1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Võ Ðình
    Nhà văn, hoạ sĩ Võ Đình tên thật là Võ Ðình Mai, sinh năm 1933 tại Huế. Những năm 50 ông du học tại Paris. Hiện Võ Đình đang định cư tại Hoa Kỳ và tham gia sáng tác ở các thể loại hội hoạ, văn thơ và biên khảo. Các công trình nghệ thuật được ghi trong: Nhân vật Việt Nam (1974), Thơ Văn VN hải ngoaị(1985), Who''''s in American Art,Contemporary Authors, Printworld, The New York, Art Review...
    Võ Đình đã có trên 40 tác phẩm đủ loại được xuất bản, những tác phẩm chính do Văn Nghệ ( California ) xuất bản: Xứ Sấm Sét (1987), Yoga Căn Bản (1989) , Ðóa Sen Và Nụ Cười (1990) , Sao Có Tiếng Sóng (1991). Tác phẩm mới nhất: Rừng mắm văn nghệ (Văn Nghệ, California, 2000)
    Ngoài ra Võ Đình còn có tranh triển lãm tại nhiều thành phố lớn trên thế giới
    Luân hồi trong một đêm tuyết ( I )

    Như thường lệ, chuyến tàu hoả commute?Ts mang bảng số AIM 751-11 rời nhà ga Hoboken, bên kia sông Hudson, New Jersey, chạy ngược về hướng tây bắc, đúng bốn giờ năm mươi lăm phút.
    Tôi vịn ven cửa lần đến phòng rửa tay. Tàu lắc lư dữ dội khi đã đạt đến tốc độ tối đa. Ánh điện lờ mờ trong không gian chật hẹp, phảng phất mùi thuốc sát trùng. Mặt gương mờ cũng đủ cho tôi thấy hai mắt tôi sưng húp, nét bút than nhoè nhoẹt. Cả ngày, nước mắt tôi liên tục trào ra cay xè. Supervisor bảo tôi hãy về đi, nhưng tôi lắc đầu, nán đến giờ tan sở. Nước mắt tôi rơi ướt cả giấy má trên bàn làm việc.
    Mới năm ngoái, mẹ tôi qua đời. Nỗi đau mất mẹ nơi xa cách nghìn trùng, chưa kịp nguôi ngoai thì chín giờ sáng, anh tôi ở Texas gọi cho tôi về sở báo tin cha chúng tôi đã ra đi vĩnh viễn đúng hai mươi bốn tiếng đồng hồ trước. Cha ra đi, cũng như mẹ ra đi, tôi không được thấy lại mặt một lần sau ngày vĩnh biệt mười mấy năm về trước. Nước mắt tôi nóng hổi trào ra: bây giờ tôi là một đứa mồ côi! Một người đàn bà trung niên mồ côi. Tôi đã đến cái tuổi bắt đầu có một khái niệm sâu sắc về cái chết và sự mất mát, nhưng tôi chưa bước tới giai đoạn trong đời khi có thể chấp nhận một cách an nhiên ý thức về nỗi lạc loài và cô đơn tất nhiên của kiếp người. Tôi ngồi để hai tay lên đùi, những ngón tay cóng buốt đan vào nhau. Tôi nhìn chiếc nhẫn vàng của mẹ tôi cho ngày tôi bỏ nước ra đi. Tôi vẫn ngơ ngác lấy làm lạ, từ ngày tôi đeo chiếc nhận ấy ở lóng tay, rằng một màu hoàng kim rực rỡ và đầm ấm như vậy, màu vàng của những chiều cuối hè trong vườn cau của làng nội tôi, lại có thể gây nên một cảm giác buồn bã đến thế.
    Ánh sáng rơi rớt của chiều đông loang loáng ngoài xe. Lâu lâu, còi tàu rúc lên vang dài vun vút bên ngoài cửa kính đục mờ, rồi toả rộng ra, lê thê trải dài trên những cánh đồng quạnh quẽ một màu úa chết. Ở xa, thật xa, rặng núi tím ngắt trải dài thành một vết thẫm cắt đứt ngang khung trời xám thành một đường rạch màu thép lạnh.
