những lùm cam và những khóm hoa.
    ít ngày sau, gã ngồi cùng bàn ăn với những nhà khoa học và các sĩ quan trên tàu. Gã hau háu nhìn cảnh đồ ăn ê hề, bồi hồi theo dõi những thức ăn ấy biến voà miệng những người khác. Cứ mỗi miếng mất đi, trong mắt gã lại hiện lên một vẻ tiếc nuối sâu sắc. tâm thần gã hoàn toàn lành mạnh, tuy nhiên gã căm ghét họ vào giờ ăn. gã bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi là lương thực không còn tồn tại lâu dài. Gã hỏi đầu bếp, hầu phòng và thuyền trưởng về lương thực dự trữ . Họ trấn an gã không biết bao nhiêu lần, nhưng gã không thể tin họ, và gã khôn khéo nhòm ngó quanh chỗ hầm kho để thấy tận mắt.
    Người ta nhận thấy gã béo ra. Mỗi ngày gã một to xù. Các nhà khoa học lắc đầu là hợp lý. Họ hạn chế gã trong những bữa ăn, nhưng vòng bụng gã vẫn tăng và gã trương phình ra kỳ lạ dưới chiếc áo sơ mi.
    Đám thuỷ thủ tủm tỉm cười. Họ biết. Và khi các nhà khoa học cắt người theo dõi gã, họ cũng biết. Họ thấy gã thông thạo đi ra phía trước, sau khi điểm tâm, và lại gần một thuỷ thủ, chìa tay ra như một kẻ hành khất. Tay thuỷ thủ nhe răng cười và đưa cho gã một miếng bích quy. Gã bo bo nắm chặt lấy, nhìn ngắm như một anh hà tiện ngắm vàng, rồi nhét vào ngực áo. Các tay thuỷ thủ khác vừa cười vừa cho như vậy.
    Các nhà khoa học vốn kín đáo. Họ để mặc gã. Nhưng họ bí mật xem xét giường của gã. Giường được lót bằng bánh quy khô, đệm được nhồi bằng bánh quy khô, mọi xó xỉnh ngóc ngách đều lèn đầy bánh quy khô. Tuy nhiên, gã không loạn trí. Gã lo đề phòng một cơn đói khác có thể xảy ra, có thể thôi. Rồi gã sẽ qua, các nhà khoa học nói thế . Và quả nhiên, gã qua khỏi thật, trước khi cây neo của tàu Bedfod gieo ùm xuống vịnh San Francisco.
    Lovetolive[/size=18]
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 14:49 ngày 03/03/2003
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Lovetolive[/size=18]
  9. codet

    codet Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/03/2002
    Bài viết:
    1.130
    Đã được thích:
    0
    Người Đã Khuất​
    Guyđơ Mopatxăng(Pháp)

    Tôi đã yêu nàng đắm đuối! Vì sao người ta yêu? Có kì quặc chăng, khi trên đời ta chỉ nhìn thấy có một người, trong đầu chỉ có một ý nghĩ, trong lòng chỉ có một ao ước, và trong miệng chỉ có một cái tên: cái tên cứ dâng lên không ngừng, dâng lên như nước nguồn, từ đáy sâu thẳm trong tâm hồn, dâng lên mãi mãi, và ta gọi, ta gọi đi gọi lại, ta thì thầm không dứt, ni ni, như một lời cầu nguyện.
    Tôi sẽ không kể lại câu chuyện tình của tôi. Tình yêu chỉ có một chuyện, bao giờ cũng chỉ một chuyện ấy mà thôi. Tôi đã gặp nàng và yêu nàng. Chỉ có thế. Và tôi đã sống trong một năm trời trong tình âu yếm của nàng, trong tay nàng, trong sự ve vuốt của nàng trong ánh mắt của nàng, trong những tà áo của nàng, trong lời nàng nói, bị bao bọc, bị ràng buộc, giam cầm trong tất cả những gì từ nàng mà ra, một cách trọn vẹn đến nỗi tôi không còn biết đêm hay ngaỳ, tôi sống hay chết, ở trên mặt đất cũ kĩ hay ở nơi nào khác nữa.
