1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Sương Nguyệt Minh
    Người Đàn Ông Làng Yên Hạ ( III )
    Trương Hạ chỉ có tám sào thổ, không thể quy nổi thành phần địa chủ. Lúc làm trương tuần, ông cũng đánh người, nhưng chỉ đánh bọn chơi bạc và ăn trộm. Cũng may không đứa nào chết, chúng chỉ lê lệt hoặc hộc máu mồm máu mũi. Chừng ấy, chưa thể khép tội ông là cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân. Mặc dù rất nhiều lần vì ông mà dân làng làm ăn khó bề yên ổn.
    Cùng lúc đó, Du bị địa phương sức giấy lên trường tỉnh đòi về. Ông buồn bực vì nỗi thất học của con trai, nỗi lòng thêm nhức nhối. Cả đời ông thất học, tha phương, bỏ xứ. Lúc tìm về quê nhà làm lắm điều tai ách. Ông muốn sống nhân từ, dồn sức vào chăm chút cho con để trả nỗi đau đời. Không ngờ số phận vẫn chưa buông tha ông. Trương Hạ ngẫm lại sự đời và cảm thấy thời mình đã hết.
    Chuyện đấu tố đang hăng thì có lệnh sửa sai từ trung ương về. Ai cũng sợ Trương Hạ ra tay trả thù. Nhưng ông bảo "Vì thời thế, thế thời phải thế". Người đúng nhiều, nhưng cũng có kẻ "té nước theo mưa", "giậu đổ bìm leo"; thói đời xưa nay vẫn thế. Có người lương tâm không đến nỗi nào, nhưng vì học hành kém quá hoặc sợ hãi nghe người ta xui bậy làm càn. Không thèm chấp! Với lại, ít nhiều mình cũng có tì vết, cứ trắng như tờ giấy, ai thèm động đến lông chân.
    Sau cải cách ruộng đất, rất ít người trong làng đi lại với Trương Hạ. Họ ngại đã đấu tố ông. Năm sau người vợ già ông mất. Ông buồn, nỗi lòng thêm trống trải. Du được tham gia sinh hoạt thanh niên và dạy bình dân học vụ... Trương Hạ thấy thế không vui cũng chẳng buồn. Ông cũng không cấm đoán con trai tham gia công tác xã hội. Phong trào hợp tác xã về làng Yên Hạ. Ông chẳng thiết tha, mặn mà, nhưng cũng bảo vợ đem đò góp vào hợp tác xã ngành nghề. Hàng tháng thu tiền đò được vài chục đồng công điểm gọi là. Trương Hạ sống thu mình ở vườn cây. Suốt ngày ông cặm cụi ghi chép bằng số vốn chữ nho học mót ngày trước. Đêm ngày nghe tiếng sóng sông Bồ vỗ ì oạp ông sướng hơn nghe tiếng kẻng giục đi làm đồng của hợp tác xã.
    Như một định mệnh sắp đặt sẵn, những ngày sinh hoạt thanh niên, cô Lự bí thư chi đoàn đã phải lòng Du. Hai người thương nhau được một năm, chuyện loang ra. Mẹ Lự gọi con gái lại chì chiết:
    - Lão Trương Hạ năm thê bảy thiếp. Thằng Du "con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh", tránh xa nhà ấy ra.
    Ông Tam bảo con gái:
    - Mày con nhà bần cố. Thằng Du con nhà thành phần, không hợp nhau. Phải cắt ngay kẻo hối không kịp.
    Lự khóc. Cô giận mẹ, giận Trương Hạ, giận cả làng Yên Hạ.
    Những chuyện gièm pha, nói xấu xung quanh mối tình của con cũng đến tai Trương Hạ. Chuyện thù oán mới dai dẳng làm sao. Mấy lần ông định mang côn đi hỏi tội những kẻ nói xấu ông, nhưng lại thôi. Ông chép miệng: "Thời thế đổi thay rồi". Song ông lại bảo Du:
    - Chúng nó là cành cây, ngọn cỏ. Cái làng Yên Hạ này chỉ bằng nắm tay tao. Cốt là chúng mày phải lòng nhau và nhất quyết thành vợ chồng. Sợ đếch gì thằng nào, con nào.
    Quả thật, Trương Hạ không sợ. Cùng lắm là chết, nhưng cái chết ông cũng không ngán. Ông nghĩ dân làng Yên Hạ không ai có máu mặt để xứng với ông. Nhưng đến chuyện tình của con thì ông bất lực. Du chán đời, bỏ nhà đi mất tăm. Trương Hạ than phiền:
    - Thằng này giống máu bố, khổ một đời con ơi!
    Lâu lâu, người ta đồn gặp Du ở bãi đào vàng tận miền tây xứ Nghệ. Du bị bụng báng nước độc rồi chết. Người lại nói Du đi công nhân lâm trường, cả cơ quan chuyển vào thanh niên xung phong phục vụ ở tuyến trong Quảng Bình. Những lời đồn thổi thật hư lẫn lộn không biết đâu mà lần Trương Hạ không tin. Ông bảo: Thằng ấy chết không thể dễ thế được. Nó vào lính mới đáng mặt thằng đàn ông thời loạn.
    Bụng cô Lự to dần. Cô than thân trách phận bao nhiêu lại căm Du bấy nhiêu. Du đã chạy làng, cô nghĩ thế. Với cô, Du là người đàn ông bội bạc. Du bỏ cô bụng mang dạ chửa trong nỗi khổ của người con gái hoang thai. Mẹ cô bảo:
    - Đã sướng chưa con ơi. Tao biết ngay cái mặt bố con nhà nó.
    Nhục quá, uất ức vì đứa con gái chửa hoang, ông Tam trói Lự vào cột nhà gọt đầu bôi vôi. Trương Hạ biết tin cầm côn đến:
    - Chưa cưới hỏi, nhưng tôi coi nó như là con dâu. Ông không được phép làm liều.
    - Vì bố con mày mà nhà tao khổ nhục. Ông Tam giận lắm cầm dao bầu xông đến. Trương Hạ tránh được đánh văng dao. Trương Hạ bế luôn ông Tam đặt lên giường thờ rồi bảo Lự:
    - Coi như ông ấy đã chết. Con chắp tay lạy bố con đi.
    Ông Tam mất mặt với dân làng vì Trương Hạ làm nhục, lại xấu hổ vì đứa con gái không chồng mà chửa. Nghĩ ngợi nhiều, ông sinh ra ốm liệt giường. Sau vụ ấy nhiều người khen Trương Hạ, cũng nhiều kẻ chê ông, thậm chí còn chửi vụng ông quen thói côn đồ. Thực lòng Trương Hạ không muốn thế. Ông biết Lự và con trai ông phải lòng nhau thật. Giọt máu trong bụng Lự là của Du để lại. Có thể Lự sẽ đẻ con trai mang dòng họ nhà ông. Phải giữ lấy, phải bảo vệ. Đó là ý nghĩ đầu tiên khi biết Lự có chửa với con trai mình.
    Lự bị gia đình hắt hủi, làng xóm chê cười, người yêu đi mất tích. Cô hoang mang không còn nơi bấu víu. Lự nghĩ đến chuyện ra đi.
    Nắng chiều loang loáng ở mặt sông. ánh sáng yếu dần. Mây màu xám ảm đạm. Gió nồm không thổi nữa. Trương Hạ hò vợ quay mũi đò sang bờ bên kia. Ông chạy trước, vợ chạy sau đuổi theo bóng Lự đang cắm cúi trên bờ đê cao.
    - Con đi đâu trong lúc bụng mang dạ chửa? Hãy ở lại ta lo.
    - Thưa cha! Lự dừng lại. Tự nhiên cô gọi ông bằng cha.
    - Con không thể...
    - Gia đình ta không ai ghét bỏ con - Giọng Trương Hạ tha thiết.
    - Nhưng con nhục. Con không thể sống với làng.
    - Ta biết gia đình con vẫn cố chấp với cuộc đời ta. Chả lẽ quá khứ của ta lại là nguyên nhân rẽ ràng duyên phận các con.
    - Con không biết... Nhưng con phải ra đi. Con khổ lắm!
    Lự gục đầu vào vai bà Mại nức nở. Hai người đàn bà ôm nhau, bóng đổ dài xuống mặt sông.
    Biết không thể giữ Lự ở lại, ông bảo vợ và Lự thôi đừng khóc. Ông lấy trong người ra một lá vàng Kim Thành cho Lự. Cô nghẹn ngào, giắt lá vàng vào trong người rồi chụp nón lên đầu. Trương Hạ đứng cạnh người vợ nước mắt lưng tròng. Ông nhìn Lự bước thấp, bước cao đi khỏi làng Yên Hạ. Lòng ông đau như cắt. Xa xa hoàng hôn đang lụi dần trên dãy đồi Bạch Bát.
    Ba mươi năm sau. Bến đò ngang đã bắc cầu mới. Có một chàng đại úy mang phù hiệu không quân dừng lại ở đầu cầu. Anh hỏi thăm về làng Yên Hạ. Người ta bảo: cháu Trương Hạ trở về.
    LoveToLive
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 16:32 ngày 20/08/2003
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Để tiện cho bà con theo dõi , Julian làm bản list TUYỂN TẬP TRUYỆN NGẮN HAY NHẤT từ trang 1 đến trang 29
    MỤC LỤC
    TRANG 1 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/1
    NGƯỜI NGU của NGUYỄN KHẢI
    LIÊU TRAI HUẾ của NHÃ CA
    ÁM THỊ của PHẠM THỊ HOÀI
    TRANG 2 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/2
    ÁM THỊ ( tiếp )
    ANH PHẢI SỐNG của KHÁI HƯNG
    MỘT NGƯỜI RƠI XUỐNG HỐ của VŨ BẰNG
    ĐÈN ĐỎ của ALFRED HITCH****
    TRANG 3 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/3
    ĐỊNH NGHĨA TÌNH YÊU của ANTON.P.TCHEKHOV
    HOA MUỘN của PHAN THỊ VÀNG ANH
    CHA TÔI của PHAN THỊ VÀNG ANH
    NHỮNG CON ĐƯỜNG KHÔNG ĐẾN SEATTLE của PHAN TRIỀU HẢI
    MỘT TỐI NGỒI Ở QUÁN BAR của PHAN TRIỀU HẢI
    TRANG 4 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/4
    BÔNG HỒNG CHO EMILY của WILLIAM FAULKNER
    CÒN LẠI NƯỚC CHÈ của TRẦN THỊ TRƯỜNG
    CHUYỆN KINH DỊ của LÝ LAN
    LẮP GHÉP HẠNH PHÚC của LÝ LAN
    ĐIỆN THOẠI của LÝ LAN
    TRANG 5 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/5
    CHÂN DUNG NGƯỜI HÀNG XÓM của DƯƠNG THU HƯƠNG
    TRANG 6 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/6
    GẶP GỠ THÁNG TÁM của GABRIEL GARCIA MARQUEZ
    TRANG 7 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/7
    SAIGON PULL của ĐINH LINH
    CHIM KHÁCH KÊU của NGUYỄN KIÊN
    CÁI BỚT của MIKHAIL ALEXSANDROVICH SHOLOKHOV
    TRANG 8 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/8
    CÁI BỚT ( tiếp )
    NHÀ TRỌ của NGUYỄN THỊ CHÂU GIANG
    BÀI HỌC TIẾNG VIỆT của NGUYỄN HUY THIỆP
    TRANG 9 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/9
    BÀI HỌC TIẾNG VIỆT ( tiếp )
    THIÊN HƯƠNG của HỒ THỊ HẢI ÂU
    TRẦM LUÂN ĐÁ ĐỎ của HỒ TĨNH TÂM
    TRANG 10 : http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/10
    ĐI KHỎI THUNNG LŨNG MỚI ĐẾN NHÀ của HỒ ANH THÁI
    CHUỘT RÚT của CAO HÀNH KIỆN
    TRANG 11: http://ttvnol.com/forum/t_131970/11
    NHỮNG GIÒNG SÔNG KHÔNG CHẢY của NGUYỄN THỊ THẢO AN
    ANH NĂM THỢ HỒ VÀ ANH SÁU THỢ MỘC của Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa
    TRANG 12: http://ttvnol.com/forum/t_131970/12
    HOẠ SĨ BREKKE của Ragnar W. Otgart
    SỢI TÓC NHÀ TIÊN TRI của Salman Rushdie
    TÌM TRĂNG ĐÁY NƯỚC của Phạm Hải Anh
    TRANG 13: http://ttvnol.com/forum/t_131970/13
    BỮA ĂN TRƯA của Somerset Maugham
    VŨ ĐIỆU CỦA CÁI BÔ của NGUYỄN QUANG THÂN
    Opa , Con Chó Và Tôi của LÊ MINH HÀ
    TRANG 14: http://ttvnol.com/forum/t_131970/14
    BỮA ĂN TRÊN CỎ của NGUYỄN VĂN NINH
    TRANG 15: http://ttvnol.com/forum/t_131970/15
    NHÀ HIỀN TRIẾT của TRẦN KIM TRẮC
    Chuyện Hóa Thân Của Bích Thảo của Hermann Hesse
    Cánh Đàn Ông Chúng Mình của NGUYỄN NHẬT ÁNH
    TRANG 16: http://ttvnol.com/forum/t_131970/16
    QUAY VỀ của NGUYỄN TRỌNG MGHĨA
    TRANG 17: http://ttvnol.com/forum/t_131970/17
    CHUYỆN CỦA NGƯỜI SỐNG của NGUYỄN THU PHƯƠNG
    ĐÊM BA MƯƠI CÓ MỖI CHUYỆN NÀY của NGUYỄN QUANG LẬP
    TRANG 18: http://ttvnol.com/forum/t_131970/18
    XUÂN MỚI NGƯỜI XƯA của TỐNG VĂN BÌNH
    NHÀ CÓ HOA ANH ĐÀO của TƯỞNG NĂNG TIẾN
    TÌNH GIÀ của NGUYỄN TRỌNG NGHĨA
    TRUYỆN BA CON CÁO của BÌNH NGUYÊN LỘC
    Trang 19: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/19
    Thuế biển của Phạm Thị Hoài
    Tầng trệt thiên đường của Bùi Hoằng Vị
    Người chăn kiến của Bùi Ngọc Tấn
    Ô-liu hoàng thổ của Mai Ninh
    Trang 20: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/20
    Tình yêu cuộc sống của Jack London
    Người đã khuất của Guyđơ Mopatxăng
    Chiếc Bình Đựng Ký Ức của Dương Nữ Khánh Thương
    Trang 21: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/21
    Trại cá sấu của Hồ Anh Thái
    Người Đàn Ông Không Cười của Jasunari Kawabata
    Ðại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ của Duyên Anh
    Trang 22: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/22
    Thương nhớ hoàng lan của Trần Thuỳ Mai
    Mèo hay thỏ? của Iuri Triphonov
    Anh Chàng Có Bộ Mặt Hề của Đoàn Thạch Biền
    Người Quân Tử của Linh Bảo
    Trang 23: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/23
    Bà mụ của búp bê của Quế Hương
    Ngọai Tình Theo Ý Chúa của Nguyễn Văn Sa
    Mùi thuốc lá của Dương Kỳ Bân
    Giao Thưà của Nguyễn Ngọc Tư
    Mùa Trăng Ướt của Phan Thái Yên
    Trang 24: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/24
    Hẻm sâu của Nguyễn Hộ
    Mỗi Người, Một Buổi Sáng của Nguyễn Thị Hoàng Bắc
    Mùa Hoa Cải Bên Sông của Nguyễn Quang Thiều
    Trang 25: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/25
    Ðêm Ðông Mà Lòng Thật Ấm - Linh Vang
    Không Chỉ Là Ký Ức - Bình Nguyên Trang
    Trang 26: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/26
    Mưa vào ngày cưới - Nguyễn Việt Hà
    Bờ Mưa - Phạm Sông Hồng
    Có Một Mối Tình - Nguyên Hương
    Thằng Bần -Trọng Hứa
    Trang 27: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/27
    Phù dung - Nguyên Hương
    Mẹ con Đậu Đũa - Nguyên Hương
    Ðoạn cuối tình yêu - Ấu Tím
    Sinh Ra Chỉ Để Yêu - Nguyễn Quang Huy
    NHỮNG QUẢ THÔNG RƠI VỠ BÊN HỒ - Trần Thị Hà Anh
    Trang 28: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/28
    Nhân Tình - Y Ban
    Người Chơi Đàn Nguyệt Ở Hàng Châu - Đỗ Trung Lai
    Nhà Phía Sau Thung Lũng - Thanh Sơn
    Ven Hồ - Lê Thị Thu Thuỷ
    Coi Bói, Coi Phim - Phan Nhiên Hạo
    Nhảy Xuống Với Bùn - Nguyễn Thị Minh Ngọc
    Cau Non - Nguyễn Thị Phước
    Chó Sói Gửi Chân - Nguyễn Dậu
    Trang 29: http://www.ttvnol.com/forum/t_131970/29
    Mặt Hồ U Ám - Nguyễn Ngọc Thuần
    Chuyến Xe Thời Gian - Bùi Hiển
    Người Đàn Ông Làng Yên Hạ - Sương Nguyệt Minh
    LoveToLive
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 17:20 ngày 20/08/2003
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 17:25 ngày 20/08/2003
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bảo Ninh
    Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng
    Một buổi tối, tôi tới sứ quán Pháp dự chiêu đãi nhân ngày 14 tháng Bảy. Giấy mời đề bảy giờ, tôi đến hơi trễ, tây ta đã rất đông, vào tiệc đã khá lâu. Tiệc đứng. Không hẳn là như trên tàu điện nhưng cũng mỏi nhừ, cũng mệt lử và cũng mạnh ai nấy chen.