    Khi chuyến tàu hoả về đến nhà ga tỉnh lẻ Honga, thì trời vừa sẫm tối. Chỉ còn chờ bóng đêm hiện về là lác đác những bông trắng nhỏ bắt đầu phất phơ rơi xuống, những đốm trắng mơ hồ lặng lẽ nối đuôi nhau. Viên sếp ga mặc đồng phục xanh đậm cầm đèn giơ cao lên khi thiếu phụ bước xuống tam cấp sắt. Nàng mặc áo choàng trắng, váy đen dài, chỉ để lộ hai cổ chân thon dưới lớp ?oba? màu khói hương mỏng mướt. Ánh sáng của chiếc đèn bão hắt lên mặt người đàn bà đội mũ nỉ xám nhạt, chỉ thấy một gò má cao hồng và đuôi chân mày cong dài. Phần còn lại của khuôn mặt chìm hẳn vào bóng tối của đêm đông đen nghịt, lả tả bông tuyết im lặng rơi rơi...

    Ngay từ lúc vợ bước xuống tàu, tôi đã biết ngay là có sự bất thường. Nàng vốn có dáng đi thướt tha mà vững chãi, nhưng hôm nay toàn thân nàng như bị gió lớn thổi tạt, chao đảo bấp bênh. Tôi nắm lấy tay nàng, dìu ra xe ở bãi đậu.
    - Anh, ba mất rồi, ba em mất rồi. Anh Hai gọi cho em ở sở khi sáng.
    Một tay nắm vững tay lái, tôi với tay kia bắt lấy tay vợ, bóp chặt, rồi thả ra, rồi tôi nhè nhẹ vuốt ve tay nàng, đều đều, nâng niu những ngón tay thon nuột lạnh ngắt. Vợ tôi nức lên một tiếng, rút vội tay đưa lên úp vào mặt. Tuyết đổ mạnh hơn, rồi bất thần một trời tuyết ập xuống, tơi bời. Tuyết xuống mạnh và nhiều đến nỗi tôi phải bấm nút số hai cho quạt mưa chạy thật nhanh. Xe chầm chậm đi qua thành phố im lìm thưa thớt. Đã trung tuần tháng giêng dương lịch mà không khí cuối năm vẫn còn vương vất ở những con đường hẹp tỉnh lẻ. Vài căn nhà khiêm tốn vẫn còn lại những đèn đuốc trang hoàng mừng Giáng sinh, những bóng đèn nhỏ xíu màu xanh màu đỏ nhấp nháy, nhấp nháy một niềm vui lạc lõng mong manh... Tôi nắm lấy tay vợ đưa lên môi, lên mũi. Mùi thơm quen thuộc, ngất ngây. Tôi há miệng hà hơi ấm vào lòng bàn tay nàng. Một lúc sau, nàng mở giây thắt an toàn, xích lại gần hơn, và dụi đầu vào vai tôi, khóc tấm tức. Tiếng khóc đứt đoạn của nàng cùng nhịp với tiếng quạt mưa đi qua đi lại xào xạc bên ngoài mặt kính chắn gió.
    Khi tôi tỉnh giấc nửa đêm thì chiếc đồng hồ đánh thức dạ quang chỉ hai giờ rưỡi hơn. Tôi lắng tai nghe âm thanh rời rạc li ti và tôi biết là tuyết vẫn còn đang xuống mạnh. Tôi nằm yên hình dung đồi núi mênh mông đen hun hút và tuyết rơi lặng lẽ, rơi mãi từ khi trời sẫm tối, đến nay là hơn tám tiếng đồng hồ, có thể tuyết ngập hơn cả một bộ rồi.
    ?oAnh ơi, anh không ngủ à??
    Vén mái tóc dài sang một bên, nàng nằm sát lại gần hơn, quàng tay qua ngực chồng.
