1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Anton P. Tchekhov là 1 trong 3 nhà văn viết truyện ngắn hay nhất thế giới(cùng với Edgar Alan Poe và Guy de Mopassant).Bạn đã đọc truyện ngắn ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU của ông chưa ? Nếu chưa thì xin mời bạn cùng thưởng thức :
    ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU
    Truyện ngắn của Anton P. Tchekhov
    Buổi ăn trưa ngày hôm sau họ được thưởng thức những món ăn ngon như tôm tích, bánh mì salad, v.v. Trong khi đang dùng bữa thì ông Ninh, người đầu bếp, đi lên cầu thang và hỏi họ muốn dùng gì cho bữa chiều. Ông ta là một người có kích thước trung bình, má phệ và mắt hí. Bộ râu được cạo nhẵn cáo chỉ. Hàm râu như bị nhổ từng sợi một thay vì cạo.
    Kim bắt đầu kể cho những người khách biết là cô Nga đã thương ông đầu bếp này. Nhưng dù sao cô nàng vẫn không chịu lấy ông ta vì ông ta là một người say rượu và hay gở. Tuy vậy, cô sẵn sàng đồng ý để "sống chung với ông" Ngược lại, ông ta là một người đạo đức, đạo của ông không cho phép ông "chỉ sống chung với nàng." Một là cô nàng cưới ông, còn không thì ông không cần. Ông chửi cô và đánh đập cô. Cô phải núp trên lầu, khóc lóc một mình, mỗi khi ông uống rượu say. Kim và những người làm của anh ta thường hay phải ở nhà để bảo vệ cô.
    Câu chuyện bắt đầu chuyển đề tài qua tình yêu.
    "Cái gì làm cho người ta yêu nhau?" Kim hỏi. "Tại sao Nga không thương một người khác, một người giỏi hơn và đẹp trai hơn? Một người xứng với cô hơn? Tại sao cô ta phải thương ông Ninh--"ông mặt bự" như mọi người hay gọi ông--khi biết rằng hạnh phúc cá nhân của cô là yếu tố rất quan trọng trong tình yêu? Ðiều này quả thật là huyền bí và có nhiều cách giải thích. Qua Kinh Thánh, chúng ta đã từng được nghe định nghĩa đích thực của tình yêu: 'Ðấy là một sự huyền bí.' Ngoài ra, những bài viết hay những câu nói khác đều không làm chúng ta thỏa mãn về ý nghĩa chân chính của nó. Chúng nó có thể định nghĩa được tình yêu trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác nhưng không thể nào giải được ý nghĩa của nó trong mọi hoàn cảnh. Nếu mà như vậy thì chúng ta nên định nghĩa tình yêu trong từng hoàn cảnh một, thay vì đi tìm một ý nghĩa đích thực, chung cho mọi hoàn cảnh. Chúng ta cần phải phân tách từng hoàn cảnh một, như các bác sĩ thường hay nói."
    "Rất đúng" Ban đồng ý
    "Những người dân Nga thường hay bị phiền phức về những bài toán nhức óc này. Trong khi người ta choàng lên tình yêu của họ những đóa hồng, những hạt kim cương thì chúng ta, những người Nga, lại choàng lên nó những nghi vấn và những thắc mắc mà hầu như không bao giờ giải đáp được. Khi tôi còn là một sinh viên ở Mát-Cơ-Va, tôi có một người 'bạn': một người con gái dễ thương. Mỗi lần khi tôi ôm nàng trong lòng, tôi luôn tự hỏi mình: tiền lương hàng tháng mình cần đưa cho nàng bao nhiêu và bây giờ bao nhiêu tiền một cân thịt bò. Ðừng chế tôi, chúng ta đều giống nhau cả. Một khi chúng ta rơi vào biển tình, chúng ta luôn luôn thắc mắc, nghi nghờ, và hay tự đặt câu hỏi cho chính mình. Chúng ta chân thành hay giả giối? Thông minh hay ngu dốt? Cái tình yêu này, nó sẽ có kết cục ra sao? Vân vân và vân vân. Tôi không biết cảm tưởng như vậy là đúng hay sai, nhưng nó rất phiền phức. Nó có mang lại sự thỏa mãn và tức giận hay không, cái đó tôi không biết."
    Hình như anh ta có một câu chuyện đang muốn kể. Những người sống một mình thường hay có tâm sự trong lòng mà họ rất muốn thổ lộ. Những người chưa lập gia đình thường hay lui tới những buồng tắm công cộng, những nhà hàng trong phố, để mà nói, và đôi khi họ kể những câu chuyện lý thú, hấp dẫn thu hút cả những người bồi bàn và công nhân làm việc trong phòng tắm. Những người sống ngoài thành phố thì thường trao gởi bầu tâm sự của họ cho bạn bè và khách khứa. Qua cửa xổ, mây đen phủ kín bầu trời, những hạt mưa bao trùm không gian và cây cối.
    Tôi đã từng sống và làm ruộng ở vùng Sông-Phi-Nô này, tôi bắt đầu làm việc ở đây sau khi học xong đại học (Kim bắt đầu). Tôi được lớn lên một cách thoải mái, không phải làm gì, chỉ phải học. Vì việc học của tôi mà ba tôi đã phải nợ đầy mình. Ông phải dùng ruộng vườn của mình làm của thế chân để mượn tiền cho tôi đi học. Sau khi học xong, tôi quyết định ở lại trên mảnh ruộng của ba tôi để làm việc cho tới khi nào trả hết nợ. Tôi đã quyết định như vậy và bắt đầu làm việc, tuy rằng vẫn có chút tiếc rẻ trong đó. Ðất đai trong vùng này không được màu mỡ cho lắm. Nếu muốn lời, một là mình phải mướn thêm tay làm hai là phải tự mình nai lưng ra mà làm; không còn cách trọn lựa thứ ba. Tôi gom góp những người trong làng lại, đàn ông cũng như đ àn bà, để làm việc cho tôi. Chúng tôi không để yên một mảnh đất nào, chúng tôi làm việc quần quật như trâu. Tôi cũng tự mình xới đất, tự gieo hạt, và gặt lúa. Lưng quằn lên vì vất vả trong khi môi phệ ra vì chán nản. Cả mình tôi đau nhức còn chân tôi thì liệt đi như muốn chết. Lúc đầu tôi tưởng là mình có thể dùng những gì học hỏi được ở trường lớp để đỡ nhọc nhằn. Tôi tưởng rằng chỉ cần tạo cho mình một thời khóa biểu và làm việc theo nó thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Tôi dọn lên ở phòng tốt nhất trên lầu; xắp xếp để café và rượu được dọn lên mỗi bữa ăn trưa, chiều; và đọc báo "Thời Sự Âu Châu" mỗi một đêm trước khi đi ngủ. Nhưng mục sư Văn, người linh hướng của làng chúng tôi, một hôm đến thăm và đã nuốt hết những bầu rượu thơm của tôi. Còn con gái ông ta thì công về hết tất cả những tờ "Thời Sự Âu Châu". Tôi cũng không buồn. Tôi không cần những tờ báo đó vì từ khi bắt đầu công việc đồng áng, tôi chưa tối nào được đặt lưng trên giường mình. Nhất là trong những tháng cắt mạ, tôi thường ngủ trong chuồng bò hay trong túp lều của anh đốn củi. Dần dần tôi dọn phòng ngủ của tôi xuống dưới lầu để ngủ chung với những người làm mướn. Tôi cũng chẳng còn cái gì yêu quí cả ngoại trừ những người này, những người trước kia đã làm công cho ba tôi và bây giờ lại làm cho tôi, những người mà tôi không bao giờ và không thể nào xua đuổi cho dù mai này có thế nào đi chăng nữa.
    Trong những năm đầu tiên sống ở đây, tôi đã được trọn làm giám thị. Vì vậy nên tôi hay ra tỉnh để để làm việc và hay tham gia vào những vụ xử kiện trên đó. Ðiều này làm tôi rất thích. Một khi đã bị gò bó suốt mấy tháng trời trong nông trại, nhất là vào mùa đông, thì không có gì mong muốn cho bằng được khoác chiếc áo choàng thâm của mình. Khi làm việc trên tỉnh, tôi cần phải có áo choàng thâm, đồng phục, và áo đuôi dài. Toàn là những luật sư và những người có học trên đó. Họ là những người mà tôi có thể nói chuyện với một cách dễ dàng.
    Tôi lúc nào cũng được hoan nghêng trên tỉnh. Tôi rất thích làm quen với những người bạn mới. Trong số bạn mới của tôi, anh chàng đứng đắn nhất--và, thật tình, đáng mến nhất--là anh Lữ, phó giám đốc tỉnh. Hai bạn chắc cũng đã biết anh ta: một con người... quả nhiên là một nhân vật rất quyến rũ. Tôi được gặp anh ta trong một vụ án về hỏa hoạn rất nổi tiếng. Vụ án được xử trong hai ngày liên tiếp. Khi kết thúc, mọi người đều mệt rã cả người. Anh Lữ nhìn về phía tôi:
    "Hay là tới nhà tôi ăn cơm chiều nha" anh mời
    Tôi rất là ngạc nhiên, tôi vừa mới biết anh ta, mà lại, chúng tôi chỉ quen nhau qua việc làm mà thôi. Tôi chưa bao giờ tới nhà anh ta cả. Sau khi trở lại khách sạn để tắm rửa, tôi tới nhà anh. Buổi cơm chiều đã mở đường cho tôi gặp An, vợ anh Lữ. Nàng còn rất trẻ, hai mươi hai tuổi là cùng, đứa con đầu lòng của nàng mới trào đời cách đây chưa đầy sáu tháng. Chuyện này đã sảy ra qua lâu rồi, tôi không còn nhớ rõ, hay nói một cách khác, khó mà giải thích được ngay lúc đó điều gì về nàng đã mê hoặc tôi đến thế. Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, tôi đã hiểu rõ. Tôi thấy nàng, một người đàn bà trẻ, đẹp, hiền lành, thông minh và hấp dẫn--không như bất kỳ một cô gái nào mà tôi đã gặp trước đây. Ngay lập tức, tôi cảm thấy nàng thật là ngần gủi, tôi có cảm tưởng như mình đã quen nàng từ lâu--tôi tưởng như đã gặp khuôn mặt ấy, cặp mắt khêu gợi và sáng sủa ấy khi tôi còn là một đứa bé đang mở nhìn trộm những cuốn an-bum trong ngăn tủ mẹ tôi.
    Trong vụ án hỏa hoạn, bốn người Do-Thái bị kết án khủng bố--tôi hết sức không bằng lòng với phán quyết này của tòa án. Tôi không thể ngồi yên khi dùng bữa--nói thật, tôi rất bực mình--tôi không còn nhớ mình đã nói gì trong bữa đó, tôi chỉ nhớ thấy An cứ lắc đầu và nói với chồng mình "Em không thể nào tin được anh ạ"
    Lovetolive[/size=18]
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU (II)
    Truyện ngắn của Anton P. Tchekhov
    Lữ là một người tốt, tuy rằng hơi ngây thơ một tý. Anh ta nghĩ rằng những gì quan tòa phán quyết đều là đúng, nếu muốn kháng án, người ta cần phải làm đầy đủ những thủ tục, hồ sơ cần thiết, và nộp lên những nơi chính đáng đã quy định theo luật pháp--bàn ăn, theo anh, không phải là một trong những chỗ đó.
