1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Minh Châu
    Khách Ơ? Quê Ra ( III )
    Ngày cái nhà của Khúng ở dưới quê chưa cháy, có một vài kẻ trong làng thuê Mới đốt cái nhà dựng trên nền đền, nhưng hắn đã không làm mà còn mách với Khúng. Cũng vì cái ơn ấy mà Khúng cho hắn dựng nhờ cây sào, tấm lưới, có khi động biển, hắn còn được phép kéo chiếc mảng lên dựng vào sau túp nhà bếp của Khúng và nấu nhờ một bữa cơm. Không hiểu sao từ khi thoạt nhìn thấy thằng Mới, Huệ đã cảm mến ngay. Huệ có thể ôm con ngồi ngóng ra ngoài cửa lạch suốt buổi, để xem hắn câu, cái mảng lúc vào gần, lúc ra khơi, cứ lững lờ: hoặc là ngồi nghe hắn kể thói quen từng loài cá, tính nết từng đám mây. Hắn thật hiền, có lẽ hiền nhất làng và có một cái gì đó như một tâm hồn nghệ sĩ - một tâm hồn vô cùng thính nhạy nhưng lúc nào cũng khép kín. Đến bấy giờ thì Huệ đã hiểu vì sao trên khuôn mặt bầu bầu và rám nắng của Mới luôn luôn hiện lên một vẻ lơ đễnh đầy trong sạch gần như ngây ngô, giống như lột cái vẻ mặt của Th - bố thằng Dũng - những lúc Th. ngồi trước những mẩu đá.
    Khoan, đứa con vụng trộm với Mới là thằng con trai thứ tư của Huệ, lớn lên mặt mũi giống Mới như lột - và Khúng, một người cha vốn quý trọng mọi nguồn lao động, vẫn yêu và quý thằng con trai thứ tư, đứa con đầu tiên sinh ra khi vợ chồng lão vừa lên vùng khai hoang, chả kém gì những đứa khác.
    Kể cả cái thằng bé Khoan có khuôn mặt bầu bầu và nổi tiếng hiền lành nhất nhà ấy, dù là gì đi nữa nhưng điều quan trọng là lão đã biết rành rành nó là con thằng Mới, vẫn thuộc dòng máu của một anh dân làng Khơi tầng lớp mạt hạng - nghĩa là, lão đã biết hết cả mọi xuất xứ và nguồn gốc của nó.
    Trong đàn con cái đông đúc mà mụ Huệ đã đẻ cho lão như một nguồn lao động trời cho ấy, chỉ có một đứa- là chính cái thằng Dũng - lão không hề biết rõ con cái nhà ai, không được phép hỏi mụ vợ, cũng không được phép tìm hỏi người khác suốt đời lão, không hề bao giờ lão hắt hủi và bằng tất cả tấm lòng thành thực, lão yêu thương nó, nhưng không bao giờ lão thoát ra được cái nỗi ám ảnh rằng nó mang dòng máu xa lạ với lão. Thằng con ấy, nó là đứa đẹp trai nhất nhà, một mình nó một khuôn mặt, từ con mắt, cái mũi đều như được chạm trổ tinh vi hơn. Nhưng đấy lại chẳng là cái vết thương sâu nhất của đời lão - suốt đời lão mang tiếng lấy vợ thừa người khác, chẳng là vì nó?
    Trưa hôm qua, chia tay với thằng Dũng rồi lão còn quay lại đoàn tàu hỏa đang còn đậu ở trong sân ga một lần nữa, lão khúm núm trước cái anh bộ đội cấp thượng úy: "Đừng để nó phải khổ, đừng để nó phải đói rét, cái thằng Dũng nhà tôi ấy, việc gì làm cũng được nhưng lại khảnh ăn như một đứa con gái nhà thành phố!" - "Biết rồi bố ạ - anh bộ đội dẫn quân chế nhạo lão - vào bộ đội cũng không phải đi đày đâu. Bố cứ yên tâm!".
    Thấy mình phút chốc trở nên y như một mụ đàn bà lẩn thẩn, nhưng lão vẫn cứ quanh quẩn bên cái tàu hỏa có đứa con đang ngồi, hết mua hoa quả lại bánh trái lật đật mang về bắt nó ăn.
    Nửa giờ sau mới có một chiếc xe tải của một đơn vị bộ đội Hà Nội đến đón đám tân binh miền trung vừa ra. Trông thấy thằng Dũng rời tàu bước lên xe, thế là lão Khúng cứ quýnh cả lên. Chẳng biết làm gì trong cái phút chót, lão dúi thêm một mớ giấy bạc vào tay nó khiến thằng bé vừa thương bố lại vừa ngượng với bạn, đến nước nó phải gắt lên với lão trước lúc xe chạy.
    Lão đứng lại một mình giữa cái sân ga Hàng Cỏ đầy những người lạ. Đến bây giờ lão mới đưa mắt ngắm nhà cửa, phố xá Hà Nội và lão sực nghĩ đến những lá thư được gửi đi từ đây - mà suốt gần hai mươi năm nay, cứ một vài năm vợ lão lại nhận được một lá. Đó là những lá thư riêng của vợ, mà lão đã đọc trộm. Những bức thư viết trên một thứ giấy thật mỏng, mà mỗi lần đọc xong, suýt nữa lão đã toan lấy làm giấy vấn thuốc. Nhưng lão không dám, lại đem cất lại như cũ, tận dưới đáy một cái trong xó buồng vợ.
    Mỗi lần nhận thư, bao giờ đêm ấy vợ lão cũng thức chong, đuổi lão ra nhà ngoài nằm, hai ba ngày sau, cứ như một người câm và đối xử với lão như một người xa lạ.
    Dù rằng suốt một đời đã bị lão Khúng biến thành một cái máy đẻ và đến bây giờ đã trở thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miền rừng thật sự, chắc hẳn Huệ vẫn cất giữ cho riêng mình một chút hình ảnh cuối cùng của cái thời thiếu nữ sống ở thành phố, cùng với một mảnh tình yêu đầu tiên đầy sâu nặng mà thời gian hai mươi năm chỉ có thể càng đào sâu chôn chặt vào tâm khảm.
    Suốt gần hai mươi năm nay người đàn bà vừa gần gũi vừa xa lạ với lão Khúng không hề đặt chân đến một thành phố nào cả, kể cả cái thị trấn lâm nghiệp cỏn con, đìu hiu nằm kề sông chỉ cách nhà dăm cây số, cũng ngại đến.
    Huệ đã gắn bó ngày một chặt chẽ với nhà cửa, nương rẫy, bởi chính chị đã phải cùng với lão Khúng nát óc tính toán, thức khuya dậy sớm, trút mồ hôi và sức lực đến gần cạn kiệt, để có tất cả ngần ấy của một gia đình nông dân đông con.
    Đất đai và cây trái, trong khi con người làm ra nó thì chính nó cũng làm ra con người. Chính Huệ cũng đã trở thành một người đàn bà nông dân với cái tính ky cóp, chắt bóp, tham công tiếc việc, tham của và thậm chí đôi khi còn lắm điều nữa. Hàng xóm, láng giềng sang chơi thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy cặp mắt Huệ nhìn len lén từ trong bóng tối, trong khi trút hàng chục vò rượu giấu trong buồng ra những chiếc bong bóng lợn.
    Hoặc vẫn bằng hai bàn tay con gái thành phố - bây giờ đã đen đúa và sứt sẹo - Một tay bưng bát rượu, một tay cầm chiếc đũa cả ghè miệng một con dê bị trói chặt nằm giữa sân, Huệ đổ rượu vào miệng con vật trước khi cắt tiết nó bằng một con dao nhíp với tất cả vẻ thành thạo.
    ***
    Chừng như đấy là một người đàn bà đã quyết tâm đoạn tuyệt với gốc gác thành phố?
    Nhưng đời sống đô thị - cái niềm mơ ước thật xa lạ cứ mỗi ngày một hiện ra trong lòng những đứa con của Huệ một cách cụ thể, như một tiếng gọi của thời đại, nhất là vào những tháng cuối năm, mùa cà chua, chúng phải đèo những sọt cà chua chín đỏ xuống bán tận dưới chợ Vinh, sáng đi chiều về. Có khi ruộng cà chua chín rộ, hai ba đứa phải đi từ chiều hôm trước và ngủ đêm lại dưới thành phố.
    Những buổi khuya sáng trăng, trong cái im lặng thẳm sâu từ những cánh rừng chung quanh như ùa tràn ra cái sân nề vôi trắng toát trước nhà, đám con tụ tập lại, kháo với nhau bao nhiêu là thứ chuyện đầy hấp dẫn về đời sống ở trong cái quầng sáng điện mà chúng vừa từ đấy trở về. Thế rồi một lần thằng Dũng đã bị lạc trong vùng quầng sáng kia đến những ba ngày. Khi trở về, hắn đã quyến theo về nhà một đứa con gái tóc uốn, Huệ cầm đôi đũa cả quấy cám lợn chạy ra đứng trước hiên nhà bếp, nhìn xuống con đường dốc đất đỏ ối của quả đồi đối diện. Chị nhìn thấy cái đứa con gái ngồi sau gác-ba-ga xe đạp của thằng Dũng, hai chân bỏ lọt vào một bên cái sọt không. Khi thằng con trai thả phanh cho chiếc xe lăn tuồn tuột đến chóng mặt xuống dốc, hắn đã cố ý bắt buộc đứa con gái tuy thẹn đến chết nhưng cũng phải nhắm mắt ôm ghì lấy ngang lưng hắn.
    Về đến nhà, thằng Dũng dựng xe trước thềm, cúi xuống một bên sọt nhặt chiếc ba lô khoác lên vai đứa con gái, còn chiếc túi da có in hình chiếc máy bay cũng của cô gái, hắn vẫn xách trên tay. Sau khi biết bố đang còn bận nhặt đá ở trong Khe Đá Dầu với thằng Khoan chưa về, hắn điềm nhiên dẫn cô gái vào trong nhà bếp, giới thiệu như khoe với mẹ:
    - Đây là cô Thùy Loan, kỹ sư, bạn mới quen của con!
    Trời ơi, một thằng thanh niên miền rừng đi bán cà chua ở chợ tỉnh không biết làm thế nào đã tha về được một đứa con gái có bằng cấp cao sang là nhường kia, xét ra tuy không đẹp bằng thằng Dũng nhưng cũng là một cô gái khá xinh xắn và rất lễ phép, và một điều khiến cho người mẹ phải giật mình là mới thoạt nhìn, Huệ đã biết ngay là một đứa con gái sinh ra và lớn lên ở thành phố.
    Tuy trong thâm tâm Huệ thấy chua xót và đã nhìn thấy một cái gì khập khiễng giữa hai đứa trẻ, nhưng chiều ấy, Huệ tiếp đãi đứa bạn của con trai đặc biệt trân trọng và ân cần.
    Đêm hôm ấy, Loan ngủ với người mẹ ở gian nhà trong, một gian buồng ngủ mà bốn chung quanh cái giường nằm kê đầy những chiếc chum bằng đất nung đựng ngô, đậu, khoai lang khô, những chiếc bong bóng lợn đựng rượu và những lá thư không được trả lời. Nửa đêm về sáng, Loan thức dậy. Trong khi ở nhà ngoài thằng Dũng cũng thức dậy đang tìm điếu hút thuốc lào, Huệ nằm mơ màng chợt nghe thấy chung quanh cái nếp nhà ở miền rừng của mình cứ rộn lên đến chói tai những tiếng kêu rền rĩ của một chiếc xe cút kít đang lên dốc, trong một buổi chiều cách đây gần hai mươi năm...
    Khi thằng Dũng đã hơi lớn, vào trạc mười ba, mười bốn, đến cái tuổi đủ sức quàng một đoạn giây chắp bằng vải cáu đen mồ hôi vào sau ót, tay nâng đôi càng đẩy chiếc xe cút kít lăn bánh, dù đang phơi hàng đống quần áo ngoài sân hay đang mắc bận nấu nướng và xua những con dê ra khỏi nhà bếp, bao giờ Huệ cũng nhận ra được đứa con đi vào rừng đẵn củi đã trở về - qua cái tiếng kêu của bánh xe cút kít, cứ rít lên trong cái trục gỗ. Và lần nào chị cũng cứ ngỡ như lại đến lượt thằng Dũng tha về một người đàn bà tóc tai rũ rượi, hai hàm răng trắng lóa nghiến chặt, lúc há to như thể không bao giờ còn khép lại được nữa, và cái bụng người đàn bà y như một quả trứng khổng lồ đang sắp rạn vỡ.
    ... Lúc bấy giờ mặt trời đã đứng bóng. Con đường xuyên rừng vắng heo hút, không hề có một bóng người. Huệ đang cố lết đi. Quãng đường đèo không dốc lắm nhưng dài quá sức một người đang đau bụng đẻ. Gắng đi thêm một quãng, Huệ lại tìm một cái cây, đứng tựa lưng vào. Chị nắm thật chặt chiếc khăn vuông hoa gói vài chiếc tã lót và một nắm cơm.
    Lên được hai phần ba đèo, thì không đi được nữa. Chị phải ngồi lại bên một gốc cây. Cơn đau mỗi lúc một quặn hơn. Nhìn con đường trườn lên dốc chỉ thấy nắng, từ dưới lên cũng như từ trên phía đầu dốc đổ xuống vẫn chẳng thấy qua một bóng người.
    Thậm chí một tiếng động cũng không có.
    Nỗi thèm khát được gặp người. Không dám ước ao nhiều, Huệ chỉ dám ước từ trên dốc đi xuống một đứa trẻ, nếu nó là con gái thì càng hay.
    Có lẽ mình phải sinh con một mình giữa rừng. Đến cái nước này Huệ chỉ còn ao ước được như người đàn bà trong cổ tích, được một con hổ đỡ cho.