    Phòng tiệc rù rù máy lạnh, song sức máy không đủ làm nhẹ bầu không khí nặng hơi người và khói thuốc, nồng ngạt mùi nước hoa đàn bà, mùi nước hoa đàn ông, mùi phấn son, mùi xi đánh giày, mùi thức nhắm và mùi rượu mạnh các loại. Khách khứa phải dãn dần ra hiên, tản bớt xuống vườn.
    Tiếng trò chuyện ở ngoài vườn không ồn như trong phòng mà nhè nhẹ ran lên. Thỉnh thoảng như bị cù ré lên tiếng cười của một bà nào, một ông nàọ Các ông các bà, với ly rượu trên tay hoặc với đĩa thức nhắm, hoặc là ôm đồm một lúc trên tay cả hai thứ, đứng tụ từng nhóm dăm vị với nhau, vừa uống ăn vừa đấu hót. Nom ai cũng lịch sự, đẹp đẽ mượt mà. Nhất là các bà các cô người nào người nấy diện ngất. Các ông thì tuyệt vời tề chỉnh, tất cả đều đóng hộp, đường bệ com lê cà vạt giày da, tương xứng với tên tuổi và phẩm giá. Các nhà buôn, các nhà báo, các nhà kịch sĩ, các nhà ca sĩ, các nhà thông thái già, các nhà thông thái trẻ, các nhà từ thiện, các nhà môi giới. Tất cả các gương mặt đều đậm nét cao quý, tất cả các dáng điệu đều đặc Pháp. Và ngôn luận nữa, cũng Pháp. Khi có một anh Tây nào đó xì xồ một lời dí dỏm, lập tức trong nhóm thực khách vây quanh y những ai sành tiếng Tây liền rộ lên cười tán thưởng, còn những ai, như tôi, chỉ biết tiếng mẹ đẻ thì nhũn nhặn mỉm cười theo với vẻ tươi vui dè dặt. Tôi thấy có cô thậm chí còn nhón chân lên nhìn tay ngoại quốc thạo pha trò nọ bằng cặp mắt gần như mờ đi vì si mê và thán phục.
    Tại giữa khu vườn, ở nơi sáng nhất, trội lên một đám chừng chục vị đặc biệt rôm rả. Chưa nhìn rõ ai nhưng thoáng qua cung cách hân hoan buông tuồng của họ, đoán đây là một toán nam nữ đồng nghiệp trẻ tuổi nên tôi phải vội vã liệu đường. Ra gần cổng sứ quán, do hấp tấp tôi xô phải một ông già đang bước đi chậm rãi. Luýnh quýnh tôi xin lỗi.
    - Không saọ Tôi không làm sao cả đâu ạ, thưa ông! - Ông già nói - Cũng là bởi tại tôi tối nay có hơi ngà ngà. Mà làm sao ông cũng về sớm vậy, nhà văn?
    Tôi nhìn, giấu nỗi sửng sốt. Tôi biết ông. Ông già chủ sạp báo ở đầu đường Nam Bộ chứ ai. Y phục dạ tiệc của ông sờn nát. Cà vạt kiểu gì đâu nom như cái cờ đuôi nheọ Và bởi vì ông gầy nhom nên cả sơ mi cả áo vét đều lụng thụng. Ông thấp người, lưng còng còng. Tôi đỡ khuỷu tay ông, đưa ông sang đường.
    - Cái lễ cát tó năm nay linh đình chỉ, - Ông già nói, giọng khàn khàn - Khách khứa đông gớm ghê. Có lẽ là vì kỳ này, ngoài Đại Cách mạng, Tây nó còn muốn tưởng niệm luôn cả quả bom Mỹ hai mươi năm về trước thổi bay tòa đại sứ.
    Gió mát thổi dài dọc phố. Đường Thợ Nhuộm về khuya vãn dần xe cộ. Vỉa hè thưa người qua lại. Tôi bước đi thật chậm cạnh Me xừ. Ông già tên Bôn nhưng vẫn nghe dân tình cùng phố với ông gọi ông như vậy, Me xừ.
    - Tôi đồ rằng ông đang bận tâm tự hỏi cái lão già này khoác tư cách nào mà vào ra can dự cái chỗ tiệc tùng long trọng đó, phải thế chăng? Mà ông ạ, không chỉ tối nay đâu, đã thành cái lệ rồi, hễ cứ lễ lạt to to một chút trong sứ quán là tôi tất yếu có giấy mời. Là tôi đến dự. Mà tôi là ai nào ai biết.
    Ông nói phà ra mùi rượu song không hề nhịu giọng. Ông bước chậm lệt sệt lê giày, nhưng ông không chuệnh choạng. Lời lẽ của ông khúc triết.
    - Tôi nghĩ, ngay cả các viên chức lễ tân của sứ quán cũng chẳng biết tôi là nhân vật nàọ Họ cứ tra theo danh sách do những người tiền nhiệm giao lại mà lắp tên và địa chỉ của tôi vào giấy mời in sẵn. Giấy mời đến tay tôi theo đường bưu điện. Tôi đến, chìa giấy ra, rồi vào cổng, chẳng ai căn vặn. Vào ra sứ quán nhiều lần, tôi thạo cửa trước cửa sau, lối thẳng lối quanh, tôi sành thể thức tiếp tân của từng loại buổi chiêu đãi. Tôi dễ dàng kiếm được một ly và nhè nhẹ một chút thức nhắm gì đó mà không phải xông xáo, không phải chường mặt giữa đông người. Tôi tìm chỗ khuất, không nói gì, không bắt chuyện, tôi lắng nghe tiếng Pháp người ta đang nói ran khắp xung quanh. Tôi thui thủi nép bên lề nước Pháp.
    Dòng độc thoại của con người kỳ quặc đang lê bước bên cạnh khiến tôi bắt đầu cảm thấy ngại. Tôi liếc mắt sang. Dưới ánh đèn đường vàng ủng, khuôn mặt ông cụ nom càng bệu rệu.
    - Nhưng đã bảo là không muốn chường mặt ra thì còn cố len lỏi vào đó làm gì chứ, hẳn ông đang nghĩ vậy. Hẳn là ông đang cảm thấy ngượng thay cho tôi, hẳn ông đánh giá tôi là một tên già lố lăng, lai căng, sùng ngoại.
    Tôi vừa dợm ấp úng mấy lời thưa cụ rằng tôi chưa có cái vinh hạnh được biết nhiều về cụ nên tôi không thể nghĩ này nghĩ nọ cái gì cả, nhưng Me xừ đã lập tức ngắt lời tôi:
    - Ông chẳng cần phải lựa lời. Đừng e sẽ làm tôi mếch lòng. Vì sự thực đúng là như ông đang nghĩ. Chỉ có điều tôi không chuộng ngoại nói chung, mà chỉ Pháp thôi, tôi ưa hầu hết những gì của Pháp. Nhân đây tôi cũng xin được thú thực cùng ông, tôi chính cống là một bóng ma thân Pháp cuối cùng còn sót lại trong lòng Hà Nội!
    Sự xuất thần vô cớ, sự bộc bạch bỗng dưng của ông già không làm tôi ngạc nhiên. Tôi cứ bình thản nghẹ Nghe thì gì mà không được. Về cái khoản nghe người đời tâm sự thì tôi như là có năng khiếu bẩm sinh.
    - Lẽ cố nhiên, thuở còn thơ, khi phải học thuộc lòng rằng Tổ tiên chúng ta là người Gôloa thì tôi cũng thừa hiểu đấy là một điều thậm dối trá, - Me xừ lại khàn khàn bắt đầu nói sau một hồi lâu trầm lặng bước đi - Nhưng mà, ông ạ, thuở đó tôi và chúng bạn cũng lại thường hát như thế này: Tôi có hai mối tình. Quê hương tôi và Pari...
    Đến đầu phố Dã Tượng, tôi và Me xừ dừng lại ở một quán cà-phê vỉa hè. Chúng tôi ngồi, im lặng, thìa khuấy lanh canh. Bên Hỏa Lò, công trường xây dựng khách sạn vẫn đang ầm ì làm lụng.
    - Ông thấy đấy, - Xừ Bôn nói, đưa tay chỉ - Người ta đang nhổ nốt những mẩu vụn cuối cùng của thời Pháp thuộc. Chẳng ai tiếc, mà chẳng ai tiếc là phải.
    Buông tiếng thở dài, ông già nói tiếp, chậm rãi:
    - Hồi xưa kia khi phố xá tĩnh lặng chứ không như bây giờ. Có thể đi suốt dọc một quãng phố dài mà chỉ có một mình mình kèm cái bóng và tiếng chân của mình. Hồi đó, rộc đi vì quá đầy chữ nghĩa, tôi thường có cái thú tiêu dao, một mình đi dạo để tìm khuây khỏa. Tôi tránh những nơi ồn ào, những nơi tụ bạ, tôi chỉ ưa những phố Tây tĩnh mịch, thưa vắng bóng người. Đường Bôniphaxi, đường Hale, đường Giabui... Ông thấy đấy, đã đổi đời năm chục năm rồi mà trí nhớ tôi vẫn chưa đổi được hết tên các phố. Những đường phố êm như mộng, thanh nhã và thư nhàn. Nhà ở những phố ấy toàn biệt thự, tất cả đều kín cổng cao tường, như là những lâu đài nhỏ. Và phố nào cũng râm mát. Xưa, gia đình chúng tôi sống tại phố này đấy. Phố Giăng Xôlê. ở ngôi nhà kia kìa!
    Xừ Bôn nhổm người khỏi ghế, đưa tay chỉ sâu vào khúc đường Thợ Nhuộm mà tôi với ông đã đi dọc qua vừa nãy.
    - Thời ấy, khu phố này người mình rất hãn hữu. Mấy ngôi biệt thự kề nhà chúng tôi chủ nhân đều người Pháp. Giữa các láng giềng Tây và chúng tôi cố nhiên ít có sự giao du, nhưng mức sống và lối sống của gia đình tôi chẳng hề thua kém họ, nếu không nói là còn hơn. Tây nó được thế nào thì chúng tôi được thế nấy. Hết sức là bình quyền, ông ạ.
    Me xừ khịt khịt mũi ra chiều tự phụ.
    - Nếu không vướng thế giới chiến tranh thì hẳn là tôi đã được gia đình cho qua Pari du học rồị Nhưng mà nước Pháp bị chiếm đóng. Quân Nhật vào Đông Dương. Còn tôi vào trường Luật. Ngày đó tôi giàu suy tư, tôi đầy nghĩ ngợi. Tôi héo mòn đi vì đăm chiêu. Tôi ưa độc thoại. Ngoài triết học tôi còn nghiền ngẫm văn chương thi phú. Tôi am tường tư tưởng các tiểu thuyết của Xtăngđan, của Flôbe, tôi thuộc lòng vô số thơ của Huygô, của Bôđơle, của Rembô và Véclen. Nhất là Véclen, ông ạ. Véclen... Cốc cà-phê đã cạn, và ngồi mãi đã phát nhàm nhưng ông già vẫn chưa thấy nhàm câu chuyện.
    - Lúc bấy giờ, trong thiên hạ nhiều kẻ hùa theo Nhật. Nhưng tôi thì không tài nào ưa nổi đám quan binh ngạo mạn và cục cằn ấy. Tôi thầm mong văn minh Pháp sẽ có ngày trị lại được thói hung tàn của bọn rợ. Song chỉ là mong như vậy chứ tôi hoàn toàn trốn khỏi thời cuộc. Mặc dù những tài liệu ********* ngầm truyền bá trong sinh viên tôi cũng được đọc nhưng tôi chẳng chịu tin theọ Đến Tây còn chưa cự nổi Nhật nữa là. Người mình sức vóc tới đâu mà hòng đuổi chúng, tôi nghĩ vậy. Và tôi lẳng lặng xa lánh tất cả những bạn bè mà tôi ngờ là đang nuôi chí làm chuyện lớn. Tôi vùi tuổi trẻ của tôi vào những chồng sách già nua. Tôi sống bưng tai bịt mắt đến mức xây lưng lại với cả nạn đói.
    Ông già chật vật nới nút cà vạt. Nói nhiều phát mệt, cái sọ hói khô khốc của ông loáng mồ hôi.