    ?oAnh mới tỉnh giấc. Này, nghe... Em có nghe tuyết rơi không??
    Nàng yên lặng một hồi lâu rồi mới trả lời:
    ?oCó, có, em nghe...?
    ?oTrời khóc ba em đó. Ba mất rồi em không thấy được mặt ba mười mấy năm trời...?
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 21:00 ngày 29/03/2004
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bàn Tải Cân
    Đạo Oshin ( I )​




    Thân mến tặng Phí A Hoàn,
    bạn thân của tôi - oshin chuyên nghiệp.

    Mùa xuân các đôi uyên ương vào cuộc hôn phối, mùa thu các đôi uyên ương sinh nở, thành ra mùa thu là mùa Hà Nội khan hiếm oshin. Tại các trung tâm tư vấn việc làm người đến đăng ký nhiều không kể xiết, xếp hàng ra tận đầu ngõ. Khách có nhu cầu đủ loại đủ nghề, nào là vợ chồng tìm oshin trông nom con cái. Con cái tìm oshin phụng dưỡng cha mẹ già. Cha mẹ bị con cái tách ra ở riêng, tuổi già vất quá đành mướn oshin nấu cơm giặt giũ. Đôi uyên ương mới cưới chưa quen mùi cộng sinh, trải vài cuộc đá thúng đụng nia mặt nặng mày nhẹ đành mượn oshin làm biện pháp hoà giải. Mấy vị quan chức cần tìm oshin lo việc nhà cho việc nước đỡ phần bề bộn. Các hộ độc thân muốn có oshin lo khăn áo cho cuộc sống đỡ bề lẻ loi. Lại có ông bác sĩ QA thuê oshin theo giờ, anh tiến sĩ Kh. mướn oshin theo việc, cô ca sĩ L. chọn nam oshin theo lần... Nhân khi chờ lượt khách cũng buôn dưa lê với nhau, chủ đề quanh quẩn nào là oshin nhà này hỗn hào, oshin nhà kia tắt mắt, oshin nhà nọ mê giai, oshin nhà ấy biếng nhác. Khi đó ai nấy miệng thì than vãn kêu ca xem đây như mối hoạ nhãn tiền, mà trong lòng thảy đều hiểu là không thể thiếu. Đại để là phạm trù oshin trăm ngàn khuôn dạng thật phong phú vô cùng.
    Thầy tôi là tiên sinh họ Quách từng nói: ?oĐạo oshin là đạo lớn trong trời đất, bao trùm vạn vật, lan toả thiên hà. Là thứ đạo uyển chuyển mà sâu sắc, nặng như lông chim hồng chim hộc mà nhẹ như núi Thái Sơn. Cứ xem trong thiên hạ nếu đa phần giữ trọn đạo oshin thì chính là đang thời Nghiêu Thuấn vậy?.
    Nhân bàn về oshin tôi xin kể lại một câu chuyện tình cờ hồi nhỏ đọc được trên một trang giấy hồng điều viết bằng mực tím nằm kẹp trong cuốn đường thi trên giá sách cổ của ông nội tôi. Trải bao thăng trầm thời cuộc mà đến nay không còn dấu tích gì của giá sách đó cùng cuốn đường thi, tôi đành ghi lại theo trí nhớ, âu cũng là để bản thân sống lại với những kỷ niệm ngọt ngào thuở ấu thơ vậy. Câu chuyện có tiêu đề là ?oĐạo Oshin?.