    Giữa lúc ấy, có tiếng xe cút kít vẳng lên ngân nga như tiếng sáo. Rồi Huệ ngó ra thấy một người đàn ông cởi trần, đẩy chiếc xe chất đầy những súc gỗ làm nhà, từ dưới chân dốc đi lên.
    Ừ cũng lạ, lúc bấy giờ Huệ đã rút thật sâu vào sau cái gốc cây, không phải gốc cây bên đường mà một cái cây to tận trong sâu, lại có hòn đá bên cạnh che khuất hết cả người, vậy mà Khúng cũng nhận thấy có điều gì lạ, đã dừng xe lại.
    Khúng liền vứt hết những phiến gỗ súc đã đẽo sơ thành hình kèo, cột xuống vệ đường, để lộ ra trên chiếc mê đan bằng tre một lớp than, có lẽ Khúng vừa đốt trong rừng. Người đàn ông lấy tay san đều những hòn than thành một chỗ nằm hơi trũng xuống rồi mới chạy tới đưa người đàn bà lên xe.
    - Đi đâu?
    - Đi đâu cũng được. Cho tôi sinh.
    - Sắp chưa?
    - Ngay bây giờ.
    - Không tính được ngày sinh hay sao?
    - ...
    - Người ở đâu? Sao không có ai đi theo?
    - ...
    Mới đi được một quãng, mặt mũi chân tay Huệ đã đen nhẻm. Mình đang nằm trên một đống than vừa ra lò - Huệ tự bảo - Vẫn còn nóng. Chị cố nép sát vào cái vành mê phía sau để tránh cái nhìn của người đàn ông đang đẩy xe. Chị xốc lại quần áo và lựa một thế nằm, co mình như con tôm.
    Love to live
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Nguyễn Minh Châu
    Khách Ơ? Quê Ra ( IV )
    Lên gần tới đỉnh đèo, những đau thắt lấy ngang người. Và Huệ cảm thấy một cái gì vô cùng riết róng, dữ dội và thảm khốc, trong những vòng quay dưới lưng. Những vòng quay cứ xiết lấy chị, không có cách gì cựa quẫy ra được nữa. Nó là cái gì vậy? Đang giữa nư đau, Huệ không biết cái gì, cũng không nhìn thấy mà chỉ cảm nhận được qua cái âm thanh ken két lúc rộ lên, lúc như nén lại để rồi lại kêu rộ lên to hơn, não nề và riết róng hơn - của chiếc bánh gỗ to kềnh càng quay lử khử trong một cái trục cũng bằng gỗ.
    Sang tới bên kia sườn đèo, Huệ nhìn qua vạt áo cánh trùm trên mặt, thấy một nền trời chiều xanh nhạt hiện ra sau một bức thành mầu xanh sậm kết bằng chỏm rừng kéo dài và cứ như đang dâng cao dần lên mãi. Từ trong khoảng cao xanh, lại chập chờn vọng xuống một thứ âm thanh vi vút, bay bổng. Lắng nghe một lát, Huệ mới nhận ra được cái tiếng sáo diều ngân nga vừa chợt nghe, chính nó vẫn là cái tiếng kêu của những vòng quay ở dưới lưng.
    Quằn quại mãi trên chiếc xe cút kít như một tên tù binh vừa rơi vào bàn tay tàn bạo của một thổ dân, đến gần tối thì Huệ sinh. Đứa bé ra đời trên dọc đường, trên tay Khúng.
    Một tháng sau khi đẻ thằng Dũng, Huệ nhận lời lấy Khúng với một điều kiện: Không bao giờ Khúng được hỏi chị về quãng đời về trước, cũng như bố thằng bé là ai, không được hỏi dò la về người đàn ông ấy - mà Huệ chỉ cho Khúng biết là một người rất tốt, một trí thức vào bộ đội, cho đến giờ chị vừa thương hại vừa căm giận nhưng vẫn yêu và là người quê cùng thành phố với chị.
    Cái anh chàng nông dân lêu têu có đầu óc thích nổi tiếng chấp nhận các điều kiện ấy với tất cả sự thất thiệt nặng nề của một anh trai tân, để đánh đổi lấy một cô vợ rõ xinh đẹp, nhất là, một cô gái thành phố chính cống.
    Hắn vênh cái mặt lên mà thách thức với cả làng: "Đi suốt mấy làng này, từ dân làm nghề biển cũng như dân trong đồng, thử hỏi có thằng nào lấy được vợ thành phố như tao - cái thằng Khúng ngất ngưởng này?" Hắn đổ hết sức ra làm như trâu, mỗi ngày một chuyến xe than lẫn gỗ súc về bán cho đám dân biển. Bằng mồ hôi của hắn, hắn đã cứu được hai mẹ con Huệ. Cả hai tưởng sẽ chết sau kỳ sinh nở: mẹ bị phù thũng và đứa con vừa sinh ra đã sài đẹn.
    Cả làng chửi Khúng chẳng còn thiếu câu gì nữa. Cái thằng dám cả gan đem về cái nơi thờ thần làng một con đĩ chửa hoang hắn nhặt được ở xó rừng nào...
    ***
    Cái lần thằng Dũng đi bán cà chua về, nó đã làm được một việc y như lão Khúng đã làm gần hai mươi năm trước đây, chính Huệ cũng không khỏi sung sướng và tự hào, khi thấy một cô gái có học thức và vốn xuất thân con nhà thành phố đã chịu theo đứa con trai đầu lòng của mình về nhà. Điều đó khiến cho Huệ cũng phải lấy làm lạ lùng, như một sự lặp lại của số phận con người.
    Sáng ngày hôm sau, Loan, cô kỹ sư được Dũng và bà mẹ dẫn vào trong Khe Đá Dầu - một khu vực khai hoang thứ hai mà lão Khúng và thằng Khoan đang dựng chòi ở - để đốn cây và nhặt đá.
    Lão Khúng đã bắt đầu phải tính toán về đường xa, khi mà những đứa con trai và con gái của lão phần nhiều đều đã lớn, cần hỏi vợ gả chồng, làm nhà riêng và cũng phải tìm đất cho chúng sống. Đầu óc của một người nông dân bao giờ cũng nghĩ đến cuộc đời mai sau của con cái. Chính vì lẽ thế mà cái tay chẳng lúc nào được rảnh, chẳng lúc nào ngơi mó máy trong đất.
    Đất trong Khe Đá Dầu còn tốt hơn đất ở ngoài chỗ hiện đang ở - làm lão Khúng cứ mê đi, như đã nhìn thấy trước cái sự thịnh vượng của đời con cái - chỉ hiềm nỗi, lão chẳng biết có ai đem giấu cái gì bên dưới mà sét đánh luôn, hễ có giông là có sét.
    Lần ấy, Loan ngủ lại thêm một tối trên chiếc chòi của gia đình Dũng dựng trong Khe Đá Dầu. Sáng ngày hôm sau, Dũng dẫn cô đi tiếp một buổi nữa mới vào đến một dãy lèn đá mà những người khai hoang thường gọi là "lèn địa chất", ở đấy, Loan trình giấy giới thiệu và nhận công tác ở một đội thăm dò địa chất. Hàng trăm công nhân và kỹ sư đã có mặt ở đấy từ những năm vùng này còn bị máy bay Mỹ đánh phá rát. Công việc thăm dò càng được ráo riết xúc tiến khoảng vài ba năm nay - ngoài các kỹ sư người trong nước còn có các kỹ sư nước ngoài.
    Trong các bức thư của Th. mà Huệ vẫn trân trọng bí mật cất dưới đáy một cái chum, không có bức nào mà Th. không nói qua về công việc của anh ở Hà Nội - một công việc liên quan mật thiết và có tính quyết định đối với công việc thăm dò đang tiến hành ở đây, cả những chuyến máy bay chụp ảnh thỉnh thoảng bay qua vùng khai hoang cũng nhằm mục đích ấy.
    Có thể nói rằng suốt cả đời mình, Huệ sống ở đây để chờ đợi một thành phố sẽ ra đời, không phải một thành phố buôn bán và tiêu thụ, mà là một thành phố công nghiệp của hàng vạn công nhân khai thác mỏ quặng của một thứ kim loại quý. Huệ biết rằng đến lúc đó, đời sống con người và thiên nhiên chỗ này sẽ hoàn toàn khác bây giờ, con người sẽ không còn bị bưng bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây, người ta có thể nhận được những tin tức của mọi nơi.
    Một đời người thật ngắn ngủi, Huệ biết đời mình chưa chắc đã trông thấy mặt mũi cái thành phố tương lai được xây dựng trên vùng đất do bàn tay vợ chồng chị đang khai phá, nhưng chị tin nhất định dù sớm muộn nó phải có, nhất định một thành phố công nghiệp sẽ mọc lên trên mảnh đất hoang dã này. Những đứa con của chị chẳng phải mơ ước và đi tìm kiếm cuộc sống đô thị ở tận đâu xa, mà ở ngay trên miếng đất chúng đang đứng. Vợ chồng Huệ tổ chức đám cưới cho thằng Dũng vào tháng ba thì tháng chín người con trai đi bộ đôị. Có một lá thư của Th. - một bức thư rất quan trọng - vừa gửi về mà lão Khúng chưa được đọc. Huệ nhận được bức thư cuối cùng ấy chỉ trước ngày thằng Dũng bước chân ra đi dăm hôm và chị cứ đắn đo mãi có nên đưa cho con xem hay không? Th. báo tin cho Huệ biết anh đã được Chính phủ chỉ định làm tổng công trình sư của cái công trình công nghiệp đồ sộ sắp bắt tay xây dựng vào đầu sang năm, và nay mai anh sẽ thường xuyên có mặt ở tại thị trấn lâm nghiệp, cùng với những bộ phận đầu tiên của bộ máy điều hành của mình. Cũng như những lá thư trước nhưng lần này bằng giọng tha thiết hơn, van nài hơn, Th. xin Huệ hãy quên mọi chuyện cũ và tha thiết đề nghị được gặp Huệ và con. Dù như Huệ nói, bây giờ Huệ đã trở thành một người đàn bà khác hẳn trước kia và đứa con trai không còn là con của anh nữa, thì anh cũng tha thiết xin được gặp.
    Khách cầm đứng đôi đũa son gạt hai nhát từ hai bên mép vào giữa rồi buông đũa. Chiếc bát ăn cơm đặt rìa mâm vẫn chỉ bốc lên hơi men.
    - Cháu đủ!
    Trong lúc chống gối đứng dậy, lão Khúng cúi xuống chiếu nhặt chiếc khăn lau mặt, chợt nhìn thấy khuôn mặt của lão và khuôn mặt Định gần như kề sát nhau, phản chiếu trong cánh cửa gương của chiếc tủ đứng.
    Con người ta cùng một dòng máu mủ mà khác nhau biết chừng nào? Cái ý nghĩ như một kết luận không phải hình thành một lúc trong cái đầu óc nông dân bảo thủ đầy sắc sảo của người cháu, mà ban đầu lão thấy khuôn mặt người chú trong gương như một điều chứng thực cho một cái nhận xét bất chợt nhưng rất quan trọng của lão, trên dọc đường chiều hôm qua lão đi một mình từ ngoài ga Hàng Cỏ về nhà Định.
    - Những cái anh dân thủ đô Hà Nội này - lão đạp những bước như vồ nện xuống mặt nhựa vừa gật gù nghĩ một mình - sao mà người nào cũng y như ngâm lâu ngày trong bể nước mới vớt lên? Da thịt người đâu mà cứ trắng nhợt, mà người nào người nấy cứ mềm oặt, mềm như sợi bún, từ cái ngón tay đến sợi tóc đều mềm, tiếng nói cũng mềm, dáng đi điệu đứng lại càng mềm, nhất là cái tiếng cười lại mới thật là mềm chứ?
    Lão đảo mắt nhìn sang những đứa con của chú ngồi quanh mâm rồi nhìn kỹ vào một bên tai chú:
    - Mự này - lão vừa nói vừa giơ tay đón lấy chiếc điếu cày mà vợ Định vừa chạy sang nhà hàng xóm mượn về - mự không biết chứ, chú Định càng về già càng giống nội cháu ngày xưa. Giống lắm cơ! Cả những sợi lông loăn xoăn từ trong lỗ tai mọc chìa ra. Ông cháu ngày xưa cũng thế, nhưng còn rậm hơn cơ!
    Định ngẩng lên. Bất giác Định cũng bắt gặp cái mặt mình bên mặt người cháu - như càng làm nổi bật cái mầu nước da tai tái và rám nâu như da thuộc, với những đường nét gãy khúc đầy khắc khổ, với những khoảng lồi lõm y như những tảng đất cày đắp lên, và từ sau hàng lông mày rậm rì và cứng, lúc nào cũng chiếu ra chung quanh một cái nhìn ngang bướng và đầy ngờ vực.
    Tuy chú cháu nhưng so tuổi tác, Định chỉ hơn Khúng vài tuổi. Nhưng cứ nhìn mặt, ai cũng phải nghĩ Khúng già hơn - như một bậc bề trên trong gia tộc. Ngày xưa bố Khúng - ông anh cả của Định - chẳng được học hành mấy, mười lăm tuổi đã phải ở nhà đi cày. Mà cũng nhờ thế Định mới được theo học đến thành chung. Nhưng đến đời Khúng và những đứa con của Định thì cái sự xa cách mới thực là xa cách. Quanh một cái mâm cơm gia đình mà như người từ hai thế giới họp lại.