    Và thế là nàng qua đời. Như thế nào nhỉ? Tôi không biết, tôi không biết nữa.
    Một tối trời mưa, nàng về, bị ướt, nàng ho. Nàng ho, không một tuần lễ rồi ốm.
    Chuyện gì đã xảy ra, tôi không biết nữa.
    Các thầy thuốc đến, viết lách, ra đi. Người ta mang thuốc lại; một người đàn bà cho nàng uống thuốc. Tay nàng nóng, trán nàng rừng rực và ướt mồ hôi, mắt nàng long lanh và buồn bã. Tôi nói gì với nàng nhỉ? Tôi không biết nữa. Tôi đã quên hết thẩy, hết thẩy! Nàng qua đời, tôi nhớ rất rõ tiếng thở dài nho nhỏ sao mà yếu ớt, hơi thỏ cuối cùng. Người hộ lí nói: " Ôi!". Tôi hiểu, tôi hiểu.
    Tôi không còn biết gì nữa. Tôi thấy một linh mục thốt lên lời này:" Người tình của ông". Tôi có cảm giác như ông ta xúc phạm đến nàng. Vì nàng đã khuất, người ta không có quyền biết đến điều đó nữa. Tôi đuổi ông ta đi. Một linh mục khác đến, ông ta rất tốt, rất hiền. Tôi khóc khi ông ta nói với tôi về nàng.
    Người ta hỏi han tôi trăm ngàn điều về việc chôn cất. Tôi không biết nữa.Tuy thế, tôi còn nhớ rất rõ cái quan tài, tiếng búa nện khi người ta đóng nàng vào trong đó. Ôi, lạy Chúa!
    Nàng bị chôn đi! Chôn đi! Nàng! Trong cái hố ấy! Có vài người đến, những cô bạn gái. Tôi bỏ trốn. Tôi chạy. Tôi đi rất lâu qua các phố. Rồi tôi về nhà. Ngày hôm sau, tôi đi du lịch.
    Hôm qua tôi trở về Pari.
    Khi tôi thấy lại căn phòng của tôi, căn phòng của chúng tôi, cái giường của chúng tôi, đồ đạc của chúng tôi, toàn bộ ngôi nhà những nơi lưu giữ tất cả những gì còn sót lại của đời một con người sau khi nguời đó chết đi, tôi bị nỗi buồn tái phát dữ dội đến nỗi xuýt nữa tôi mở cửa sổ lao người xuống đường. Không thể ở lại được nữa, giữa những đồ vật ấy, giữa những bức tường đã bao lấy nàng, và hẳn còn giữa lại trong những vết rạn li ti của chúng hàng ngàn nguyên tử của nàng, của da thịt nàng, và hơi thở nàng thở, tôi cầm lấy mũ, bỏ ra đi. Thốt nhiên, lúc ra tới cửa, tôi đi qua tấm gưng lớn trong phòng đợi mà nàng đặt ở đó để hàng ngày, mỗi khi ra đi, nàng hay ngắm mình từ đầu đến chân, xem toàn bộ trang phục của mình có được hay không, có tề chỉnh và xinh đẹp hay không, từ đôi giầy đến mái tóc.
    Và tôi dừng phắt lại trước tấm gưng đã bao lần phn chiếu bóng nàng. Đã bao lần, bao lần, đến mức hẳn nó cũng còn giữ lại hình nh của nàng.