    - Những năm ấy, Hà Nội sống không yên, mất ăn mất ngủ, liên miên nhao nhác náo động. Nhưng riêng ở các phố Tây thì bầu không khí vẫn như trong thuở thái bình. Có phần còn thái bình hơn. Một nền thái bình quỵ lụy. Thật đúng là như thế. Bởi vì từ khi nước Pháp đại bại thì người Pháp ở Hà Nội tuy vẫn được yên lành nhưng bị thâu mất bính quyền, càng năm càng thất thế. Co ro sợ sệt. Nhà cửa dinh thự của họ cũng như so vai rụt cổ. Phố xá phờ phạc. Phố nào phố nấy đìu hiu, vắng tanh vắng ngắt... Nhưng mà ông ạ, chính cảnh tượng yếm thế như vậy lại hòa hợp với cõi lòng tôi thuở bấy giờ. Khi một mình dạo bước trên vỉa hè dưới tán những cây bằng lăng hoa tím phố Giăng Xôlê, nghe tiếng vĩ cầm than van, tôi tưởng tượng mình như chiếc lá vàng rơi rụng trôi dạt trong làn gió thu của thơ Véclen. Phố Xôlê hồi ấy, ông ạ, tĩnh như tờ, và trong mường tượng của tôi, nó có vẻ như hẹp hơn và dài hơn hẳn Thợ Nhuộm bây giờ. Dài thẳm, hun hút và buồn lắm. Hồi ấy, vào mỗi buổi sáng, vào mỗi buổi chiều, khi tôi ra khỏi nhà và khi tôi trở về luôn luôn có tiếng vĩ cầm đợi tôi tại quãng phố trước cổng nhà. Tôi tưởng tượng cây đàn ấy cả ngày ngưng tiếng mãi chờ cho tới khi có tiếng chân tôi bước đến mới nức lên. Tiếng đàn tuyệt diệu mà sao đau xót não nùng, dự cảm những ngày mai và nuối tiếc những ngày qua. Lòng tôi se lại cảm thương vô hạn nỗi lòng cô thiếu nữ người Pháp, và ông ạ, than ôi, chẳng can hệ gì đến tôi mà vô cớ tôi buồn nhớ, tôi tiếc thương nước Pháp...
    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bảo Ninh
    Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng ( II )
    Giọng nói của ông cựu sinh viên trường Luật nghẹn lại. Không đành dứt ra đứng dậy, tôi đành mất sạch thì giờ ngồi nghe rì rầm những hồi ức đầy tự mãn và hoàn toàn không đâu vào đâu của một thứ dĩ vãng đã hoàn toàn bị xóa sổ.
    - Cây đàn ấy là của Xôphi, con gái nhà Pêguy hàng xóm với gia đình tôi. Gia đình Pêguy không giàu có. Nhà của họ là một ngôi biệt thự hai tầng cũ kỹ. Tường nhà nhiều năm không được quét mới lại, màu vôi đã xạm. Ông Pêguy là một ông Tây bất thường. Sống thu mình, hiền lành và thầm lặng. Chẳng cứ với người mình mà với cả người Tây đầm, Pêguy cũng tránh giao du. Cánh cổng sắt từ mặt phố mở vào sân nhà ông ta hầu như quanh năm chẳng biết khi nào hé mở... ấy vậy mà ông ạ, tôi lại vốn là chỗ quen biết với nhà bên đó. Cố nhiên không phải là với ông Pêguy mà là với các con của ông ta. Ông ta góa vợ. ở vậy nuôi hai người con. Một trai một gái. Trai tên Philip một tuổi với tôi. Còn Xôphi thì ít hơn ba tuổi. Xôphi mồ côi mẹ ngay lúc lọt lòng. Và đáng thương nhất ông ạ là Xôphi cô ấy bị mù. Mù từ nhỏ. Cặp mắt nom như là hoàn toàn bình thường vậy mà hoàn toàn không nom thấy gì.
    Ông già ngừng kể, lục túi áo rút mù xoa ra chấm mồ hôi. Tôi chẳng nói gì, lẳng lặng nhìn.
    - Tôi và Philip đã dễ dàng kết bạn ngay khi gia đình tôi vừa dọn tớị ở cái tuổi mười hai, mười ba, bức tường ngăn cách tây ta chưa cao lấp mặt như là khi đã trưởng thành. Thêm nữa giữa khuôn viên nhà chúng tôi với nhà Pêguy không xây tường gạch mà chỉ được ngăn ra bởi một hàng rào sắt. Từ hai bên bờ rào, tôi và Philip bắt chuyện làm quen. Philip rủ tôi qua chơi. Cậu ta không sang bên tôi được vì còn phải trông nom đứa em. "Đứa em gái khốn khổ bị mù của tôi", cậu ta bảo thế.
    Không như thói thường đám Tây con, hai anh em nhà Pêguy tính nết rất lành, nhất là Xôphi. Có lẽ do vì được sinh ra tại Việt Nam nên vóc dáng cô mảnh dẻ, tóc đen mắt huyền, giọng nói êm ái, tư chất dịu hiền. Tôi rất mến cô. Nhiều bữa không có Philip ở nhà, tôi vẫn sang chơi. Chúng tôi cùng nhau đi dạo trong vườn hoặc là ngồi cạnh nhau trong cái chòi hóng mát ở cuối vườn. Cả hai đều ít lời, không có nhiều chuyện để nói, tôi thường đọc truyện cho Xôphi nghẹ Và đọc cả thơ nữa, còn cô thì đàn cho tôi nghẹ Tôi có thể ngồi lặng hàng giờ nghe cô tập viôlông. Những khi có tôi bên cạnh, Xôphi vui hẳn lên. Đôi khi còn cười lên thành tiếng. Thậm chí nhờ tôi mà cô đã dần dần bập bõm nói được cả đôi chút tiếng Việt.
    Me xừ thở dài, giọng trầm xuống:
    - Nhưng nói gì đi nữa thì quan hệ giữa tôi với anh em nhà Pêguy cũng là một thứ tình cảm phi lý và nghịch thường, ngày một thêm chướng và thêm trái lẽ. Cho nên chẳng tài nào mà bền được. Càng lớn lên suy nghĩ càng ít hồn nhiên, nhiễm dần những thiên kiến, lòng dạ khác đi, tình bằng hữu nhạt dần. Trước tiên là giữa tôi với Philip. Chẳng có sự tuyệt giao nhưng cứ thế lẳng lặng lảng dần nhau. Mà đã không còn chơi với ông anh thì cố nhiên là cũng khó bè bạn với cô em. Tôi tránh dần, rồi tránh hẳn qua lại nhà bên đó. Vả lại, thời cuộc đổi thay. Từ năm 1940, sự đời ngày một thêm nghiêm trọng. Philip không vào đại học. Một ngày nọ, tôi thấy hắn vận đồ nhà binh về thăm nhà.
    Ông già móc bao thuốc ra, châm một điếu. Ông nuốt một hơi, ho một hồi, rồi lại nuốt tiếp một ngụm khói nữa, lại họ Ông dụi điếu thuốc đi.
    - Sau Tết ất Dậu, Nhật làm đảo chính diệt hẳn người Pháp. Chỉ một đêm, quân lính Thiên Hoàng đã cướp gọn Hà Nội. Tây đầm bị bắt, bị lùa hết lên camiông chở hốt đi. Phố Xôlê yên tĩnh bỗng rầm rập lính tráng, xủng xoảng súng ống gươm kiếm. Vậy mà, ông ạ, trong huống cảnh hung dữ nhường ấy, gia đình chúng tôi lại bạo gan chứa chấp một gia đình người Pháp. Thưa ông, đó chính là gia đình Pêguy... Ông cụ thân sinh tôi với ông Pêguy tuy rằng cũng có đôi chút quen biết nhưng mà chẳng phải là mật thiết gì. Chẳng qua vì là một gia đình bản xứ thuộc tầng lớp trên sống gần cận nhất nên khi sự biến thình lình chúng tôi bỗng trở thành cơ may duy nhất của cha con ông tạ Tối đó, vừa nghe súng nổ, hay tin trong Thành có biến, hồn xiêu phách lạc, không kịp vơ vén đồ đạc của nả, ông Pêguy dắt Xôphi chạy ngả vườn sau, lách song sắt hàng rào qua bên chúng tôi. Mặc dù rất sợ, sợ lắm, nhưng ông cụ thân sinh tôi vẫn thuận cho hai cha con ông ta vào tỵ nạn.
    Cố nhiên, thưa ông cái nghĩa cử liều chết ấy đã khiến cả gia đình nơm nớp. Chỉ riêng tôi là thấy rộn lên trong lòng. Trạng thái hiểm nguy dù sao cũng là sự bất ngờ mới lạ làm lay động cuộc sống lặng tờ, tẻ nhạt, bình chân như vại của gia đình tôi và của bản thân tôi. Tính chất ly kỳ của sự việc khiến tôi ngầm phấn khích. Tôi tự thấy mình can đảm, tôi tự hào mình nghĩa hiệp. Và ngay trong lúc mà song thân tôi đang nghênh tiếp viên lãnh binh Nhật tại phòng khách thì tôi ở dưới hầm rượu bên cạnh cha con Pêguy chia sẻ cùng họ nỗi khiếp sợ. Tôi và Xôphi tay trong tay. Chứa chan xúc cảm, tôi khoác cho cuộc tỵ nạn của Xôphi một vẻ lâm ly thần tiên. Có vẻ nực cười ông nhỉ? Song le có ai trong huống cảnh thế lòng dạ lại không sinh ra hão huyền phải không thưa ông?
    Tôi uể oải đưa tay che miệng giấu một cái ngáp. Tôi đoán chừng là sắp sửa phải nghe một câu chuyện tình nẫu ruột được moi lên từ đáy rương.
    - Cuộc mạo hiểm của gia đình tôi chẳng kéo dài. Hai cha con ông Pêguy náu thân trong nhà chúng tôi được vẻn vẹn có hai hôm. Sáng ngày thứ ba, hiến binh xộc cửa vào thăm. Như là đã được mật báo, chẳng cần lục soát hay xét hỏi lôi thôi, viên lãnh binh Nhật dùng tiếng Pháp rành rọt yêu cầu ông cụ thân sinh tôi lập tức giao nộp những người Pháp đang ẩn trốn. Mặc dù trong vụ ấy ông cụ thân sinh không bị buộc tội, không ai trong gia đình tôi bị tống giam, nhưng mà thương xót Xôphi, tôi chẳng cầm được nước mắt.
    Lại một cơn ho nhưng Me xừ không ngừng kể:
    - Đầu thu năm 45 mở ra nhiều hy vọng. Tôi đoán chắc đà chiến thắng của Đồng Minh sẽ khiến quân Nhật phải nương tay với các tù nhân người Pháp. Gia đình Pêguy ắt hẳn sẽ tai qua nạn khỏi. Tôi sẽ còn gặp lại Xôphi. Tôi tin như vậy. Nào ngờ... Nào ngờ... sau chiến tranh không phải là một nền hòa bình mà là một cuộc xâm lăng tàn bạọ Không như tôi hão huyền mơ tưởng, người Pháp trở lại Đông Dương không trong tư thế những người từng chịu chung họa phát xít với dân Nam mình mà là trong bộ dạng của quân cướp nước hung hăng bạo tàn gấp bội lần quân Nhật. Sau khởi nghĩa Mùa thu, và ngay sau lễ Độc Lập, hay tin liên quân Anh - Pháp gây hấn ở Nam Bộ, tôi đã nghĩ ngay rằng dù Xôphi có còn sống đi nữa nhưng mà vướng phải cuộc xâm lăng này thì chúng tôi cũng không hòng gì còn có thể gặp lại nhau. Quả nhiên là như vậy, ông ạ, không bao giờ nữa...
    Không nhìn thấy được gương mặt Me xừ nhưng tôi hình dung thấy chóp mũi ông ửng đỏ và mắt ông mờ đi.
    - Cách đây gần chục năm, một người Pháp qua đường tình cờ dừng bước trú mưa dưới mái hiên nhà tôi. Nơi mặt tiền nhà mình, tôi có bày một sạp báọ Người khách Tây nhặt ở sạp lên một cuốn tạp chí giở xem lướt lướt. Vừa lật xem vừa hỏi han này nọ. Vì rằng ông khách có ý thán phục tiếng Pháp của tôi nên tôi lập tức có thiện cảm với ông ta. Mưa tọ Tôi mời khách vào hẳn trong nhà uống trà và chuyện vãn. Khách trao tôi danh thiếp. Tên là Giăng Pêguy. Họ của vị khách cố nhiên gõ mạnh vào trí nhớ tôi. Tôi lựa lời dò hỏi và lần hồi tôi kể lại chuyện xưa. Mặc dù không có người họ hàng nào từng sống ở Đông Dương thời thuộc địa, nhưng mà Giăng rất quan tâm tới câu chuyện, ông ta nài tôi kể kỹ hơn và lắng nghe rất chăm chú. Cuối cùng, tỏ vẻ mừng rỡ, ông ta bảo rằng suốt một năm làm việc tại Việt Nam đã cất công tìm kiếm những người như tôi mà không được, may mắn làm sao khi đã hết nhiệm kỳ, ngày mai về nước rồi thì lại có sự tình cờ này. "Ông là một người bạn của nước Pháp. Và còn hơn thế, ông là người có công trạng với nước Pháp". Ông ta trịnh trọng bảo vậy. Trước lúc ra về, ông ta đề nghị tôi ghi lại cho ông ta tên tuổi ba cha con Pêguy và địa chỉ ngày xưa của họ ở phố Xôlê... Sau đó chừng nửa năm, tôi bỗng nhận được giấy mời dự tiệc của Sứ quán Pháp. Tuy rất ngạc nhiên nhưng tôi vẫn đóng bộ vào và tới dự. Đấy là lần đầu tiên tôi vào chốn ấy. Tiệc tan, tôi được mời lưu lại. Người ta trao cho tôi món quà từ Pari. Một cây đàn viôlông rất đẹp và còn mới nguyên. Trong hộp đàn có phong thư của Giăng Pêguy. Trong thư, Giăng viết rằng sau nhiều nỗ lực tìm kiếm ông ta đã lần được đích xác tung tích số phận những người hàng xóm thuở xưa của tôi. Song, ông ta lấy làm tiếc và ông ta xin chia buồn với tôi bởi nỗi những cố nhân ấy của tôi đều đã qua đời. Người con trai tử trận ở Điện Biên Phủ. Người con gái thì mất ở Sài Gòn vào năm đầu thập niên 60. Ông bố chết cùng trong năm ấy, và cũng tại Sài Gòn. Cây đàn, Giăng xin tặng tôi nhằm bày tỏ niềm ngưỡng mộ của một người Pháp lớp hậu sinh đối với quá khứ Pháp - Việt đẹp đẽ và đầy xúc động thời xa xưa, mà tình bạn giữa tôi với anh em nhà Pêguy là một minh chứng. Cuối thư, Giăng trịnh trọng nhắc lại: "Ông là một người bạn của nước Pháp".
    Ông ạ, ca ngợi tôi và tặng cho tôi một món quà không đâu vào đâu như vậy rõ ràng là Giăng Pêguy đã hiểu sai hoàn toàn câu chuyện tôi kể. Phần vì tiếng Pháp của tôi sau nhiều chục năm trời bỏ bẵng có thể đã không còn hoàn hảo như xưa. Phần vì một người Pháp hậu sinh như Giăng đã không hiểu chút gì về nước Pháp thực dân, cha ông của nước Pháp ngày nay.