    Chao ôi, có lẽ cho đến nhắm mắt, riêng đời Định vẫn còn mắc một món nợ không bao giờ trả được, là món nợ với Khúng và bố mẹ Khúng, và nói chung, với những người thân thích, ruột rà ở làng. Làng anh, cái làng Khơi nửa biển nửa đồng, sỉa chân từ trên tàu hỏa xuống, phải đi gần chục cây số về phía biển mới thấu và chỉ có một cách cuốc bộ ấy, nó có một sức nhai người ghê gớm. Nó nghiền nát những con người ra rồi vắt nặn theo cái hình thù đã có từ nghìn đời của nó, rồi bắt những con người ấy phải sống theo cái luật cũng đã có từ nghìn đời nhưng không bao giờ viết thành văn của nó.
    Hàng chục năm nay cũng như từ nghìn đời, bao nhiêu thứ giặc ngoại xâm đến đây đều bị chết gục trong cái làng quê hiền lành một mầu xanh rì ấy, nhưng cũng hàng chục năm nay, những điều biến đổi của cách mạng đến được đấy cũng mới chật vật, khó khăn làm sao? Vẫn biết rằng trong làng đã có hợp tác, đã có một khu trường cấp hai hai tầng xây trên một khu đất thoáng mát xung quanh trồng phi lao; nhà trạm xá, lại rạp chiếu bóng, một làng mà có cả một rạp chiếu bóng nằm giữa cánh đồng muối bên con đường quan. Tuy vậy, cái làng nó vẫn là cái làng, vẫn là cái làng quê thân yêu và lâu đời của Định, mà một lần ban đêm hành quân giữa rừng Trường Sơn, chỉ nghe một giọng nói người làng lên trong hàng quân đi ngược chiều, Định đã phải kêu lên một tiếng xiết bao mừng rỡ, và chính tiếng kêu của anh đã khiến một cái bóng người khoác súng từ hàng quân bên kia nhảy bổ sang với anh.
    Nói gì thì nói, trong hàng chục năm nay người cháu đang ngồi trước mặt Định kia và đang xì cả nước điếu ra nhà Định kia, cũng chính là người đã gìn giữ phần mộ của bố mẹ và ông bà Định. Chứ như cái đám con của Định thì đừng hòng, chúng có học thức nhưng rất ít tình cảm họ hàng làng mạc. Mà tình cảm họ hàng làng mạc thì Định không muốn đánh mất.
    Và chê trách gì thì chê trách, với bao điều có thể chê trách, Định vẫn quý và khâm phục cái người cháu. Khi Định ở trong B ra, - sáu năm sau - anh đã được nhìn thấy, thay vào cái "ổ gấu chó" là một nếp nhà gỗ rất khang trang đứng giữa một vùng đất bát ngát cứ xanh um lên, không phải mầu xanh hoang dã của rừng nữa, mà là lạc, mía, chè, mít, bầu bí, và xa xa, dưới chân đồi trước nhà là lúa, lúa đang vào chắc... và bộ đội đang mắc võng ngủ đầy nhà trên, anh nuôi nấu cơm trong chiếc chảo gang dưới bếp, trong khi ấy, những đứa con của Khúng lớn vổng lên, còn Khúng thì đã trở thành một ông già, sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế.
    "Chú! Vậy mà mấy lần cháu nằm mơ thấy... chú chết!" tình máu mủ khiến Khúng mừng rỡ cứ cuống quít cả lên khi tận mắt trông thấy Định từ trong Nam đã trở ra thực.
    Love to live
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Minh Châu
    Khách Ơ? Quê Ra ( V )
    ***
    Định đi sau ông cháu. Định phải trực tiếp sắm vai kẻ hướng dẫn mua bán cho Khúng - y như một vài lần anh phải hướng dẫn khách nước ngoài.
    Khốn khổ, công việc này đáng lý Định có thể giao cho lũ con, nhưng Định thấy dù một đứa nào chu đáo đến đâu cũng sẽ để xảy ra sơ xuất, trong cái công việc hướng dẫn Khúng đi thăm thú các thắng cảnh và mua sắm. Cả đời người cháu ruột của Định mới ra chơi Hà Nội, Định không thể để sơ suất, xuất phát từ một tình cảm sâu nặng và cả sự kính trọng của Định đối với người cháu tộc trưởng.
    Từ sáng tới giờ Định đã đưa ông cháu đi dạo qua một số di tích và thắng cảnh của thủ đô, nhưng xem chừng vị khách quý chỉ thích ngắm nương ruộng, gia súc, những cái suốt đời chung sống với lão! Đặc biệt trong khi đứng trước Bờ Hồ, lão đã phát biểu cảm tưởng một cách thực thà. Rằng so với bức tranh treo ở vách nhà lão thì cái tháp Rùa thật không giống cái tháp Rùa vẽ ở nhà lão!
    Nhưng chỉ khi đến trước cửa chợ Đồng Xuân thì lão Khúng mới cảm thấy thực sự đã đến Hà Nội. Lão tủm tỉm cười một mình trong khi liếc qua một đám con gái mặt hoa da phấn, nhưng cái chúng đang xách trên tay thì vẫn là cái quá tầm thường: hũ nước mắm dúm muốn, mớ rau, con cá... Thì hóa ra cái đám người ẻo lả như ngọn cỏ may này cũng không phải chỉ đi dạo, mà cũng phải ăn uống. "Ấy, ai sinh ra cái ông trời kể cũng tài thực - lão Khúng vẫn tủm tỉm cười và bất giác nghĩ - Ông trời làm ra con người "bách nhân bách tính" nhưng ông trời lại khéo cho con người một cái nết mà ai cũng phải có: Đó là cái việc ăn. Hóa ra cái anh dân Hà Nội này cũng phải ăn. Cho nên mới sinh ra cái chợ Đồng Xuân này to như thế!".
    Hai tai lão chẳng mấy chốc đã ù đặc vì tiếng ồn. Mắt lão cũng hoa lên vì trăm thứ hàng hóa chất đống. Đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác, vậy mà mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi là sao?
    Để tránh khỏi mất cắp, Định bắt Khúng trao gói tiền cho mình giữ. Mua thứ gì, anh tự đếm tiền trả. Mà những thứ ông cháu muốn mua thì nhiều lắm. Cái gì Khúng trông thấy, là thấy ở nhà mình cần. Mà cái gì cũng rẻ hơn ở nhà một giá. Thế mà nào lão có biết? Suốt đời lão chỉ chúi mũi vào hòn đất.
    Khi bước ra trước vòm cuốn cửa chợ, hai chú cháu nhà ấy đã y như hai nhà phi công vũ trụ. Thế mà vẫn thấy còn một đám người chạy theo dúi vào tận ngực họ đủ mọi thứ khiến lão Khúng cứ đứng cười ngất.
    Chỉ trong một ngày lão đã khuân về bày lủng ngủng khắp gian nhà "hẹp bằng cái lỗ mũi" của ông chú nào vành, khung và lốp xe đạp, xanh, nồi, hàng mấy yến hành làm giống, hạt cà chua và hạt bắp cải giống, và quần áo cho đứa lớn, đứa bé, cho vợ...
    Nhưng đấy cũng chỉ là mấy thứ vặt. Trong chuyến đi ra thủ đô lần này lão đã rắp tâm từ ở nhà một ý đồ lớn hơn nhiều. Lão sẽ tập trung tiền mua một bộ trục, vành và xăm lốp ô tô, để "lên" một cỗ xe trâu! Việc này lão đã viết thư cho Định biết từ năm ngoái: Nhà lão phải tiến lên vứt bỏ chiếc xe cút kít. Nó là thứ phương tiện chuyên chở quá cổ lỗ, mà tốn sức! Loài người đã bước sang "thời đại tên lửa" rồi cho nên sau chuyến đi này, nhất định gia đình lão phải có một cỗ xe trâu để chở đá trong Khe Đá Dầu này, chở lúa thóc ra chở phân gio vào trong ấy này, rồi chở gỗ lạt trong rừng ra, hoặc cũng có thể những ngày giỗ tết cả nhà lão leo lên ngồi trong cái thùng xe để về quê...
    - Đừng chế nhạo anh, các em ạ! - Lão nói với lũ con ông chú đang vừa cười nhăn nhở vừa giễu cợt lão - Các em đã từng biết cái tiện lợi của ô tô và tàu bay so với chiếc xe đạp, vậy như anh, suốt đời đẩy xe cút kít, thì một chiếc xe bánh lốp có ổ bi với con trâu kéo, đã là ô tô, tàu bay rồi đấy!
    Ba bốn ngày sau, cả mấy bố con Định tỏa ra lùng sục khắp các phố ngóc ngách của Hà Nội. Họ tìm được đầy đủ một bộ đồ để "lên" một cỗ xe trâu, nhưng khi đến giá cả, thì mới thấy là cả một số tiền lớn. Không phải một lúc mà Khúng có thể dứt ra khỏi nương ruộng để đi Hà Nội - Định nghĩ thế cho nên anh bàn với vợ bán chiếc đài cùng vài thứ lặt vặt, đập vào số tiền mua sắm còn lại của Khúng, góp phần "đầu tư vào cuộc cách mạng kỹ thuật" trong nền sản xuất của gia đình người cháu ở trong quê.
    ***
    Vào một buổi chiều ngày chủ nhật, trước khi ra tàu hỏa để trở về, Khúng nói với Định:
    - Cháu phải tranh thủ đi đến nơi này...
    - Ừ, ừ để chú đưa đi ngay! - Định đáp.
    Khúng nói rằng mình cần phải đi đến "cái nơi này" một mình. Lão mượn bộ quần áo đại cán của Định, mặc vào. Nhưng vừa đi ra đến cửa lão đã quay lại, cởi giả bộ quần áo đại cán cho Định. Vẫn đánh cái bộ quần áo vải thô nhuộm nâu, đi ra ngoài phố được một quãng, lão gọi một chiếc xích lô bảo đưa đến một cái địa chỉ trong thành phố. Đấy là một cái địa chỉ với những con số lẫn hàng chữ viết trên đầu phong bì của những lá thư giấy pơ-luya, trong nhiều năm nay vẫn xếp chồng lên nhau dưới đáy một cái chum.
    Đến lúc này, lão Khúng đã quyết định xé bỏ cái thỏa ước đã ký với vợ hai mươi năm trước.
    Người xích lô đổ lão xuống trước một ngôi nhà sáu tầng mái bằng ở đầu hồi có chữ B4. Có lẽ đến gần một tiếng đồng hồ, lão Khúng cứ quanh quẩn chung quanh giải bờ hè chân tường, rảo bước đi vòng quanh ngôi nhà hết vòng này đến vòng khác đến mỏi rũ cả chân: " Rõ nhà với cửa, cứ y như một cái hộp sắt tây đậy kín mít, nghe bên trong nhạc xập xình như có đám cưới, lại thấy các tầng quần áo đang phơi, lại thấy cả những cái mặt người ló ra y như một lũ chim bồ câu đang gù trong cái chuồng: có người ở chứ không phải nhà đi vắng hết, vậy mà tìm mãi vẫn chẳng thấy cổng ngõ ở đâu cả!".
    Lão lại tốn một tiếng đồng hồ nữa để đi lạc lung tung ở bên trong, hết leo lên tầng thượng đỉnh lại lộn xuống tầng dưới cùng, rồi lại được chỉ dẫn phải leo lên... " Ừ cũng lạ, sống như thế này mà cũng sống được, chẳng có vườn tược, chẳng cây cối, ăn, ở chồng chất lên đầu nhau, chỉ thấy tường và tường, chả trách người nào người nấy cứ trắng nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ, là phải!...".
    Lão đã bắt đầu ngột thở, khi đứng trước cửa gian phòng đang định tìm. Mới đặt một bàn chân lên tấm cói chùi chân, lão đã chợt nhìn thấy thằng Dũng nhà mình - đến hôm nay đã ăn mặc quần áo bộ đội đang ngồi trong nhà.
    Lão sửng sốt, rụng rời cả chân tay.
    Có lẽ thằng Dũng cũng như lão, lần đầu tiên đến đây và cũng vừa chợt đến.
    Thằng con lão không kịp trông thấy lão, bởi ngay sau đó, tức tốc lão đã quay lưng lại và bổ nhào xuống cầu thang.
    Từ bấy giờ cho đến tối, lão đi lạc lung tung trong thành phố. Những bức tường chi chít và những ngõ phố khúc khuỷu như đang bày trò chơi ú tim với lão, chế nhạo lão. Đèn trong các lùm cây và trong các gian nhà đã bật sáng, mà lão vẫn không sao tìm được lối về. Toàn thân lão run lẩy bẩy như người lên cơn sốt và trong tâm hồn lão tự nhiên dâng lên một nỗi niềm cô độc, lão lẩm bẩm gọi tên từng đứa con. Lão cầu xin đàn con đừng bỏ lão mà đi, mà hãy ở lại với lão, hãy ở lại với đất cát.
    Mười giờ đêm lão mới tìm về đến nhà người chú giữa lúc cả nhà đã tỏa đi tìm các ngả.
    Lão nhất định không kể lại cho Định biết một điều gì. Mặc dầu Định quyết giữ lại ở thêm một ngày nhưng lão Khúng vẫn một mực xin phép vợ chồng ông chú được về.
    Lão vội vã gói buộc đồ đạc ra tàu.
    Quá nửa đêm, tàu mới bắt đầu lăn bánh.
    Khi những luồng gió không có gì cản trở, tự nhiên thổi ***g lên trên nóc và hai bên cửa sổ toa tàu hỏa, trong đêm lão Khúng nhận ra luồng gió man dại quen thuộc, và biết mình đã ra khỏi thành phố, đang trở về với đất cát hồn nhiên và hoang dã...