    Tôi đứng ở đó, run rẩy, mắt đăm đăm nhìn vào mặt gưng, mặt kính phẳng, sâu, trống rỗng, nhưng đã chứa đựng nàng toàn vẹn, đã chiếm lĩnh nàng cũng y như tôi, y như cái nhìn say đắm của tôi. Tôi thấy dườngnhư tôi yêu tấm gưng ấy,- tôi sờ vào nó, - nó lạnh lẽo! Ôi, hồi tưởng, hồi tưởng! Tấm gưn xót xa, tấm, gưng cháy bỏng, tấm gưng sống, tấm gưng khủng khiếp, làm đau mọi nỗi đau quằn quại! Sung sướng thay những con người có tấm lòng, y như một tấm gưng ni đây ánh phn chiếu lướt qua và tan biến, tấm lòng ấy quên đi tất thy những gì nó đã chứa đựng, tất c những gì đã diễn qua trước nó, tất c những gì đã nắgm nghía, soi mình trong tình thưng mến của nó, trong tình yêu của nó! Tôi đau đớn biết bao nhiêu!
    Tôi ra đi, và bất giác, không biết, không định, mà tôi đi về phía nghĩa địa. Toi thấy ngôi mộ của nàng hết sức đn s, một cây thập tự bằng đá trắng với mấy lời sau:" Nàng đã yêu, đã được yêu, và qua đời".
    Nàng ở đó, ở dưới đó, tàn rữa! Kinh khủng biết bao nhiêu! Tôi đập đầu xuống đất, nức nở.
    Tôi ở đó rất lâu, rất lâu. Rồi tôi thấy trời sắp tối. Thế là một ước muốn kì quặc, điên rồ, một ước muốn của kẻ tình nhân tuyệt vọng choán ngợp lấy tôi. Tôi ước muốn suốt đêm ở bên nàng, đêm cuối cùng, khóc tên mộ nàng. Nhưng họ sẽ nhìn thấy tôi, họ sẽ đuổi tôi. Làm thế nào? Tôi khôn khéo. Tôi đứng dậy, lang thang v vẩn trong thành phố của những ngưòi đã khuất này. Tôi đi, tôi đi. Sao thành phố này bé nhỏ như vây bên cái thành phố kia, thành phố ni người ta sống! Và tuy thế, những người chết này, sao họ lại đông đo đến thế, hn c những người đang sống. Chúng ta cần nhà cao, cần phố xá, cần bao nhiêu là chỗ
    bốn thế hệ cùng nhìn ánh sáng ban ngày một lúc, uống nước nguồn, uống rượu của cây nho và ăn bánh của ruộng đồng.
    Và với tất c các thế hệ người đã chết, với toàn bộ bậc thang nhân loại xuống đến tận đáy của chúng ta đây, hầu như không có gì c, chỉ một cánh đồng, hầu như không có gì c?! Đất đòi lại họ, sự lãng quên xoá nhoà họ. Vĩnh biệt!
    cuối nghĩa địa có người lai vãng, tôi bỗng thấy khu nghĩa địa bỏ hoang, ni những người quá cố xa xưa đã hoà mình với đất, ni chính những cây thập tự cũng rữa nát, ni mai đây người ta sẽ chôn những người đến sau cùng. Khu vườn nghĩa địa đầy những hoa hồng dại, những cây trắc bá cường tráng xanh đen, một khu vườn tráng lệ và u buồn, được nuôi dưỡng bằng thịt người.
    Tôi chỉ có một mình, mỗi một mình. Tôi nép mình vào một gốc cây xanh. Tôi ẩn mình hoàn toàn trong đó, giữa những cành lá mỡ màng và âm u
    Và tôi chờ đợi, bám chặt vào thân cây như một kẻ chết đuối bám lấy một vật trôi dạt.
    Khi đêm đã tối đen, đen nghịt, tôi rồi ni ẩn náu và đi nhẹ nhang, êm bước, chậm bước, trên mnh đất đầy người chết này.