    * * *
    Vài ngàn năm trước tại ngõ Mai Hòa thuộc phường Mai Động nội thành Hà Nội có gia đình đại trí thức, ông bố họ Vương tên Lâm học vấn rất cao, đã tốt nghiệp đại học, bà mẹ là thủ thư của thư viện khoa học tổng hợp. Nhà có cô con gái nhỏ chừng 5 tuổi tên là Vương Mai Liên tươi xinh như hoa, lại thuê thêm thằng bé oshin quê ở Sơn Tây đỡ đần việc nhà. Thằng bé này tên thật là Phí A Hoàn, tuổi khoảng mười tám, mặt mũi khôi ngô sáng sủa, tính nết hiền hậu đảm đang. Thường nhật ngày đông cũng như ngày rét A Hoàn luôn trở dậy từ canh ba, giặt chậu quần áo, tưới nước hoa viên. Đến giờ mão thì đi patanh ra thẳng chợ Hôm mua đồ ăn sáng, khi mấy đĩa bánh cuốn nóng, lúc vài bát phở tái thơm. Về nhà lại vội pha chén sữa to, nấu xoong bột lớn, ẵm Mai Liên dậy cưng nựng mà cho ăn cho uống, lại bày nhiều trò hay khiến Mai Liên khoái trí cười keckec. Đầu giờ thìn thì đánh chiếc Mazda 6 màu hồng lá mạ đưa Mai Liên đến trường mẫu giáo Hoa Lan là một trường có tiếng ở tiểu khu, rồi trên đường về mới tranh thủ chợ búa thịt cá rau cà, mặc cả rất khéo, cũng không quên chút dưa chua muối dổi là thứ ông chủ thích, vài trái ớt chỉ thiên là vị bà chủ thèm, đại thể công việc tuy không nặng nhọc gì nhưng từ sáng đến tối chẳng lúc nào ngơi tay. Được cái ông bà chủ là người nặng tình nặng nghĩa, dần dần coi A Hoàn như người thân trong nhà, thương yêu lắm.
    Mùa thu năm ấy có vị khách ghé chơi nhà Vương Lâm, đôi mắt rất ướt, mũi nhăn tai nhọn, dáng vẻ kỳ vĩ. Khách xưng tên Trần Bười, quê ở Sơn Tây, tự nhận là bác họ người yêu cô em ruột con bà chị dâu với láng giềng họ Vương. Vương Lâm vốn trọng tình họ hàng nghĩa làng xóm, thấy thế bèn mời khách vào nhà mà hàn huyên cho thoả. Trần Bười ngỏ lời xin ở nhờ nhà họ Vương ít bữa để lo chạy mấy dự án lớn ở Bộ Tài chính. Vương vui vẻ nhận lời ngay, thu xếp nơi ăn chốn ngủ cho Bười rất đàng hoàng, lại dặn dò A Hoàn phải phục vụ thật chu đáo. A Hoàn tuy không nói nhưng ban đầu đã có cảm giác bất an về vị khách không mời. Dần dần cảm giác đó được minh chứng thêm bằng nhiều hành vi không được quang minh lỗi lạc, tỷ như việc Bười đi vệ sinh luôn khoá chặt toilet khiến ai vào cũng khó, lại như việc khách lên giường cứ để nguyên cả bộ quần áo lót mà ngủ. Chính vì vậy mà A Hoàn phục vụ Bười cũng có phần miễn cưỡng trễ nải.
    Suốt năm năm liên tục Trần Bười tá túc ở nhà họ Vương, ai hỏi Bười đều nhanh nhẩu nói dự án rất triển vọng, các cửa đều đã lo lót đủ, chỉ còn chờ anh Nguyễn bác Hoàng với chú Phan phê duyệt tổng mức đầu tư là xong, hẹn đến khi thành tựu sẽ hậu tạ gia đình. Ông Vương tỏ ý không cần đền đáp, miễn sao việc lớn của Bười thuận lợi là mừng. Bười nhân đó cằn nhằn với Vương Lâm về việc A Hoàn phục vụ không được chu đáo, trên bảo dưới không nghe. A Hoàn bị Vương Lâm gọi ra căn dặn, đồng thời cũng có ý trách nhẹ nhàng rằng A Hoàn chưa trọn đạo oshin. A Hoàn cảm thấy oan ức buồn phiền quá, chiều tối hôm ấy nhân lúc rảnh việc bèn ra công viên dưới gốc cây liễu ven hồ ngồi khóc cho vui.