    Love to live
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Trầm Hương
    Nước Mắt Thời Gian ( I )
    Người chỉ huy sững sờ trước bức điện mật. Ông không tin vào mắt mình, đọc lại nó lần nữa, rồi lần nữa. Nội dung bức điện: Nguyễn Thị Lài, sinh năm... Quê quán: Ngã ba Vịnh Chèo Cần Thơ. Bí số... là gián điệp đã cung cấp tin tức quân sự miền nam cho CIA. Yêu cầu thẩm tra, xử lý. Chị Lài cấp dưỡng mà là gián điệp ư? Ông không thể tin, cho dù bức điện đòi xử tử người phụ nữ ấy đang hiển hiện trong tay ông. Ai thì ông không biết, chớ chị Lài thì ông nắm rất rõ. Chị là giao liên thời kháng chiến chín năm chống Pháp. Thoát ly lên rừng từ sau Đồng Khởi. Chồng chị là bộ đội. Cảnh vợ chồng ngâu vài ba năm mới được gặp nhau. Chị siêng năng, chăm chỉ, hiền lành, ít nói. Bữa cơm của anh em trong cơ quan được chị giành giật giữa những trận càn, ném bom của địch, những cuộc bể dâu lúc cơ quan nháo nhào di tản khi hay tin điệp báo. Rồi những ngày mưa bão, cây cối ngả nghiêng, nước lụt... Gạo hiếm, củi ướt, cái ăn trở nên hết sức khó khăn. Vậy mà bữa cơm của anh em vẫn được chị chăm chút bằng cả tấm lòng. Bàn tay chai sần của chị như ẩn giấu phép mầu. Nơi nào có chị chạm đến là đất nở thành hoa. Màu xanh theo chị hiện hữu, sự sống theo chị tái sinh. Chị trồng bầu bí, nuôi gà, nuôi heo... cải thiện cho đơn vị. Những lúc phải di chuyển cơ quan, chị vất vả cho những con gà vào ***g, lích kích bắt những chú heo bỏ vào bao. Dưới lằn đạn, chị thoăn thoắt chèo chiếc thuyền vun tú ụ nào bồng bột hạt giống, gà vịt, nồi niêu, xoong chảo... Vào những ngày chiến khu bị vây hãm, chị đã bình tĩnh, nhẫn nại chăm sóc anh em. Người chỉ huy vô cùng xúc động trước quả trứng chị dành cho ông mỗi ngày. Thật kỳ lạ, chính những ngày tình thế nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc ấy, chiến khu bị dồn đến những cánh rừng già giáp biên giới Cambodia, sự bình dị, ung dung của chị đã góp phần làm ông vững niềm tin vào thế phản công của tương lai. Còn chị Lài là cuộc sống còn duy trì. Để mỗi ban mai thức dậy, mọi người tin vào sự bền vững của cuộc sống bằng những nụ bầu, nụ bí, hoa cà, hoa cải, liếp rau phủ xanh khoảng đất ven bờ suối xung quanh cơ quan. Còn chị Lài là họ còn nhìn thấy sự sống hiển hiện trong từng quả trứng, trong tiếng kêu chiêm chiếp của gà con mới nở, trong làn khói bếp, trong âm thanh của đời thường. Vì cuộc sống của đơn vị, bàn tay chị sần chai, má chị rám nắng, nước mắt nước mũi ràn rụa vì bếp tắt, củi ướt. Chị không một lời than vãn, luôn nở nụ cười tươi trên môi dù nước mắt chực trào lăn trên má trước lời động viên, chia sẻ của vị chỉ huy. Chị luôn cảm thấy mình nhỏ bé, xa lạ, khép nép trước những tấm bản đồ, những chiến lược, chiến thuật mà bộ phận chỉ huy bàn bạc đến. Chị là người phụ nữ mát tay cho những công việc bình thường, lặng lẽ, để yêu thương, chăm sóc mọi người. Chị chỉ có lòng trung thành, tận tụy; xa lạ với chính trị, chiến tranh... Tại sao lại có bức điện này. Một người như chị lại là gián điệp ư?!. Giữa lúc ấy chị Lài bưng mâm cơm đặt trên một gốc cây lớn đã được cưa bằng phẳng dùng làm bàn ăn. Người chỉ huy lặng lẽ quan sát chị Lài trong cái dáng quay nghiêng, khum khum đặt mâm cơm xuống gốc cây một cách nhẹ nhàng, se sẽ. Chị Lài có gương mặt tròn, đôi mắt mở to, đen nhánh với cái nhìn ngơ ngác, phúc hậu. Chiếc mũi hình giọt mật tròn trĩnh càng làm cho gương mặt chị hài hòa. Tóc chị được búi cao, để lộ chiếc cổ cao, thon gầy. Người phụ nữ này mà là gián điệp ư?!. Một tiếng nói khác, lạnh lùng và tỉnh táo vang lên trong đầu ông: "Nhưng những con "thiên nga" bao giờ cũng mang dáng vẻ của những thiên thần. "Họa hổ, họa bì nan họa cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm". Ông bà mình đã từng cảnh giác lòng dạ nông sâu của con người. Đại dương sâu thẳm còn đo được nhưng lòng dạ con người quả khó dò. Bức điện được đánh từ trung ương cục đến tay ông là cả một vấn đề cực nghiêm trọng. "Theo dõi, thẩm tra, xử lý". Tất nhiên rồi. Người chỉ huy lặng lẽ thực hiện từng bước một quá trình xử lý. Nhưng trong thâm tâm, ông không muốn tin vào nội dung bức điện mật kia là sự thật. Bàn tay ông sẵn sàng vấy máu kẻ phản bội, những con "phượng hoàng", "thiên nga" đáng sợ hơn diều hâu, cú mèo tanh hôi. Nhưng vấy máu một người vô tội, một phụ nữ mát tay, hiền hậu, đảm đang như chị Lài đối với ông sẽ là điều làm lương tâm đáng xấu hổ.
    "Mà chị ấy..."... Người chỉ huy chạnh lòng nghĩ đến hoàn cảnh của chị Lài. Chị khao khát cháy lòng ngày chiến tranh kết thúc để gặp lại chồng, để sinh những đứa con. Bao giờ, bao giờ chiến tranh kết thúc?!. Chị Lài ơi, chị đã từng tâm sự với tôi như thế mà, sao giờ này lại tự đào mồ chôn chị bằng hành vi chiêu hồi gián điệp. Nếu đúng chị đã phạm vào tội danh làm gián điệp, cung cấp tin tức cho CIA, chắc chắn chị phải đền tội. Chị có biết rằng cái chết đang giăng trên đầu chị không. Chị Lài mỉm cười tươi tắn, hiền dịu mời người chỉ huy ăn cơm. Chị vốn lặng lẽ, ít lời nên như cái bóng, nhẹ nhàng bước ra khỏi ngôi nhà sàn của ông. Nụ cười chúc ông ăn ngon miệng của chị Lài bỗng làm miếng cơm đắng ngắt trong miệng ông...
    Nhưng bức điện vẫn là bức điện. Nó trĩu nặng lòng người chỉ huy. Trong việc này, ông hiểu mình không được quyền để tình cảm chi phối. Một chiến dịch điều tra được bủa lưới từ trên trời, dưới đất, mặt sông, cánh rừng, cả không khí người nữ cấp dưỡng thở dường như cũng bị soi rọi, phân ly ra từng chất riêng biệt. Ông cho rà xét lại những cơ quan khác có phụ nữ làm việc. Cũng không một ai trùng với tên chị Lài, ngày tháng năm sinh, bí số. Vậy là khả năng nhầm lẫn của bức điện mật về địa chỉ đã bị loại bỏ. Cần phải điều tra ngay chính nơi phát sinh nguồn gốc. Đôi mày rậm của người chỉ huy cau lại, đăm chiêu nghĩ ngợị Làm gián điệp ư?!. Nếu vậy thì chị ta phải thường xuyên liên lạc với ai đó mới nhận và chuyển được tin. Chị ta phải lén lút gặp ai đó? Suốt một tháng trời cho bảo vệ theo dõi, ông nhận ra chị Lài vẫn bình chân như vại. Mỗi ngày chị vẫn tưới rau, nuôi gà lấy trứng, nấu cơm, chăm sóc cho ông và những người chung quanh với sự tận tâm như người mẹ, người chị trong gia đình. Không một ai đến với chị, ngoài người bảo vệ được lệnh bí mật canh giữ chị, vào những đêm khuya quá mỏi mệt, rã rời đành phải xin chị chút gì cho vào bụng. Chị săm săm xuống bếp nổi lửa, tìm cái gì đó nấu nướng cho anh. Gương mặt chị tràn ngập nét bao dung, sung sướng khi nhận ra anh bảo vệ cúi mặt xuống bát cháo húp roàn roạt, nước mắt nước mũi ràn rụa vì vị ớt cay, mùi hành nồng ấm át đi vị tanh của trứng trong chén cháọ ăn cháo khuya có sức rồi anh ta lại canh giữ, rình rập chị. Đôi mắt nhỏ nhưng tinh nhanh của anh ta dán chặt vào lỗ trống của căn buồng nhỏ dành cho chị. Một chiếc giường bằng tre nứa với vài món đồ đạc dành cho phụ nữ đơn sơ. Đặt lưng xuống giường là chị ta ngủ thiếp đi. Người bảo vệ nhận ra chi. Lài đang ấp vật gì xem chừng thật quý giá lên ngực. "ái chà, chìa khóa vấn đề là ở đây rồi. Điện đài, chắc mẻm là điện đài. Mụ ta đang liên lạc đấy!". Bằng nghiệp vụ của người làm nghề điều tra, bảo vệ, anh ta cố phát hiện xem chiếc điện đài được ấp ủ trong lòng bàn tay của người đàn bà ra sao. Anh ta hình dung ra gương mặt rạng rỡ của người chỉ huy khi chìa khóa vấn đề đã được giải mã. Mọi bí mật đã được vén lên, phơi bày sự thật hai năm rõ mười: "Nguyễn Thị Lài, trong vỏ bọc cấp dưỡng là gián điệp". Nhưng anh ta hoàn toàn thất vọng. Chị Lài đã ngủ thiếp đi. Và cái mà chị nâng niu trong lòng bàn tay, đặt trên ngực trái là một chiếc lược bằng gáo dừa. Có lẽ quá mỏi mệt sau một ngày làm việc vất vả, chị ngủ thiếp đi, quên cả việc tắt chiếc đèn dầụ Ngọn đèn cứ leo lét. Cho đến khi có ngọn gió mạnh lùa vào bức vách làm nó tắt ngấm. Bóng tối hoàn toàn chiếm hữu căn phòng. Và bí mật về chị Lài vẫn khép lại trong bóng tối...
    - Lúc này cậu ít đi công tác hả?
    Chị Lài mang cho Việt, người được cắt đặt để giám sát mọi hành vi của chị một quả trứng mới luộc còn nóng hổị Lúc nào, nụ cười thân ái của chị cũng nở trên môi. Nếu như ngày trước, mỗi khi bắt gặp nụ cười hiền hậu ấy của người cấp dưỡng là niềm vui ấm áp, lan tỏa trong anh thì giờ đây, nụ cười ấy của chị làm anh đầy cảnh giác. "Con "thiên nga" này tinh quái thật. Được rồi, mình sẽ có cách...". Việt vờ thở dài ngao ngán:
    - Bọn chiêu hồi lúc này ra đầu thú nhiều quá. Sau Mậu Thân, tình hình thật căng thẳng...
    Chị nhìn ra cánh rừng như tìm kiếm ai đó, đôi mắt đượm buồn. "Con mụ này đánh trống lảng hay thật!". Việt thầm nghĩ. Anh vờ ngáp, đưa tay vò mớ tóc bù xù, than thở:
    - Tóc em lúc này ra dài quá mà chưa kịp cắt. Chị cho em mượn cái lược đi!
    Love to live
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Trầm Hương
    Nước Mắt Thời Gian ( II )
    Chị lặng lẽ vào buồng rồi trở ra, trao cho Việt cái lược bằng nhựa. Anh lắc đầu quầy quậy như đứa trẻ:
    - Loại này chải không đã. Răng nó mềm lắm, mà chị xem, tóc em như rễ tre!
    Chị bật cười. Ngập ngừng một lúc chị lấy cho anh cái lược bằng gáo dừạ Việt như giật lấy nó. Anh ngắm nghía, trầm trồ vì mầu đen tuyền ngời lên bóng thời gian của nó. Đích thị là một cây lược hẳn hoi, một cái lược thuần túy. Anh căng mắt, soi nó lên trong ánh sáng, mong tìm thấy những nút bấm hay những dấu hiệu khác thường... Không thấy có gì đặc biệt, ngoài hàng chữ nắn nót khắc trên lưng nó: "Gửi em Lài yêu thương. Côn Đảo". Chải qua loa mái tóc, Việt trao chiếc lược cho chị Lài. Chị áp nó vào ngực, nước mắt rưng rưng nói:
    - Kỷ vật của ảnh đó. Hồi ảnh ở tù Côn Đảọ Cái số vợ chồng tôi vậy đó, thầy bói nói rồi: lấy nhau, yêu thương, chung thủy nhau suốt đời nhưng phải tội cảnh vợ chồng ngâu. Mà thiệt vậy, lúc ảnh ra khỏi tù cứ nghĩ vậy là vợ chồng đã sum hiệp mãi mãi, nào ngờ tôi công tác một ngả, ảnh đi bộ đội. Một năm gặp nhau được một lần cũng là phúc đức lắm!
    Đột nhiên, Việt cũng cảm thấy lòng rưng rưng theo lời kể của chị. "Không, ta không được đa cảm. Những con "thiên nga" bao giờ cũng mang dáng dấp thiên thần. Thủ trưởng mình thường nói vậy. Hãy đặt Cách mạng miền Nam lên trên hết!". Việt tự trấn tĩnh, dù ngoài mặt vẫn giữ vẻ sẵn sàng chia sẻ cùng chị nỗi khổ của một người vợ xa chồng...