    "Em và anh đâu có nổ lửa đốt nhà đâu" anh nói nhỏ nhẹ "anh và em đâu có bị kết án và giam tù"
    Cả hai vợ chồng họ cố mời và ép đồ ăn cho tôi. Qua những khía cạnh mà tôi theo dõi--cách mà họ bắc café chung với nhau, cách mà họ hiểu nhau trước khi mở miệng--tôi kết luận rằng, họ đang sống trong cảnh hòa bình và êm ấm, họ rất vui khi được tiếp đón và làm vui lòng một người khách trong nhà họ. Sau cơm chiều, chúng tôi chơi pi-a-nô. Khi màn đêm bắt đầu kéo, tôi xin phép họ để trở về khách sạn.
    Câu chuyện vừa rồi sảy ra vào đầu mùa xuân, sau khi đó, tôi rời tỉnh để trở về nông trại của tôi ở Sông-Phi-Nô. Tôi ở đó suốt mùa hè. Tôi hết sức bận rộn nên không còn thì giờ nghĩ đến những việc trên tỉnh. Nhưng ngày nào tôi cũng đều bị ám ảnh bởi hình dáng của người con gái tha thướt, yêu kiều đó. Nàng đã in lên tâm trí tôi một cái bóng phất phơ, nhỏ nhẹ.
    Vào cuối mùa thu, một chương trình ca vũ từ thiện được tổ chức trên tỉnh. Tôi được mời ngồi chung với ông thống đốc. Khi tôi bước vào, An và Lữ đã ngồi đó, bên cạnh bà vợ ông thống đốc. Một lần nữa, con người tôi lại bị choáng váng bởi nét đẹp kiều diễm đầy khuyến rũ, bởi đôi mắt kêu mời, tran trứa tình bạn của nàng. Và một lần nữa, tôi cảm thấy như đang chia sẻ với nàng một cái gì đó rất mật thiết và gần gũi.
    Tôi ngồi xuống bên cạnh nàng. Nàng quan sát rằng tôi có phần nào gầy hơn trước. Tôi có bị ốm không?
    "Cám ơn, vai tôi thường hay bị nhức. Nó hành tôi rất khó ngủ nhất là vào mùa mưa"
    "Nhìn anh có vẻ bệ rạc quá. Khi anh dùng bữa chung với chúng tôi mùa xuân rồi, nhìn anh còn trẻ và tự tin lắm mà. Lúc đó anh còn nói nhiều, còn pha trò, còn quậy nữa mà. Quả nhiên lúc đó anh thật là hấp dẫn. Ngay lúc ấy, một phần nào đó, tôi đã bị anh mê hoặc. Không biết tại sao suốt mùa hè qua, lâu lâu tôi lại liên tưởng đến anh. Khi tôi chuẩn bị để đi coi hát, tôi biết chắc rằng thế nào cũng gặp anh."
    Nàng cười. "Nhưng hôm nay nhìn anh bệ rạc quá," nàng lập lại. "Nhìn anh trông già hẳn đi"
    Ngày hôm sau, tôi dùng cơm trưa tại nhà Lữ. Sau bữa cơm, họ mời tôi ra thăm căn nhà nghỉ mát của họ. Tôi đi với họ, tôi về với họ, và vào nửa đêm tôi uống trà với họ trong không khí yên tỉnh của mái nhà họ: bên cạnh lò lửa đang bừng cháy, nóng hổi, với người mẹ trẻ lâu lâu lại đi ra đi vào để trông giấc ngủ cho con. Sau ngày hôm đó, khi nào có dịp lên tỉnh là tôi ghé thăm Lữ. Càng ngày chúng tôi càng thân hơn, đôi khi tôi tới nhà anh ta bất chợt, không cần nói trước. Họ xem tôi như một thành viên trong nhà.
    "Ai vậy?" giọng nàng vọng ra từ cuối nhà, ngân nga, đầy khuyến rủ.
    "Ông Kim" người giúp việc trả lời, và An xuất hiện với nét mặt đầy lo lắng. Tại sao tôi không đến thăm nàng sớm hơn? Chuyện gì đã xảy ra?
    Cái nhìn của nàng, cái vòng tay nõn nà, xinh xắn, bộ đồ nàng mặc trong nhà, cách làm tóc của nàng, giọng nói, tiếng bước chân của nàng... lúc nào cũng làm cho tôi có cảm tưởng như một cái gì đó mới mẻ, bất thường, một cái gì đó quan trọng đang xảy đến với tôi. Chúng tôi thường có những buổi nói chuyện thật dài--và cũng có những lúc im lặng thật lâu, mỗi một người như bị cuộn lại trong suy tư của mình. Những lúc không có ai ở nhà, tôi thường ngồi đợi, nói chuyện với người vú, chơi với đứa nhỏ, hay duỗi chân trên cái ghế bành để đọc một tờ báo. Khi An về, tôi chạy ra gặp nàng ở hành lang và giúp nàng mang hàng mới mua vào. Tôi bê những hàng hóa đó một cách trìu mến và hảnh diện--như một đứa bé mới biết bê đồ lần đầu.
    Lữ và những người khác trong gia đình không hề để ý, họ chẳng bao giờ làm phiền tôi. Họ tiếp tục tiếp đón tôi. Nếu lâu không thấy tôi lên tỉnh thì hai vợ chồng lại sốt ruột, lo lắng. Nhất định là tôi bị ốm hay có chuyện gì không may xảy đến với tôi. Cái mà làm cho họ lo lắng nhất là tôi, một người có học, biết nhiều thứ tiếng, lại không ở trong văn phòng mà sống ở ngoại ô, suốt ngày quấn quít với máy say bột và những thửa ruông cằn cỗi. Họ nghĩ rằng tôi không bao giờ hạnh phúc, những lúc tôi cười nói trong bữa ăn chỉ là để che đậy tâm hồn đau khổ của tôi. Cả những khi tôi thật sự hạnh phúc và thoải mái, họ vẫn nhìn tôi với ánh mắt đầy lo lắng. Những khi tôi bị kẹt, chủ nợ đòi tiền hay không có tiền chi tiêu hàng tháng, hai vợ chồng hay thầm thì với nhau. Sau đó, anh chồng thường đi tới bên cạnh tôi với một ngương mặt trịnh trọng.
    "Nếu anh có hơi bị thiếu, Kim, vợ chồng tôi sẵn sàng giúp một tay. Anh đừng gại." Hai tai anh ta đỏ ngầu vì mắc cỡ.
    Hay là có khi anh đến bên tôi, hai tai đỏ ngầu sau khi nói chuyện với vợ, và thuật lại với tôi rằng vợ anh "hết lòng muốn tôi nhận một chút quà này." Sau khi nói xong anh ta thường đưa cho tôi một số đinh tán, hộp thuốc lá, hay một cái đèn điện. Ðể trả ơn, tôi thường hay biếu họ những món quà từ vùng ngoại ô như một con chim non, bơ, hoa... Cả hai vợ chồng hình như đều có tiền riêng. Tôi vẫn hay mượn tiền của người khác, không cần biết là của ai hay bao nhiêu--tôi mượn ở bất kỳ chỗ nào cho phép. Nhưng mà không có một mãnh lực nào có thể bắt tôi xoè tay mượn tiền của gia đình Lữ được. Cần tôi giải thích thêm không?
    Tôi buồn. Ở nhà, trên đồng áng, hay trong chuồng bò tôi luôn nghĩ đến nàng. Tôi có gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người con gái trẻ, đẹp và thông minh ấy, người vợ của một ông chồng xấu, đứng tuổi, và người mẹ của những đứa con anh ta. Tôi cũng cố gắng tìm hiểu sự kỳ bí của người chồng này, một anh chàng thiếu nhan sắc, tốt tính, dễ dãi, với những cách nhìn ngây thơ và vớ vẩn, người mà mỗi khi đi dự tiệc thường hay dạy đời người ta... còn người mà vẫn còn tin tưởng là mình có quyền để được hạnh phúc và có quyền để làm chồng nàng. Tai sao, tôi vẫn nghĩ, nàng không gặp tôi trước hắn? Vì mục đích gì mà lại có sự sai lầm đến thế?
    Những lần lên tỉnh, qua ánh mắt của nàng, tôi biết rằng nàng đang đợi tôi, có lần nàng thú nhận với tôi là trước khi tôi đến, nàng thường hay có những cảm giác rất kỳ lạ--giống như nàng đã biết trước thế nào tôi cũng tới. Chúng tôi tiếp tục những buổi nói chuyện, xen lẫn với những phút thinh lặng thật dài, không ai giám nói lên tình yêu của mình nhưng giấu kỹ một cách sợ sệt và ghen ghét. Chúng tôi sợ, sợ tất cả những gì có thể bộc lộ ra cái bí mật ấy. Mặc dù cái tình yêu mềm mại đó đã cắm rễ quá sâu trong lòng, tôi luôn cố gắng để cho đầu óc sáng suốt, xét đoán xem những giông tố nào có thể xảy ra nếu chúng tôi không có đủ nghị lực để kềm chế chính mình. Tôi không thể nào hình dung ra được, hay nói đúng hơn, không muốn tin rằng một tình yêu thầm kín, cô đơn như của tôi, lại có thể bỗng nhiên và thô bạo phá tan cuộc đời ấm cúng của người chồng và những đứa con; lật úp luôn cả căn nhà mà tôi vẫn mãi yêu thương và tin tưởng. Ðây có phải là thái độ của một người đàn ông đứng đắn không? Nàng sẽ đi với tôi--nhưng mà... đi đâu? Tôi có thể dẫn nàng đi đâu? Mọi việc sẽ khác hẳn nếu như tôi là một người đàn ông lãng mạn và có tiền, nếu như tôi là một quân nhân anh dũng đang chiến đấu cho lý tưởng tự do của nhân loại, hay nếu như tôi là một người ca nghệ sĩ nổi tiếng được nhiều người thán phục. Nhưng tôi chỉ là một người nông dân nghèo. Tôi chỉ có thể đưa nàng từ cuộc sống bạc bẽo này đến cuộc đời bạc bẽo khác, hay còn tồi tệ hơn thế nữa. Hạnh phúc của chúng tôi sẽ kéo dài được bao lâu? Nếu không may tôi chết đi thì nàng sẽ làm sao? Còn nếu như chúng tôi không yêu nhau nữa? Và còn......v.v.
    Lovetolive[/size=18]
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU (III)
    Truyện ngắn của Anton P. Tchekhov
    Nàng cũng nghĩ như tôi. Nàng nghĩ đến chồng nàng, con nàng, mẹ nàng, người mà thương yêu chồng nàng như con ruột. Nếu nàng nghe theo cảm súc của mình thì một là nàng phải nó dối hai là nói sự thật, nhưng cả hai đều khó khăn và nguy hiểm cho nàng trong hoàn cảnh này. Nàng suy tư trong đau khổ: tình yêu của nàng sẽ mang lại cho tôi hạnh phúc không? Có làm cho đời sống của tôi thêm phiền phức không? Có làm cho nó tẻ nhạt và đầy sóng gió không? Nàng cảm thấy nàng quá già đối với tôi, nàng không còn đủ sức và nghị lực để bắt đầu lại một cuộc sống mới. Nàng thường nói với chồng nàng là tôi cần phải cưới một người con gái hiền lành, thông minh, một người nội chợ và giúp việc tốt--nhưng theo nàng thì hầu như không có người con gái nào như vậy trên tỉnh (chỉ trừ nàng).