    Tôi lang thang hồi lâu, hồi lâu, hồi lâu. Tôi không tìm lại được nàng. Hai tay gi ra, mắt mở, vấp tay, vấp chân, vấp đầu gối, vấp c đầu nữa vào các ngôi mộ, tôi đi và không tìm thấy nàng!
    Không có trăng! Đêm tối làm sao! Tôi sợ, một nỗi sợ khủng khiếp trong những lối đi hẹp, giữa hai dãy mồ m này! Những nấm mồ! Những nấm mồ! Vẫn những nấm mồ! Bên phi, bên trái, đằng trước tôi, xung quanh tôi, khắp ni là những nấm mồ, vì tôi không thể đi được nữa, đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi nghe thấy tim tôi đập! Và tôi còn nghe thấy một tiếng gì nữa! Gì nhỉ? Một tiếng động m hồ không biết gọi là cái gì! Phi chăng nó ở trong đầu óc hong loạn của tôi, trong đêm tối dày đặc, hay dưới lòng đất bí ẩn, dưới lòng đất gieo đầy thây người, cái tiếng động ấy? Tôi nhìn quanh tôi.!
    Tôi đã ở lại đó trong bao lâu?Tôi không biết.Tôi bị tê liệt vì kinh hoàng, bị say vì khiếp **, sắp la hét lên, sắp chết.
    Và bỗng nhiên tôi thấy dường như phiến đá trắng tôi đang ngồi bỗng rung động. Qu thật, nó rung động, như thể người ta nâng nó lên. Tôi nhy phắt, sang ngôi mộ bên cạnh và tôi thấy phiến đá tôi vừa rời bỏ dựng thẳng dậy; và người chết xuất hiẹn, một bộ xưng trần trụi đang khom lưng hất tng đá đi. Tôi nhìn thấy, nhìn thấy rất rõ, dù đêm tối đen nghịt, tôi đọc được trên cây thập tự:
    "Ni đây yên nghỉ Giăc Ôlivăng, qua đời vào tuổi năm mưi mốt. Người yêu quí gia đình, người nhân hậu và hiền lung, và người tạ thế trong bằng an cu Chúa."
    Bây giờ, người chết cũng đọc những điều viết trên mộ mình, rồi y nhặt một viên đá nhỏ, sắc, và y cạo bỏ rất cẩn thận những điều đó- Y xoá hẳn những điều ấy, chậm rãi, đôi mắt trống rỗng nhìn vào chỗ vừa rồi chúng đuợc khắc lên, và dùng đầu khúc xưng xưa lia là ngón tay trỏ, y viết bằng những chữ lấp lánh sáng giống như những dòng được vạch lên tường bằng đầu diêm:
    " Ni đây yên nghỉ Giăc Ôlivăng, qua đời vào tuổi năm mưi mốt. Do tàn nhẫn, y đã làm bố y chóng chết, người bố mà y mong muốn hưởng quyền thừa kế gia sn, y hành hạ vợ, giày vò con cái, lừa đo láng giềng, hễ có dịp là ăn cắp và chết đi khốn nạn."
    Khi đã viết xong,nguời chết yên lặng ngắm nhìn công trình của y.Và quay lại, tôi thấy tất c những ngôi mộ đều mở, tất c những thây ma đều rời khỏi mộ, tất c đều xoá bỏ những điều dối trá thân nhân họ ghi trên mộ chí, để lặp lại sự thật.
    Và tôi thấy tất c đều là những đao phủ hành hạ người thân cận, đều thù hằn, bất lưng, gi dối, điêu toa, lừa đo, hay nói xấu, hay ganh ghét, họ đã ăn cắp, đã bịp bợm, đã làm mọi việc đê nhục, mọi việc xấu xa. Những ông bố nhân hậu ấy, những bà vợ thuỷ chung ấy, những cậu con trai tận tuỵ ấy, những cô thiếu nữ trong sạch ấy, những thưng gia liêm khiết ấy, những người đàn ông và đàn bà đều bo là tốt đẹp không thể chê trách được ấy.