    Lòng háo thắng của tuổi trẻ càng khiến Việt muốn tìm hiểu cặn kẽ cội nguồn của vấn đề: Lài vô tội hay gián điệp. Đêm đêm, đôi mắt tinh tường của anh lại dõi vào căn buồng của chị. Hầu như khi chui vào buồng là chị không được bước ra ngoài, cả việc tiểu tiện chị cũng tìm cách giải quyết tại chỗ. Chị giải thích đặc tính đó của mình trong một lúc Việt làm ra vẻ hờ cơ hỏi: "Chị sợ ma, sợ rắn lắm!". "Hừ, con mụ này cũng ghê gớm thật. Mụ đánh lạc hướng cũng khá tài tình. Nhưng xui rủi là mụ gặp tay Việt này...".
    Tim Việt chợt đập thình thình. Hôm nay, chị Lài đang se sẽ mở chiếc hòm bằng gỗ đựng những vật dụng cá nhân ra. Chị đăm đăm nhìn vật gì trong đó. Chị giở từng thứ sắp ra ngoài, ngắm nghía cái gì dưới đáy hòm... Anh cố tình kiễng chân lên. Nhưng đáy hòm sâu quá, lại được đặt trong một góc khuất khiến anh không thấy gì. ánh đèn dầu lại leo lét thế kia. Chị đứng lặng hồi lâu, gương mặt nghiêm trang, rồi lại nhìn trước, ngó sau như sợ có ai đó theo dõi. Đoạn chị chất từng thứ lôi ra giường cho lại vào hòm như cũ. Chị dùng ống khóa nhỏ xíu bóp lạị Việt suýt reo lên: "Phải rồi, mọi bí mật là trong chiếc hòm gỗ nàu. Con cá đã được nằm trên thớt. Phen này mụ cấp dưỡng phải bị vạch mặt. Thật không thể tin được, đích thị mụ ta là gián điệp!". Việt đi như chạy đến chỗ ngủ của thủ trưởng. Anh ghé miệng vào tai ông. Người chỉ huy bật dậy như chiếc lò so. Ông ta khoác thêm chiếc áo rồi vớ lấy chiếc đèn pin. Cả hai lầm lũi bước về phía căn buồng của người cấp dưỡng... Chợt người chỉ huy ngồi thụp xuống, ôm lấy chân "ối!". Ông rên lên đau đớn, mắt hoa, tai ù đị "Rắn!". Việt không còn nhớ đến công việc tối quan trọng của mình là rình rập căn buồng của người cấp dưỡng. Điều quan trọng của anh bây giờ là làm sao cứu sống được thủ trưởng.
    Một con rắn đã đớp vào chân người chỉ huy rồi phóng vút qua mặt anh. Trong ánh trăng lờ mờ, cái quăng mình của con rắn mới kinh khiếp làm sao. Nó bất ngờ, độc địa như lưỡi hái của tử thần.... "Rắn, rắn, rắn". Sự bình tĩnh của một thám tử không còn nữa, anh gào lên... Lài cầm đèn pin bước rạ Dưới quầng sáng hiện ra từ bàn tay chị, người chỉ huy đang nhăn mặt đau đớn. Nhanh như cắt, chị xé chiếc khăn rằn đang quấn trên cổ buộc ga-rô cho ông. Không chút suy tính, chị dùng miệng hút chất độc từ vết thương của ông. Rồi chị xăm xắm bước ra phía vườn rau bìa rừng rọi đèn pin hái những đọt chùm ngót. Chị nhai nắm chùm ngót đắp lên vết thương cho ông, một phần chị nuốt vào bụng... Chị giã thêm một nắm nữa, lấy nước đổ vào miệng ông. Những công việc ấy chị làm thành thạo, thoăn thoắt. Chị cùng Việt dìu người chỉ huy trở về chỗ ở của ông. Khi ông đã yên vị trên giường, chị nói:
    - Chị đã sơ cứu rồi. Em đi gọi thầy thuốc rắn đến cho chú ngay đi. Nhanh lên em. Chị đi nấu cháo đậu xanh cho chú ăn giải độc...
    Chị xăm xắm bước đi. Thầy thuốc gia truyền trị rắn là một cán bộ trong chiến khu. Những món thuốc của ông đã đẩy lùi cơn nguy kịch của người chỉ huy. Ông thở phào nhẹ nhõm:
    - Con rắn này rất độc, may mà miệng chị không có vết xước!
    Trên đôi má xanh xao của người chỉ huy chợt đọng những giọt nước mắt lặng lẽ. Ông là người từng trải, đã từng chứng kiến bao thăng trầm, vinh nhục, những ngày tiến vào thoái trào... Nhưng có những điều ông vẫn thấy mình bất lực, khó hiểu trước con người. Nếu không có hành động dũng cảm của chị, không có nắm lá chùm ngót, tô cháo đậu xanh của chị?! Nếu thực sự Lài là gián điệp, giữa chị và ông đã là hai người của hai chiến tuyến, sao chị không bỏ mặc ông, còn quên cả bản thân mình cứu sống ông?! Lòng người nông sâu quả là khó dò. Con người vẫn là thứ khó hiểu nhất trên trần gian này. Bức điện lại cộm lên trong lòng ông. Ông gọi Việt đến, bàn bạc công việc...
    Ngày hôm sau một cán bộ cùng chị Lài đi phát cánh rừng ven bờ suối. Anh nói:
    - Trưa nay để Việt ở nhà phục vụ thủ trưởng. Chị nấu xôi mang theo, chiều tối ta mới về.
    Chị vui sướng được rời cơ quan đi làm rẫy. Chị rất muốn có thêm quả bầu, quả bí, con gà, nắm rau cho đơn vị. Từ cơ quan đến đó khá xa nhưng chị vẫn không nề hà. Sợ Việt không quen nấu nướng, chị đã chuẩn bị mọi thứ trong bếp cho anh. Gạo chị đã vo sẵn, rau, mắm chị cũng đã làm sẵn... Chị quàng lên đầu chiếc khăn rằn đã bị xé nham nhở để buộc ga-rô cho người chỉ huy đêm qua. Lòng Việt chợt đau nhói. Anh dự định có dịp sẽ mua tặng chị chiếc khăn thật đẹp...
    Buổi trưa trong căn phòng người cấp dưỡng thật thinh vắng. Người chỉ huy nhận ra rằng từ lâu mình đã thật vô tâm không nhìn ngó đến cái góc lãng quên, hẩm hiu này. Buồng của chị không khóa. Nhưng chiếc hòm gỗ với cái ống khóa bé xíu càng kích thích vào sự hoài nghi của hai người. Việt nhìn người chỉ huy ngầm nói: "Thủ trưởng hãy yên tâm, gì chứ chuyện mở khóa là nghề của em". Anh dùng một thanh sắt mỏng, dẹt cho vào ống khóa. Vài cái lắc tay, nắp hòm bằng gỗ đã được bật lên. Cả hai người hồi hộp nhìn vào. Họ giở từng thứ, theo thứ tự, cách xếp đặt sao cho khi đặt những thứ đó trở lại hòm không mất dấu. Một chiếc dù hoa, một miếng mùng có găm miếng giấy được viết bằng dòng chữ nắn nót nhưng vụng về: "Em mong ngày hòa bình vợ chồng con cái chúng mình sẽ được ngủ trên một chiếc giường đàng hoàng. Em sẽ giăng chiếc mùng này...".
    Việt không khỏi rùng mình khi bàn tay anh chạm vào những thứ dùng cho người phụ nữ lúc hành kinh. Lòng anh lại rưng rưng vì những tấm vải mùng thô ráp. Vài thứ vật dụng dành cho phụ nữ chẳng đáng trị giá hơn những tấm giẻ rách. Nhưng kìa, cha mẹ ơi, chiếc hộp con sơn mài mầu đen tuyền và cái bọc bằng ni-lông dưới đáy vali đập vào mắt hai thám tử. Chìa khóa vấn đề ở đây rồi. Việt hồi hộp mở chiếc hộp ấy. Họ chờ đợi điện đài, hay tài liệu, mật mã... Nhưng kìa, trên tấm vải lót chiếc hộp mầu đỏ thẫm là một đóa hoa mai vàng đã ép khô. Việt căng mắt nhìn dòng chữ viết trên tấm vải đỏ: "Đóa hoa mai anh hái bên bờ suối tặng em ngày cưới". Việt thần mặt trước đóa hoa. Trong đầu anh diễn ra những ý nghĩ trái ngược: "hoặc là mụ ta vô tội, hoặc là mụ ta là một gián điệp đại tài. Nhưng lẽ nào tài liệu được ẩn giấu trong đóa mai đã khô xác vì năm tháng này chăng?! Còn chiếc bọc nữa... Người chỉ huy gật đầu ra lệnh cho Việt khám phá tiếp. Anh nín thở lấy từng thứ trong chiếc bọc ra. Càng bất ngờ hơn cho anh, đó là những chiếc áo xinh xắn, bé xíu dành cho trẻ sơ sinh. Lại nét chữ vụng về, nắn nót của Lài: "Ngày hòa bình em sẽ sinh con". Anh giũ từng chiếc áo được may bằng tấm vải dù trắng tinh, nhẹ hẫng, soi rọi nó dưới ánh nắng, mong tìm thấy những dấu hiệu "gián điệp". Nhưng trước mặt anh vẫn là những chiếc áo trắng muốt, xinh xinh, phơ phất như những cánh **** trắng mong manh... Anh nhận ra những giọt nước mắt lăn dài trên đôi gò má xanh xao của người thủ trưởng. Việt sắp đặt mọi thứ trở lại vị trí cũ, nhẹ nhàng, se sẽ, bàn tay anh run lên như một tội đồ, còn người chỉ huy thì đứng cúi đầu, cố giấu đi những giọt nước mắt. Khi mọi thứ đã yên vị, họ lặng lẽ rời gian buồng của người cấp dưỡng. Mắt họ gặp nhau, đầy thất vọng, hoang mang, xa vắng...
    Giữa lúc còn đang phân vân, người chỉ huy lại nhận thêm bức điện mật: "Đã xử lý chưa?". Một câu hỏi thường trực vang lên trong đầu ông: "Người đàn bà ấy có tội hay vô tội. Chẳng lẽ chị ta làm gián điệp bằng đóa mai vàng khô xác, bằng những chiếc áo trẻ sơ sinh được cất giữ trong một góc sâu kín, riêng tư. Bằng khả năng nghiệp vụ và linh tính mách bảo, ông tin chị Lài không thể là gián điệp. Vậy cội nguồn những bức điện kia là ở đâu? Người chỉ huy cũng không thể lý giảị Nhầm lẫn, nhiễu sóng, bị vu oan, bị ăn cắp tên... Trăm ngàn dấu hỏi hiển hiện trong đầu ông. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng này, để làm sáng tỏ một sự oan khuất quả thật nhiêu khê. Còn có bao điều khiến ông phải tập trung thần kinh để đối phó. "Nếu chị ta là gián điệp thì đã đành rồị Nhưng nếu như chị ta vô tội?!". Những chiếc áo trẻ sơ sinh trắng muốt, mong manh lại làm lòng ông trĩu nặng. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu ông: Đưa chị Lài ra cánh rẫy tăng gia. Sự vắng mặt chị ở cơ quan là giải pháp có lợi cho cả đôi bên. Mà cách ly chị ra ngoài ấy, sống một mình, thui thủi trong căn chòi lá, làm bạn với trăng sao, nương rẫy, chim chóc, phải làm việc quần quật để "tăng gia" thì quả thật cuộc đời chị ta kể như đã chết. Ông đánh bức điện trả lời: "Đã xử lý".
    "Đi tăng gia". Chị Lài ngơ ngác nhìn người chỉ huy. Đôi mắt chị cụp xuống, những giọt nước mắt lăn dài trên đôi gò má bầu bĩnh:
    - Cháu đi rồi không biết có ai chăm sóc chú, chăm sóc anh em. Từ nay, có còn ai để cháu dành phần trứng gà, nấu cháo, nấu chén canh ngon nữa...
    Người chỉ huy cố che giấu sự đa cảm của mình. Ông làu bàu:
    - Chị làm như chị quan trọng lắm vậy! Chị đi rồi khắc cũng có người thay. Mỗi người một nhiệm vụ!
    Chị Lài kéo chéo khăn lau nước mắt. Đoạn chị cúi xuống, xốc hai cái bồng lên vai. Một đựng quần áo, vài thứ lặt vặt liên quan đến phụ nữ. Một đựng xoong, nồi, những bọc hạt giống cho chị tăng gia (những thứ chị mang theo đã được người bảo vệ bí mật kiểm tra). Chị quay lại nhắn Việt:
    - Chị gửi lại em chiếc rương gỗ. Nhớ giữ kỹ giùm chị nghen!
    Hình như sợ mình sẽ òa khóc, chị xăm xắm bước đi. Người chỉ huy nhìn theo chị mông lung nghĩ: "Nếu chị ta là gián điệp đích thực thì... con mụ này đóng kịch giỏi thật. Còn nếu như không phải... thì thật đáng thương. Thôi thì để chị ta đi tăng gia...".
    Ông quay sang Việt, dặn dò:
    - Nhớ giữ kỹ chiếc rương gỗ cho chị Lài!