    Im lặng một lát, Me xừ nói tiếp:
    - Hẳn là ông cũng biết, bọn thực dân nhà binh phái đến sau Hiệp định Sơ bộ mới được phép vào lại Hà Nội. Còn thực dân xi vin thì ngay sau ngày Nhật đầu hàng đã lục tục trở về với nhà cửa của họ ở các phố Tây. Nhưng mà bên hàng xóm gia đình tôi, cha con Pêguy vẫn mãi biệt tăm. Nhà họ được chính quyền mượn làm trụ sở của ủy ban Bảo vệ khu phố. Vì là đội viên tự vệ nên tôi thường vào ra nhà đó. Biệt thự đã sung công nhưng mà đồ đạc của nả gia đình Pêguy không bị đụng chạm đến. Sự bài trí cũng không suy suyển nhiều trong phòng riêng của Xôphi, tôi thấy trên kệ còn đó những cuốn sách mà ngày trước tôi đã đọc cho cô nghe, và cả cây đàn vĩ cầm của cô nữa tôi thấy vẫn còn nằm nguyên đó trên chiếc bàn gỗ nhỏ kê kề ô cửa sổ trông ra tán cây bằng lăng ngoài cổng. Một con mèo xiêm nằm trên bậu cửa sổ sưởi nắng.
    Xin được thú thực với ông là cho đến ngay trước giờ súng nổ đêm Mười Chín, trong thâm tâm, tôi vẫn mong mỏi sẽ không bùng nổ chiến tranh. Tôi cứ thầm nuôi hy vọng sẽ có một sự thỏa hiệp, một tinh thần thiện chí nào đó từ nước Pháp. Gì thì cũng là nước Pháp kia mà. Người Pháp lừng lẫy văn minh chứ đâu phải một giống dòng cuồng chiến, tôi nghĩ vậy. Vả chăng, vừa thoát ách phát xít, vừa giành lại được tự do, không lẽ nước Pháp lại có thể rắp tâm giày xéo nền độc lập và cướp đoạt tự do của nước người. Tuy nhiên, ông ạ, ham muốn hòa bình và nhiệt tình ái quốc chẳng ngược lại nhau. Tôi không theo gia đình tản cư về quê nội ở ngoài Đơ. Tôi quyết ở lại cùng anh em tự vệ một lòng quyết tử cho lời thề Độc Lập. Vào buổi tối Mười Chín, khi đèn tắt súng nổ, tuy rằng có sợ nhưng tôi đã không do dự, lập tức ra chiến lũy dấn thân vào đêm đầu tiên thành phố chúng ta lâm trận.
    Im lặng một lát như là để lục tìm trong trí nhớ, xừ Bôn kể tiếp:
    - Chắc là ông đã nghe nhiều và đã đọc nhiều về công cuộc phòng thủ Hà Nội ngày ấy. Có thể ông còn biết nhiều hơn tôi đấy bởi vì rằng quả thực là tôi không biết gì mấy. Nhiệt tình kháng chiến thì có thừa nhưng tri thức trận mạc chẳng có bao nhiêu. Sẵn sàng tác chiến nhưng mà tác chiến thế nào đây thì cứ rối tinh lên. Phố xá tối om, súng đạn rầm rầm. Chốc chốc lại một tiếng nổ chuyển đất. ánh lửa hắt lên đỏ hồng trời mây. Vậy nhưng các trận đánh đang thực sự diễn ra ở mạn nào của thành phố thì tại chỗ chúng tôi chẳng ai rõ ra sao cả. Súng nổ được một chặp thì có tin ta thắng rồi. Nhưng chỉ lát sau đã tin ngược lại, mặt trận vỡ, Tây đang đánh trận ra mọi ngả. Tảng sáng thì thiết giáp giặc từ Cửa Nam đánh lên đã rầm rầm tiến dọc đường Carô. Một chiếc quặt vào phố Xôlê xả liên thanh. Vì được cất toàn bằng các thứ đồ gỗ như là giường tủ bàn ghế chăn đệm nên chỉ chốc là chiến lũy bốc cháy. Chúng tôi phải thối lui dưới làn đạn. Liền một lúc mấy người bị bắn gục trên mặt đường. Cả anh chỉ huy trưởng và anh chỉ huy phó cũng phải đạn ngã xuống. Trung đội vỡ làm đôi. Nửa lui về nhà Pêguy để giữ trụ sở ủy ban, nửa khác, có tôi, chạy dạt vào trường Bách Nghệ. Phố Xôlê chúng tôi vậy là đã mất vào tay giặc ngay trong những giờ đầu tiên của cuộc Toàn quốc kháng chiến.
    Trường Bách Nghệ cũng chẳng giữ được lâu. Thú thực là tôi tối tăm mặt mũi, thụ động thối lui theo anh em chứ chẳng còn hiểu ra làm sao nữa. Tôi chẳng hiểu bằng cách nào mà mình lại có thể đã chạy lọt vào được trong khuôn viên nhà thương Bảo Hộ. Cho đến trước đêm Noel, cuộc chiến ở dọc phố Phủ Doãn dẫn về khách sạn Ađi-a rất là dữ dội. Thật đúng như có ai đó đã nói: chiến tranh nào phải trò đùa, đấy là cả một cuộc kinh thiên động địa và là một lò lửa thử lòng người. Hăm hở đặt bước đi đầu tiên vào trận chiến thì dễ nhưng can đảm bước thêm dù chỉ một bước nữa thôi lại chẳng dễ chút nàọ Khi có lệnh rút qua bên Hàng Bông, tôi chần chừ, không dám chui ra khỏi chỗ nấp để chạy theo anh em băng qua lưới đạn đan trên phố, vì thế mà bị rớt lại trong nhà thương. Giặc ập vàọ Tôi cùng một số người nữa bị giải về tập trung ở vườn hoa Canh Nông, rồi sau đó bị bắt đi phụ.. Rốt cuộc, cuộc kháng chiến ba ngàn ngày tôi chỉ theo được vẻn vẹn có ba hôm...
    Lovetolive[/size=18]
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bảo Ninh
    Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng ( III )
    Tôi bị bổ vào một toán phu đòn, ngày ngày còng lưng cắm mặt đun xe chở xác. Lao dịch rất khổ cực nhưng nhất là rất khổ tâm. Chúng tôi lặn lội trong rét mướt, lượm xác người mình chết dưới các gốc cây, các bờ tường, các hốc cầu thang, trong các đống gạch vụn những ngôi nhà đổ. Bấy giờ, mặt trận đã tụ lại trong vùng Đồng Xuân và Đông Kinh Nghĩa Thục. ở các khu phố đã rơi vào tay giặc tiếng súng thưa dần. Phố xá hoang vu, tanh bành, đổ nát, chết chìm chết lặng dưới mưa phùn gió bấc. Hầu hết các tử thi đều phải chôn xuống những nấm mồ chung. Nấm mồ chung lớn nhất nằm ngay bên hông Tòa Đại hình kia kìa, chỗ mà ngày nay là chợ ¢m Phủ đấy. Cả một phố bị đào hoắm xuống thành một cái huyệt chung chôn xác đàn ông, xác đàn bà, xác trẻ con bị Tây giết hại trong mùa đông ấy... ấy là một mùa đông rực lửa, sấm vang chớp giật, đồng thời là một mùa đông lạnh lẽo chưa từng thấy, giá rét căm căm, khí buốt thấu xương. Sau Tết nguyên đán lại càng rét đậm.
    Xừ Bôn ngồi thừ, đầu cúi xuống. Ông đã quên bẵng tôi, có lẽ tâm trí ông đã trôi mất dạng vào cõi vô bờ bến.
    - Một ngày nọ, vào khoảng trung tuần tháng Hai tây, tôi bất ngờ gặp gỡ người quen. Một chiếc xe díp đột ngột hãm lại cạnh chỗ toán phu chúng tôi đang làm lao dịch. Thằng Tây trên xe nhảy xuống, lộp cộp giày đinh bước sấn đến. "Pôn! - thằng Tây kêu lên - Pôn, đúng là anh rồi! Sao anh ở đâỷ Sao lâm vào cảnh ngộ nàỷ Anh đổi khác nhiều quá". Mặc dù thằng Tây có giọng nói ồm ồm và để râu quai nón nhưng tôi vẫn nhận ra đấy là Philip Pêguy, anh bạn hàng xóm ngày nàọ Nom anh ta cũng đã đổi khác quá đỗi, đã chính hiệu là một thằng giặc Tây: binh phục, súng sáu, giày đinh, mũ trận. Tuy nhiên Philip đã rất tử tế với tôi. Nhờ hắn bảo lãnh mà tôi thoát phận phu tù. Hắn bảo hắn biết chuyện gia đình tôi đã có ý tốt cho cha và em gái hắn lánh nạn. Hắn bảo hiện giờ Xôphi đang cùng cha ngụ ở Hải Phòng và đang rất nóng lòng mong Hà Nội sớm được bình định để sớm được trở về với tổ ấm thân yêu thời thơ ấu. Philip đưa tôi về đồn binh của hắn đóng ở đường Rialăng. Tôi được nghỉ ngơi một ngày rồi thì phải đi thông ngôn cho Philip.
    - Ông ạ, than ôi, - Ông già khàn khàn than lên - Như vậy là tôi đã một bước đi theo Tây, mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi mấy ngày. Trong mấy ngày đó, tôi ngồi cùng xe Philip len lỏi đến gần mặt trận. ¤tô núp vào góc phố chõ loa về phía chiến lũy. Tôi phải dịch những lời dụ hàng, khi là những lời hứa hẹn ngọt ngào, khi là những lời hăm dọa. Không muốn, nhưng biết làm sao được thưa ông, tôi bị bắt buộc. Với lại cũng xin thú thực là tôi đã cố tìm một cái lý để tự mình biện bạch với mình. Vô hình chung tôi đã bám víu vào luận điệu của bọn Tây khi tự nhủ rằng dù sao thì mình cũng đang giúp vào một nỗ lực nhằm tránh cho Hà Nội khỏi phải đổ máu và đổ nát nhiều hơn nữa.
    Nhưng mà tiếng loa chiêu hàng đã chẳng dụ được ai bỏ chiến lũy ra đầu Tây. Trận chiến trong Liên khu Một ngày một kịch liệt. Căm tức vì bị dai dẳng cầm chân, những lời lẽ bọn Tây bắt tôi phải dịch vào trong loa ngày càng ít đường mật. Sáng ngày 15 tháng Hai, xe chiêu hàng đậu ở bãi Lơpagiơ oang oang đọc tối hậu thư của Bộ chỉ huy Pháp. Hạn ngày nọ giờ nọ các vị trí đề kháng còn lại của ********* phải trương cờ trắng nếu không sẽ bị làm cỏ. Kề bãi Lơpagiơ cảnh tượng ghê gớm của trận Đồng Xuân còn bày nguyên đấy. Thị tứ sầm uất thành bãi chiến trường hoen máu. Trong mưa phùn lửa đã tắt nhưng khói vẫn tuôn nhả. Gió bấc thổi mù tro than. Gạch nát, ngói vụn, rầm gãy. Rải rác những xác xe tăng cháy thui, xích thép đứt tung, lính lái chết vắt người ở cửa xẹ Sau trận tử chiến kinh hoàng này, liền mấy ngày tương đối lắng dịu, súng vẫn nổ song không rộ lên. Bọn Tây đau đòn, nhừ tử hao binh tổn tướng, phải tạm ngừng tấn công. Nhưng mà tình thế bên ********* cũng đã cam go lắm rồi. Qua cách nói năng của Philip tôi thấy là bọn Tây đã không còn chút hồ nghi gì về sự tất thắng của chúng. "Quân đội Pháp sẽ giành chiến thắng một cách nương tay, một cách mã thượng, một cách nhân từ", Philip bảo vậy.
    Nhưng Hà Thành đã không để cho bọn xâm lăng có cơ hội đắc thắng. Sáng 18 tháng Hai, ánh lửa rực một góc trời mà thành phố thì im phắc. Liên khu Một trống rỗng. Trùng vây khép chặt thế mà ********* thình lình biến đâu hết. Cuộc rút lui thần kỳ ấy đã đẩy nước Pháp vào một thắng lợi vô cùng lố bịch, dường như là đã thắng mà kỳ thực là đại bại. Chiếm được đất người rồi mà kẻ chiếm đóng không thở phào nhẹ nhõm, không chút mừng vui hoan hỷ. Bọn lính chiến lầm lỳ, mệt mỏi, hai hàng dọc súng lăm lăm, dè dặt tiến chầm chậm vào các hẻm phố không người.
    Bất chấp cơ nguy bị bắn tỉa, Philip cho xe xông xáo sục sạo vào tất cả các đường dọc ngõ quanh trong khu phố cổ. Tôi chẳng hiểu là Philip muốn gì nữa. Giữa bầu không khí lặng thinh ghê người của các dãy phố, loa chiêu hàng chẳng còn gì để nói, bẽ bàng, câm miệng, chỉ thỉnh thoảng lại buột phát ra những tiếng lọc khọc khọt khẹt như là cái cổ họng bị hóc xương. Ngồi cạnh Philip trên chiếc xe díp tâm lý chiến ấy, tôi run rẩy vì cóng lạnh và sợ hãi. Mặc dù dọc hai bên hàng phố tuyệt không bóng người, không một ô cửa hé mở, tịnh không một giọng nói, một ánh mắt vậy mà tôi vẫn cảm thấy rờn rợn dâng lên từ từng ngôi nhà, từng mái hiên, bờ tường, góc phố hơi thở của một lòng căm thù khốc liệt tuy rằng câm nín và vô hình.
    Cửa sổ tầng hai của ngôi biệt thự bên kia đường bật mở. Một người đàn bà bước ra ban công. Chị ta nhìn xuống đường. Có phải chị nghe thấy giọng kể của xừ Bôn? Thực ra lúc này giọng ông hạ thấp như là lào thào bên tai tôi.
    - Dù vậy, dù trong bụng nơm nớp lo sợ bất ngờ súng lại nổ, tôi vẫn thấy bất ngờ khi biết lại phải đi đến chỗ đang xảy ra bắn nhau. Lại có trận chiến nổ ra ông ạ. Khi đó đã xế chiều. Mà không phải trong Liên khu Một. Nghe lệnh qua máy bộ đàm xong, Philip bảo tôi: "Pôn! Người ta vừa phát hiện một chiến lũy còn sót lại của *********. Tại chính đường phố của tôi!". Từ ¤ Quan Chưởng, Philip ngoặt xe, thả hết tốc độ, vùn vụt lao về phố Xôlê. Đến đầu phố, xe chúng tôi chạy sau một xe camiông chở đầy lính mũ đỏ. Chiếc Camiông đỗ xịch lại xế cổng nhà tôi. Bọn lính rầm rập nhảy xuống. Trước khi chúng tôi đến đã có một toán ¢u Phi bủa vây ngôi biệt thự. Không phải biệt thự gia đình tôi. Biệt thự nhà Pêguy.
    Từ mé Bờ Hồ, xuôi theo đường Lý Thường Kiệt, một luồng gió mạnh tràn xô tới. Gió mát và rất ẩm. Lá sấu ào ào rụng trút xuống. Tôi muốn báo với xừ Bôn về khả năng sắp sửa có một cơn dông, nhưng mà tôi im lặng.