    Trong khi đó, năm tháng lại tiếp tục trôi đi. Bây giờ An đã có hai con. Mỗi khi tôi tới thăm gia đình, người làm công vẫn cười nói với tôi, mấy đứa trẻ thì bám víu lấy chú Kim của chúng, la hét lên vì vui mừng, và mọi người đều vui vẻ. Không hiểu được nỗi lòng thầm kín của tôi, họ tường rằng tôi cũng đang vui với họ. Họ coi tôi như là sự hiện thân của lòng chính trực. Người lớn cũng thế mà con nít cũng vậy, họ tưởng rằng sự chính trực đang đi giữa họ--sự quan hệ giữa tôi và họ làm cho cuộc đời họ tinh khiết và mỹ miều hơn. An và tôi vẫn hay đi coi hát chung với nhau. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, vai liền vai, tôi nhẹ nhàng lấy cặp mắt kiếng của nàng, ý thức rằng nàng đang ở cạnh tôi, tưởng tượng như nàng là của tôi, chúng tôi không thể nào sống xót nếu như bị chia rẽ. Nhưng lần nào cũng vậy, sau khi màn biểu diễn kết thúc, chúng tôi ngượng nghịu chia tay nhau, ra đi như những người xa la. Không biết người nói gì về chúng tôi trên tỉnh, nhưng không một câu nào của họ là đúng cả.
    Trong những năm vừa rồi, An về thăm mẹ và em nhiều hơn. Nàng hay buồn rầu và chán nản: tâm trạng của nàng làm nàng ý thức được rằng cuộc sống của nàng chưa đầy đủ và thiếu ý nghĩa. Những khi đó nàng thường lánh mặt chồng và con cái. Cái tình trạng này kéo dài và nặng hơn, bắt buộc nàng phải điều trị về bệnh tâm lý.
    Mặc dù vậy chúng tôi vẫn giấu kín những gì mình muốn nói. Những lúc gặp mặt, nàng hay tức tối với tôi một cách kỳ lạ. Nàng chống đối tôi trên mọi phương diện; nếu tôi có bàn luận hay cãi nhau với một người khác, nàng lập tức đứng về phe của họ. Nếu không may tôi làm rơi một vật gì, nàng nhìn tôi và nói một cánh lạnh nhạt "hay quá ha." Mỗi khi tôi quên mang kính đi xem hát, nàng cho tôi biết rằng nàng đã biết trước thế nào tôi cũng quên.
    Hên hay xui, bất kỳ cái gì trong cuộc đời chúng ta, không sớm thì chiều, cũng phải kết thúc. Bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải chia tay nhau: Lữ đã kiếm được việc làm tốt hơn ở miền tây. Họ bán tất cả: nhà, bàn ghế, và ngựa. Lái xe ra khỏi nhà, khi chúng tôi ngoẳnh mặt nhìn lại lần cuối góc vườn xinh xắn với mái ngói phủ đầy giây leo, mọi người đều cảm thấy buồn, còn tôi... tôi biết đã đến lúc phải ra đi, bỏ lại không chỉ một căn nhà bé nhỏ. Chúng tôi đã quyết định để An tới Ki-Mi-A trước và Lữ sẽ mang các con tới sau.
    Một đoàn người chúng tôi tới ga xe lửa để tiễn chân An. An đã chào tạm biệt chồng nàng và các con... xe lửa bắt đầu chuyển bánh... thì... tôi vút nhanh lên khoang tầu của nàng, đặt lên đồ đạc cái rổ mà tí nữa nàng đã quên. Bây giờ đến lượt tôi chào tạm biệt. Cặp mắt chúng tôi gặp nhau trên khoang tầu, và chúng tôi không thể kiềm chế được nữa. Tôi ôm choàng lấy nàng, nàng ấp mặt vào ngực tôi, và nước mắt bắt đầu chảy. Hôn mặt nàng, hôn vai nàng, hôn đôi tay xinh xắn chứa đầy nước mắt--hai chúng tôi quả thực quá hạnh phúc--tôi bày tỏ tình yêu của tôi cho nàng. Với nỗi thống khổ bừng cháy trong tim... tôi thấy những gì đã cản trở tình yêu chúng tôi, những gì đã bóp ghẹt tình yêu của chúng tôi bấy lâu, quá sức là nhỏ bé, tầm thường và hão huyền. Tôi ý thức được rằng, một khi tôi yêu, tôi cần đặt định nghĩa tình yêu của tôi trên một cái gì đó cao thương và quan trọng hơn là hạnh phúc hay đau khổ, tội lỗi hay trong sạch: những ý nghĩ tầm thường mà mọi người vẫn đắn đo một khi yêu. Nếu không được như vậy, thì thà rằng chúng ta đừng định nghĩa tình yêu thì hơn.
    Tôi hôn nàng lần cuối, nắm chặt tay nàng, và rồi chúng tôi chia cách--mãi mãi. Xe đang chạy. Tôi ngồi xuống khoang bên cạnh, trống rỗng... ngồi đó và khóc cho tới khi xe dừng lại ở trạm kế tiếp. Tôi quốc bộ về Sông-Phi-Nô.
    Trời đã tạnh trong khi Kim đang kể chuyện, mặt trời đã ló rạng. Ban và Văn rời chỗ ngồi ra lan can. Trước mặt họ là vẽ lộng lẫy của khu vườn, và ánh sáng lấp lánh của dòng sông trong những tia nắng mặt trời. Lòng họ say mê trước cảnh vật nhưng cũng không quên hối tiếc cho người đàn ông với cặp mắt hiền lành và trong sáng ấy--người mà trong giờ qua đã bầy tỏ cho họ những tâm tư thầm kín và chân thành nhất--con người mà cuộc đời ngày qua ngày vẫn tiếp tục xoay quanh mảnh ruộng và cối xay gạo, vẫn tiếp tục nghèo khổ mà không làm gì để tiến lên được. Họ cũng liên tưởng đến sự thống khổ của nàng khi anh ta phải chia tay nàng trên khoang tàu, đặt lên vai và trán nàng những nụ hôn nồng cháy. Họ đã gặp nàng một vài lần trên tỉnh. Ban là bạn thân của nàng và biết rằng nàng rất đẹp.
    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    PHAN THỊ VÀNG ANH là cây bút nữ có phong cách rất trẻ , độc đáo , gây cảm xúc mạnh cho người đọc. Truyện ngắn HOA MUỘN được trao giải nhất (đồng hạng với Ðường Tăng của Trương Quốc Dũng trong cuộc thi truyện rất ngắn (không quá 1000 chữ) do bán nguyệt san Thế Giới Mới tổ chức năm 1994.
    Lời bàn của Nguyên Ngọc:
    Ðọc xong Hoa Muộn, thú thật tôi đã làm một công việc lẩm cẩm: tỉ mẩn đếm xem truyện có quá 1000 âm tiết, có phạm quy cuộc thi không?
    Bởi vì chẳng hề có cảm giác cố gò trong khuôn khổ chật cứng quy định. Trái lại cứ thong dong, đủng đỉnh như không. Câu văn cứ trễ tràng, thậm chí cố tình lười biếng lê thê nữa. Bố cục cố tình luẩn quẩn, tạo cho truyện một không khí mệt mỏi, buồn chán, lỡ làng, phi lý, bế tắc... Ðúng như cuộc đời cái cô Hạc nọ vậy. Và sự luẩn quẩn đó lan sang cả ta, người đọc: biết làm gì đây, có thể làm gì đây cho những số phận trớ trêu thế này?... Cái đau đớn không kêu lên được, chẳng có lý do gì để mà kêu, mà kêu thì ai nghe, ai thèm nghe. Mà có nghe thì giải quyết được gì?
    Tất cả những điều "ghê gớm" như vậy mà thong dong viết được dưới 1000 chữ! Vì sao thế nhỉ?
    Có lẽ vì người viết cực tinh. Các chi tiết cực đắt, chi tiết nào cũng là đỉnh cao của sự ngán ngẩm, chán chường, vô nghĩa: kỷ niệm các "chú nhỏ để lại là những ghế con vuông vức đóng đầy đinh", là "hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết đến khi nào mới hỏng"; câu hỏi: "Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc nào không?"; Tết thì "giống như một ngày chủ nhật, như nhà ai giàu làm đám cưới đốt pháo nhiều"; "Hết Tết! Rồi vặn đồng hồ báo thức, dậy sớm, đi làm trở lại"; bà cụ thì lắc đầu: "Chúng mày đáng sợ thật!"...
    Tôi có cảm giác như bỗng chợt hiểu ra được một điều: thì ra cuộc đời là như vậy đó, cuộc đời là gồm những chi tiết, vô số chi tiết đứng cạnh nhau, nối tiếp nhau. Và khi tất cả những chi tiết đó nhàm chán thì cuộc đời sẽ nhàm chán, vô nghĩa.
    Và cái kết quả của truyện mới ghê gớm: người ta giới thiệu cho Hạc một người đàn ông. Anh ta đến lù khù, chẳng biết nói gì, chẳng có gì để nói; cuối cùng, Hạc rủ ra vườn xem mai chơi, họ đi "hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân, họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân...".
    Trời ơi, cuộc sống thế này thì chết mất!
    Hoa muộn, lặng lẽ, hiền lành thế, mà lại là một tiếng kêu thét thống thiết, càng thống thiết vì nghẹn tắc, chống lại sự nhàm chán, vô vị của cuộc đời.
    RẤT MONG CÁC BẠN GÓP Ý CHO " TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT "
    HOA MUỘN
    PHAN THỊ VÀNG ANH
    1.
    Những vườn xung quanh, mai đã bắt đầu trụi lá. Ngày nào, chú Tảo cũng cái quần soọc đen lơ lửng, áo may-ô thủng lỗ chỗ, đầu đội cái nón kết đỏ, len lỏi giữa những hành cây hỏi sang: "Bên ấy chưa nhặt lá à?". Chưa ai nhặt lá mai cả. Trong vườn, mai vẫn rậm rịt, không ai rảnh mà làm việc ấy, gần cuối năm, bà cụ lại được mời đi tỉnh chơi, những người trẻ còn lại trong nhà đùn đẩy nhau, ai cũng ngại, ai cũng cố cho rằng người ta chỉ bày vẽ, chứ cứ thử không nhặt xem, nó có nở không? Nở quá đi chứ!
    Rồi một người nhớ ra, bảo "Ờ năm nay không có chú nhỏ nào đến nhặt lá giùm nhỉ?". Ở nhà, không cần quy ước, cứ ai lân la tán tỉnh Hạc đều được gọi là "chú nhỏ", có chú đến rồi đi luôn, có chú lai rai lâu lâu đảo qua một lần rồi biến mất, mỗi chú để lại một vài kỷ niệm trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát. Ðó là những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh; những cành cây bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn theo hình con lân, con phụng; là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết bao giờ mới hỏng... Mọi người vẫn đùa, hỏi: "Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc nào không?". Hạc vêu mặt cười: "Nhớ chứ, tôi ghi sổ hết mà!". Mọi người cười đe: "Cẩn thận! Một trong những thằng ấy mà vớ được cuốn sổ thì mày khốn!"
    ...Ờ đúng rồi, mấy năm nay chẳng có ai đến nhặt lá mai cho Hạc. Tuyến lấy vợ. Nhật xuất cảnh. Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba, chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch. Ðó là những "chú nhỏ" năm xưa, tay lăm lăm kéo, đứng chông chênh trên cái ghế gỗ, hay khom lưng giữa những tàn mai già, nhặt lá. Lá mai xạm màu rơi đầy gốc, họ lại nghĩ ra việc quét vườn. Hạc lúc tựa gốc mít, lúc đi quanh chú nhỏ, nói chuyện "ngụ ngôn", đôi khi buồn cười, thấy hình như đã nói những câu thế này, cũng trong tiếng chổi lạt xạt quét vườn, vào năm ngoái, với người năm ngoái. Rồi về, nấn ná ở cổng, hẹn Tết nhớ đến coi mai nở, à trước Tết chứ, để còn chở đi chợ. Năm nào Hạc cũng phải giảng giải việc đi chợ Tết cho một người nào đấy, anh chị trong nhà lại cười: "Người vô duyên, không giữ ai được quá một năm!".
    2.