    Một lát thấy có bà già bán vé số, dung mạo mười phần tươi đẹp, mặc áo hai dây ba lỗ, bờ vai trắng muốt, cổ dài cằm thon, hai tai băng bó. Bà già bước đến gần A Hoàn nhẹ nhàng hỏi rằng: ?oTại sao con khóc??. A Hoàn thấy có người ân cần hỏi han mình thì cảm động lắm, bèn vừa tức tưởi khóc to hơn, vừa trả lời rằng: ?oCon là oshin của nhà họ Vương, nay phần thì oan ức, phần thì giận thay cho chủ bị quái khách phiền nhiễu suốt mấy năm nên mới buồn mà bỏ ra đây ngồi?. Bà già ngắm A Hoàn rất kỹ, đoạn đưa tay nhẹ nhàng cào cào vào tay chàng, lại rúc vào lòng A Hoàn một hồi như thể nũng nịu. Hồi lâu nét mặt trở nên xuất thần dung dị, khẽ nói: ?oCon chó Trần Bười thật là độc ác, vì hắn mà nhà họ Vương sẽ còn nhiều chuyện oan ức, tan đàn xẻ nghé, vướng vòng tù tội. Âu cũng là ý trời cả. Riêng con có căn phật, phúc phận rất lớn, tuy rằng sẽ gặp đại nạn mà về sau mọi việc đồng loạt hanh thông?. Nói xong bà già lại rút từ yếm đào trước ngực ra chiếc kính râm Vertulano chính hiệu để trong bao da cực đẹp, bảo: ?oĐây là kính chiếu yêu, đeo vào thì xấu tốt thực hư đều sẽ rõ ràng. Nay tặng con để tri ân nuôi dưỡng bấy lâu?. A Hoàn thoạt nghe cũng cảm thấy lạ bởi mình chưa từng nuôi nấng bà ngày nào, tuy vậy vẫn cảm tạ mà đưa tay đón nhận. Đưa bao kính lên mũi ngửi thấy hương thơm hoa lan toả ngát, cơ thể trở nên phấn chấn khoẻ khoắn lạ thường. Chàng mải thưởng thức hương sắc một hồi, đến lúc nhìn lại đã thấy bà già bán vé số biến mất từ khi nào rồi.
    * * *

    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Võ Ðình
    Luân hồi trong một đêm tuyết ( II )​
    Trong căn nhà nhỏ, những nén hương đốt liên tiếp cả tối toả khói mù mù, quyện lấy trần nhà, tường nhà, đồ đạc áo quần, thấm cả vào gối chăn và mái tóc người đàn bà. Nửa đêm, tuyết rơi mạnh, chắc là đường sá đã ngập lụt cả rồi. Hồi tối khi đi qua nghĩa trang tỉnh lẻ, người đàn ông thấy tuyết đã phủ lấp cả vùng đồi con, chỉ còn trơ lại những chiếc thánh giá, những bia mộ cao cũng màu trắng xoá. Đây đó, thấp thoáng những hình thù xác xơ quái dị của những cây trắc bá lừng lững chịu đựng giá băng.
    Từ xa, rất xa, gầm gừ tiếng xe ủi tuyết. Trong đêm thâu, chiếc xe khổng lồ, bánh niềng dây xích thép, đèn pha sáng rực, đèn đỏ nhấp nháy, lầm lũi chạy dọc theo lề đường, càng cạo tuyết ấn sát lên mặt đường ngập tuyết.