    Tôi nghĩ rằng c nàng chắc cũng phi ghi lại sự thật ấy lên mộ mình. Và giờ đây không còn sợ hãi, chạy giữa những quan tài hé mở, giữa những thây ma, giữa những bộ xưng, tôi đi về phía nàng, tin chắc là tôi sẽ tìm thấy nàng.
    Tôi nhận thấy từ xa, tuy không nhìn thấy gưng mặt phủ vi liệm.
    Và trên cây thập tự bằng đá trắng mà hồi nãy tôi đã đọc:" Nàng, đã yêu, đã được yêu, và qua đời", tôi thấy:
    " Một hôm ra đi lừa dối ngưòi yêu, nàng bị mưa, cm lạnh và qua đời".
    Hình như người ta nhặt đuợc tôi, bất tỉnh nhân sự vào sáng sớm, bên một nấm mồ./
    Lê Hồng Sâm dịch
    phantincodet
    Được codet sửa chữa / chuyển vào 16:43 ngày 13/03/2003
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Chiếc Bình Đựng Ký Ức ( I )
    Dương Nữ Khánh Thương
    ánh sáng hình nh­ không tràn đ­ợc vào đây. Những ô cầu thang mục nát. Ngang qua chỗ vòm chắn lại có một máng n­ớc sẵn sàng xả những dòng đen ngòm lâu ngày đọng lại. Một dòng ng­ời lặng lẽ đi lên. Lớp lớp khuôn mặt cố gắng kìm hãm, nút chặt sự tự ý thức. Cầu thang không dài lắm nh­ng quanh co, cô cảm t­ởng đang đi trên lòng ống đến một cõi bất tận nào đó.
    Ðập vào thị giác những con ng­ời đang đi là bảng quảng cáo ố vàng, cáu bẩn, tuy vậy còn nhìn đ­ợc dòng chữ "Dịch vụ mua bán ký gửi nhân tình, tình cảm" không xa chỗ đó là căn phòng hẹp, có ô cửa đ­ợc che bằng l­ới sắt chỉ đủ thò một bàn tay vào góc tối đó.
    Ng­ời con gái tiến lại đ­a ra một cái bình thủy tinh xanh muốt, trong mơ màng. Một cái bình đẹp làm sáng bừng chỗ tăm tối nh­ thế này. Mắt cô gái cũng xanh một mầu nh­ vậy khiến ng­ời ta có cảm t­ởng một dòng chảy đang neo lại, mỏng manh nh­ng cũng mạnh mẽ vô cùng đang hiện hữu nhập nhòa. Ðúng hơn là một dòng sông vi diệu và huyền ảo lạ kỳ, vừa đắm đuối, miên man lại vừa tha thiết đến kiệt cùng. Và cô ngập ngừng:
    - Cho tôi ký gửi tôi của m­ời năm tr­ớc.
    - Chỉ vì một lời hứa? Giọng đục khàn vọng ra.
    - Hôm nay mới là 9 năm 360 ngày sao ng­ời ta không gắng đợi tròn 10 năm, lúc đó cô đến cũng ch­a muộn cơ mà. Suy nghĩ đi, tôi đợi...
    Dòng ng­ời tiến lên, một ng­ời đàn bà sắc sảo, ăn diện lộng lẫy chắn ngang:
    - Bán cho tôi ba thang lòng tự trọng.
    - Cô uống hay ai?
    - Gã chồng tôi.
    - Thuốc này uống kèm thêm một thang tự ái nữa nhé. Có tự ái rồi mới biết tự trọng. Tỷ lệ 3-1, ba tự trọng, một tự ái cứ nh­ vậy mà chia.
    - Vâng cảm ơn ông.
    Một ông lão rách r­ới, chống gậy khuôn mặt hắn ép sự đau khổ lên chân lại sát hơn cái cửa van nài:
    - Cho lão một ít lời ngọt ngào.