    Rốt cuộc, cả đám người trẻ tuổi trong nhà vừa quyết định vừ cười láu cá: "Khỏi, thử một năm không nhặt lá, biết đâu hoa ra lác đác lại chẳng đẹp hơn?". Họ vùi đầu vào mua sắm, may cho nhanh mấy bộ quần áo Tết. Hai mươi tám Tết bà cụ mới về, đứng lọt thỏm giữa những bị cói, giỏ cước, trẻ con trong nhà ùa ra, miệng hét, tay xách, người lớn cũng ùa ra, cười: "Tết về rồi!". Bà cụ nhìn khoảng vườn còn rậm rịt lá mai, lắc đầu: "Chúng mày đáng sợ thật!" . Cả lũ lại cười.
    Mùng Một, mùng hai Tết, không có mai, Hạc thấy Tết giống như một ngày chủ nhật, như nhà ai giàu có làm đám cưới đốt pháo thật nhiều. Một người nói: "Mày đừng có đổ thừa! Cái hoa mai quê mùa ấy việc gì làm mày mất Tết", rồi ngậm miệng ngay, nhìn Hạc như muốn nói: "Chẳng qua năm nay không thằng nào đến nữa mà thôi!". Hạc cũng chỉ cười, vào nhà nằm, lôi mấy tờ báo Xuân ra xem mà thấy buồn rũ rượi: "Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?".
    Một đứa cháu trèo lên giường, moi móc từ trong túi ra một đống hạt dưa và một nắm phong bao ra đếm lại. Hạc cườ`i: " Dì thấy con đếm phải đến chục lần chứ không ít!". Cô nghĩ: "Ngày xưa mình cũng như thế này" rồi lơ mơ ngủ mất.
    3.
    Mọi người kêu lên ngán ngẩm: "Hết Tết!". Rồi vặn đồng hồ báo thức, dậy sớm đi làm trở lại. Bây giờ bà cụ mới đi nhặt lá mai được, lụi cụi từ gốc này qua gốc khác, thỉnh thoảng pháo sót lẹt đẹt đâu đó trong xóm nhỏ. Hạc đi quanh mẹ: "Chi vậy?". Bà cụ móm mém cười: "Tội nghiệp, nhặt để nó nở!".
    Mai nở. Một chiều kia, như đã hẹn, một cô bạn dẫn ông anh họ đến nhà Hạc, gửi anh ta lại bảo: "Ra chợ một chút" rồi phóng xe đi mất, lại bỏ nhỏ: "Ông đàng hoàng lắm đó!". Anh ta lù khù, tay khư khư giữ cái mũ vàng như củ nghệ, chậm chạp, mãi mới cởi được xăng-đan để vào nhà. Hạc cau mày: "Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!". Rồi đau đớn nghĩ: "Sao mình cay đắng thế này!".
    ...Họ ngồi một lúc lâu, có tám trang báo giở qua giở lại, chẳng đọc được tin gì. Cũng không biết nói chuyện gì. Hạc rủ: "Ra vườn xem mai chơi!". Họ đi qua những góc vườn, nơi khoảng một chục cây mai bung ra đặc kịt những hoa vàng nở muộn. Hạc nghĩ: "Có mai rồi đấy, mà vẫn không thành Tết!". Hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân. Họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân... Và nắng chiều tắt dần, như một dải voan cũ vắt trên ngọn cây, nhợt nhạt...
    Lovetolive[/size=18]
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Cha của PHAN THỊ VÀNG ANH là nhà thơ CHẾ LAN VIÊN. Truyện CHA TÔI của PHAN THỊ VÀNG ANH trầm tĩnh , sâu sắc được chị viết từ lúc còn rất trẻ.
    RẤT MONG CÁC BẠN GÓP Ý CHO " TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT "
    CHA TÔI
    PHAN THỊ VÀNG ANH
    Một ngày của cha tôi bắt đầu vào lúc bốn giờ. Cha tôi dậy sớm để nấu cơm, nấu nước, rồi sắp vào một cái khay con, một đôi đũa, một cái bát? xong hết mới gọi tôi dậy ăn.
    Cha đã để sẵn nước sôi trong nhà tắm, dắt sẵn xe đạp ra ngoài sân? Làm xong hết những việc ấy, cha đi học bài.
    Cha học cho đến lúc mẹ dậy. Học thơ, thơ từ cổ chí kim, của bất cứ ai, miễn đáng gọi là thơ, học kịch, học văn, học văn chương và học cả những gì dường như văn chương không bao giờ thèm đụng tới. Cho đến lúc gần bảy mươi, cha tôi vẫn là một học trò ngoan, bất chấp tuổi già mà len lỏi vào bất cứ góc nào của khu vườn văn hóa.
    ? Khoảng bảy rưỡi, cha, mẹ ăn sáng. Rồi cha tôi ngồi vào bàn, cái bàn mà tôi học bây giờ, ngày ấy ít ai dám đến gần khi cha đang viết. Trên bàn đầy giấy và sách, lâu lâu bình mực quên không đậy đổ một lần, khi ấy loạn cả nhà. Không ngày nào cha không ngồi viết, cả khi gãy tay, bó bột, ngày trước, ngày sau đã nguệch ngoạc viết bằng tay trái. Đôi lúc tôi thấy, nghề văn như một cái ách, người ta lúc nào cũng áy náy lo âu, sợ mình chưa đọc đủ, chưa viết đủ, chưa viết xong lại thấy bực bội như thể có điều gì oan trái trong lòng chưa nói ra hết được. Và tôi nghĩ, có lẽ cha tôi chọn cho mình một cái ách nặng. Cha luôn luôn tất bật, yêu hoa cỏ nhưng chưa bao giờ dám bỏ hàng giờ ra để ngồi uống trà thưởng hoa. Cha sợ những quán cà phê, nhìn chúng như nhìn những nấm mồ chôn thì giờ. Chỉ những đêm rằm, vườn nhà tôi đầy trăng, cha bảo: ?oTắt đèn! Ra ngoài hè ngồi xem!?. Chị em tôi theo ra, ngồi khen trăng được vài phút, cha lại quay sang bàn chuyện văn chương với mẹ, rồi tranh luận, có khi cãi cọ, quên cả trăng!
    Cứ vậy, đầu óc của cha tôi không lúc nào thảnh thơi, đôi lúc tôi nghĩ, cha đã già rồi, đã có một vị trí ít ai dám mơ tới trong văn học rồi, sao cha không nghỉ ngơi một chút. Cha dạy chúng tôi: ?oPhải học, học không phải để vui, mà để không ai giết được mình!?. Cha cũng muốn tôi học, tôi đã có gần một chục quyển vở chép tay của cha, ở bìa ghi rõ: ?osách dạy cho Vàng Anh?, cha muốn hàng ngày đều có ít thì giờ để giảng cho tôi, nhưng tôi, vì đã không ý thức được những giờ học ấy quý như thế nào, tôi đã trốn bằng đủ mọi cớ, khi ấy, tôi chỉ thích làm thơ chứ không thích học thơ. Chỉ khi cha tôi vào nằm bệnh viện, tôi biết cha bệnh nặng, khó mà qua khỏi, mỗi chiều, sau khi đi học về, tôi vào thăm, cha luôn để dành cho tôi bánh kẹo hoặc một quả cam, và tôi dù mệt đến mấy cũng đề nghị cha giảng bài, không tiếp thu được bao nhiêu, nhưng tôi muốn cha được an tâm. Ở bệnh viện, cha tôi đã làm một phong bì to đựng các bài học của tôi, giờ đây chép thành giấy rời, cuối mỗi bài đều ký: ?oCha: Chế Lan Viên?, và ghi: ?oChợ Rẫy ngày? tháng? năm?? như đánh dấu từng chặng của một cuộc chạy đua tàn khốc.
    ? Thời khóa biểu của cha tôi cho một ngày thế nào cũng có giờ làm vườn. Thường vào khoảng mười giờ, khi viết lách, đọc sách đã mệt. Ra vườn, cha tôi đắp đất, làm cỏ như một nông dân, và cha tự hào về điều đó. Vườn nhà tôi rộng đủ để mọi người ?othí nghiệm? trồng cây này, cây nọ, kết quả là cây cối mọc lung tung. Một cây dừa mọc trên mô đất cao, nước quanh năm không với tới, những cây mận, cây cam tranh giành nắng, xúm xít cạnh nhau. Tuy vậy, tôi yêu khu vườn, bởi vì nó là nơi thân thiết nhất của cha, mẹ tôi, bởi vì, ở đâu trong vườn cũng có dấu tích của cha, những chậu phong lan cha tôi đem từ rừng về, một cây ổi cha trồng riêng cho tôi gần giếng nước, bụi hương nhu bên bờ ao cha trồng cho cả nhà gội đầu? Người ngoài ít ai biết rằng cha tôi lại có thể làm những việc li ti như vậy, còn chúng tôi vì quá quen với những việc li ti ấy nên lại thường không biết cha tôi có thể làm được những việc lớn như thế nào. Thỉnh thoảng, tôi đi theo cha đến các hội nghị hoặc các lớp học cha giảng thơ văn. Ở đấy, người ta dành cho cha ghế hàng đầu, rồi các cô, các chú đến chào, nhắc về vài bài viết, hay quyển sách mới của cha, tôi nghe và lần nào cũng lặp lại cái ý nghĩ: ?oTệ thật! Mình chẳng biết gì về cha cả!?. Khi ấy, tôi theo cha chỉ để đi chơi, cũng không để ý cha tôi giảng bài gì, phát biểu điều gì, chỉ để ý cha đã chải đầu chưa, cổ áo đã bẻ xuống chưa, có quên kính không? Trong những chuyện này, cha nhất nhất nghe tôi. Một lần khi tôi học lớp năm, theo cha xuống Cổ cò, người ta đón bằng một bữa tiệc, cha tôi uống rượu, thỉnh thoảng hỏi tôi: ?oMặt cha đỏ chưa??. Tôi bảo ?oChưa!?, mấy phút sau lại nghiêm mặt bảo cha: ?oĐỏ rồi! Cha đừng uống nữa!? Và cha tôi ngưng liền.
    Cha tôi nóng tính, điều đó ai cũng nói. Ở nhà không ai dám đùa với cha, ngoài chị Thắm. Chị là người duy nhất dám nhờ cha tôi dịch hộ bài học rồi ngang nhiên ngủ gật ngay bên cạnh. Chị Thắm cũng là người duy nhất biết nhổ tóc sâu và lấy ráy tai, và làm cũng tùy hứng, bất kể lúc đó cha tôi đang bận bịu đọc sách hay học bài. Ra trường, chị đi thực tập một năm ở An Giang, lâu lâu mới về một lần, thời gian đó, tóc cha tôi bạc hẳn. Tôi nhớ, khi chị đi được mấy ngày, một buổi tối, người yêu chị đi thăm về, tả lại cho cha tôi nghe cái cảnh lạ nước lạ cái của chị dưới quê, cha bảo: ?otội nghiệp!? Rồi hai người sụt sịt khóc, khi ấy, hai mẹ con tôi thấy cha thật là ủy mị!
    Rồi cha tôi bệnh nặng, những tháng cuối cùng, cha chỉ nằm trong phòng, không nói được, không biểu lộ tình cảm gì trên mặt, chỉ ngơ ngác nhìn trời qua cửa sổ. Vậy mà, theo thói quen, thấy tờ báo nào ở cạnh cha cũng cầm lên đọc, khi thấy mẹ tôi cầm quyển sách nào đi ngang cha cũng nhìn cho được cái gáy sách, dù đã không hiểu được gì nữa. Bạn của cha tôi đông lắm, họ đến thăm và ai cũng thấy rằng ông Trời sao thật tàn bạo, bắt một con người thông minh như cha phải sống như một đứa trẻ mới sinh. Tôi đi học về, vào giường ngồi chơi, nắm tay cha, gầy guộc, và khóc, có lần, cha tỉnh ra, nhìn tôi cau mày và cũng khóc theo. Sau đó ít ngày, cha mất.