    Tôi nằm nghe hơi thở nàng mơn man bên má và nhớ lại những hôm tuyết xuống như thác, cả ngày cả đêm. Rồi khi trận bão tuyết đi qua, thốt nhiên vạn vật im lìm, kinh tởn. Qua được cơn chấn động, núi đồi đứng yên, hoàn hồn. Thinh không lặng tờ. Những thân cây đen thui, như sau một trận hoả hoạn, đứng thẳng tắp. Và trong vùng im lặng tuyệt đối ấy, một bông tuyết độc nhất, một bông tuyết độc nhất, lặng lẽ rơi xuống từ cõi ba vạn thế giới, rơi xuống thản nhiên vô cùng... Tấm shade che cửa sổ bỗng sáng lên một màu vàng đục. Ánh đèn pha chiếu qua tàng cây phong in thành những nét khẳng khiu trên mảnh màn nhựa. Thoạt đầu, những hình thù ngang dọc đó còn lờ mờ, rồi chúng trở thành linh hoạt hơn, sắc đậm hơn. Tiếng động cơ lại gầm lên, và xe ủi tuyết đã đến gần nhà. Tiếng cạo băng rào rạo. Tuyết bị dồn nén, cứng ứ vào hai bên lề đường. Tôi quàng tay sờ má, sờ môi, thì mặt vợ tôi đã ướt đẫm nước mắt.
    Tôi nghe thật rõ, tôi thấy thật rõ, chiếc xe ủi tuyết hai mắt lửa đỏ nhập nhoè lầm lũi lăn sâu vào con đường nhỏ như một chiếc xe tăng không có chướng ngại vật nào có thể chặn được bước tiến. Từ những âm thanh dữ dằn đó tôi nghe vọng ra những vang rền của bãi sa trường rổn rảng gươm đao và chất ngất sát khí. Tôi hình dung giọt nước long lanh đông lạnh thành đá, triệu triệu phân tử li ti cóng buốt, kim cương của muôn vạn hải hồ, triệu triệu số kiếp biến hoá không cùng. Tôi thấy sự sống và cái chết chập chùng trong một ly, trong một giây, và cuộc tử sinh hiển hiện hằng hà sa số như những phân tử của giọt nước long lanh.
    Xe ủi tuyết đã đến ngay trước mặt nhà. Căn phòng bỗng rung chuyển theo nhịp động cơ dữ dội. Người đàn ông và người đàn bà dập dìu quằn quại trong cơn sóng dậy đất bằng, banh da xé thịt nhau trong đêm đông ngập tuyết, và hơi thở dồn dập của họ ào ạt dâng lên, dâng lên, nước thuỷ triều tuôn trào rồi tràn trề tít tắp về chốn vô thỉ vô chung. Rồi người đàn ông trườn tới, trườn lên, như một con rắn lớn, từng khúc xương sống oằn oại chậm rãi, chậm rãi, tiếp nối nhau đưa toàn thân ra khỏi lớp vỏ mỏng. Chàng bò dài trên bờ vực lưng chừng một ngăn cửa đá dựng cheo leo. Người đàn ông lê mình trên cỏ sắc ướt đẫm. Sỏi đá gai góc trầy xướt toàn thân. Đến khi người đàn ông trườn lọt qua cửa đá chật hẹp thì bên kia là một không gian bát ngát vắng lặng, và ở phía dưới, xa tít mù, lấp loáng có mặt nước. Người đàn ông gồng mình, hít một hơi dài, rồi nghiến răng nín thở, rồi tưởng như ngất lịm đi, chàng rùng mình, ngã sấp xuống biển nước. Ở từ xa, có tiếng còi xe cứu hoả gào lên thất thanh, rồi lập đi lập lại như tiếng kêu giận dữ và đau đớn của một con thú lớn bị trọng thương...