    - Tên cai bẩm với Philip rằng toán tuần tra của hắn đã phát hiện ********* một cách ngẫu nhiên. Ngang qua cổng nhà này, nom thấy một con mèo nằm khoanh tròn sưởi nắng trên thềm, một tên lính lấy làm lạ, nhà trống chủ mà sao con mèo không bỏ đi hoang, hay là trong nhà có ngườỉ Một mình tên đó xộc vào, lát sau nghe tiếng la, và tên đó không trở ra nữa. Đã hơn hai tiếng đồng hồ rồi, bọn chúng a la xô vào mấy lượt nhưng đều bị những người trong nhà bắn súng ra bắt phải chạy lui. Hai chết, ba bị thương, với tên bị trong nhà nữa là sáu mạng. Tên cai đồ chừng có ít nhất mười ********* đang cố thủ. Hỏa lực của họ rất mạnh, tên cai bẩm thế, nhưng mà tôi lại thấy ngôi nhà rất im lìm. Bọn lính lố nhố ngoài đường và thập thò quanh nhà rất lộ liễu thế mà trong nhà không bắn ra. Khi Philip dụ hàng họ cũng không bắn. Tôi dịch lời Philip, loa gọi oang oang, trong nhà vẫn im. Rất lạ. Sau, tôi mới hiểu: họ đã cạn hết đạn.
    Me xừ cúi đầu xuống, nặng nề rơi sâu vào lặng im. Lặng im rất lâu. Tôi thở dài. Me xừ ngẩng đầu lên, và lại đến lượt ông ta buông tiếng thở dài.
    - Như nãy tôi vừa kể cùng ông, ngay sau đêm đầu nổ súng, đội tự vệ phố tôi bị xẻ đôi. Một nửa gồm có tôi dạt sang trường Bách Nghệ, nửa nữa kẹt lại trong phố. Phố Xôlê, ông thấy đấy nằm xiên giữa toàn các đại lộ rộng thênh. Dọc các đại lộ ấy Tây tập trung binh đội. Thiết giáp, quân lính rầm rộ đêm ngày. Những anh chị em bị hãm lại trong phố không còn ngả nào mà thoát ra nữa. Ra ngả nào cũng đụng Tây. Đành tìm chỗ náu trong tầng hầm các ngôi nhà. Canh khuya họ lần ra tìm đường thoát và lựa cả cơ hội đánh úp Tây... Khi còn đang làm phu đòn dọn xác tôi đã nghe các bạn tù xì xầm kháo nhau là ở khúc phố gần nhà pha Hỏa Lò vẫn có lính Tây bị bắn tỉa, bị đâm, bị đoạt súng. Sau đó lại nghe nói Tây suỵt chó bẹc giê lần theo hơi đã bắt được tất cả những tay súng ********* gan lỳ ấy. Thế mà hóa ra họ vẫn còn đó. Họ đã bị bủa vây. Họ cùng đường. Nhưng mà họ im lìm. Họ không bắn. Hay là họ muốn đầu hàng? Thực vậy, còn gì để bám víu nữa đâu mà không buông súng. "Các bạn đã bị ********* bỏ rơi!", tôi dịch lời Philip. Hai tháng trời khản cổ chiêu hàng chẳng chút kết quả, Philip nôn nóng lập công. Hắn liều mạng thúc xe vào cổng, chõ thẳng loa vào nhà. Ba kẻ: tôi, tên tài xế và Philip ngang nhiên lộ mình trước tầm súng, oang oang dụ hàng mà không bị bắn thì đã rành rành là ********* muốn hàng rồi. "Các bạn hãy bước ra theo hàng dọc, lần lượt từng người một, hai tay đưa cao khỏi đầu. Lấy danh dự một sĩ quan Pháp, tôi cam đoan các bạn sẽ được toàn tính mạng và sẽ được cư xử theo đúng luật quốc tế về tù binh chiến tranh". Ngay cả sau những lời lẽ ngông nghênh đó, chúng tôi cũng không bị bắn. Nhưng, khi Philip nói tiếp. "Các bạn nên biết rằng toàn thể quân đội và chính quyền ********* đã đầu hàng", thì tôi chưa dịch, súng đã nổ. Loạt đạn tiểu liên xé toác miệng cái loa gắn ở đầu xe và phá vỡ kính chắn gió rồi xuyên qua bả vai tên tài xế. Philip nhào khỏi xe tránh đạn. Nhưng tôi thì cứ ngồi ngây cứng ở trên xẹ
    Một làn chớp sáng lòẹ Bầu trời thành phố đang sà xuống. Chuỗi sấm rền vang lăn trên mây.
    - Vâng. Sắp mưa rồi, - xừ Bôn nói, nhưng ông không ngừng câu chuyện lại, vẫn tiếp tục kể - Loạt đạn bắn ra ngắn ngủn. Sau đó tất cả chìm trong tiếng súng của bọn Tây. Mái ngói, tường vôi, cửa kính tóe tang tung vỡ. Tôi nghe Philip quát to lên bảo ngừng bắn, rồi lại nghe hắn gào lên hô a la xô. Bọn lính từ bốn xung quanh nhà rầm rập xông lên. Tịnh không gặp phải một phát súng nào từ trong nhà bắn ra, bọn chúng thả cửa ùa vàọ Philip không xông vào theo, hắn đứng giữa sân, tay chống nạnh. Lát sau, bọn lính trở ra cùng với những tù binh ********* chúng vừa bắt được. Chúng dìu ra cả một thằng Tây bị thương băng quấn quanh đầu. Đấy chính là cái thằng đã vì thấy con mèo xiêm mà xộc vào nhà. Nó chỉ bị ********* đập vào đầu rồi tước súng chứ không bị giết. Còn những tù binh *********, ông ạ, không đông như bọn Tây tưởng. Ông biết không, chỉ vẻn vẹn có ba người. Người đầu tiên bị dong ra là phụ nữ. Một cô gái. Tóc dài xõa tung. Thằng cai bẻ quặt tay cô gái và sấp ngửa xô cô tới trước mặt Philip. Philip quát: Pôn! Hắn gọi tôi tới dịch. Hắn đưa tay nâng cằm cô gái lên hỏi tên, đơn vị của cô. Cô gái lặng thinh, quắc mắt nhìn hắn. Tôi biết cô gái này ở trong tổ cứu thương của đội tự vệ phố tôi, nhưng tôi không biết tên cũng không biết cô ở số nhà nàọ Cô là một nữ sinh, tôi nghĩ thế vì cô còn rất trẻ và biết tiếng Pháp. Khi hai người đồng đội nam của cô bị bọn lính kéo lê từ trong nhà ra, quăng vứt xuống sân, cô giận giữ xô mình tới, lanh lảnh nói to lên bằng tiếng Pháp với Philip: "Các người không được phép đối xử vô nhân đạo với tù binh bị thương!". Philip cười gằn, đưa tay gạt mạnh cô ra. Chậm rãi, hắn bước tới, và cúi nhặt khẩu tiểu liên mà bọn lính vừa vứt xuống bên cạnh hai người tự vệ ********* bị thương đang nằm vật trên nền sân gạch. Số vũ khí chúng thu được chỉ có khẩu tiểu liên đó, rồi một khẩu súng trường đã vỡ báng và một cây mã tấu. Philip tháo băng đạn ra, nhìn. Băng đạn rỗng. Khẩu súng trường cũng rỗng đạn. Philip lại nhấc cây mã tấu lên, huơ huơ. Hắm mỉm cười. Nhưng tôi rùng mình ghê sợ. Tôi lùi lại một bước. Bất đồ Philip ném mạnh cây mã tấu xuống sân. Hắn đi tới bên cô gái, trừng trừng nhìn cô gái và hắn nói thế này, tôi còn nhớ rõ mồn một: "Đất này, nhà này là của tôi, của cha tôi, của em gái tôi, của chúng tôi, người Pháp! Các người muốn cướp nhà cướp đất của chúng tôỉ Xin nói để cô biết: chúng tôi là ông chủ, vì thế chúng tôi chỉ trừng phạt chứ chúng tôi không chiến tranh với nô lệ. Và vì không phải là chiến tranh nên không có tù binh, thưa cô!".
    - Và... - Me xừ ho lên sù sụ - Và, nói đoạn, Philip quay phắt lại, bước xấn đến chỗ hai người bị thương lúc này đang cố đỡ nhau gượng ngồi dậy. Giật khẩu súng sáu ra khỏi bao, chẳng nói chẳng rằng Philip bóp cò, bắn tới tấp vào hai người đó. Tôi, và không chỉ tôi, cả bọn lính trong sân cũng đồng loạt chết sững. Dứt năm phát đạn như sét đánh, không khí lặng như tờ. Rồi thì... rồi thì... ông ạ, một tiếng thét chói lọi, xé ruột, đớn đau ngất trời. Cô gái quẫy mạnh, vùng ra khỏi gọng bàn tay của tên cai, nhanh như cắt, cô nhào tới, chụp lấy cây mã tấu, uốn mình cô vung mã tấu lên. Nhưng... Philip nhanh hơn, vừa nghiêng người tránh được nhát chém hắn vừa xiết cò bắn nốt viên đạn còn lại. Cô gái xiêu người. Cây mã tấu chém hụt xuống nền gạch. Lưỡi thép tóe lửa. Tôi thấy tên cai giật súng ra khỏi vai. Nhiều tên khác nữa cũng đã kịp tỉnh hồn, nhất loạt chúng đưa súng lên. Ngay lập tức, ông ạ, tôi vùng chạy. Tôi lao ra ngoài đường, tôi xô cả vào mấy tên lê dương. Không ai cản tôi, không ai quát tôi đứng lại. Có quát, tôi cũng không nghe thấy. Tiếng súng rồ lên trong sân, vang dội, rung giật, choán lấp không gian. Tôi chạy, chạy, chạy. Trong đầu lóe lửa, quay cuồng tiếng nổ của cuộc hành quyết man rợ. Tôi kiệt lực, gục ngã; lịm đi trong một cái ngõ lầy bùn ở mãi tận gần Hàng Cỏ. Tôi tỉnh dậy, tôi lê mình đi trên những dọc phố không người. Nước mắt tôi đầm đìa... Tôi là một thường dân, ông ạ. Một thường dân kém cỏi, hèn yếu nhưng tôi không ngờ, tôi không hiểu, tôi không lường nổi sự dã man và sự hèn hạ đến nhường ấy của bọn nhà binh thực dân. Nhiều tháng, nhiều năm sau đấy cảnh tượng xảy ra trên sân nhà Pêguy vẫn kẹp chặt tâm trí tôi. Nỗi đau thương khiến tôi không thốt nổi nên lời.
    Lovetolive[/size=18]
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bảo Ninh
    Tiếng Vĩ Cầm Của Quân Xâm Lăng ( IV )
    Tôi sống chui nhủi ở Trại Găng suốt thời tạm chiếm, làm đủ nghề cực nhọc để sinh nhai. Tôi yếu hèn, tôi yếm thế, tôi không có gan lần lối ra vùng tự do, nhưng tôi không thể cam tâm một lần nữa đầu Tây. Tôi cũng phải dứt lòng đoạn tuyệt với những người thân yêu của tôi. Biết làm sao được, tôi yêu quý họ nhưng họ theo Tây. Cả nhà tôi hồi cư ngay trong mùa xuân năm 47. Cha tôi và các anh tôi được Tây trọng dụng còn hơn thuở trước. Tôi biết là họ đã ra công tìm kiếm tôi và tôi cũng muốn về với họ lắm, nhưng tôi không thể. Một lần, mùa thu năm 47, vào buổi cuối chiều, cầm lòng không đậu, sụp nón xuống che mặt, tôi liều lần về, đi dọc theo phố Xôlê. Nhà tôi, trong nhà ngoài vườn chưa tối đã đèn điện sáng trưng. Tôi nom thấy có chiếc xe hơi đỗ trong sân. Nom thấy cả một con bẹc giê đang ***g lộn dọc hàng rào sắt. Trên ban công một lá cờ tam tài đang phần phật tung bay trong gió. Bên nhà Pêguy thì dường như vẫn chẳng khác xưa, cũ kỹ, rêu mốc, kín cổng cao tường. Những chứng tích của cuộc chạm súng và vụ tàn sát thì hẳn rằng không còn dấu vết. Tôi nghe gió dài lùa dọc phố, lá bằng lăng tơi tả rụng. Tôi chậm bước lại. Và ông ạ, hỡi ôi, tôi lại nghe thấy tiếng vĩ cầm cất lên, than vãn, buồn bã, vẳng ra. Như vậy có nghĩa Xôphi đã trở về với ngôi nhà thơ ấu của cô. Tôi có thể hình dung thấy cô như ngay trước mắt mình. Cô thiếu nữ người Pháp xinh đẹp, dịu hiền với đôi mắt mù sáng trong. Nhưng tôi lập tức bước gấp, như chạy, tôi bịt tai. Từ đó cho đến tháng Mười năm 54, tôi cắn răng tránh xa con đường thân thuộc ấy. Tôi không muốn nhìn thấy, tôi không muốn nghe thấy. Tiếng đàn tuyệt diệu ấy không thể nào tôi chịu nổi. Đấy là tiếng vĩ cầm của quân xâm lược, sự thật là như vậy, làm sao nghĩ cho khác được hả nhà văn...
    Mưa như thác đổ rồi có phần ngớt đi nhưng sấm sét vẫn nhoàng nhoàng. Tôi chưa dám rời chỗ trú bên hông Tòa án nhưng ông già thì đã đội mưa đi rồi. Tôi đang nhìn qua mưa và nghe ông nói. Không nghe ông nói nữa, nhìn sang thì ra ông đã lẳng lặng bỏ đi khi nào, ông không cả chào tôi. Tôi nhớ trước khi lặn biến vào mưa ông đang kể chuyện hồi năm 72, lúc bọn Mỹ ném bom tòa đại sứ quán Pháp, ông đang núp trong căn hầm gần đó. Ông đã cùng mọi người xông vào cứu sập. "Tôi thấy ông Đại sứ được moi ra từ đống gạch vỡ. Máu mê bê bết, ông ấy đã chết rồi".
    - Sau vụ ấy, tôi cứ tự hỏi liệu tôi có thể tha thứ cho nước Pháp hay không? Thời gian, năm tháng, gạch nát, ngói vụn, mạng người rớt xuống bao nhiêu thì đủ san bằng những hố sâu chết chóc và tai họa mà nước Pháp thực dân suốt một trăm năm xâm lược đã từng gây ra cho đất nước này?
    Ông hỏi vậy rồi ông biến đi. Dưới những lần chớp tôi dõi sâu vào màn mưa. Chẳng thấy bóng ông già đâu. Nhưng thoảng trong làn gió ướt rượt, nghe như có tiếng ai đó huýt sáo khe khẽ theo giai điệu một bài hát. Đời tôi có hai mối tình. Quê hương tôi và Pari.
    Bảo Ninh
    Tên khai sinh: Hoàng ấu Phương, sinh ngày 18-10-1952 tại Diễn Châu, Nghê. An. Quê quán: xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình. Hiện nay ở Hà Nội. Tốt nghiệp đại học. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997).