    Sau lễ hỏa táng, anh Định và tôi được giao nghi lễ cuối cùng là đem tro của cha thả xuống sông. Tôi ngôi sau, ôm chặt cái túi còn ấm nóng. Đây là cha tôi, ngày nào còn ôm tôi, đứa trẻ con ngủ gật trên xe; đây là thầy giáo tôi? giờ thu lại trong hũ cốt và một bao tro. Chúng tôi ra sông Sài Gòn, khi tro được thả xuống, tôi biết từ nay mình đã mồ côi cha, chỗ dựa lớn nhất đời tôi đã mất, và tôi sẽ phải học, như cha dạy: ?oHọc không phải để vui, mà để không ai giết được mình!?. Học để thành người.
    Lovetolive[/size=18]
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phan Triều Hải là nhà văn trẻ khá được mến mộ. Văn anh trầm lắng, ít chú ý tới cốt truyện mà thiên về bộc lộ cảm xúc.
    RẤT MONG CÁC BẠN GÓP Ý CHO " TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT "
    Những Con Đường Không Đến Seattle
    Phan Triều Hải
    - Nếu không thể đi xa, anh vẫn hy vọng về sự bao la mà anh chưa biết đến. Còn nếu anh đã biết đến sự bao la ấy có giới hạn như thế nào, liệu còn thèm muốn nữa không...
    Mọi thứ ở đây chỉ có một màu. Màu xám. Công nhân xây dựng mặc áo phản quang đang im lặng làm việc dưới tầng ngầm sân bay, giữa những chiếc cột lớn loang lổ thép và xi măng. Chúng tôi đi chầm chậm ngang qua họ, không nghe thấy tiếng xe của mình, chỉ nghe tiếng rì rì nho nhỏ, không rõ là âm thanh của những chiếc máy sưởi gắn dọc theo tường hay tiếng hơi thở đùng đục dưới những chiếc nón bảo hộ trơn tuột kia. Tất cả mơ hồ như những hình người loà nhoà phía bên ngoài cửa kính xe mịt mờ hơi nước.
    Mưa rơi rả rích, và chắc chắn sẽ còn tiếp tục rả rích như thế trong những ngày tới. Mây xám cuồn cuộn trên đầu ùn ùn kéo về phía đất liền hết lớp này đến lớp khác, nhiều đến nỗi có cảm giác rồi đến hết năm cũng không cạn mây được. Tôi đang ở sát bờ đông của Thái Bình Dương, chỉ chừng một quãng chạy xe ngắn nữa thì đến bờ biển Oregon. Đứng ở bờ biển đó nếu nhìn ngút mắt qua hết cái đại dương mênh mông không núi non nào cản trở tầm nhìn, (một chuyện hoang tưởng bởi chỉ cần bay bằng Boeing 747 cũng mất hơn nửa ngày trời), thì tôi sẽ gặp được bờ biển thân thuộc của đất nước mình. Chính xác như thế. Bởi cái bờ biển cong cong nơi mà vào những ngày hè, ngày lễ tháng tư, tháng năm, mọi người vẫn thích đáp xe lửa đi suốt đêm để được vùng vẫy, hay thả người trôi lều phều ngắm san hô ngoài chân mấy hòn đảo con con, chính là bờ tây của cái đại dương đang phả hơi nước ngập ngụa cái thành phố buồn tẻ tôi đang ghé ngang đây. Rốt cuộc thì chuyện đã trở nên đơn giản quá chừng, đã thu hẹp lại trong lòng một bàn tay, ngắn gọn như thể một quãng đường dài năm phút đi xe máy từ nhà đến sở làm và ngược lại.
    Tôi bảo:
    - Nếu chỉ nghĩ thôi thì rất đơn giản, nhưng thực tế là một chuyện khác. Bởi vì như anh muốn đến một bờ của đại dương, anh phải làm hộ chiếu, phải có thị thực nhập cảnh, phải khai báo ở mỗi nơi anh đi qua. (Quyền lực đôi khi chỉ thể hiện đơn giản ở những cánh cửa nhỏ, hay có nơi chỉ là những thanh gạt bằng inox lạnh lẽo màu sáng choang). ở bờ tây, anh phải khai có đem theo văn hoá phẩm đồi truỵ ********* gì không, phim ảnh thì được tạm giữ, tốt xấu sẽ được phân định sau. Còn ở bờ đông thì người ta sẽ hỏi cái gì trong túi của anh thế, trái cây khô hay tươi, anh đem vào đây thứ thực phẩm nào. Vâng, hiểu theo khoảng cách địa lý thì đơn giản lắm, chỉ việc đem dây ra mà đo, nhưng có những khoảng cách khác không đo lường được. Bởi thế, người mới không là chim.
    Xe chạy chậm rãi trên con đường đẫm nước. Hai bên đường là nhà thấp đèn đẹt, lạnh lẽo. Những ngôi nhà làm từ những container chứa hàng cũ, đứng lún trong cỏ dại, những dòng chữ điện màu đỏ chạy ngoằn ngoèo bên ngoài, xa xa nhìn nhoè nhoẹt như mực viết lên tờ giấy ẩm.
    Keith nói:
    - Nếu chạy thẳng mãi con đường này, chúng ta sẽ đến Seattle.
    Nước mưa chảy trên những hộp thư dáng tổ chim bồ câu đứng một chân bên đường làm thẫm lên những vệt sơn vằn vện màu vỏ trứng. Keith nhìn chăm chú về phía trước, bắp tay cuồn cuộn. Tôi nhớ bàn tay My nhỏ xíu, mảnh dẻ như một chiếc lá non với những ngón tay mềm. Ai cũng bảo, đó là số sướng. Muốn biết chắc trong tương lai có sướng thật hay không thì phải nhìn thêm gót chân (tôi phải mất gần cả năm trời mới nhìn được gót chân My), gót chân nhỏ, mịn, mà không nứt nẻ gì là yêu cầu tối thiểu. Nhưng với My thì khác, nàng viết cho tôi: Đây là dịp để cho anh đi khắp nơi mà anh muốn. Anh phải đi thật nhiều, và thư kết thúc rất con gái: Sướng nhé! Cái thư ấy bây giờ đang nằm trong túi áo của tôi đây, nấp dưới năm tầng bảy lớp những áo khác bởi tôi không quen được với kiểu lạnh ẩm này, cứ cóng lên như những ngày tháng chạp mưa phùn Hà Nội.
    Keith hỏi:
    - Anh đã xem Mất ngủ ở Seattle chưa? ít ra một con phố lát đá đọng nước, hay một chiếc ghế gỗ dài ven đường ở đó có thể cho anh một chút tình cảm nào đó, khác với nơi đây.
    Đó quả là một gợi ý hấp dẫn, bởi vừa bước xuống sân bay tôi đã thấy thất vọng với Oregon rồi. Đất Mỹ mà còn có một nơi như vậy sao, buồn bã quá chừng. Chỉ nhìn cái màu xam xám này thôi cũng đủ biết những ngày tới sẽ buồn như thế nào. Vả lại, đây cũng là một dịp để tôi kiểm chứng xem đời thường trong cái phim ấy thật đến đâu, dịu dàng đến đâu, để tôi có thể kể với mọi người rằng tôi đã từng đi trên những vỉa hè sạch bong và im lặng của Seattle, đã từng ngồi chiếc ghế nơi Meg ghé ngang qua trong chuyến đi tìm cuộc tình định mệnh của mình. Và trên hết, với thêm một nơi đến ấy, tôi sẽ làm thêm được một điều cho mơ ước của My, (chi tiết dặn dò nằm trong lá thư dưới áo), cho bạn bè tôi, (những người lúc nào cũng dặn: Đi nhớ chụp hình. Về nhớ kể chuyện nghe!). Nếu bây giờ tôi nói, ừ, ta đi đi, thì không ngần ngại gì Keith sẽ cho xe lao về phía trước, bởi ở đây, nối nơi này với nơi kia thẳng tắp một con đường.
    Keith nói:
    - Thật ra, quan trọng hơn cả chính là cảm giác thực hiện được điều ta muốn. Ví như anh không thích nơi này tôi sẽ đưa anh đến nơi khác, không thích Seattle thì sẽ đi tiếp đến thành phố khác xa hơn nữa. Đôi khi, không vui không buồn, tôi vẫn thích ngồi vào xe và đi mãi như vậy, không phải vì nhu cầu biết thêm một nơi mà vì cảm giác choáng ngợp rằng, con đường ấy kéo dài vô tận, nhưng nếu muốn, tôi sẽ tự đi hết cái vô tận ấy.
    ờ, thì tôi cũng từng nghĩ về một cảm giác như thế khi đi từ bờ đông sang bờ tây, khi đi xuyên ngang miền Trung nước Mỹ. Tôi đã đi thật nhiều. Tôi đi máy bay, tôi đi xe, tôi đi bộ. Thậm chí còn đôi ba ngày còn lại, tôi cũng tìm cách ghé ngang đây tham lam cóp nhặt thêm một nơi chốn để rồi phát hiện ra có một Oregon như thế ở miền Tây Bắc, heo hút, ảm đạm. Trong khi Keith nói, tôi nhìn qua cửa. Cảnh vật lặng lẽ bên ngoài khiến tôi như mềm nhũn ra. Tôi quá mệt mỏi vì những chuyến đi dài rồi chăng? Hay tôi đã quá mong muốn về nhà? Cái nhịp điệu đột nhiên chùng xuống lúc này khiến tôi nhận ra rằng dường như những ngày vừa qua tôi đang cắm cúi thực hiện cái điều toi nghĩ là ước muốn của nhiều người, trước khi có đủ thời gian cho chính tôi thật sự mơ ước về nó. Tôi tóm lấy từng cơ hội, vội vàng và manh mún, (đã là cơ hội thì không thể sắp đặt trước sau được), chứ không phải làm cái công việc mua sắm với phong thái thong dong của người có tiền trong tay.
    Lovetolive[/size=18]
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    RẤT MONG CÁC BẠN GÓP Ý CHO " TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT "
    Những Con Đường Không Đến Seattle (II)
    Phan Triều Hải
    Keith vẫn đang lái xe về phía Bắc. Con đường dài hun hút trôi tuột về sau, lướt thướt như một dòng sông. Lúc này mùa đông đã bắt đầu được hai tuần. Cây hai bên đường xơ xác, vừa trụi lá vừa ướt át. Thỉnh thoảng, vài ngôi nhà nhỏ xuất hiện rồi mất hút, không một bóng người. Mây từ phía đại dương vẫn ùn ùn thổi ngang trên đầu. Mưa trên con đường thẳng tắp này và hẳn cũng đang mưa trên dãy núi cao kia. Chúng tôi đang đi dần vào vùng núi đồi. Tôi chợ nhớ một người bạn chỉ quen biết qua điện thoại nhưng hầu như năm nào cũng có dịp trò chuyện vài lần. Anh ta nói địa chỉ nơi anh ta ở đơn giản là thị trấn Núi Đèo, Hải Phòng. Tôi chưa từng đến đó, không biết trong thị trấn ấy có những con đường ngoằn ngoèo vắt ngang qua đồi núi giống nơi đây không, nhưng đó thật sự là cái tên thơ mộng.
    - Chúng ta quay về. Tôi bảo với Keith. Nếu tôi đến được Seattle, tôi sẽ muốn đến thị trấn kế tiếp cách đó năm dặm, rồi đến Vancouver, rồi cứ như thế mãi, xa hơn nữa. Anh không thể suốt ngày ngồi lái xe cho tôi, mà tôi thì không biết tôi đang làm gì, đến một nơi, hay chỉ để thoả mãn rằng tôi đang muốn và tôi đang đến. Thật ra, trong tôi lúc này cả hai thứ đó đều không có.