    Tôi ghì chặt lấy chồng tôi, nước mắt tuôn trào. Toa tàu hoả phóng nhanh trong chiều tà, cảnh tượng bên ngoài xoay lui, xoay lui, làm cho tôi choáng váng, nhưng khi tàu rời ga Port Jaspers tôi có cảm tưởng là vạn vật bỗng nhiên ngừng chuyển động và một sự im lìm ghê gớm bao trùm tất cả. Sự côi cút của tôi tuyệt đối. Chỉ một mình tôi đối diện với tất cả. Rồi giờ đây khi đã tìm lại được hơi ấm của một hoàn hồn, tôi nghe ở từ xa tít mù tiếng còi xe cứu hoả gào lên, và chồng tôi oằn người trên tôi như thể chàng chết ngất trên đỉnh tột cùng của đớn đau và hoan lạc. Tôi ôm ghì chồng, tôi khóc, tôi cười. Tôi trở thành cõi trời minh mông, mây trắng hàng hàng lớp lớp ngất ngưởng bay về, tôi dạng hai chân ra đón nhận cả một bầu tinh tú rạng ngời hào quang. Tôi là trời, tôi là đất, tôi là núi đồi sông lạch, tôi là con cá cọng rau. Cha Mẹ ơi, con đây, về với con! Tôi là con hồ ly thân dịu đuôi dài, tôi mềm mại quấn quít là con bạch tuột, tôi dạng hai chân và tôi kêu thét lên ?omình ơi!? và người đàn ông là chồng tôi đó gầm lên một tiếng, rồi toàn thân chàng tuôn trợt vào thân thể của tôi, tuốt luột mất hút vào trong tôi, vào trong cơn địa chấn của da thịt và tuỷ xương...
    Tôi nằm im nghe thân xác mình căng chướng nặng nề, tôi nằm nghe xương cốt giãn ra, tan hoà vào da thịt đang nở bung thành một hình hài to tướng dị thường. Tôi ôm người đàn ông, không phải chỉ với hai tay hai chân mà với tất cả các hạch tuyến, huyết quản trong cơ thể tôi. Tim tôi đập chậm lại, tôi nghe tim tôi đập mơ hồ như tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ đeo tay nhỏ xíu chôn vùi trong nội tạng tôi. Tôi nằm bất động như vậy không biết bao lâu. Tôi lắng nghe: xe ủi tuyết đã đi xa rồi. Cả cái âm thanh li ti mơ hồ rào rạt của tuyết rơi ban đêm cũng không còn nữa.
    Rồi trong giây phút đê mê tê điếng ấy, tôi bỗng thấy một cơn mát lạnh - từ cõi vô thiên vô địa nào bay về... Tôi nhận thức trước tiên ở các ngón chân, rồi từ từ, từ từ cảm xúc mát lạnh đó thấm lên dần chân tôi, gối tôi, rồi hai đùi tôi, tôi dạng hai chân rộng hơn, tôi nhếch mông tôi lên, và cảm giác đó ào ạt tuôn trào vào bụng dưới của tôi, tràn trề lan ra nhanh chóng toàn thân tôi. Tôi thấy rõ ràng từng tế bào một của toàn thân được tắm gội phủ phê trong cảm giác mát lạnh trong veo đó. Và tôi sung sướng vô ngần, một nỗi xúc cảm, một niềm hoan lạc tôi chưa bao giờ được biết, tôi ngất ngây, tôi nằm im để nhận ra rằng tôi chỉ còn thênh thang một mình, dập dìu đong đưa giữa hai cõi tử sinh... Nỗi xúc cảm đó, cơn mát lạnh rưng rưng lụt ngập cơ thể của tôi đó, càng lúc càng trỗi dậy, càng lúc càng mãnh liệt đến một mức kinh hoàng, tôi biết tôi sắp ngất đi, thì tôi ưỡn người, tôi dạng hai đùi ra thật rộng, và toàn thân người đàn ông chồng tôi, đã mất hút vào thế giới sâu thẳm trong cơ thể tôi, bỗng trôi tuột ra ngoài, nhễ nhại như một đứa sơ sinh...
    Chuyến tàu AIM 751-11 về đến Honga trễ mất hai mươi phút. Sân ga và đường sá còn lầy lội sau trận bão tuyết lớn đầu tuần. Thỉnh thoảng một tia sáng loé lên, ngỡ ngàng, rồi tắt ngấm, như một ảo ảnh của những mùa hạ ấm khô không bao giờ có thật.