    Mấy tháng sau ngày chị Lài đi tăng gia, cơ quan liên tục nhận được những quả trứng, quả bầu, bí mà chị đã trồng. Chị không quên một ai trong cơ quan mà chị đã từng chăm sóc. Chị đánh dấu từng ngày lên quả trứng gửi về cho vị chỉ huỵ Chị gửi về cho Việt từng chiếc quần cụt được may bằng vải dù do chị nhặt được từ những chiếc máy bay thả xuống. Chị gửi về cho người ốm yếu nhất cơ quan những bầu mật ong... Mọi người có thể quên chị, nhưng chị không quên aị Cho đến ngày chiến thắng... Người chỉ huy đã giữ đúng lời hứa trao trả lại cho chị chiếc rương gỗ. Nhưng ông không thể nói lời giải thích trước ánh mắt chị nhìn xoáy vào ông như một câu hỏi của số phận. Ba năm "tăng gia", chị già nua, héo hắt, đen đúa và trở nên xấu xí như một con quạ già cô độc. ánh mắt của chị nhìn xoáy vào ông, dài dại, đờ đẫn, xa vắng, như hỏi mà không hỏi khiến người chỉ huy bỗng cảm thấy mình bé nhỏ, run sợ trước một sức mạnh vô hình đang giăng lưới trước sự thành đạt, vinh quang của ông. Những tấm huân, huy chương trên áo chợt làm ngực ông trĩu nặng...
    Love to live
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Trầm Hương
    Nước Mắt Thời Gian ( III )
    Hòa bình. Cơ quan đóng sâu trong cánh rừng già biên giới mà chị từng phục vụ sẽ chuyển về thành phố sáng choang ánh điện. Không còn ai cần đến chị nữa, cả cái rẫy tăng gia chị đã bị lưu đày ba năm trời như một An Tiêm cô độc. "Tôi sẽ đi đâu?". Đáp lại cái nhìn đầy khẩn thiết của chị là sự bối rối, thái độ lạnh lùng, khó hiểu của mọi người. Chị tủi thân òa khóc khi cầm trên tay quyết định nghỉ hưu. "Tôi còn quá trẻ". Cũng không ai dám đáp lại lời chị. Vẫn những ánh mắt lạnh lùng, nghiêm khắc, khó hiểụ "Chồng tôi đâu? Anh ấy có ghé qua đây không? Có thư từ gì của anh ấy không?". Mọi người cúi đầu im lặng. Chị đau đớn, rã rời, gần như điên dại, ôm chiếc rương gỗ thất thểu rời khỏi cánh rừng...
    Chị trở về quê hương với ngôi nhà bé nhỏ trong khu vườn khô xác, cằn cỗi vì chiến tranh bên bờ sông Ngã Ba Vịnh Chèo. Tài sản duy nhất chị có được sau mấy mươi năm tham gia kháng chiến vẫn là chiếc rương gỗ, nơi cất giữ đóa mai đã khô xác năm nào trong ngày lễ thành hôn người chồng đã hái tặng chị, những chiếc áo sơ sinh chị cặm cụi cắt may dưới ánh đèn tù mù trong căn cứ, chiếc mùng của khát khao, chờ đợi... Chị lấy chiếc mùng ấy giăng trong buồng ngủ đợi anh về... Những ngày chiến tranh ác liệt, chị đã từng khao khát đến cháy lòng đó sao: Sẽ có ngày hòa bình, vợ chồng, những đứa con sẽ được ngủ trên chiếc giường êm ái. Không như ở chiến khu, vợ chồng gặp nhau vội vã, đêm phải di chuyển mấy lần vì bom pháo, muỗi vây bủa hàng đàn. Bây giờ đã là hòa bình. Sao anh không về, để chị còn sinh con... Một năm, hai năm, ba năm... Chồng chị cũng không trở về. Cứ mỗi chiều chị đi dọc bờ Ngã Ba Vịnh Chèo ngóng trông, mòn mỏi. Chị đợi chồng, cho đến khi những tia cuối cùng của hoàng hôn tắt lặn dưới đáy sông, trùm lên chị là bóng tối, cô đơn, mờ mịt. "Bà điên, bà điên!". Lũ trẻ ném vào chị lời trêu chọc. Chị vẫn câm lặng, dửng dưng, đôi mắt vô hồn nhìn vào bóng tối, còn đôi chân theo quán tính đưa chị trở về ngôi nhà vắng tanh, cô độc. Chị đổ gục xuống chiếc giường rộng thênh thang, mặc cho nước mắt chảy tràn...
    Sáu năm sau ngày hòa bình...
    Trung tá quản giáo Thành ngồi đối diện với một sĩ quan mật mã CIA trong một trại giam của một tỉnh miền núi giáp biên giới phía bắc. Đêm ấy rét ngọt. Đồi núi trĩu nặng hơn bởi bầu trời không khí đầy hơi ẩm. Tách trà nóng giữa đêm đông lạnh lẽo giúp cuộc nói chuyện giữa hai con người, hai chiến tuyến trở nên thẳng thắn, cởi mở hơn. Ông Thành cúi xuống quyển hồi ký của viên sĩ quan mật mã, thành thật khen:
    - Chữ viết của anh rất đẹp!
    - Cảm ơn lời khen của ông.
    Dưới ánh đèn, mái đầu của người trung tá quản giáo lẫn phạm nhân đã ngả sang mầu sương khói. Gương mặt khắc khổ của ông Thành sáng lên nụ cười chân thành, sau khi đọc lướt qua những dòng hồi ký của phạm nhân:
    - Cảm ơn anh vì sự trung thực, cho dù sự trung thực đó không hoàn toàn dễ chịu đối với chúng ta. Ngày mai anh đã được trở về miền nam, anh đã là một con người tự do. Sự trung thực sẽ giúp chúng ta xích lại gần nhau trong tình bạn...
    Một nụ cười kín đáo lướt qua đôi môi mỏng của anh ta:
    - Còn tôi, tôi vô cùng cảm ơn ông. Suốt 6 năm qua, ông đã dành cho tôi nhiều phương tiện để viết hồi ký. Tôi xin được phép bày tỏ nỗi lòng mình với ông đêm nay. Tôi dễ gần gũi với ông vì sự khắc khổ, vì nỗi buồn phảng phất trên nét mặt. Tôi còn được biết ông hoàn toàn cô độc. Biết được nỗi khổ, uẩn khúc của nhau người ta dễ cảm thông nhau hơn. Sáu năm qua, tôi hiểu ra rằng, khi chiến tranh kết thúc, kẻ chiến thắng lẫn người chiến bại đều mất mát, bất hạnh... Chẳng hạn như tôi, 6 năm trời xa vợ con. Còn ông, không biết vì một uẩn khúc nào đó mà cuộc sống khô cằn, trơ trụi...
    Ông Thành cúi mặt xuống tách trà, lẩn tránh cái nhìn sắc sảo của anh ta. Ông mỉm cười buồn: "ừ, anh ta triết lý vụn nhưng mà đúng. Suốt cuộc đời tham gia chiến đấu, ta cũng không nghĩ rồi mình có mặt nơi một trại giam xa xôi, heo hút, buốt giá này, làm công việc quản giáo những tên tù chính trị sừng sỏ. Không bao giờ mình nghĩ...". Viên sĩ quan nhìn mông lung vào bóng tốị Chợt anh ta thở dài:
    - Có những điều tôi chưa nói hết trong hồi ký. Nhưng thật kỳ lạ, sao có những chi tiết thật nhỏ nhặt trong nghiệp vụ cứ làm lòng tôi trĩu nặng khi chợt nhớ đến. Vâng, những chi tiết nghiệp vụ, không liên quan gì đến tôi, mà sao tôi không quên được, thưa ông...
    - Thì anh thử kể nghe xem...
    Ông Thành động viên. Giọng viên sĩ quan xa vắng, ngậm ngùi:
    - Đúng là việc không liên quan gì đến tôi. Đầu năm 1970, có một nhóm người phía bên các ông ra đầu thú, đã khai báo một số tin tức quan trọng về tình hình quân sự miền nam. Viên sĩ quan CIA Mỹ hỏi một người trong số ra đầu thú: "Anh có quen biết ai ở bộ tư lệnh cao cấp cách mạng miền nam không?". Trầm ngâm một lúc, mắt anh ta sáng lên: "Có. Nhưng chị ấy chỉ làm cấp dưỡng thôi. Chị ấy cùng quê với tôi. Tôi biết chị ta từ hồi còn học tiểu học". Đến lượt mắt của tên sĩ quan rực sáng. Hắn hỏi dồn: "Bây giờ anh có liên lạc với chị ta không?". Hắn đáp: "Lâu rồi tôi không gặp chị ấy. Nhưng những người trong cơ quan nhắc đến chị ấy với tình cảm đặc biệt. Họ khen chị ấy tốt, tận tụy với tất cả mọi ngườị Chị ấy rất đảm đang, chịu khó...". "Very good". Tên sĩ quan Mỹ gật gù. Từ ấy trở đi, với vai trò của một sĩ quan mật mã, tôi liên tục đánh những bức điện cung cấp tin tức của bọn đầu thú về trung tâm tình báo Sài Gòn...
    Sắc mặt ông Thành chợt trắng bệch. Không giữ được bình tĩnh, ông hét lên:
    - Tại sao chúng phải làm như vậy, tại sao?!
    Anh ta cười khẩy:
    - Tiền, chung quy chỉ vì tiền thôi, thưa ông. Nếu cài được người làm gián điệp trong cơ quan cao cấp của Cộng sản, chúng sẽ nhận được tiền thưởng cao hơn. Vì vậy chúng đã dùng tên với bí số, bí danh, kèm theo lý lịch chi tiết của bà ấy để làm tác giả những tin tức mà chúng nhận được từ bọn "thiên nga", "phượng hoàng", hồi chánh. Tôi kể cho ông nhằm mục đích gì chắc ông cũng hiểu. Tình báo, mưu đồ và thủ đoạn, nếu không tỉnh táo, tự các ông giết nội bộ mình. Ngày ấy, tôi chỉ là một sĩ quan mật mã, rất giản đơn khi đánh đi bí số của người đàn bà mà chúng đã mượn tên. Nhưng đằng sau bức điện ấy là cái gì. Số phận của người phụ nữ hiền lành, tốt bụng, vô tội ấy sẽ ra sao hả ông?! Không hiểu sao chi tiết ấy cứ ám ảnh tôi cho mãi đến bây giờ...
    - Lài ơi...
    Trung tá quản giáo Thành nấc lên tiếng gọi mà hơn 10 năm qua, ông đã phải nén chặt trong ***g ngực...
    Trung tá Thành lần tìm đến ngã ba Vịnh Chèọ Ông qua sông. Hoàng hôn dần tắt. Nước sông đỏ ngầu dần chuyển qua mầu đen thẫm khi những tia nắng cuối ngày sắp lặn vào đêm. Đây là lần đầu tiên ông về quê chị Lài, không khỏi ngậm ngùi nhớ ngày lễ tuyên hôn trong chiến khu. Ngày ấy, ông ngắt đóa mai vàng tặng chị. Chị nép vào ngực ông thỏ thẻ: "Mai mốt hòa bình, em sẽ đưa anh về Ngã ba Vịnh Chèo quê em. Em sẽ sinh cho anh những đứa con!". Mọi vật trước mắt ông nhòa đi. "Lài ơi, chúng ta đã quá già. Anh sẽ giải thích như thế nào về sự muộn màng này đây. Anh chỉ biết quỳ xuống chân em, cầu xin em tha thứ cho sự hèn nhát. Giữa những năm 70, anh nhận được chỉ thị: vợ anh là gián điệp, phải cắt đứt quan hệ. Anh đau đớn, bàng hoàng, không thể tin người phụ nữ kiên trung, hiền dịu như em là gián điệp. Nhưng chỉ thị đó là mệnh lệnh. Là người lính, anh phải chấp hành. Rồi nhiệm vụ sau ngày hòa bình. Anh chuyển ra một tỉnh biên giới phía bắc làm quản giáo tù chính trị. Đối phó với họ thật kinh khủng. Nhưng may mà anh đã tìm ra sự thật về em. Anh trở về với bản báo cáo minh oan cho em đây. Hãy tha thứ cho anh!"... Thuyền cập bến. Ông Thành vội vã bước lên bờ. Ông hỏi dồn một gã trung niên rậm râu: "Anh ơi, làm ơn cho tôi hỏi nhà bà Lài...". Hắn nhìn ông từ đầu đến chân, những huân huy chương đỏ rực trên ngực áo ông làm hắn đổi thái độ. "Bà Lài nào nhỉ. à, mụ Lài gián điệp phải không, chết rồi! Mộ đằng kia kìa...". Hắn giơ tay chỉ. Ông Thành đờ đẫn trước nấm mồ bằng đất của chị Lài đã bị sạt lở bên sông. Đã muộn mất rồi. Hành vi ông vượt hàng ngàn cây số với bản báo cáo minh oan cho chị đã trở thành vô nghĩa. Một bà lão gánh cỏ dọc bãi sông dừng bước bên ông Thành, dùng chéo khăn lau mồ hôi, buồn bã:
    - Ông là ai mà đến thăm cô Lài? Hồi còn sống, cứ chiều chiều là cổ ra bờ sông Ngã ba Vịnh Chèo ngóng trông chồng. Vậy mà ông ấy biền biệt, nghe nói ổng làm lớn lắm. Đàn ông lòng dạ dễ đổi thay, dù gì cũng phải gặp cổ nói phải quấy nghe một tiếng. Vậy mà cổ cứ kiên tâm chờ đợi. Tội nghiệp, trước khi chết, cổ còn dặn chôn bên bờ sông để còn ngóng chồng về...
    Ông Thành gục xuống bên nấm mồ đã sạt lở của chị Lài. Sông vẫn chảy xuôi...
    Yên Bái - Sài Gòn, tháng 3-1997
    Love to live
  7. Khukhu

    Khukhu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2001
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    Híc híc ... Làm ơn cho tui đường link tới các tác phẩm của nhà văn Nam Cao với ! Làm ơn làm phước đi các bác ơi ! Nhiều thế này em biết tìm ở đâu đây ! hic hic ...