    ở nhà giờ này My đang ngủ ngon. Sáng mai khi thức dậy nàng sẽ theo con đường thẳng tắp và lớn nhất của Sài Gòn để đến sở làm, tất cả mất mười bảy phút. Tất nhiên, có những lúc chậm hơn thế bởi phố sá ngày càng đông đúc và lúc nào cũng sẵn sàng tắc nghẽn với với một xe bánh mì đẩy dạo bên đường hay một chiếc xe rác nặng nề xoay trở với công việc chưa kịp làm xong. My luôn mơ ước về những cuộc đi xa, (lá thư đầy những chi tiết dặn dò lại cộm lên), nhưng thật ra chưa bao giờ nàng nghĩ đến việc đi xa hơn một chút, khoảng 30 phút chẳng hạn, để băng qua một cây cầu ra đến ngoại ô thành phố, nơi có không khí trong lành hơn, cây lá xanh tươi hơn. Không lúc nào My nghĩ đến việc đi thêm một lúc nữa, ra khỏi con đường mỗi ngày, cũng như những người khác, tất cả chỉ có một nghĩa vụ lớn là sống đúng giờ. Đi và về. Tôi hoàn toàn không có lỗi gì nếu không đến được Seattle.
    Keith quay sang nói, giọng tình cảm:
    - Đôi điều không làm được ấy sẽ giúp ta sống vui hơn. Nếu không thể đi xa, anh vẫn hy vọng về sự bao la mà anh chưa biết đến. Còn nếu anh đã biết đến sự bao la ấy có giới hạn như thế nào, liệu còn thèm muốn nữa không.
    Và thế là chúng tôi quay lại với ngoại ô của Portland, vẫn những con đường ướt, vẫn những ngôi nhà một tầng hình hộp màu xám nay đã thẫm màu trong đêm tối mênh mông của Miền Tây Bắc. Những dòng chữ điện đỏ nhoè nhoẹt. Dancers. Restaurant. Parking. Motel. Tất cả chậm rãi mọc lên, rồi lui dần về phía sau, từng thứ một, im lìm, lạnh lẽo, ướt át. Mùa này đêm xuống nhanh. Vẫn mưa. Chúng tôi tìm một quán ăn nhỏ nằm lọt thỏm trong một bãi đậu xe lớn rào sơ sài bằng kẽm gai, nhưng không có một chiếc xe nào ghé lại. Một quán Philippines. Bên trong, bàn ghế gỗ tróc lên những lớp vỏ màu nâu thẫm và cửa kính dày đọng nước thành dòng. Người phụ nữ chủ quán, tóc đen nhánh, hơi xuềnh xoàng và khó đoán tuổi, lịch sự lùi lại đứng im lặng sau quầy.
    Keith hỏi:
    - Rồi anh sẽ tiếc vì không đến Seattle?
    Tôi hướng về Keith, một nửa khuôn mặt của anh chìm trong bóng tối:
    - Một ngày nào đó tôi sẽ đến.
    Keith nói:
    - Nếu anh nghĩ sẽ đến, thì việc sẽ diễn ra như thế.
    Trong chiếc ghế bành bọc bằng vải nỉ cũ kỹ đặt ở góc nhà, một đứa bé con nằm lọt thỏm, hai chân quấn trong chiếc chăn mỏng, hai tay nhỏ xíu đặt sấp lên nhau đỡ lấy chiếc cằm bụ bẫm, mắt nhìn tư lự mơ màng ra phía cửa. Đôi mắt nó trầm lặng và buồn dẫu tôi chắc rằng nó chưa thể biến buồn là gì, bởi nó còn bé quá, chỉ mới chừng năm tuổi. Thỉnh thoảng, đứa bé đưa mắt về phía chúng tôi, ánh mắt không nói lên điều gì cả, chỉ to tròn, đen láy, ươn ướt như mắt con Lem, con chó con ở nhà mà tôi rất yêu quý dù đám lông trắng dài của nó thường xuyên vón cục như sữa bột. Đứa bé vẫn im lìm bất động như thế suốt bữa ăn, trong khi mưa ngoài trời cứ rả rích với cùng nhịp điệu không đổi từ sáng đến giờ. Nếu trời cứ mưa mãi như thế này đến hết ngày mai, hết ngày kia, mưa hết năm này cho đến sang năm khác, thì đứa trẻ ấy sẽ lớn lên ra sao, sẽ đi về đâu nhỉ? Nó sẽ sống một đời sống lu mờ giữa bao nhiêu cuộc đời khác, hay sẽ trở thành một tay chơi nhạc rock, một nhà thơ? Tôi không biết. Bây giờ tôi thấy tôi sẽ không biết gì hết. Ngay khi tôi bước qua cửa ra về, đứa bé sẽ ở lại, sẽ nằm im lìm như thế ít nhất cho đến hết ngày vô tư lự này. Và trong hiểu biết còn lại của tôi, mãi mãi đó vẫn là một đứa bé nằm trong ghế bành. Mãi mãi như thế. Nhiều năm sau nữa, nếu tôi vẫn còn nghĩ về Seattle, có thể tôi sẽ đến được thật, nhưng với đứa bé này thì tôi không bao giờ gặp lại, cho dù tôi muốn biết tường tận số phận nó biết bao. Nó sẽ lưu lạc đâu đó, nó sẽ lẫn vào đám đông. Đứa bé khác với Seattle, đó là một cuộc đời. Nơi chốn thì ở lại để chờ đợi, nhưng một cuộc đời thì không.
    Người phụ nữ chủ quán hỏi chúng tôi ăn có ngon Myệng không. Tôi gật đầu. Trên tường tờ lịch đã bị xé vội đến ngày mai, ngày 21/11. Sau hai ngày nữa,, ngày 23/11, tôi sẽ đi làm, sẽ đi lại trên con đường quen thuộc, sẽ sống một đời sống khác cách đây nửa vòng trái đất, song hành với bao nhiêu cuộc đời khác xuất hiện lặng lẽ và biến mất lặng lẽ nơi này, nơi kia. Bên ngoài trời đen và sâu thăm thẳm, đó là bầu trời mà tất cả mọi người đang cùng chia sẻ, cũng như cùng chia sẻ những lần nước xuống, những lần nước lên, những lần trăng tròn, những lần trăng khuyết. Mọi người cùng sống và cùng chia sẻ với nhau bao nhiêu điều, nhưng tôi vẫn thấy có cái gì đó xa cách, không hẳn chỉ vì một tiếng gọi từ bờ đông đại dương này không đến được với bờ tây của chính nó, mà là một điều khác, một điều gì đó thật mơ hồ nhưng mệnh hệ như thể liên quan đến số phận của mỗi con người. Bên trong, Keith chậm rãi đi về phía góc phòng, xoa đầu đứa trẻ với bàn tay to lớn đen nhẻm của anh. Bà mẹ người Philippines nhìn theo mỉm cười. Keith bảo:
    - Trông nó dễ thương quá. Cứ như một chú chim non bị ướt hết cánh rồi.
    Lovetolive[/size=18]
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Một tối ngồi ở quán bar

    Phan Triều Hải
    Tôi nhớ là chưa bao giờ mình có được một đêm trung thu nào cho ra hồn ở đất Sài Gòn này ngoài việc năm nào cũng như năm nào đầu óc luôn bận rộn suy tính quanh quẩn với mấy loại bánh nướng, mấy loại bánh dẻo, nhân đậu xanh hay nhân thập cẩm, một trứng hay hai trứng, vi cá hay gà quay. Mà như thế nào đã đủ nhàm chán. Suốt mười mấy năm ở đây, tôi thấy cũng chẳng có mấy dịp trẻ con được cầm ***g đèn giấy chạy ra ngoài đường hưởng một trung thu khô ráo. Hiếm hoi lắm. Và đêm nay chắc cũng thế thôi, chắc cũng như năm ngoái, như năm kia, mà không chừng lại có phần thê lương hơn, bởi mưa đã bắt đầu tầm tả từ hai hôm trước, chừng mười hai âm lịch kéo dài cho đến tạn bây giờ. Mưa cho tới tận tối, khi tôi vào quán. Tôi phải chạy men theo cái hành lang hẹp tí xíu lợp mái rơm có nước nhỏ thành dòng, mà nhớ một cái thống kê khoa học mới công bố gần đây rằng, khi bạn thong thả đi bộ trong mưa thì sẽ nhận một lượng nước nhiều hơn khi bạn chạy từ ba mươi đến bốn mươi phần trăm, nói nôm na là sẽ bị ướt nhiều hơn. Và trong lúc tôi vừa đi vừa nghĩ xem làm thế nào để có thể từ mái hiên ấy chạy băng qua sân để vào được quán mà ít bị ướt nhất thì một giải pháp giản dị xuất hiện ngay trước mặt với cái mặt dài và một nụ cười đầy vẻ nghề nghiệp. Anh chàng phục vụ quen thuộc cũng y như lần cuối cùng tôi gặp, mái tóc gợn sóng và phong cách nhanh nhẹn, đứng đón ngay từ cuối lối đi với một chiếc ô căng rộng và áy náy bảo như thể đó chính là lỗi của anh ta, "Chà, mưa gì mà lớn quá chừng".
    Quán hôm nay chỉ có mỗi hai người phục vụ, người kia trông có vẻ lớn tuổi và lặng lẽ mà tôi không quen. Tôi tự tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Bên ngoài trời đang đổ nước xuống một cái sân vắng tanh buồn hiu buồn hắt. Suốt từ sớm tinh mơ, bầu trời đã nhuốm một màu mờ mờ mịt mịt y như màu của mùa mưa bão miền trung, khiến không thể nào nhận ra được dáng vẻ của một thành phố lúc nào cũng sắc sảo với nắng, với gió, với khô hanh và khói bụi xe cộ qua lại ào ạt trên đường. Hồi sáng, tôi vào công ty, câu đầu tiên chào mọi người là, "Trung thu ở đây chán thật, năm nào cũng mưa lê thê". Lúc ấy, ai cũng ngẩn người ra, rồi tròn xoe mắt nhìn trời, rồi cố bươi móc trong cái trí nhớ già nua và hờ hững của họ xem liệu trung thu năm trước có thật là đã mưa không, rồi đưa ra một cái kết luận ba phải, "Làm gì có chuyện đó". Tôi không cãi được, bởi phải từng trải qua một đêm trung thu thực sự thì người ta mới biết mình thiếu gì. Họ ít ra cũng phải từng được hưởng những mùa trung thu năm nào cũng hứa hẹn như năm nào, trời khô mà xanh đen ngăn ngắt. Phía trên thành cổ, trăng từ từ lên như một ngọn đèn ***g đong đưa soi bóng xuống ao hồ, rót đầy thứ ánh sáng hư thực ấy vào những lá sen có phủ một lớp lông tơ mịn màng, khiến quanh đó ếch nhái bị đánh động bắt đầu cất tiếng, rộ lên nhịp nhàng bất tận như ru. ít ra họ cũng đã từng được đi chân trần trên những con đường đất lạnh, ngoằn ngoèo luồn qua xóm này xóm nọ, trên tay bập bùng ngọn đuốc tỏa ra một mùi khói thơm thơm, cay cay, nồng nồng của thứ lửa rất đượm từ lá. Và thế là trong tiếng trống rộn ràng, một trung thu nữa đến, dịu dàng thơ mộng như mọi lần, như một giấc mơ giản dị hiện ra trong một không gian khô ráo, trong vắt, huyền hoặc.
    Tôi cứ nghĩ lan man mãi như thế cho đến khi người phục vụ quay lại.