    Từ năm 1969 đến 1975: nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên; năm 1975 giải ngũ, học đại học tại Hà Nội (1976-1981). Sau đó làm việc tại Viện Khoa học Việt Nam. Từ năm 1984 đến 1986 học khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du. Hiện nay công tác tại báo Diễn đàn Văn nghê. Việt Nam và Văn nghê. Trẻ.
    Tác phẩm đã xuất bản: Trại bảy chú lùn (truyện ngắn, 1987); Thân phận của tình yêu (tiểu thuyết, 1991, tái bản có tên là Nỗi buồn chiến tranh).
    - Nhà văn đã được nhận Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 với tiểu thuyết Thân phận của tình yêu
    Lovetolive[/size=18]
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lý Biên Cương
    Mười Hai Cửa Bể ( I )
    Người con gái hỏi, như mọi cô gái trên đời vẫn hỏi:
    - Vì sao anh yêu em?
    Người con trai đáp nước đôi:
    - Vì trời!
    Rồi quay đi, cắm cúi dầm mình xuống dòng nước đang dâng. Hàng đang cắm cúi khẽ rùng rùng lay, trong tiếng óc ách lạ kỳ của sóng và của gió. Cô gái nguýt nguẩy ********, lội ỳ oàm ra mé cát sâu. Cô không giận anh, nhưng cô chưa vừa ý với câu trả lời. Hình như chẳng bao giờ anh ấy nói thẳng tình cảm cho mình biết. Anh ấy lúc nào mà chẳng lửng lơ!
    Cô gái nhầm, anh đã nói đúng "Vì trời", thật sự vậy. Nếu trời không nổi cơn bão bất ngờ, nếu tàu anh không bị đắm, thì lúc này không biết anh đang trôi dạt phương nào. Người ta ngỡ đã toan tính kỹ những con nước, những đận gió, thậm trí cả từng độ mưa,
    người ta vẫn không dè tai nạn. Tàu anh bị quật đổ ngay sau hai ngày rời đất liền. Sóng gầm thét, phả lưỡi nước quằn quại, lật dúi dụi con tàu bé bỏng xuống lòng biển. Thuỷ thủ và những người đi theo hét thất thanh, mặt mày méo xệch, xô đẩy nhau, cuống cuồng tìm lối sống. Những người ấy ai còn ai mất, anh không rõ. Chỉ mỗi anh biết mình quật ngã lưới hái thần chết nhờ một dẻo phao. Anh ngất lịm đi, trong tiếng gầm gào man dại của biển nước, của giật gió. Khi tỉnh dậy, anh ngơ ngác thấy mình nằm lọt trong một khoang thuyền nhỏ và tiếng cô gái reo lên ngàn ngạt:
    - Bố ơi! anh ấy sống rồi!
    "Giá mình chết hẳn lại hơn", ý nghĩ đầu tiên bỗng dồn đến, trong lúc trán anh vẫn hâm hấp nóng. Anh đã liều mình, dứt bỏ hết thảy, để ra đi. Vĩnh biệt cái phố chật chội, hôi hám, đầy ắp tiếng người, náo nhiệt từ sáng tới khuya. Lòng đường nông hoen hoẻn, người ta họp chợ tràn cả ra mặt hè, đủ thứ thập cẩm, đủ thứ bùn đất, phân chó, phân lợn, phân gà... Nhiều lúc đau đầu quá, anh mở cửa muốn thở hít một ít khí trời, lại phải vội vã đóng sập. Chưa kể tiếng đài nhà hàng thay nhau gầm rú(dạo này mọc đến lắm biển nhà hàng), tiếng gõ thùng chan chát của mấy lão điếc gò tôn, tiếng chửi nhau xoa xoả của mấy mẹ phò phạch, tiếng hò hét không hiểu đầu cua tai nheo vì sao ở góc chợ... Anh ngỡ phát điên, gieo mình xuống chiếc đệm giường lò xo, ôm đầu. Thì trời ơi, đầu anh còn o o hơn, những tiếng động phía ngoài như nhân lên gấp bội và bây giờ đến chính những người trong nhà hành hạ anh. Ông bố lừ mắt đứa con lớn, đôi mắt híp háy ẩn dưới hàng túi thịt trên mặt. Ông ca lại bài ca đạo đức muôn thuở, rằng ông hy vọng ở tương lại con, đứa con biết lợi dụng thời thế làm chỗ dựa cho mọi người trong gia đình; ông không ngờ con lại hoá ra vô tích sự đến mức này, miếng ăn đến miệng lại còn bị kẻ khác cướp lấy. Ông ngồi chéo kheo trong ghế bành, mặt dại đờ trước những cảnh ******** phim con heo chiếu trên màn hình video, miệng vẫn leo lẻo rủa xả. Bà mẹ dạo này quá lắm, động cỡn đồng bóng, suốt ngày ẻo lả đền nọ, phủ kia. Về tới nhà, y như bật cát
    xét, tiếng cung văn hát lời lỡi, tiếng con nhang đệ tử nỉ non đến khó chịu. Bọn con gái thi nhau tập nhẩy, nhảy một mình, nhẩy với nhau, nhẩy với bạn... Buồn hơn nữa, anh lại vừa xổng mất người tình. Cô nàng đâm bổ vào anh như thiêu thân, lại đâm bổ rời anh như nước rút. Cô nàng say anh điếu đổ và anh cũng say nàng đứ đừ. Tiền của trút vào mối tình hoang như gió lốc, nàng dạy anh đủ mẹo ********(giá có kể cũng chẳng dám nói hết). Nói chung anh chết vì nàng, không ngờ lại bị"nốc ao". Anh không tin, xưa nay chỉ có con gái nốc ao vì anh, chứ anh thì... Phố xá, cuộc sống phố xá ầm ào đến tắt thở và giả dối, cả hai đều hiểu bụng nhau, cả hai phải biết làm gì trong phi vụ này. Anh khoắng được một mẻ vàng và xuống tàu. Vĩnh biệt phố vĩnh biệt cảng... Một đi, ngỡ không trở lại!
    - Bố ơi, anh ấy sống rồi!
    Lại tiếng một người con gái, nhưng không phải tiếng những cô gái mà anh từng biết. Lảnh lói, rắn rỏi, ngang ngang như tiếng đàn ông. Cô gái nào thế này? Mình đang ở đâu thế này?
    Những ngày sau, tỉnh hẳn, anh biết mình dạt đến một mép đảo sú, được bố con ông dân chài biển cứu chữa. Thoát chết, nhưng lạc vào một khung cảnh hoàn toàn khác. Bát ngát những trời với trời, những nước với nước. Đảo đá úp sau lưng, nhưng các dẻo cát lại mêng mông trước mặt. Không một bóng thuyền, không cả một bóng chim. Ông già lôi đứa con gái đi đâu suốt ngày, cơm nấu phần anh trong một hẻo hang và khi thuyền về thì hầu như trời đã nhọ sẫm. Ông già lầm lũi vá lưới, ít bắt chuyện với người khách bị nạn, thi thoảng đưa mắt nhìn đứa con gái đang cặp cá nướng. Lần đầu, anh biết âm hưởng cá nướng. Những con cá tươi rói, xiên cặp ngang thân miệng còn ngom ngóp thở, mình đã quằn quại trên dàn lửa. Củi sú đùng đùng cháy, màu lửa vàng nhoè những cuộn lớn nhỏ, đẩy mùi ngậy khét cá nướng đến tắc mũi. Cô gái thuần thục từng động tác, luôn tay đảo tròn xiên cá, con nào con nấy vàng ửng chín dần, xèo xèo chảy mỡ. Trong ánh lửa, trông cô thật lạ, thật ngộ, đẹp sáng từng lúc và phía gò mà bị lửa táp vàng rộ hơn, xinh xẻo hơn. Một cô gái khoẻ mạnh, đầy tính biển, anh chợt nghĩ. Cô gái gỡ ra miếng cá nướng còn nghi ngút nóng:
    - Anh nếm thử xem?
    Anh ăn, công nhận ngon nhất trần đời, không hiểu vì lạ miêng hay vì tình người ở cô? Cô ríu rít giọng vẫn ngang rè:
    - Anh không còn nhớ vì sao bị đắm tàu à? Anh không thích trở về đất liền nữa à? Phải anh người phố xá, người buôn bán?
    Anh lắc đầu, miếng cá nướng nóng ran đầu lưỡi. Cô gái chả hiểu anh lắc đầu vì câu hỏi nào, ánh lửa vẫn chan hoà gò má mình:
    - Hôm nào anh thật khoẻ, em sẽ chở anh vào đất liền. Anh phải về cho gia đình mừng. Bố mẹ anh chừ phải khóc hết nước mắt.
    "Bố mẹ anh chẳng hoài hơi khóc anh đâu" - anh toan nói to cho cô biết. Bố anh bảo" thế này con ạ, tao trót đã lấy của tập thể một số tiền lớn. Mày hãy cứu tao, báo đáp cái công lao nuôi dạy mày mấy chục năm, mày hãy đi đi, đi càng xa càng tốt. Tao sẽ vu là mày, chứ không phải tao, lấy số tiền ấy. Vả lại tao cũng biết mày không thích sống ở đây, mày đang bức bối". Mẹ anh dỗ dành:" mẹ vừa xin quẻ ở đền Yên cho anh, thánh phán anh sẽ lập nghiệp mãi xa, anh ở nhà ngày nào ngứa mắt mẹ ngày ấy". Rõ rồi, hai ông bà đều muốn anh đi khuất, họ đang chạy cho thân xác họ. Ôi chao, họ còn đâu nước mắt khóc kẻ ăn không ngồi rồi.
    - Với lại còn chị nữa chứ, anh không thích về với chị à?
    - Chị nào?
    Cô gái bẽn lẽn, tiếng cười ngộc nghệch:
    - Vợ anh chứ chị nào? Này, hôm vớt anh lên, bố con em đếm trong người anh được mười hai thỏi vàng. Anh đem vàng đi đâu mà nhiều vậy?
    - Đi cầu vợ. - Anh đùa. - Sẽ đến đúng mười hai cửa bể, mỗi cửa cúng một thỏi, biết đâu chẳng được một người.
    Cô gái liếc anh, mủm mỉm. Cái anh chàng dở hơi này, hoạ điên mới đem vàng thả xuống nước. Trong trái tim cô, bỗng rung lên dự cảm rất lạ, xưa nay cô chưa từng gặp. Hoá ra anh chàng chưa lập gia thất? Trời, nom anh rắn chắc và đẹp trai nhường kia. Phải
    chi... và lập tức cô vội gạt một ý nghĩ chớp loé vừa đến, quay mặt giấu đi nỗi lúng túng không đâu.
    Phải, anh chưa có vợ, nhưng đã yêu, yêu nhiều, cô nàng vừa bỏ không biết thứ bao nhiêu. Thoạt đầu, trớ trêu thay, lại gặp một con bớp, bớp ra bớp. Trai tân, lớ ngó sao vớ phải cô gáibán hoa. anh cứu cô ta thoát khỏi bọn đưa người ở vườn hoa đầu cảng, đầu anh đầy máu và cô ta run lẩy bẩy băng bó cho anh. "Em ở đâu, anh đưa về", " Em không có nhà, em bị lạc đến đây! " Sau này anh mới hay cô ta nói dối, nhưng cái miệng thì ngây thơ quá đỗi, con nhà lành quá đỗi. Anh xúc động đưa cô về nhà mình chuyên hầu mẹ lên đồng. Tối tối, nhà vắng, cô ta bình thản hiến thân cho anh. "Sao, em không còn trinh trắng nữa hả?" " Hỏi kỳ quá, em thương anh mà, anh không mê em thì thôi". Cô ta trộm của mẹ anh sợi dây chuyền năm chỉ, biến không để lại tăm hơi. Một nhé, bị lừa nhé, tỉnh đòn ra chưa? Cô thứ hai chẳng đâu xa, ở trước cửa nhà anh, bên kia đường. Suốt ngày dúi đầu đọc sách, những tiểu thuyết yêu đương rẻ tiền bày cho thuê nhan nhản ở các hiệu sách tư. Cô bé nháy mắt gọi anh. Thoắt cái, anh đã lọt vào mê cung nọ, anh để mặc cô tự do thể nghiệm mọi thứ trên thân thể mình, cô coi anh như một chú búp bê. Cô bé ngúng ngẩy, buông lửng:"Này ông tướng, tháng này tôi bị chậm kinh mất rồi!" Anh hốt hoảng tái mặt. Cô bé lệnh:"Về lấy xe máy sang đây, nhanh lên!" Anh lai cô vù vù ra mãi ngoại thành, ở đấy có một nhà phụ sản và phải chờ cô mất đúng nửa tiếng."Xong rồi. - Cô bé ra, mặt tươi hớn hở. - Hút kinh thôi, hơi rát một tý thôi. Anh mạnh thật đấy, không đùa được. Gút- bai nhé!". Chả lẽ cuộc sống hệ trọng đời người chỉ
    giải quyết chóng vánh có mấy khoảnh khắc? Cô bé gặp anh lại cười cười như không có chuyện gì xảy ra, như chưa bao giờ thân với riêng anh. Hai là thế. Còn ba, ba thì khác hẳn. Phải gọi"chị" mới đúng, hơn anh đến nửa giáp tuổi. Chị ta lừa anh, bắt bồ với bố anh và không hiểu sao, lại quay ngoắt sang anh. Anh tháp tùng bố đến nghỉ ở một khách sạn ven biển, gặp chị ta trước sân phòng bố mình. Khi ông bố đi công chuyện, chị ta ngang nhiên gọi anh lại, môi mọng thấm son, nỉ non như hát: "Mình à, tôi cho không mình đấy, tôi thích chất trai tơ của mình". Anh tặc lưỡi, dâng hiến tất tật cho quỷ thần. Phải đến lần này, anh mới biết sức mạnh của tình tọt, của đàn bà loạn luân, của chính trái tim anh. Anh bỗng da diết nhớ chị, nhớ như muốn xé trời xanh trăm mảnh, cốt gặp mặt nhau một thoáng cho hả. Bố anh phát hiện ra, tặng anh một trận đòn mê tơi, còn chị thì tớp cánh, mất hút con mẹ vịt giời. Riêng những cảm xúc man dại của kẻ tình cao thủ truyền cho thì anh khó quên, dày vò anh nhiều đêm. Đến nỗi đi đường, hễ gặp ả nào son phấn đánh đậm, người anh bỗng dưng nổi cộm da gà.
    Còn bốn, còn năm, còn sáu...
    Ông bố lừ đừ đến góc hang đá, mang tới gói bọc vải đen:
    - Của anh đấy. Trả lại anh!
    Anh kêu, xua như xua tà:
    - Xin kính biếu bố con bác. Tôi lấy cái của nợ này làm gì. Đời tôi có cần gì nó đâu.
    - Thế thì tôi xin anh một thỏi, một thỏi thôi! Cảm ơn anh đã cứu bố con tôi!
    Anh ngơ ngác, đưa mắt hỏi:
    - Nhà ta đang gặp chuyện dữ hả?
    Ông bố lặng lẽ quay đi. Cô con gái khẽ bưng miệng cười, lúng liếng đôi mắt đẹp:
    - Bí mật! Rồi anh sẽ biết, tò mò chóng già đấy!