    Khukhu
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tô Hoài
    Nhà Nghèo ( I )
    Họ thường cãi nhau vì những cớ rất nhỏ nhen, không có nghĩa. Cái đó cũng đã thành một thói quen. Lúc nào họ ngứa miệng, muốn to tiếng, là to tiếng liền. Hàng xóm bốn bên bị nghe chán cả tai, không buồn nghe nữa.
    Cũng như thế, hôm nay hai vợ chồng anh Duyện cãi nhau làm ầm lên. Ðầu tiên, có gì đâu! Khốn nạn, câu chuyện rắc rối chỉ chớm như thế này:
    Anh Duyện thì nằm trong nhà, ghếch hai chân lên cột, ư ử mấy câu Kiều lẩy: Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh mấy là ghét nhau. Anh ngâm đương có hứng. Cái cột nhà rung lạch cạch với hai bàn chân. Chị Duyện ngồi đụp áo ngoài sân. Bỗng nhiên, không hiểu việc gì, chị ta muốn tìm cái Gái. Trông ngoài đầu ngõ không có. Chị gọi:
    - Gái ơi!
    Không có tiếng đáp. Chị réo:
    - Ơ ơi... Gái ... ơi ơi ... Gái ...
    Vẫn im. Chị lại réo:
    - Ơ ơi ... Gái ... Cha đẻ mẹ con chết dẫm, ngã xuống ao xuống chuôm nào rồi !
    Ðương ngâm vịnh có người làm rầm rĩ, hỏng mất thú. Anh Duyện nói trõ ra:
    - Làm cái gì mà nhặng lên thế! Có im đi không?
    Chị không im. Chị nói thêm:
    - Người ta gọi nó mà cũng cấm hả?
    Chưa thôi, chị lại đay:
    - Nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng, được cái tích sự gì !
    Cái chỗ này mới là cái tức. Vợ anh bảo anh nằm chỏng lên đấy, hát với hỏng. Ra ý mỉa anh không đi làm bữa nay, vô tích sự đấy. Này, trời ! thực con đàn bà kia ăn nói những điều phụ công phụ của quá đỗi. Cả năm anh đi làm quần quật. Họa có ngày ?ođằng ấy? người ta hết việc, mới được nghỉ như hôm nay. Rỗi rãi thì anh nằm một tý, chứ sao. Nó láo quá. Anh ta bèn mắng:
    - Tao bảo cho con què biết rằng hai cái bàn tay này mà rời việc ra đọ mươi bữa, thì mẹ con nhà chúng mày rã họng ra! Ðừng có...
    Anh cũng không biết ?ođừng có? thế nào nữa. Anh im. Chị Duyện đáp rằng:
    - Người ta làm lắm người ta ăn nhiều chứ! Ðây què thì đây cũng làm sao. Thử sờ lên gáy mà xem.
    Thế là người ta đã nói cạnh nhau. Chị Duyện vốn có tật ở chân bên phải từ thuở lọt lòng. Không bước được ngay ngắn chị đi tập tõng, tập tõng như con vịt què. Ðã mang tật lại là con nhà nghèo, nên ngót ba mươi tuổi chị mới lấy chồng. Mà chồng cũng chẳng được ra hồn chồng. Anh Duyện nguyên là người ở đâu đến ngụ cư ở đấy. Ngụ cư đi làm mướn, chứ cũng chẳng danh giá gì, lại thêm lưng có cái bướu. Bướu đi thực ưỡn ngực mà nom vẫn như đeo thè lè chiếc nậm rượu giữa lưng. Khi anh gặp chị, thì đôi bên đã là cảnh xế muộn chợ chiều cả rồi, cũng dư dãi mà lấy nhau tự nhiên. Và họ sinh con đẻ cái với nhau cũng thực là dư dãi và tự nhiên. Hai năm một, ba năm đôi thắm thoát có mấy lứa mà đã ríu rít được những ba đứa. Con Gái, con bé đầu lòng. Rồi thằng Cường, thằng Chân. ấy là bỏ mất hai đứa về sau, nếu không, còn lít nhít những năm đứa. Thêm ba miệng con ăn, cũng đã là khổ lắm rồi. Nhiều khi vợ chồng cãi nhau om sòm lên cũng chỉ vì vấn đề mấy đứa trẻ nhãi ăn không ngồi rồi đó. Con Gái nhớn, đã biết nhiều lần cha mẹ cãi nhau, nó hóc thút thít. Thằng Cẳng thì dắt thằng Chân, xúm lại xem. Chúng nó đứng tây ngây. Mắt nghếch lên, hai tay chắp ngoạt sau mông, ra điều nghe ngóng.
    Bữa nay, hai vợ chồng cãi nhau, thì chúng đi chơi vắng. Nhưng đến lúc cơn bão cãi nhau nổi hăng chúng ở đâu lù lù đãn nhau về. Con Gái cõng thằng Chân. Thằng bé ngất ngưởng ngủ, ngoẹo một bên đầu, dãi và nước mũi chẩy lòng thòng. Thằng Cẳng chập chững đi sau lưng chị. Nó giả cách đương làm quan. Cầm cái roi lá nó cứ phết đen đét vào cánh tay chị Gái, và chửi rầm rĩ. Nhưng vào đến trong sân, nghe tiếng bố mẹ nói to, Gái đứng yên mà Cẳng thì tưng hửng, Chỉ có thằng Chân vẫn ngủ khò khè. Lúc ấy, cáu quá anh Duyện vừa nói nặng vợ một câu.
    Anh vừa nói xong, thì người vợ vừa trông thấy lũ con dẫn nhau vào, chị ta liền lu luoa:
    - Ấy đấy, chúng mày về mà nghe bố chúng mày chửi tao.
    Cáu, anh Duyện văng:
    - Ừ, ông chửi cha con què đấy.
    Lập tức mụ Duyện ôm mặt, khóc tỉ tỉ. Rồi mụ lên điệu kể lể. Nhưng không phải là kể lể với chồng, hay với ba đứa con, mà là kể lể nỉ non với cái bức vách trước mặt. Mụ khóc kể rằng:
    - Ối thiên địa trời đất ơi! ối cha ơi! ối mẹ ơi! tôi ăn ở với người ta chẳng gì cũng năm bẩy mặt con, con sống, con chết có, mà nỡ nào người ta réo ông réo cha tôi lên. Cái thân tôi cực nhục trăm đường.
    Tôi buộc bụng nuôi con... hu ... hu ...
    - Mày đẻ lắm thì mày nuôi nhiều ....
    - Ối ông cả bà lớn ơi! ... A bấy lâu tôi nằm (ở) với ... chó đấy a ...
    Anh Duyện đùng đùng chạy ra, định thụi.
    - Chó này!
    Nhưng anh chưa thụi, vợ anh đã lăn kềnh ra. Tay chân múa lên đành đạch. Miệng rền rĩ:
    - Anh đánh chết tôi đi! Anh đánh chết tôi đi !
    Hai đứa con thấy bố làm dữ, sợ quá ôm díu lấy nhau khóc inh ỏi. Nằm trên vai chị, bị thức giấc, thằng Chân cũng bật khóc theo. Cả một góc xóm vẳng lên những con chó, nằm rồi chẳng biết chuyện gì, cũng hóng mõm cắn xuống. Anh Duyện tức lắm rồi, cơn nóng kéo đến đầu anh. Những chiếc gân xanh ở xung quanh trán và cổ nổi chiếc đũa lên. Giậm hai chân bạch bạch, anh quát:
    - Ông giết chết cả lũ! Ông giết chết cả lũ, rồi ông đâm cổ ông xau. Những của nợ kia, ông xửa chúng mày trước, rồi đến con mẹ chúng mày.
    Những của nợ khiếp vía, bíu nhau, chạy miết. Chị Duyện cũng lật đật trở dậy, ôm váy lạch đạch ra ngõ. Duyện quay vào bếp, tìm được con dao phay hồng hộc chạy ra, thì cái sân đã không còn ai. Anh quẳng con dao đánh ?ochoeng? một tiếng xuống đất.
    - Từ giờ đến chiều ông bắt được đứa nào thì ông giết chết tươi. ối trời ôi! Chúng mày làm khổ ông! Ông mà đến nỗi thân tàn ma dại thế này, cũng vì chúng mày. Chứ một mình ông đâu đến nỗi.
    Ngoài ngõ có tiếng nheo nhéo đáp vào:
    - Nào tôi ăn tàn phá hại gì của ai? Nào tôi bòn rút của chìm của nổi gì của ai? Một lời nói một đọi máu, ăn nói còn có trời đất, có quỷ thần hai vai chứ!
    Thế này thì Duyện uất đến chết đuợc. Nó cứ núp ngoài kia mà dội vào từng tiếng. Anh đuổi, nó lại chạy. Anh uất quá, uất quá. Uất run mười đầu ngón tay bần bật. Anh phải đập một cái gì cho đã. Trong nhà chẳng có thứ gì khả dĩ đập được. Cái giường, cái án thư, cái cột, toàn những đồ gỗ đau tay. Có con dao, thì anh đã đập lên đập xuống nhiều bận rồi.
    Ngoài cửa, con mụ lắm điều lại la trời, la đất. Trời ở đâu mà la. Ðất thì giẫm dưới chân đó. Kêu lắm mỏi miệng. Nhưng mà như chọc dao vào trong óc anh. Vụt một ý, anh Duyện cũng kêu rất lớn:
    - À, mày đã khỏe to họng, ông đốt nhà cho mà xem.
    - Anh đốt nhà thì hàng xóm bắt vạ anh.
    - Thì ông đi ngồi tù cho chúng mày đi ăn mày cả lượt....
    Mụ vợ đứng ngoài bờ rào, ngó thấy chồng hăm hở, hục hặc đi tì lửa, vội kêu chóe:
    - Ối ông cả bà lớn ôi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt nhà ... Nó ...
    Chẳng có ông cả bà lớn nào chạy đến. Ai cũng đi làm muộn, cửa ngõ đóng trở ra. Nhưng rồi loanh quanh mãi vẫn chưa thấy anh Duyện đốt được nhà.
    Love to live
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tô Hoài
    Nhà Nghèo ( II )
    Thì ra, bởi vì nhà không có một chút lửa. Ðã hai năm nay, chưa mua được một bao diêm nhỏ. Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì đi ngủ cùng mặt trời. Biết vậy, chị Duyện yên trí, lại sắp hờ trời hờ đất. Xong đã nào thôi.
    - Mày tưởng ông sợ? Ông đi xin lửa cho mà xem.
    Có lẽ anh toan chạy đi xin lửa thực. Và chị vợ cũng sửa soạn kêu nữa. Nhưng trên không trung, từ ban nẫy, ông trời bao la đương đau bụng, xám xịt lại. Bụng ông sôi ục ục, reo róc róc. Bấy giờ bỗng nổi gió giật, lạnh ngắt, rồi đổ xuống một trận mưa lớn.
    --------------------------------------------------------------------------------
    Bấy giờ là đầu mùa hè. Trời đất rất ít mưa. Nhũng đã có trận nào thì mưa rõ cho ra chuyện.
    Trận mưa đó thực to. Trời đen kịt. Nước xối xuống rào rào, trắng xóa. ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài rít lên đập đùng đùng. Những mảng sân thấp, nước ngập lưng thềm. Ðược độ một lúc lâu, mưa dần dần ngớt. Những đám mây nước tảng mỏng bay nhanh như biến. Mặt trời ló ra. Trời đát sáng ngời. Mầu lá cây xanh mướt. Nhũng con chim sáo sậu nhanh nhẩu bay linh tinh, hót từng hồi véo von thực dài. Mưa tạnh.
    Bấy giờ khắp làng bầy ra một cảnh lạ mắt. ở các ngõ lố nhố chạy ra từng đám người. Ðàn ông thì cởi trần trùng trục, đánh chiếc khố đơn. Ðàn bà phong thanh cái yếm, đội sùm sụp chiếc nón. Còn trẻ con thì trần truồng như những viên đá cuội. Người ta chạy đổ xô ra các ngách cống, các bờ ruộng và các luống vườn. ở tay mỗi người lcầm một cái giỏ. Họ chen nhau, chạy tới tấp.
    à, trời vừa mưa xong. ở những mặt sân đất, sôi bong bóng. Trong các lỗ giun ngập nước quằn quại tòi lên. Trong các bụi cây rối và ướt, từng đàn nhái và từng đàn chẫu nhảy ra. Nhờ có trời mưa ngập nước, con giun con sâu nhoi lên, chúng ra kiếm ăn. Những con nhái cốm mình lấm tấm xanh. Những con nhái chỉ dòng dọc trắng chạy suốt lưng. Những ông nhái cụ, to và đen nhũ con cóc, nhẩy oai vệ và chậm chạp. Chẫu cũng đủ các hạng to nhỏ. Nhũng chúng lớn hơn nhái, da dê bóng mỡ, thân hình có chạnh, có góc rõ ràng. Ðôi mắt lồi cườm lơ láo. Vòng chân xếp lại, nhẩy thoăn thoắt, rất nhẹn. Chúng đớp kiến và giun nhanh quá. Cái mồm há ra đỏ hây, tép một cái lại ngậm. Tép, tép, tép. Chúng đớp nhoay nhoáy. Chúng kéo ra kiếm ăn.
    Và người ta cũng kéo đi cả đàn cả lũ để bắt nhái và bắt chẫu.