    - Anh uống gì ? Anh ta hỏi.
    - Như mọi lần.
    - à, tôi nhớ ra rồi. Anh ta ngẫm nghĩ một chút rồi đáp.
    Lúc ấy, một thanh niên đẩy cửa bước vào, trông dáng vẻ rõ là khách quen, theo sau là một thiếu nữ gọn gàng trong chiếc áo tay ngắn màu ngà và chiếc váy ngắn, để lộ đôi chân thon thả. Cả hai dừng ở giữa quán, nhìn quanh như tìm chỗ ngồi, rồi đi về phía quầy bar nơi có treo ngược mấy hàng ly trong suốt khô khốc và những chiếc ghế cao đứng im lìm như thể được đặt ở đó chỉ để trang trí. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi chân của thiếu nữ, đôi chân thon mảnh mà đầy đặn, đang thả xuôi dưới ghế. Bao giờ tôi cũng cho rằng, cái mà phụ nữ được tạo hóa ban cho hào phóng nhất, không phải là khuôn mặt, mắt hay mũi, mà là đôi chân. Và một phụ nữ đẹp trước hết phải là người có đôi chân đẹp. ở cô gái này, đôi chân ấy như có hồn, chúng cứ thong thả đan vào nhau, rồi lại duỗi ra, nhè nhẹ, tất cả khoan thai phối hợp có vần có điệu. Cái bắp chân mịn màng thon dài xuống gót, thắt lại nhè nhẹ ở đó như thắt một cái eo, như cấu tạo của một hợp âm, rằng trưởng thì phải như thế, thứ thì phải như thế. Người phục vụ nói:
    - Anh đã chọn được chỗ ngồi tốt.
    - Tôi cũng nghĩ như thế. Tôi đáp, cái gót chân hồng hồng xinh xinh ấy đang chuồi ra khỏi chiếc giầy chật chội.
    - Ngồi ở đây anh có thể nhìn ra khắp trời. Anh ta tiếp tục.
    - Để làm gì ?
    - Để ngắm nguyệt thực. Anh ta nói, tay thắp ngọn nến trên bàn. Sẽ có nguyệt thực toàn phần ngay chính đêm nay, đêm trung thu. Vậy có lạ không chớ.
    Lovetolive[/size=18]
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Một tối ngồi ở quán bar (II)
    Phan Triều Hải
    Khi người phục vụ đi vào trong thì tôi ngồi nghĩ xem nguyệt thực nghĩa là gì. Là mặt trời, trái đất và mặt trăng cùng vướng phải một sợi chỉ giăng ngang giữa thiên hà, nhưng cái nào trước, cái nào sau, cái nào ở giữa thì lẫn lộn rối rắm cả. Ngày xưa quả thật tôi có đọc một vài cuốn khoa học thường thức về những hiện tượng như vậy, nhưng không hiểu gì mấy ngoài cảm giác buồn bã nhẹ nhàng về thân phận nhỏ nhoi của mình ở trên cõi đời này, trong không gian vô tận này, trong thời gian bất tận này. Lúc ấy tôi nghĩ rằng, thôi, không quan tâm đến những sự kiện siêu nhiên ấy nữa vì bao giờ chúng cũng khiến cho tôi có cảm giác vô nghĩa bởi sự bất lực của mình. Mà vô nghĩa là một cảm giác tệ hại. Thế nhưng tôi đã lo xa, về sau này những đề tài ấy đôi khi tôi đọc phải mà chẳng mảy may xúc động. Cảm xúc của tôi đã khác, khác như vậy đó, trơ ra.
    - Lâu quá anh không ghé chơi. Người phục vụ quay lại. Gần một năm rồi, phải không. Tôi nhớ lúc ấy trời mưa. Anh ta đưa tay áo lướt qua mặt bàn một lượt, như đảm bảo tất cả đều đang sạch sẽ khiến ngọn nến rụt lại một màu xanh trong suốt như ngọc. Bây giờ trời cũng mưa. Hay thật.
    - Có lẽ sẽ mưa suốt đêm.
    - Không, nó sẽ tạnh ngay thôi. Anh ta nói, đặt tách lên bàn.
    - Ai mà biết được. Tôi nói.
    - Chắc chắn là sẽ tạnh. Anh ta quả quyết.
    - Tôi chẳng thấy có đêm trung thu nào mà không mưa.
    - Vâng.
    Suốt hôm nay, không có ai đồng tình với tôi một cách nhẹ nhàng như vậy.
    - Vậy thì, tối nay cũng sẽ mưa suốt đêm cho mà coi. Tôi nói.
    - Không. Đêm nay có nguyệt thực. Anh ta nhắc lại. Nguyệt thực toàn phần. Làm sao mà trời mưa suốt được trong khi ai cũng muốn xem cái sự kiện này cả.
    Tôi ngả người ra ghế. Nguyệt thực là cái quái gì mà phải bận tâm như vậy chứ. Sao mà nhạt nhẽo quá chừng, nhưng nếu không có ai đó trò chuyện thì tôi chắc chết đi được vì chán chường. Tôi nói:
    - Anh ngồi chơi cho vui.
    Anh ta như chỉ chờ có thế, kéo ghế ngồi. Tôi hỏi.
    - Anh uống gì ?
    - Không. Tôi chỉ ngồi một lát. Anh ta đáp.
    - Một đêm trung thu buồn hiu như thế này thì người ta uống gì ? Tôi lại hỏi.
    - Trà nóng.
    Tôi gọi người phục vụ kia.
    - Cho một tách trà nóng.
    Anh ta nhổm dậy.
    - Để tôi tự làm lấy cũng được.
    - Tại sao ?
    - Tôi không quen.
    - Có gì mà không quen. Tôi mời anh mà. Anh chỉ cần gọi, "Cho một tách trà nóng", là xong.
    - Không đơn giản. Anh ta lầm bầm.
    - Tôi kể anh nghe chuyện này, hồi sáng, có một tay người nước ngoài làm việc chung với tôi thu xếp đồ đạc để về nước, y gói ghém tất cả vào một thùng giấy thật to và bảo tôi, "Ê, kiếm cho tao băng keo dán". Tôi đi kiếm băng keo dán. Sau đó y ngồi trên ghế, tay hút thuốc, hai chân kẹp thùng giấy, còn tôi cúi xuống dán hết mọi ngóc ngách cái thùng ấy, mà nghĩ, vì sao ta phải làm cái việc vặt này mà nó không làm. Đây là cái thùng giấy của nó, nó phải tự lo chớ. Nhưng y lại bảo tiếp, "Làm ơn kiếm giúp sợi dây buộc để làm quai". Thế là tôi tự động đi vào kho tìm một sợi dây, mặc dù ấm ức lắm rồi. Khi buộc cái thùng cho y, tôi tự bảo, sao mày ngu thế, rõ ràng là vừa ngu vừa hèn. Nhưng đến khi tôi thắt cái quai cho y, thì tôi nghĩ, cái thùng giấy này nặng thật, nó mà nói mình khiêng xuống nhà thì phải làm sao đây. Chính lúc ấy, y nói, "Cái thùng giấy này không nặng lắm đâu. Lát nữa đem giúp xuống nhà nhé". Lúc ấy, đột nhiên chẳng nghĩ ngợi gì cả, tôi nói, giọng rất to, "Không, đó là việc của mày, không phải việc của tao". Y sững người, dụi tắt điếu thuốc, và tự tay xốc cái thùng giấy ấy lên, sượng ngắt mà nói, "Thôi, tôi đi đây. Cám ơn nhiều". Tôi thấy vậy đó. Giống như anh gọi một tách trà. Bất cứ chuyện gì mà anh không tự tin được, anh hãy xử sự như thể anh đang gọi một tách trà. "Này, cho một tách trà".
    - Nhưng ngay cả một tách trà tôi cũng không gọi được.
    - Khi gọi, anh không nên suy nghĩ nhiều.
    Chúng tôi cứ ngồi như thế một lát nữa mà không nói chuyện gì. Nói chung, tôi cần có người ngồi bên cạnh nhưng lại muốn không phải nói chuyện. Bên ngoài, nước theo mái rơm từng dòng nhỏ xuống. Những ghế ngồi rải rác trên lối đi trải sỏi đọng nước lấp lánh. ở bàn trong, đôi thanh niên ấy vẫn ngồi im lặng. Cô gái tay khoanh trước ngực, cái lưng mảnh dẻ có buộc một chiếc áo khoác mỏng ở cái eo nhỏ. Đôi chân cô vẫn duỗi ra như thế, thanh thoát, sang trọng. Quả là một đôi chân có hồn. Một đôi chân mà người ta càng ngắm càng yêu.
    - Đêm nay quán mở cửa đến mấy giờ.
    - Có lẽ suốt đêm.
    - Thật à. Nếu thế thì tôi sẽ ngồi suốt đêm.
    - Vâng. Nguyệt thực sẽ diễn ra vào lúc không giờ ba phút sáng.
    - Tôi ở lại vì chuyện khác. Tôi nói. Tôi chỉ muốn ngắm đôi chân kia. Một đôi chân quá đẹp, phải không.
    Người phục vụ đưa mắt thờ ơ nhìn.
    - Không.
    - Tại sao. Đó là một trong những điểm hấp dẫn nhất ở phụ nữ.
    - Nhưng tôi không thích những ngón chân để trần. Anh ta nói.
    Tôi ngắm cái bàn chân đang rất là thảnh thơi ấy.
    - Những ngón chân ấy cũng đẹp.
    - Không. Không có những ngón chân đẹp. Ngón chân là một món thừa thải, không nên để trần trụi ra ngoài.
    - Vì sao ?
    - Tôi không biết vì sao. Nhưng những ngón chân lúc nào cũng khiến tôi có cảm giác về sự trần tục. Chúng trông có vẻ xác thịt.
    - Trời đất. Tôi nói. Sao anh chỉ thấy có vậy.
    - Anh cũng có thể mua đôi chân ấy đấy, nếu anh muốn. Người phục vụ nói. Nhưng mà thôi, tôi đi lấy thêm trà đây. Anh có cần uống thêm gì không.
    - Không, cám ơn.
    Dưới ánh đèn vàng phủ lên tường vàng, bàn chân ấy trông nhẹ như một chiếc khăn mỏng ai đó xếp lại rồi bỏ quên trên sàn. Những ngón chân tựa vào lòng giầy như đang nghỉ ngơi, đơn giản như thể khi ta cần hít thở khí trời, ta mở cửa sổ ra và đứng tựa đấy một lát, thư giãn. Nhưng tôi hiểu anh ta, tất cả chỉ đơn thuần là cảm giác mà thôi, như ngày xưa học nhạc, tôi bao giờ cũng có một liên tưởng kỳ lạ rằng nốt ré phải có màu nâu, và nốt la có màu trắng. Đôi khi như vậy đó, không thực, nhưng cũng không nhất thiết phải giải thích gì.
    Người phục vụ đi ngang đôi thanh niên ấy, dừng lại một lát, cái cằm dài tận tụy gập xuống kẹp chặt chiếc nơ nhỏ. Thiếu nữ vẫn ngồi như thế, tay tựa trên quầy. Cánh tay ấy cũng đẹp, mái tóc thả sau cũng đẹp, đôi vai áo và cái lưng cong nghiêng dịu dàng về trước cũng đẹp. Tôi yêu những dáng ngồi trầm tư như thế. Chúng trông vừa sang trọng vừa gần gũi. Một điều hiếm hoi. Người phục vụ trở lại với chiếc tách tỏa hơi nghi ngút trên tay.
    - Có chuyện này không biết phiền anh không.
    - Chuyện gì ?
    Anh ta hạ giọng.
    - Tôi đem đôi chân ấy về cho anh đấy.
    - Tôi không hiểu.