    Anh sống với bố con cô gái ấy chẵn hai tuần trăng. Với người thành phố như anh, quanh năm hầu như không biết trăng là gì, những ngày qua coi như vô giá, như vàng ròng bất ngờ thấy. anh theo cô ra bãi cắm đăng, bồn chồn như tâm trạng đứa trẻ nít, cái gì cũng thích, cũng ngỡ ngàng. Trước hết là bãi bùn cát, một bãi bao la, loáng thoáng sú vẹt mọc xanh sẫm. Mỗi ngày, thuỷ triều lên xuống theo con nước, theo độ quay của trăng tròn khuyết. Cô gái dắt anh lội băng băng giữa dòng nước rút, nước cuộn ngầu bọt, va đập liên hồi vào các rễ còng queo sú vẹt trước mặt. Neo con thuyền vào chân cột đăng, anh ào xuống bãi, nước ngập ngang ngực, chân lùa trong cát nặng. Cô gái cũng ướt đẫm
    ngực, tay thoăn thoắt thả lưới, miệng không ngớt giục anh làm theo. Cô gái đang sung sướng, đang được chỉ huy một người đàn ông, một chàng trai. Cô khoả người trong nước biển, tóc tai ướt đẫm, mặt mày ròng ròng từng vệt nước chảy. Cô hồn nhiên cười nói giữa biển khơi, lắng nghe chân mình con sóng quây tròn, lắng nghe tim mình thổn thức đập. Cảm ơn trời đất đã đưa anh đến với cô, một chàng trai tuyệt hảo, một chàng trai như từ dưới đáy biển nhô lên và cô tự hào mình như nàng tiên cá cứu sống chàng hoàng tử bất hạnh. Mặc nhiên để nước dính bó sát người, cô hoan hỉ lắng đợi con nước rút dần, cho đến khi bãi cá phơi lộ từng nấc giữa trùng điệp sóng gió. Nhiều lần, cô nằm soãi trên cát, mặc những lạch nước róc rách bên tóc, mặc những chú cá rạch bùn cố sống chết lách ra chân sóng... Anh biết cô đang hạnh phúc, bởi bỗng dưng có anh, bỗng dưng được vòi vĩnh, được khoe khoang, được đùa bỡn. Anh thích cô, thích bãi nổi. Thiên nhiên phú cho vùng hẻo lánh này một bãi kỳ lạ, nước rút tới đâu, bãi hiện tới đấy, cá tôm nhao nhác phơi mình, bùn cát tanh mặn vị riêng của biển, của sản vật. Lần đầu tiên anh tận mắt cảnh những đồi sam dính bết; những con cua bể ấp rễ cây lột vỏ, mình mẩy bấy mềm; những con tôm he trong vắt màu nước, búng càng tanh tách; những loài cá khác nhau ùa tới chân đăng, đuôi quẫy loạn xạ... Anh như mê đi, chạy tung tăng trên cát ướt, không biết bắt thứ cá nào, bỏ đặc sản nào. Anh đắm chìm trong hơi thở mặn mòi của biển, ngắm không rời những vệt nước rặc, những mỏm cây nhô dần trên màu nước trắng xoá, những lạch cát trăm màu hiện dưới ánh sáng trời. Và trăng, trăng lưỡi liềm móc vào chóp đảo đá, trăng nửa vầng lách chòm sú nhô ra, trăng tròn vành vạnh rắc vàng nơi biển vắng. ánh trăng ngời ngời mắt cô gái, lấp loá những tình cảm không còn giấu kín, chỉ cần anh với tay, chỉ cần anh nói ra...
    Người đi muôn dặm cũng đành
    Sao còn bỏ lại mối tình chăng tơ.

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 19:53 ngày 24/08/2003
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lý Biên Cương
    Mười Hai Cửa Bể ( II )
    Một đêm kia anh theo cô ra bãi. Ông bố biết lòng dạ con gái, nhưng ý nhị không nỡ ngăn. Bãi đang rút nước và trăng cũng vằng vặc gieo ánh vàng lấp lánh ngấn sóng. Cô gái lội oà oà, tay đập sóng tung toé và cười lanh lảnh, giọng khản:
    - Em đưa anh thăm chỗ này nhé!
    "Chỗ này" là một mô đất cao, khuất sau lùm sú rậm. Cô đắp tự bao giờ, sao bỗng dưng giữa mênh mông phẳng lì cát chảy, lại lù lù mọc cao mô đất ấy? Cô kéo anh lên mô, bàn chân anh đang buốt nhức vì cá ngầu đánh, máu râm rỉ chảy. Cô hổn hển bên tai:
    - Anh xem, trăng từ lòng biển mọc lên này!
    Theo tay cô chỉ, anh ngoắt người nhìn, va mạnh vào bả vai cô. Anh ôm chầm thân thể cô ướt đẫm, nghe rõ qua làn áo ướt, tiếng tim cô đập loạn và đôi vú rắn đanh đâm vào ngực mình. Cô gái trừng đôi mắt dại đờ, nhoài mạnh khỏi vòng tay anh, lội ào ào ra phía biển. Anh cũng lội oàm oặm theo, càng đuổi càng lún sâu trong làn nước chảy xiết. Sắp uống sặc nước vì đuối chân, anh mới túm được cô và cả hai như cá quần nhau giữa sóng ruổi. Anh hôn cô, hôn ngay trong làn nước mặn chát ở môi, ở tóc, ở mặt, ở cổ. Cả đời chưa bao giờ được hôn trong khung cảnh kỳ lạ này, giữa dòng nước rút. Cô gái biển rắn rỏi, giang đôi tay cứng như thép ghì chặt anh vào người mình, giọng gầm đục:
    - Em yêu anh!
    - Anh cũng yêu em!
    Tiếng anh lọt thỏm giữa ***g lộng trời nước, như hư như thực. Anh nâng mặt cô gái, ngạc nhiên thấy một mảnh vầng trăng dát ngay bên gò má cô, như hôm nào lửa cũng rát vàng chỗ ấy, bữa nưỡng cá. Anh quay mặt đi, lạ chưa, không hề nghĩ trước, anh bỗng nghe bên mình hơi thở một người con gái khác, người hơn anh nửa giáp tuổi, gọi anh là"mình". Chính cái hồi hộp của cô gái biển đánh thức anh nhớ tới chị ta, như hai tiếng"nai tơ" chị ta tặng anh, anh ngoái nhìn cô gái cũng"nai tơ" như thế. Anh vội vàng lùi lại, cảm giác mình mắc lỗi lớn, mình không xứng đáng, không được quyền chạm tới sự trinh bạch cao quý, một bản năng đáng được tôn thờ. Anh lắp bắp:
    - Em tha lỗi cho anh!
    Cô nói như khóc:
    - Sao anh kỳ vậy? Em không đáng để anh yêu? Em không phải là một cô gái?
    Anh ghì cô lần nữa, bế cô đặt lên mô đất sau lùm sú. Cô gái ướt đẫm ánh trăng, đôi mắt như được viền thêm lớp vẩy vàng. Cô thổn thức kể huyên thuyên đủ chuyện. Chuyện bố cô, anh có biết vì sao bố bảo anh"anh đã cứu bố con tôi", em lại bảo" bí mật"? Chuyện
    cô lần đầu được hôn, "em cứ nghĩ ngạt thở chết mất, hoá không nhỉ". Chuyện làng quê cô, "ở gần đây thôi, nửa ngày thuyền là tới, vùng đảo sau vòng đê to lấn biển". Cô kêu nhỏ: "Sắp tới bố con em sẽ đưa anh về quê, nhà em đang có một sự kiện trọng đại, thật sự trọng đại. Bọn bạn gái em chúng nghịch đùa như quỷ, anh đừng ngại. Đã có em, anh khỏi sợ gì hết, em chấp chúng cả hai tay".
    Linh cảm thấy điều gì mơ hồ đang tới, anh gỡ nhẹ đầu cô khỏi vai mình. Thiêng liêng như một tín đồ chịu lỗi trước mọi trong sạch của nhiên nhiên và của cô gái, anh quỳ xuống, đầu gối chạm bùn, mặt ấp vào ngực cô, tìm ở đấy nỗi niềm sâu lắng lạ thường.
    Đêm ấy, chỉ vầng trăng tròn như chiếc mâm vàng là chứng kiến một mối tình, chứng kiến riêng tấm lòng anh. Anh thề chưa hề đi quá, dù cô sẵn sàng hiến dâng và anh cũng rất dễ không kìm nổi mình...
    Đúng như lời hứa, bố con cô gái đưa anh về làng quê họ. Bấy giờ anh mới hay gặp may mức nào, nếu như bố con cô không vì lệ làng phải lần mò ngụ cư ra bãi mấy tháng. Bà của cô, mẹ đẻ bố cô, ra riêng thượng thọ tám mươi tuổi. Tục làng, những người thượng thọ được rước sống lên miếu, con cái sụp lạy và cả họ súm vào cỗ bàn cho đáng mặt với thiên hạ. Bố cô, con trưởng, phải đứng ra lo toan tất tật, vài chục mâm mời họ, mấy triệu bạc rước sách. Lấy đâu ra tiền? Hai bố con bàn nhau quyết chí trèo thuyền ra bãi nổi kiếm ăn, mỗi ngày nhặt một ít tiền. Đi, bao giờ xu hào nặng bị, mới hòng vác mặt về.
    Anh ngơ ngác trước một làng quê khác mọi làng quê anh từng gặp. Làng cô, rặng dừa chạy dài ven đường, khoe những chùm quả bé xíu như chùm cau. Làng lưa thưa tre pheo, lối vào các xóm ngõ hun hút gió, vỏ hà vỏ hến ngang ngửa khắp. Một làng đậm vị mặn tanh gió biển, hơi hướng đồng bằng không thấy đâu, ruộng lúa cũng xanh chẽo chợt, nom thật tội. Nấp sau dáng vẻ nửa quê nửa tỉnh ấy là những ngôi nhà gạch xấu xí, những nhà thợ họ đen xỉn màu ngói, nghe đâu được dựng từ thế kỷ nảo nào xưa lắm . Có lẽ đây là vùng quê cũ nhất đất nước mình, còn đậm phong vị văn hoá cổ, người sống được con cháu tế lễ tại chỗ, chúc tụng, ran ran pháo đốt. Bố cô gái về làng lập tức đóng áo lương, khăn xếp, quỳ lạy người mẹ tám mươi tuổi, người mẹ ngồi lọt trong chiếc ghế
    lót vải con công, đeo chữ thọ vẽ hoa trước ngực. Bà cụ mệt mỏi và xúc động, thờ thẫn ngửa tay nhận phước con cháu đễn mừng chai rượu, nải chuối tấm vải, sấp tiền mới cứng. Bà lẩm bẩm: "Cảm ơn các con, các cháu. Cảm ơn các chư vị quan khách. Cảm ơn bố cái đĩ".
    Ông bố trịnh trọng chắp tay cúi đầu lạy tạ mọi người đến chúc thọ. Ông đang trong tâm trạng hả hê, hãnh diện với xóm làng, bởi chạy được tiền lo cho đám thọ mẹ trọng vọng, đầy đủ. Ông mấy lần gật đầu liếc anh đang loanh quoanh góc nhà, bên cô gái rượu tấp
    tểnh tập nhai trầu và trang điểm son phấn. Pháo liên tiếp nổ giòn, khói pháo trắng loá quẩn đặc vườn táo. Sáng sớm đám rước cụ bà lên miếu bắt đầu. Các cô gái tân, áo dài, quần lĩnh, đội những mâm ngũ quả, bánh dày, táo, cam, đầu lợn luộc cắm bông hoa cúc đỏ... mở đường. Tám cô khác vác bộ bát bảo sơn son thiếp vàng đi trước bàn thờ họ nghi ngút hương trầm. Cô nào cũng xinh tươi, mỡ màng như trong tranh bước ra; cô gái của anh đi bên, bưng tráp trầu têm sẵn đon đả mời dân xóm. Bà của cô được khênh trong chiếc võng điều, trên đầu che chiếc lọng vàng rủ những gù mới toanh. Đằng sau lớp lớp con cháu, họ hàng nối đuôi rồng rắn tới nửa cây số. Miếu ngập những người, bốn mươi bảy cụ trong vùng đúng tám mươi tuổi được linh đình rước tới, các đợt tế lễ tiên tổ ngập lụt trong khói hương. Cô gái mời trầu xong, tìm tới anh đi rốt cùng:
    - Anh chờ em ngoài chỗ kia. Em phải vào nhận phúc bà em đã!
    Anh thơ thẩn ra đám trai gái đang rún đu. Một ngày hội đáng kính nể. Các dòng họ đang phô trương thế lực. "Anh cứu bố con tôi!". à ra vậy. Đằng sau những đám rước là những chuyện khác, chuyện sống còn của những dòng họ lớn nhỏ. Anh quả đã giúp bố con cô gái một chuyện hệ trọng thật. Anh đã lạc vào một cuộc sống khác, một tầng văn hoá khác, liệu có dễ hoà nhập, dễ cộng đồng?
    - Chào mình, sao mình lại ở đây?
    Anh giật thót, quay đầu vội. Chết chưa, chị ta, chị hơn tuổi anh nửa giáp, vẫn gọi anh "nai tơ". Chị vận quần lĩnh, áo dài tím, đầu quấn khăn hoàng hậu, môi đẫm son tía, riêng cái điểm môi đậm thì không trộn lẫn ai. Chị vượt qua hàng rào người, kéo anh đứng lui dưới gốc đa, mừng rỡ cướp lời:
    - Đám rước họ ông chú tôi đó, mình phụ đám ai vậy? Sau cái đận ông bô gây sự đánh mình, tôi giận quá, phăng teo luôn. Tôi nghe tin mình trốn lủi nước ngoài nước trong kia mà! Chú nai tơ của tôi, nhớ quá đi mất!
    Rồi không cả cho anh phân trần, chị ta ném con mắt sắc lẻm vào mặt anh, cong vêu làn môi đỏ sẫm toàn son:
    - Bây giờ thì tôi bắt được mình rồi, tôi sẽ ăn gỏi mình, sẽ không tha mình nữa. Sang phố huyện ở với tôi, vợ chồng ta sinh cơ lập nghiệp lại từ đầu. Mặc xác rước sách, đi theo tôi ngay, xe ôm đâu?
    Như cái máy, như người say rượu lú lẫn, anh tót lên xe, ôm ngang lưng chị. Quên hết thảy, không còn nhớ ai hết, chỉ biết trước mặt anh là chị, một sức hút oái oăm, những chiều chuộng tình tang, những ái ân bốc lửa... Sao vậy nhỉ? Sao con người anh bỗng chốc phản trắc lạ lùng, hăm hở lao sầm vào quầng bụi không đâu của ngang trái vất vưởng? Những tưởng một cuộc sống khác sẽ phù phép, sẽ hoá thân con người anh, ngờ đâu... Thơm quá, người đàn bà ngồi phía trước sực nức thơm, nước hoa ư, da thịt ư, hay
    cuộc đời quá từng trải của chị đang phả tới? Anh nhắm mắt lại, khẽ dúi mái đầu sương gió vào cổ chị và lạ chưa, ngay trên xe ôm nhảy xóc giữa đường làng sống trâu, chị ta lanh lẹ quay đầu, đẩy đôi môi sẫm son vào môi anh, hôn đắm đuối, bất chấp những con
    mắt thiên hạ tròn vo ngạc nhiên, bất chấp thanh thiên bạch nhật...