    - Tôi vẫn pha chế thuốc này nh­ng nó không đ­ợc công hiệu lắm đâu. ở đời đã đi xin xỏ, ng­ời tâm đức thì ít, kẻ phàm phu thì nhiều. Phải bớt xén chút gì dù nhỏ nhất cũng không làm ng­ời ta vui lòng mà cất nổi khuôn mặt thâm xịt vì tiền lên.
    - Vâng, lão hiểu.
    - Hôm nay tôi đóng cửa đây, mời các ông các bà ngày mai lại đến.
    Mọi ng­ời lặng lẽ ra về, b­ớc qua thanh chắn ẩm mốc.
    Ðó là một ngày
    Của muôn ngày những cuộc buôn bán lạ kỳ nơi trần thế.
    Mộc c­ời tự tình với trăng. Trăng chảy ­ớt đầm vai áo Mộc. Từng sợi trăng vút mềm tao nhã nh­ đổ ra loang mềm trong ánh nhìn b­ợt bã của nàng. Ðêm nay là đêm thứ bao nhiêu của một mùa trăng? Của đợi chờ. Có lẽ đã nhiều lắm nh­ng ch­a lúc nào Mộc cảm thấy đuối và thèm râm ran cảm giác là một cô thôn nữ nh­ m­ời năm về tr­ớc nh­ lúc này. Cảm giác ấy lớn dần, nó s­ng mọng, tấy lên, trong tâm thức nàng từng đêm mất ngủ. Một nỗi buồn dềnh lên, ngấm n­ớc, hòa tan trong ánh trăng lòa mờ ảo...
    M­ời năm về tr­ớc. Mộc đi gánh n­ớc đêm, nàng ngủ yên trên vạt cỏ s­ơng xanh nh­ ngọc. Lúc ngủ dậy Long đã ngồi bên mé sông tự lúc nào. Phía trên là bãi cát chạy dài. Những vồng cải nh­ tóe ánh trăng. Những đốm vàng thánh thiện nh­ hòa lẫn vào ánh trăng bạc pha phớt xanh mịn. Trăng bủa vây không gian, lùa vào áo Mộc, tóc Mộc một mùi h­ơng dịu. H­ơng trăng tỏa và những cơn gió từ mặt sông ­ớt r­ợt và mơn man. Từng bụm trăng vẫn ùa xuống n­ơng cải tắm lên đó những sợi tơ vàng nh­ tơ trời. Cả màn hoa cải lẫn mầu trăng hòa vào nhau nhạt nhòa, hợp rồi tan, tan rồi hợp, xô dạt nhau bồng bềnh... Bóng Long trầm t­ nh­ đá khắc. Cảm t­ởng ***g ngực anh cũng đang căng vồng nh­ những con n­ớc d­ới kia. Sợ anh bắt gặp cái cảnh lúng túng của mình, Mộc chủ động b­ớc xuống bến, khỏa n­ớc ào ào, nghiêng thùng cho trăng và n­ớc ào vào. Long đợi Mộc. Mộc cũng đợi Long. Long phá vỡ cái yên lặng của hai ng­ời bằng cách lại gần, đặt tay lên vai Mộc: "Ðể anh quẩy hộ". Mộc ngoan ngoãn rời vai cho Long gánh, nàng chầm chậm đi sau Long. Ðến cồn cát theo quán tính Mộc vẫn b­ớc, còn Long đặt gánh xuống khẽ gọi: "Mộc ơi". Tiếng gọi nồng quá. Mộc ngồi khẽ xuống bờ cát. Cát rẽ đ­ờng ngôi, rịn vào kẽ chân Mộc.