    - Anh ngạc nhiên à. Đôi khi cũng có những điều ta muốn, là được.
    Tôi sốt ruột.
    - Thôi, đừng dài dòng nữa.
    - Họ muốn được ngồi cùng bàn với anh.
    - Để làm gì ?
    - Để ngắm nguyệt thực.
    Trong tôi có một cảm giác lạ lùng đang đến.
    - Vậy thì anh mời họ qua đây đi.
    Thiếu nữ ấy có một cái gì đó quả thật đặc biệt, nàng như có một sức hút kì lạ ở dáng đi, ở cánh tay đong đưa, ở cái cổ cao, hay ở đâu đó nữa mà tôi không rõ. Tôi chỉ biết là tôi đứng đó, kéo chiếc ghế cho nàng, và người thanh niên kia lên tiếng, "Cảm ơn", giọng nhẹ nhàng lạ lùng, rồi hướng về phía nàng anh ta giới thiệu, "Đây là em gái tôi. Hôm nay nó rất muốn ngồi bên cửa sổ." Thiếu nữ nhìn tôi chào, đôi mắt rất đen, rất sâu. Tôi nói, "Không có chi. Tôi cũng không muốn xem nguyệt thực một mình." Và thế là tất cả cùng ngồi quanh cái bàn quay ra cửa sổ. Những song cửa lấp lánh một màu kì lạ trong ánh sáng nên đang tàn dần.
    Lovetolive[/size=18]
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Một tối ngồi ở quán bar (III)
    Phan Triều Hải
    - Hình như trời đang tạnh. Người phục vụ nói.
    Từ mái rơm bên ngoài, nước không còn chảy xuống thành dòng nữa mà đu đưa từng giọt ngắt quãng. Và trên cái nền khuya khoắt của đêm, nước thả từng giọt lên lối sỏi nghe tí tách nhè nhẹ, nghe như tiếng chim sẻ vào những trưa hè nhảy nhót đôi bàn chân gầy guộc trên mặt sân ximăng nóng bỏng trước sân nhà, gõ những cái mỏ mảnh dẻ như vỏ trấu lách tách tìm từng hạt cỏ, hạt thóc lẫn trong khe nứt. Người thanh niên nói.
    - Nguyệt thực sẽ bắt đầu từ không giờ ba phút.
    - Đúng như vậy. Người phục vụ vui vẻ. Tôi sẵn sàng tiếp quí vị trong suốt ba tiếng đồng hồ sau đó.
    Tôi nhìn đồng hồ.
    - Liệu có ai ngồi xem nổi suốt thời gian ấy không.
    Người thanh niên quay sang thiếu nữ, ân cần.
    - Chúng tôi sẽ xem suốt đêm.
    Thiếu nữ im lặng, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài. Người thanh niên nói tiếp, một kiểu nói chuyện lơ mơ lạ lùng.
    - Em tôi muốn thấy trăng sẽ sáng trở lại.
    - Điều đó là chắc chắn rồi. Tôi nói. Mọi người sẽ được thấy cảnh tượng ngoạn mục cuối cùng của thế kỷ này.
    - Ngoạn mục à ? Không đâu, nguyệt thực là một điều không hay. Anh ta phản đối, giọng nghiêm nghị.
    - Tại sao phải tin chuyện đó. Tôi nói.
    Người phục vụ nhổm dậy.
    - Có phải cái bóng đen ấy không, nó xuất hiện rồi kìa.
    Trên cái nền khúc khuỷu đường nét của những mái nhà, mặt trăng xuất hiện cô độc một mình, tỏa ra một thứ ánh sáng phồn thịnh mà xa lạ, và bên cạnh đó là một khối đen như một đám mây đang trườn đến, chạm ở phần mép sáng nhất. Bóng đen ấy dần dần đi vào, rất chậm rãi, chiếm cái đĩa bạc sáng tươi ấy từng chút một. Người phục vụ nhẹ nhàng đứng dậy bước ra phía cửa lớn, chiếc khăn trắng nhàn nhạt vắt rất nề nếp trên tay. Anh ta ngước nhìn chăm chú ra ngoài, cái cằm dài hếch lên, bất động. Trên bàn, ngọn nến leo lét ánh xanh sắc sảo cuối cùng rồi lịm dần nhường chỗ cho một thứ ánh sáng đang chết dần khác, ánh sáng của trăng vằng vặc đang chết dần một nửa. Chính vào lúc ấy, khuôn mặt của người thanh niên ngồi bên cạnh tôi hóa ngây ra.
    - Vậy là nó bắt đầu rồi. Anh ta thì thầm.
    - ừ, nó bắt đầu rồi đó. Tôi nói.
    - Nó lại bắt đầu ngay chính vào đêm trung thu. Anh ta nói, giọng đều đều. Anh biết không, trung thu là đêm mà chúng tôi có cảm giác bao nhiêu điều tồi tệ nhất trên đời này sẽ được gột bỏ. Thật đấy, bao nhiêu chuyện xấu xa nhất sẽ được gột bỏ.
    Tôi nhìn người thanh niên, không hiểu anh ta nói gì. Tôi đang thư giãn, tôi đang muốn duỗi cả thân mình ra trong cái ghế êm ấm này bên cạnh một thiếu nữ xinh đẹp như nàng, và như thế là đủ. Tôi không thích nói nhiều, mà tôi cũng không thích phải nghe ai nói nhiều. Nói chung ai ai cũng có thân phận của mình, ai ai cũng có nỗi niềm riêng, và đã là nỗi niềm riêng thì chỉ thích hợp để cất giữ trong một ngõ ngách nào đó.
    - Tôi chỉ thấy một điều là cái đêm trung thu này đang tàn. Tôi nói.
    - Anh thấy nó đang tàn thật à ?
    - ý tôi nói thế là hết một trung thu. Xong.
    - Với tôi thì nó còn quan trọng hơn thế. Không đơn giản là xong một đêm. Anh ta nói. Một đêm như thế thật là đặc biệt.
    - Tôi thì thấy chẳng có gì đặc biệt. Tôi nói. Nó cũng như mọi đêm khác thôi.
    - Khác lắm chứ. Bởi vì khi mà nhìn lên trăng của một đêm như thế này thì không ai có thể tự cho rằng mình có thể trong sáng như nó được. Không ai có thể kiêu hãnh mà nói rằng mình không có tì vết gì. Lúc ấy, tất cả mọi người đều như nhau, đều được sinh ra như thể ghé ngang qua đây một cách tạm bợ. Và nếu cứ nhìn mãi như thế thì sẽ thấy trên đời này, không có ai mất mát gì, cũng không ai được thêm gì. Nhìn lên trời, sẽ thấy bình yên. Anh ta ngừng một chút rồi tiếp. Và chỉ thấy cần bình yên mà thôi.
    Thiếu nữ vẫn ngồi im lặng, cái ngực xinh xắn tựa lên bàn, đôi mắt không hề chớp hướng lên phía trên lúc này chỉ còn là một lưỡi liềm mỏng, hai bàn tay nàng chắp lại, những ngón tay mảnh dẻ lắm.
    - Tôi lại không thấy được những điều anh nói. Tôi nói.
    - Có gì đâu, anh cứ nhìn lên đó, và đừng nghĩ gì cả thì anh sẽ hiểu.
    - Có thể. Nhưng tôi phải về. Khuya rồi.
    - Anh xem giờ làm gì. Người thanh niên nói, đưa tay lên. Từ lâu rồi không đeo đồng hồ nữa, và thấy đó đúng là một sự giải thoát.
    - Hôm nay tôi cũng đã được thư giãn. Ngày mai tôi phải đi làm.
    - Lý do ấy chính đáng nhất trong mọi lý do. Giọng anh ta có vẻ châm biếm.
    - Lý do đó thống trị đời sống mọi người. Tôi đồng ý.
    - Nhưng không phải của chúng tôi. Anh ta nói ngay.
    Tôi rất không thích kiểu đôi co như thế này. Tôi đứng dậy, nhìn thiếu nữ một lần cuối. Nàng vẫn im lặng như từ lúc gặp. Tôi nói.
    - Cảm ơn mọi người. Tôi về.
    Người phục vụ mở cửa cho tôi, một làn không khí trong lành tràn đến đầy hơi nước. Anh ta đưa tôi ra cổng. Trên cao, bóng tối ấy đang nuốt phần còn lại của trăng. Tôi dừng lại ở đó một lát, hít đầy ngực một làn hơi, ngắm cái cảnh tượng mà suốt đêm bao người chờ đợi.
    - Anh thấy thế nào ? Anh ta hỏi.
    - Buồn ngủ.
    - Không, tôi hỏi em gái ấy thế nào ?
    - Xinh lắm.
    - Tôi biết ngay mà. Anh vẫn thích đôi chân của cô ta à ?
    - Chuyện ấy thì quan trọng gì.
    - Quan trọng chứ. Bởi vì chúng tôi trả tiền để cô ta hằng đêm ngồi đó.
    - Anh nói đùa.
    - Không đùa đâu. Chỉ có điều thằng cha kia chỉ có vì vậy mà cứ ăn năn dằn vặt mãi. Y nói với anh nhiều lắm à ?
    - ừ
    - Y hơi điên điên rồi đó. Tôi thấy y càng ngày càng hơi điên điên.
    - ừ. Chắc là y xúc động.
    - Cũng may là y còn đứa em gái ngoan ngoãn.
    - ừ.
    - Anh thật sự thích cô ta chứ ?
    - ừ. Tôi không thích những người nói nhiều. Tôi thích cái kiểu cô ta im lặng như vậy. Trông thật quyến rủ.
    - Nàng hấp dẫn khách ở đây cũng nhờ thế.
    Lặng im một lát, tôi nói mà lòng ngập đầy một nỗi thất vọng.
    - Cô ta quả thật là giỏi.
    - Có giỏi gì đâu. Người phục vụ ngạc nhiên. Y không hề nói gì với anh sao. Nàng đâu có nghe được mà cũng đâu có nói được. Nàng bị câm mà.
    Tôi vịn tay vào cổng, cảm thấy thép đang rỉ ra ướt át, lầy nhầy. Trên cao, mặt trăng đang thoi thóp, nhúm ánh sáng lộng lẫy cuối cùng của nó đang bị bóng râm mạnh mẽ không gì cưỡng lại được ấy lắp hẳn. Tôi như thấy đó là đôi môi của nàng, đôi môi đang mím chặt nghiêm nghị, đôi môi ấy nhẹ và mịn cho dù chỉ được nhìn trong bóng tối. Tôi ngắm hình ảnh của trăng lúc ấy mà có cảm giác gần gũi với ánh sáng của nó hơn bao giờ hết, thấy như chính tôi đang vuốt ve cái bề mặt sáng đẹp kiêu kỳ xa cách ấy, vuốt ve bằng bóng râm của mình, bóng râm của trái đất nơi tôi đang đứng đây, bóng râm của mọi người. Một cảm giác gần gũi, thân thiết lạ lùng.
    Người phục vụ đứng phía sau tôi, hỏi.
    - Anh về được chứ ?
    - Được.
    - Cuối tuần ghé chơi nghe. Cuối tuần mới thú.
    - Liệu có gì hay hơn nữa sao ?
    - Tôi không chắc. Nhưng có lẽ người đẹp sẽ cười.
    Tôi suy nghĩ một lát.
    - ừ, tôi cũng muốn biết nụ cười của nàng như thế nào.
    - Anh thấy chưa, phụ nữ hấp dẫn ở đôi môi chứ không phải đôi chân như anh nghĩ đâu. Người phục vụ mỉm cười. Và càng hấp dẫn hơn khi đó là một đôi môi đẹp nhưng lại không bao giờ nói được.
    Lovetolive[/size=18]

Chia sẻ trang này