    Nghe đồn cô gái nọ rẽ người đến đám đu, thấy mất anh thì ***g lên tìm. Cô nháo về nhà, hỏi ai cũng không biết anh đâu, lục tới gói vàng vẫn nguyên mười một thỏi. Mấy ngày liền, mất ăn mất ngủ, cô thẫn thờ bờ đê mỗi mình, cười đấy , khóc đấy, lặn lội trên
    bùn, trên cỏ. Không ai dỗ cô nguôi được, kể cả ông bố. Cô bện hoa sú thành vòng tết tròn quanh tóc, mắt dại đờ, hướng về phía bãi nổi xa xa, hát khản giọng đàn ông:
    Mười hai cửa bể anh đã cắm đăng
    Cửa nào lắm cá anh quăng mình vào...
    Người đi muôn dặm cũng đành
    Sao còn bỏ lại mối tình chăng tơ.
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Thanh Hà
    Miền Cỏ Hoang
    Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà con cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ, ươm cây. Bà bảo các thứ rau này đừng nghĩ nó dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "aIn cho nó mái", nhưng đến bữa cả nhà ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy. Hơi nóng sốt một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền nấu canh, cô Sửu mới khen ngon.
    Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên làng hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Kông. Sán sau ra vườn, thấy đất bị giẵm đạp vô số dấu giày, rau cỏ nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà xot'' ruột, chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó rau, lụi hụi trồng lại cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc bà nghỉ cho khỏe, việc gì phải đất với cỏ". Bà thở daì, dặn nhỏ: "Nhớ đái vào cái máng sau nhà cho bà để bà tưới cây".
    Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc cao qua ''đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ, nghe đau, y như rằng là léc cắt. Thé nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, thân léc gãy khô cong rẽ ra hai bên tạo cho lối đi hình cái máng vòm. Mùa khô, những người đi bứt lá về bỏ chuồng hay đi qua lối nhà chú Thao; nhưng hễ mưa xuống trên phiê"n léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy.
    Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thối đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn thờ mình, chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật giật đen một mảnh và đầy sẹo nhỏ.
    Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa.
    Ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏn lỏn giữa bạc ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Đất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoạch. Bây giờ, những cây xoài, cây mãng cầu đã lớn nhanh vượt lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nó là đất ấy nhiêù bom đạn đụng vào lỡ sảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ". Chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi về.
    Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo dặt dìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quằn quăn trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩn quên cả ngày đang tắt, quên cả đói và lạnh. Dứt tiếng saó chúng mới lục tục lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi saó hay đáo để, nhỉ!".
    Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sái chú Thao. Đêm văn nghệ nào có chú thổi sáo, thanh nữ đứng sem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận dọa bẽ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "Ấy vậy mà bây giờ...". Nói thế bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai người ta cũng biết, mẹ kể mà làm gì".
    Quãng gần Tết mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng chỉ có cỏ là cỏ, hương chanh đâm ngào ngạt, tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uôn cong theo gió, cơ má trái giật giật.
    Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai: "Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu". Cô đâm ghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có để gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cho cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng". Cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo ****** sắm cho ít vòng xuyến...".
    Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp, về xã làm kỷ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bĩu môi ra chiều coi thường. Có nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. Ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ sư cùng cơ quan bố.
    Bà cũng thường hay sai mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Mỗi lần bà sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kể, nào là chú Thao tát cá về bắnt bà nấu canh rau tập tàn ra sao, nào là chuyện chú ^hao cuốc đất khỏe như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".
    Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím, thịt chồn bẫy được, ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ đi. Đã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học...". Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi dở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang: "Dở hơi, ông Thao ông ấy dở hơi. Thời này đàn bà rẫy ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cứ là đàn ông. Có vợ, có chồng cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, biết chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thủy với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nổi gì nữa không biết...". Bố gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói liều". Cô Sửu đùng đùng: "Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao ông để ông ấy ra ở rừng một mình? Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật? Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Để cho cỏ nó mọc bạc ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho". "Đã bảo lắm bom...". "Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Đạo đức giả tuốt!". Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!" - bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông đừng ỷ mà quát tôi nhé! Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy gọi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngòai nên phải cậy cục lo cho ông Thao đi ngay. Có ông Thao gánh hết mọi thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. Ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở về...". "Mày, mày, mày..." - bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước, tao vô phước...". Mẹ lặng im, cắn môi ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.
    Cô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế hả?". Cô Sửu khóc, nói trong lời nước mắt: "Em dại. Đã trót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng làm gì cho nó nhục..." Mẹ đảo mắt chung quanh, hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi nào". Cô Sửu quệt nước mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặt trơn thiên hạ tưởng sung sướng. Nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...". "Trời ơi là trời!" - mẹ bưng mặt.
    "Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thi nói" - cô Sửu tuyên bố khi có đủ maỊt cả nhà. Bà tru treó, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, răng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm nhà cửa. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống ai...". "Muốn xem tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với giếm". Hay hớm lắm đấy, cô lên phô mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp sửa vượt mặt lại khóc, Nhà buồn như có đám.
    Tháng chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu đã không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng sô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi ***g lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắt lên làng mạc một màn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi hong tay trên bếp lửa, hết sáng đến chiều, hết chiều tới tối. Đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới gường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nửa. Khoảng đất của bà dền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoằng ngoẵng, chen chút với lũ cỏ hôi hoa màu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mỏng nham nhám. Cái liếp rào mỗi lần gió lây là xiên vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu Ki đã bán cho thằng đồng nát.
    Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi tội hay đái dầm. Không thấy xóm làmg đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không cơn đến nhận thằng bé nhưng cô cười bảo: "Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".
    Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát:
    Cái vạc mày ngủ cho ngon
    Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...
    Cô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quá!". Cô vấn tóc, trùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngỏ đã nghe tiếng cô oang oang : "Điên, ông Thao nhà này điên mất rồi". Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: "Đàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian"...
    À, ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng mà có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, cô khuyên bảo nhẹ nhàng rồi cho về. Được thể bọn trẻ càng làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng, cho tuốt...". Đàn bà khin nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thõa, họ bảo cô khô"n nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.
    Cô Sửu lay gối bà, than thở chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp. chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như c'' phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lợi trống trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏI mẹ: "Thế bao giờ đến gỗ thằng Sơ?". Mẹ dại mắt, nhắc khẽ: "Chú ấy còn sống, đã về...". "À thế...". Mắt bà ánh lên một chút sáng, rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ cà cô Sửu nhìn nhau, không ai nói.
    Trong hơ may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi llũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa ***g lộng gió. Trên muôn triệulá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa vào trong chiều muộn.

  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lưu Sơn Minh
    Người Đàn Ông Ngồi Cuối Xe
    Chiếc xe lướt trong màn đêm trên con đường hoàn toàn vắng lặng. Những người trên xe không ai nói với ai câu gì.
    Thật ra thì họ cũng chẳng có chuyện để nói với nhau. Người đàn ông ngồi ở cuối vặn vẹo người cho đỡ mỏi rồi nhìn chong ra ngoài qua ô vuông nhỏ ở cánh cửa cuối xe. Chiếc xe đi trong một vùng đã ngủ yên. Phía xa tít kia, trên bờ đất nhỏ cạnh chiếc đầm lớn, thấp thoáng ánh đèn. Người đàn ông ngồi cuối xe nghĩ:
    ... Trong cái túp lều bên bờ đầm đó, chắc là có một người đàn ông trung niên đang ngồi cạnh chén rượu cùng mấy lá rau và chút hành lá đã khô. Trời đang hạn. Lúa má khô rạc. Cái đầm cá người ta thuê ông trông đêm, khi nào tát sẽ trả công một thể. Nhưng chắc cá cũng chết dần thôi. Dân làng đang ép người chủ đầm tháo nước vào cho lúa nhưng ông ta không nghe. Người trông đầm không biết mình nên mong chủ đầm đồng ý tháo nước hay là không. Đằng nào thì ông cũng thiệt. Lấy nước từ đầm ra thì mấy thửa ruộng vặt của ông cũng đỡ. Nhưng nếu như thế, ông trông cái đầm này bao nhiêu công, bao nhiêu đêm; hoá ra là công cốc à?
    Vậy thì chẳng lẽ không còn một mảy lối thoát nào? Lối thoát thì đành là vẫn có. Nhưng mà cái ấy thì lại không phải ở ông, không phải ở chủ đầm và cũng không phải ở cả cái làng này. Lối thoát bây giờ chỉ có một: ấy là giá như mưa xuống. Mà kể ra, cũng không cần phải mưa to lắm, mưa vừa vừa thôi cũng được. Nói chung là một cơn mưa. Miễn là mưa...
    Nghĩ đến mưa là mưa ngay. Người đàn ông ngồi cuối xe cố ghé mặt vào gần vuông cửa. Những hạt mưa văng vào cửa bắn toé lên mặt. Ngọn đèn vàng đã khuất từ lâu. Bây giờ chiếc xe lại đang chạy qua một khu dân cư mà ban ngày chắc cũng khá sầm uất. Còn đôi ba cửa hàng chưa đóng, ánh đèn néon vẫn hắt ra, xanh xanh nhợt. Trước một căn nhà, có một người phụ nữ đang quét tước dọn dẹp gì đó, thỉnh thoảng lại nhìn ra ngoài mưa. Đứa bé con chạy luẩn quẩn với mấy con chó trong nhà. Người đàn ông ngồi cuối xe nghĩ:
    ... Trong ngôi nhà kia chắc không có đàn ông. Những người phụ nữ thiếu đàn ông thường quét tước rõ khuya. Họ cứ nghĩ ra việc cho đêm ngắn lại. Có thể chồng chị ta đi làm xa, cũng có thể đi thăm người thân. Hoặc cũng có thể đang loay hoay xoay xở trên chiếc ghế sau chật chội của một chuyến xe nào đó.
    Họ lấy nhau được mấy năm nay. Năm nào chồng chị cũng phải đi đâu đó vài tháng, có khi cả nửa năm. Thằng con trai này, kết quả của mấy tháng còn lại trong năm, chỉ mình chị nuôi dạy. Sài đẹn, ốm đau... đủ cả. Bây giờ nó đã bắt đầu chạy ra chạy vào được.
    Người phụ nữ này có hạnh phúc không? Không hẳn là có, nhưng cũng không thể là không. Vậy thì số kiếp nhất định bắt chị gặp lại anh bạn cũ. Đó là người đàn ông đẹp trai nhất và quyến rũ nhất trường chị ngày xưa. Hắn ta hát hay, học giỏi và cực kỳ khéo nói. Bao nhiêu năm sau, hắn vẫn khéo nói như thế. Hắn bảo ngày xưa chị ít nói và có duyên thầm. Duyên thầm? Chị hỏi lại và hắn gật đầu. Nhưng hắn cũng bỏ đi. Nếu chồng chị biết, liệu hắn ta có nổi khùng lên không. Hắn có nghĩ rằng nếu thằng cha kia ở lại, vợ hắn có mềm lòng không. Nếu chuyện đó xảy ra, hắn sẽ phải làm gì đây. Im lặng? Chịu đựng? Bỏ đi tiếp? Hay là...
    Một hạt mưa văng trúng vào mắt người đàn ông ngồi cuối xe. Cái ý nghĩ vụt loé lên vừa rồi trôi tuột đi mất. Cơn mưa rào đã ngớt. Không khí bên ngoài mát mẻ, yên tĩnh và mơ hồ... Giấc ngủ thật dài... Cho đến tận ngày hôm sau, khi chiếc xe dừng lại. Dừng lại lúc ánh ngày bắt đầu ló rạng.
    Suốt một ngày hôm sau đó, ngần ấy người đi trên chiếc xe đó ngồi im trong một gian phòng đóng kín. Đèn tắt. Không khí ngột ngạt dù quạt chạy liên tục. Vẫn không có ai nói gì. Người nào cũng ngồi tựa lưng vào tường và nhìn trừng trừng đúng một điểm nào đó, tay khư khư trước bụng. Chỉ khi có tiếng bước chân lẹt xẹt dọc hành lang, những người ngồi gần cửa mới thấy hơi nhúc nhích. Đêm buông xuống hẳn, họ lặng lẽ ra xe; ai về chỗ nấy. Xe nổ máy, bật đèn và lao vào bóng tối. Hành trình câm lặng lại tiếp tục. Những hàng cây cao hai bên đường vùn vụt trôi. Người đàn ông ngồi cuối xe nghĩ:
    Hồi trẻ con, hình như ai cũng thích trèo cây. Nhưng có đứa trèo được lên lưng chừng lại trượt xuống vì sợ. Những đứa khác, lì lợm hơn, trèo lên tận ngọn cây để bắt ve, hái quả và tìm trứng chim. Những đứa trèo đến lưng chừng thường học giỏi hơn, chữ đẹp hơn, được cô giáo quý hơn. Còn những đứa trèo lên ngọn cây thì hư, hỗn, học dốt, suốt ngày bị gọi lên doạ đuổi học.
    Lớn lên, đứa ngoan lấy vợ, lấy chồng. Đứa hư bỏ học đi xa làm ăn, đứa nào cũng quyết tâm không giàu không về quê nữa. Nhưng có phải đi xa rồi, đứa nào cũng giàu có được đâu. Đường đời trắc trở, có đứa khi sắp ngã mới sực nhớ lần tuột tay rơi từ ngọn xoan xuống...
    "Uỳnh!". Chiếc xe lao qua một ổ trâu to tướng trên đường. Người đàn ông ngồi cuối xe sực tỉnh. Con đường bắt đầu một đoạn thật xóc. Xóc nhảy ruột. Xóc đến mức mọi thứ trên xe chồm lên như điên. Tất cả mọi thứ đều chồm lên trừ những người trên xe. Họ vẫn ngồi lặng thinh và cố bám chặt vào ghế. Gió lùa bụi ùa vào qua khe cửa. Thoáng có một ai đó húng hắng ho. Tiếng ho nén lại, rồi sau đó rũ ra như vỡ toang phổi. Người đàn ông ngồi cuối xe nghĩ:
    Tiếng ho này giống hệt tiếng ho lao. Một người bị bệnh lao và không có thuốc chữa. Chính xác là không có tiền mua thuốc. Nhưng lão ta vẫn cứ khư khư ôm lấy cái vò sành cổ đựng rượu quý không chịu bán. Lão cố giữ lại để chờ thằng con đi làm căn xa đem tiền về mới mua thuốc chữa lao. Nhưng có thể chính thằng con lão lại đang vạ vật ở xung quanh đó chỉ mong lão chết quách cho rồi để nó bán quách cái vò.
    Nghĩ là một chuyện. Nhưng dám làm cái chuyện đó, may ra chỉ có được một thằng liều. Liều và điên. Điên đến mức tỉnh như sáo. Nhưng mà làm như thế, kể ra cũng ngu. Ngu thật. Chứ thực ra, đang đêm mà nó về khuân cái bình đi thì nhẹ như không...

Chia sẻ trang này