    - Mộc ơi, đáng lẽ đêm nay anh sẽ nói với Mộc là anh yêu em. Và đời anh chỉ có mình em. Nh­ng anh không muốn em khổ. Ngày mai anh sẽ đi khỏi làng. Ðể không phải nhìn em mà đớn đau. Em có thấy dấu hoa thị cuối chân trời ấy không? Ng­ời già làng mình nói m­ời năm nay nó mới lặp lại một lần. Nếu lúc ấy anh còn sống sẽ về thăm em đúng đêm hoa thị nở.
    Bàn tay Long nóng bỏng nh­ng mắt Long thì vừa sắc lạnh lại vừa đau buốt.
    Trời sinh ra nàng là phận gái. Muốn tìm bến trong để n­ơng thân. Có bến, có đò rồi thì tự d­ng đắm đò. Mộc khóc thầm. Nhìn lên cánh hoa thị mỏng manh bằng vệt tay, vẽ đ­ờng vân phù du huyền ảo nh­ một chấm nhớ xa xôi, không vọng, gõ vào tâm thức ng­ời thôn nữ mối tình trắc trở.
    Long bỏ đi, ngồng cải trổ bông đột ngột. Những luống cải luôn có ng­ời t­ới tắm. Những đêm trăng Mộc t­ới cả n­ớc mắt của mình vào từng gốc cây. Trăng ­ớt nhòe từng mảnh vỡ ra phập phồng trên mặt n­ớc rồi trôi đi mải miết. Giọt cay, giọt đắng vỡ òa rắc rải trong n­ơng cải.
    ... Thôn nữ buồn, thôn nữ biết gọi ai... bài hát của kẻ chài vọng vào đánh thức Mộc da diết, cồn cào. Ngày Long đi cũng là ngày c­ới mẹ Mộc lần thứ hai.
    Ông Hải ngọt nhạt với Mộc: "Con rồi sẽ lấy chồng, lấy chồng thật giàu sang vào để d­ợng mừng con nhá. D­ợng và mẹ xem nh­ chung niêu giúp đỡ nhau lúc về già. Chắc bố con cũng chẳng trách". Mộc uất nghẹn. "Con rồi sẽ lấy chồng". Lấy ai kia chứ? Ông thừa biết Long - con trai ông và Mộc yêu nhau từ tấm bé.
    Ông Hải cũng đã từng thẽ thụt thế với Long:
    - Con rồi cũng đi, đ­ợc ăn học tử tế, con sẽ lấy vợ giàu, vợ đẹp. Con còn trẻ phải nghĩ đến t­ơng lai mình chứ. Còn bố, bố già rồi, "nồi méo úp vung méo", phải có ng­ời để n­ơng tựa lúc về già. Con biết cô Vi rồi đấy. Bố định làm vài mâm gọi là... về ở với nhau sớm tối... Con và con Mộc sẽ là, sẽ là... anh em với nhau.
    - Sao lại có chuyện này hở bố?
    - Ơ hay - ông Hải nhếch mép - Anh quá biết ý định của tôi rồi còn gì. Chẳng lẽ... anh là con mà lại cản trở hạnh phúc của bố mình. Tôi với cô Vi cũng chỉ là n­ơng tựa vào nhau lúc xế bóng mà thôi, để anh yên lòng mà lo sự nghiệp. Tôi đã chọn ngày rồi. Anh có giỏi thì c­ới tr­ớc tôi đi xem nào.
    Và cái đêm trăng mà Mộc vẫn nhớ đến đau lòng về sau này cũng là đêm giã biệt, khép lại cánh cửa ký ức tuổi 18 của Mộc. Ngày tiếp ngày, tháng nối tháng nh­ng trong hộp kỷ vật của ng­ời thôn nữ ấy là những nỗi day dứt đang chững lại, không lớn v­ợt hơn tuổi m­ời tám, nh­ khép lại hạt cuối của chuỗi vòng số mệnh.