    --------------------------------------------------------------------------------
    Không hẹn, mà cha, con, chồng, vợ nhà Duyện cũng ặp nhau trong cái đám đông đi bắt nhái bắt chẫu này. Mưa tạnh, chị Duyện chẳng biết trú ở đâu xon xon chạy về lấy giỏ. Thì chị đã thấy khuyết hai cái rỏ treo trên đầu bếp. Anh Duyện và cái Gái đi ra vườn rồi. Thằng Chân và thằng Cẳng đã được con bé nhốt cẩn thận vào bầm phản, bốn bề chắn gỗ kín đáo. hai đứa trẻ loanh quanh cứ bò lấp ló như hai con chó con. Chị và bố chúng đi bắt nhái. Anh Duyện đã quên giận vợ, nghĩ đến bữa cơm chiều nhiều hơn. Bữa cơm mà cái thịt nhái nướng thơm phức, chấm với muối ớt, nhai dòn rau ráu, ngon tuyệt.
    Chị Duyện cung cúc vác giỏ chạy. Người ta đã đổ ra nhiều quá không bắt mau, hết mất. Chị gặp chồng. Cái thằng phải gió đó chịu khó vồ nhái ra ráng. Mặt nó không sưng sỉa lên nữa. ấy vậy mà lúc nãy nó đã hùng hổ định giết con, giết vợ và đốt nhà.
    Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái giỏ đã được lưng lửng. ở trong nhái xô nhau oe oé. Con Gái nhe hai hàm răng súu đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lư mư vác giỏ xuống một vệ ao gần đấy. Trong khi mẹ nó tất tả đi ra miệt đầu đình.
    Gái rón rén bước. Nó vạch xem từng ngọn cỏ. Những cây cỏ nước xanh om, vươn cao ngọn, lòa xòa cứa vào người, khiến nó ngứa ngáy khó chịu. Nhưng mỗi lần túm hoặc vồ được một chú nhái bẻ gẫy hai chân sau bỏ tót vào giỏ, thì nó lại cười tủm một mình. Nó lần theo vệ ao, khuất sau mấy rặng dứa dại lởm chởm. Nhái nhẩy lõm bõm xuống nước. Những chòm dứa xòe những cẳng tay gai góc ra xung quanh.
    --------------------------------------------------------------------------------
    Cuộc bắt nhái đã vãn. Ai nấy ra về. Anh Duyện xách giỏ về trước. Thứ đến chị Duyện. Thằng Chân và thằng Cẳng phải tù trong gầm phản đang khóc be be. Chị Duyện đưa cái giỏ nhái của mình cho chồng rồi chạy lại giỡ gạch, bế hai đứa con ra. Chị nựng con cho chúng nín. Anh Duyện ngồi ngẩn ngơ nhìn hai giỏ nhái. Nét mặt anh đờ đẫn. Có lẽ anh đương tưởng tượng đến bữa nhắm thú vị chiều nay. Bỗng chị Duyên nói:
    - Này, con Gái chưa về nhỉ? Nhà đi gọi nó xem...
    Giọng chị ả dịu lại. Chính anh Duyện cũng không còn tưởng tượng đượct rằng lúc nẫy mình vừa cãi nhau kịch liệt với vợ. Anh đứng dậy, đi ra ngõ. Vừa đi, anh vừa lẩm bẩm: ?oTiên nhân con tuyệt tự, đi đâu thì chết dấp ở đáy?. Rồi anh gọi:
    - Ớ! Gái!....
    ở trong sân, vợ anh nói với ra:
    - Nó đi về phía ao nhà ông cả Tràng ấy. Ðẻ mẹ con ranh con!
    Anh Duyện lội xuống bờ ao nhà ông cả Tràng, về phí có nhiều cây dứa dại, thì anh trông thấy cái Gái. Nhưng anh thấy cái Gái nằm gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lũng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo lại. Vừa lúc ấy, miệng nó ngoáp ngoáp mấy cái; đôi mắt lộn lòng trắng lên mấy lần. Rồi nhắm hẳn. Chân tay nó duỗi ra. Con bé giẫy chết rồi.
    Người bố nhìn đứa con giẫy chết rú lên một tiếng quái gở. Tuy cuống lắm, nhưng anh cũng còn nhìn tháy ở ngay bên vệ ao trên lớp bùn phẳng mới nguyên một lối bò dài như cái sào lúa còn hằn lại.
    Duyện cúi lay xác con bé. Anh nghĩ chợt rằng bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra. Thương ơi! bây giờ nó bỏ nó đi. Hai hàng nước mắt nhỏ ròng ròng. Anh ghé vai, xốc con bé lên. Hai tay nó còn mềm hơi nóng. Nhưng hai chân đã cứng nhẵng. Anh cõng xác con, chạy về.
    Bến Ray, Tháng Chạp 1942
    Love to live
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Cao Duy Sơn
    Chợ Tình Âu Lâm ( I )
    Đã hai mươi lăm ngày sau Tết, giờ xuân mới thật là xuân. ở vùng núi xuân đến dường như đậm đà và rét hơn mọi nơi. Mưa như bụi rắc xuống từ đỉnh núi len khắp khe ngách, lối mòn, ken sươn sướt quanh những gốc lê già trổ bông như tuyết. Chỉ những bóng người một mầu chàm lặng lẽ đi như trôi về phía chợ. Chợ trên một gò đồi. Chỉ một năm vào ngày hai mươi tháng giêng mới họp nhưng cây cối và mọi vật ở đây không ai chặt phá hay di chuyển, nên cảnh vật dường như còn nguyên vẹn như vốn có từ khi người Âu Lâm chọn đây làm chợ tình. Giữa chợ vài dãy lều lợp cót chủ yếu bán cơm và bún, phở cùng một ít hàng kim chỉ thêu. Chợ ở đây không ồn ào như chợ phiên phố chợ, không tranh mua, tranh bán, không đuổi đánh nhau vì ghen hay thù oán. Đến đây mọi bực dọc đều đã được khỏa dưới sông, mọi toan tính đều đã được cởi bỏ trên đường, chỉ đem đến con tim bồi hồi và những lời thầm thì ái ân tìm vào tai người xưa. Không ai biết vì sao lại thế? Chẳng ai tìm đến ngọn nguồn vì sao. Trước vốn thế, sau cũng thế và bây giờ vẫn thế. Đã bao năm đến với chợ này lão Sinh không nhớ, bởi đã có thời buồn lắm lão không tìm đến, dễ tới chục năm. Bây giờ đã ngoài tám mươi, lão chỉ còn nhớ con ngựa hôm nay đưa lão vào chợ đã là con thứ mười lăm. Giống ngựa chẳng thể sống lâu hơn người và chúng cũng không thể biết trong ngực lão con tim thường đập rộn lên mỗi khi xuân đến. Chân lão nữa, dường như cũng vội hơn khi vào chợ vì lão lo chỗ cây sau sau già ấy, nơi lão và ếm ngồi sẽ bị người khác chiếm mất.
    Chưa có ai. Lão buộc ngựa vào gốc cây gần đó, rồi ***g vào mõm nó một cái bao tải đựng đầy thóc ngon, nó cứ việc ăn cho lại sức, còn lão, lão trải chiếc khăn chàm xuống đất và bày lên đó bầu rượu và đồ ăn.
    - Sinh à, ông đến lâu chưa?
    Cái tiếng nói ấy khẽ cất lên. Đằng đẵng một năm rồi lão mới lại được nghe. Âm thanh ấy giờ không còn trong trẻo như ngày xưa nhưng lão vẫn thấy trong lòng mình một cảm giác ấm áp và êm ái lạ lùng.
    - ếm à, về ngồi đi, anh cũng vừa đến thôi!
    - Sinh ơi, bây giờ có ai nghe thấy mình "pi noọng" với nhau thế này chắc là buồn cười lắm!
    - Đã bao giờ anh nghĩ chúng mình già? Vẫn như ngày xưa thôi!
    - Thế cũng được nhưng phải khẽ tiếng nói nhé!
    Lão Sinh lấy đôi giày vải từ túi trong của áo ngực đưa ra ngắm nghía rồi nhẹ nhàng đi vào chân. Thấy ếm nhìn tự nhiên lão cố tòe các ngón chân cho cạnh giày phình ra. ếm quay nhìn đi chỗ khác rồi nén tiếng thở dài:
    - Đừng cố làm thế! Không khéo giày bị rách đi thôi. Bây giờ mình có tuổi chân tay nhỏ đi có sao đâu!
    - ừ!
    Nghe ếm nhắc, lão thu chân lại. Có lẽ già rồi nên chân cẳng cũng đã teo khô. Lão chỉ muốn thể hiện cho ếm biết mình chẳng khác xưa là mấy. Đôi giày này tự tay ếm khâu tặng cách đây hơn năm mươi năm, tới giờ Sinh vẫn giữ còn gần như mới và chỉ đi vào chân khi đến phiên chợ này gặp ếm. Bây giờ thì chân nhỏ giày rộng, thời gian đấy! Không còn như xưa nữa. Hồi ấy ông trời cho mình gặp ếm, mình yêu ếm tưởng sẽ chết nếu không lấy được nhau, thế mà ếm đã bị gia đình bắt lấy thằng Ti, gia đình nó trâu bò, ngựa dê nhiều như trấu. Ôi cái hôm ấy thằng Ti bị mình chặn đường ngay sát mép con sông Gâm. Nó có bốn thằng với bốn con ngựa đực mình dài như cót thóc. Sinh thúc ngựa lao vào giữa, thằng Ti cùng lũ bạn dạt sang hai bên, nó ngạc nhiên hỏi:
    - Cái thằng không quen này, sao mày lại muốn đánh nhau với tao?
    Sinh kéo trong ngực áo ra đôi giày giơ trước mặt nó:
    - Tao với ếm đã hẹn cùng nhau sống chết sao mày dám cướp?
    Nghe Sinh nói, thằng Ti cười toáng:
    - Cây rừng của nhà mày sao? Mày đã chặt dao đánh dấu chưa? Tao đánh cho mày đây.
    Dứt lời thằng Ti cùng lũ bạn nó lao vào đẩy Sinh rơi khỏi lưng ngựa. Tỉnh dậy Sinh thấy mình nằm sát mép sông Gâm, mắt sưng húp, miệng ứa máu nhưng tay vẫn cầm chắc đôi giày.
    Mỗi lần nhớ ếm, Sinh lại tìm đến chợ Âu Lâm hy vọng ếm vẫn còn nhớ mình mà tìm đến như bao đôi lứa lỡ làng khác. Nhưng lâu lắm! Dễ phải đến mười bốn lần thay ngựa Sinh mới gặp được nàng. ếm đẹp như hoa là thế giờ lưng đã chùng, tóc bạc trắng, lại còn ăn trầu nữa chứ! Nhưng trong mắt Sinh, ếm vẫn là ếm ngày nào, vẫn là nàng mỗi khi cười trời như sáng bừng lên, hoa xuân lay lắc vui như nhường lại nhan sắc.
    Mỗi năm một phiên chợ tình tìm đến nhau để ngồi thầm thì bao chuyện xưa và cả chuyện nay. Chuyện chồng ếm, cái thằng đã cùng lũ bạn của nó đánh Sinh một trận nhừ tử rồi bỏ lại bên sông Gâm, cái thằng Ti ấy, nó đã chết cách đây hơn mười năm, để lại cho ếm bốn con và mười lăm cháu nội ngoại. Hỏi ếm có nhớ gì ngày xưa? ếm nâng vạt áo chấm nước trầu hai bên mép:
    - Không nhớ sao đến đây!
    - Hồi lão Ti còn, mỗi lần đi chợ thế này nó có vặn hỏi gì không?
    - Thì cũng như mọi người thôi, đi chợ này có ai lại còn đi hỏi làm gì!
    - ừ phải, nếu không sao mình được gặp nhau.
    Mỗi năm có bao nhiêu cặp tình lỡ dở chờ dịp đến đây gặp nhau than thở lão Sinh không thể biết nhưng trong những bụi gai kim anh, những khóm lá dạ hương chỗ nào cũng vang lên tiếng thì thầm, có chỗ cành lá rung lên như bị bò gặm. Sinh chẳng mấy quan tâm người khác và mọi người khác chắc cũng thế, bởi cái ngày ở đây nó ngắn lắm, lão Sinh thấy nó ngắn nhất trong năm.
    - ếm à, có mệt thì ngả vào anh nghỉ một chút đi!
    - Không mệt đâu Sinh à, năm nay tôi thấy tay của Sinh cầm cây đũa run lắm đấy?
    - Đừng lo, mùa đông năm nay tôi còn lặn sông bắt cá mà!
    ếm nghiêng đầu vờ như nhổ bã trầu, kỳ tình ếm tránh đi cái miệng cười. Sinh đâu còn sức như hồi trẻ? Chỉ là cách nói khoe cái sức ngày xưa mà thôi. Người già vẫn thường thế. ếm nhìn lão như muốn chuyển ý nghĩ của mình sang "thôi, chẳng cần nói thêm gì, ếm vẫn thương Sinh và nhớ Sinh lắm! Chỉ cần được ngồi bên nhau chẳng cần nói gì cũng đã thấy hạnh phúc lắm rồi Sinh à!".
    Chợ Âu Lâm năm nay đông hơn mọi năm. Có cả người tây tóc vàng mũi lõ. Dắt ngựa ngang qua một quán bún lão Sinh nghe có người mời chào:
    - Ăn với cháu bát bún lão Sinh ơi!
    Nhìn vào chỗ người vừa gọi lão nhận ra con Nhin. Con bé này ngoan hơn bà nó ngày trước. Hồi ấy bà nó đứng bán ở đây nhưng miệng khỏe chửi các con lắm! Lão hay đến mua canh phở để ăn với cơm đùm. Bây giờ lại là nó. Cũng hơn bốn mươi tuổi rồi chứ ít gì. Lão vỗ tay vào túi dết bên hông, ra hiệu đã đem theo đồ ăn nhưng giọng con bé vẫn khẩn thiết:
    - Thì lão cứ vào đây đã!
    Love to live

Chia sẻ trang này