    Mộc sờ soạng. Ðây không phải là bến trăng. Và mảnh trăng trên kia cũng không phải là đêm trăng thở sâu mùi sông n­ớc. Tay Mộc chạm phải chấn song cửa sổ. Nàng rời bến Yêu từ dạo đó. Ðêm nay m­ời ba, trăng vừa nhú, ngập ngừng... Nàng chạy trốn nỗi nhớ th­ơng ng­ời cha hiền quá cố. Chạy trốn bến trăng đợi chờ, có hoa cải nở sáng từng quầng, mầu vàng hoàng kim.
    Không gian nh­ gợi, nh­ mơ. Trăng m­ời ba ch­a đủ chín để viên mãn tròn đầy, nó còn khuyết nh­ng nó cũng không quá non nớt để nhạt nhẽo. Nàng vịn gờ cửa sổ nhìn ra mảnh v­ờn bé nhỏ. Trăng xếp chen với cỏ ngái mùi linh thảo. Nàng thầm cảm ơn chồng đã chạy vạy, tìm kiếm đ­ợc ngôi nhà ngoảnh về h­ớng tây, có cả một v­ờn cây với cây ăn trái để tỏa bóng mát là chính, lúp xúp giữa đó là hoa. Những thứ hoa vớ vẩn mà nàng thích. Chồng nàng còn cầu kỳ cho ng­ời uốn những thanh nan trổ dài nh­ chông nh­ng nàng khéo léo trồng lên đó những bụi cúc tần và khi cúc tần xanh cũng vừa lúc xuất hiện những dây tơ hồng. S­ơng phủ mịn trên mặt lá nh­ ngọc, li ti. Chồng nàng đang đi công tác xa. Nàng cô đơn. Thà là trăng cứ sáng bừng cho mọi cảm giác đ­ợc giải tỏa rõ ràng. Ðằng này... Nàng ngột ngạt và nhớ. Một nỗi nhớ không định hình. Nàng nhớ một cái gì mà từ rất lâu nàng đã quên nó.
    Trong hơi gió từ sông thổi lên, rờn rợn, ẩm ­ớt, nàng thấy một bóng ng­ời đang từ từ tiến lại. Nhẹ nhàng lay nàng. Trăng bỗng mờ đi bởi một đám mây.
    Và lúc này, Mộc hôm nay đang đứng tr­ớc Mộc ngày x­a - Mộc m­ời tám tuổi.
    Mộc ngày x­a:
    - Trở về đi Mộc, hãy trở về với tôi, trở về với bến x­a, trăng x­a và Long...
    Mộc ngày nay:
    - Tôi không thể trở về đ­ợc nữa. Tôi đã có một gia đình. Tôi có một đứa con sắp ra đời. Tôi không thể phản bội chồng tôi. Tôi không thể đày đọa đứa con bé bỏng của tôi. Tôi sợ...
    Mộc ngày x­a:
    - Long đã trở về tìm Mộc rồi, có biết không?
    Mộc ngày nay:
    - Không. Long đã bỏ nhà ra đi. Long không bao giờ trở về tìm tôi nữa, mà có tìm tôi thì để làm gì?
    Mộc ngày x­a:
    - Nh­ng Long đã hẹn Mộc m­ời năm sau sẽ trở về với Mộc.
    Mộc ngày nay:
    - Nh­ng đã m­ời năm rồi.
    Mộc x­a:
    - Ch­a hết, mới chín năm ba trăm sáu m­ơi ngày.
    - Gần m­ời năm không có hy vọng, thì một vài ngày nữa... Tôi đã có một gia đình. Hãy hiểu cho tôi.
    - Nh­ng Mộc không hạnh phúc.
    - Tôi hạnh phúc, tôi hạnh phúc chứ.
    - Thế sao Mộc vẫn cất giấu cái bình thủy tinh đựng ký ức, vẫn ngắm trộm nó và vẫn khóc thầm?
    Mộc ngày nay:
    - Tôi sẽ ký gửi vĩnh viễn cái bình đó.
    Lovetolive[/size=18]

Chia sẻ trang này