    Người đàn bà bước xuống tam cấp sắt, tay ôm một bó huệ trắng nàng đã ghé mua ở tiệm hoa cạnh sở làm. Người chồng cầm lấy xắc tay nặng cho vợ. Hai người nhìn nhau không nói,. Trên đường về nhà, lúc xe chạy qua tỉnh lẻ còn ngập lụt tuyết trắng, người đàn bà liếc mắt nhìn chồng, và môi nàng thoảng qua một nét mơ hồ, phảng phất như một nét cười.
    Buổi lễ cầu siêu cho thân phụ người đàn bà được cử hành bốn hôm trước ngày đưa ông Táo về trời. Mấy nén hương Quan Âm toả khói thơm ngào ngạt, quyện lấy những đoá huệ trắng ngọc ngà. Người đàn bà quì trước bàn thờ, đầu chít khăn tang, đôi mắt nàng thâm quầng và mọng sưng sáng rực trong khuôn mặt trắng nhợt nhạt. Bên cạnh nàng, người chồng quì ngay ngắn thật lâu, rồi sau ba tiếng chuông, cất giọng sang sảng bắt đầu tụng Tâm kinh:

    ?oSắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc?...
    1987
    (In trong tập Xứ Sấm Sét, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1987, tr. 153-160)
    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bàn Tải Cân
    Đạo Oshin( II )​
    * * *
    Lại thêm vài năm nữa trôi qua, Trần Bười liên tục lì lợm bám trụ ở nhà họ Vương, hỏi đến thì nói vẫn đang phải đợi duyệt kinh phí, triển vọng to lớn vô cùng. Vương Lâm cùng vợ đã bắt đầu có ý chán chường về ông bác họ người yêu cô em ruột con bà chị dâu với láng giềng họ Vương này, nhưng vốn bản chất hiền hoà lại ngại cãi cọ va chạm nên thường nín nhịn cho qua. Điều đáng nói là trong nhà họ Vương ngày càng xảy ra nhiều hiện tượng quái lạ. Mấy năm trước chú mèo mướp cái tên là Hoa Gấm, bạn thân của cô chủ Mai Liên bỗng nhiên biệt vô âm tín, chỉ để lại đôi tai, mẩu đuôi cùng túm lông dưới gậm giường. Tiền nong trang sức cũng tự nhiên không cánh mà bay, gia sản dần dần khánh kiệt. Việc lạ nhất là thỉnh thoảng lại xuất hiện những bãi phân ngay trên nền nhà, hoặc nhiều bãi tiểu tiện cạnh các góc tường. A Hoàn phải lau dọn giải quyết hậu quả hết sức vất vả. Chàng thường khẳng định với Vương Lâm rằng tất cả những việc đó đều là tác phẩm của Trần Bười, rằng có bằng chứng tối hôm trước Bười chén nguyên cả con gà ri thì sáng nay trong bãi phân vẫn còn dấu hiệu của lông và xương gà... Nhưng ông Vương nhất định gạt đi không tin, lại dặn A Hoàn nên tĩnh tâm kiên trì mà dọn dẹp. A Hoàn càng giận Bười lắm, quyết tâm làm rõ trắng đen.
    Một đêm chàng bèn thu mình ngồi dưới gầm cầu thang rình bắt quả tang việc xấu của khách. Đúng nửa đêm thấy Trần Bười mò về, qua chân cầu thang chỗ A Hoàn nấp, nhìn quanh thấy không có ai hắn bèn dừng lại chống hai tay xuống đất, giơ chân phải lên cao, vạch quần tiểu tiện. A Hoàn để ý thấy ********* Bười có màu đỏ kỳ lạ, phía đầu nhọn hoắt lại có ngạnh như xương cá, mới giật mình vội rút kính râm bà già tặng ra đeo để xem thực hư thế nào. Kinh hãi thay, Bười hiện nguyên hình là một con chó xám đang ghếch chân đứng đái, to như con bê con. Lúc này A Hoàn mới hiểu nguyên nhân Bười luôn phải chốt cửa khi đi vệ sinh cũng như mặc nguyên quần áo lót lúc ngủ.
    Từ sau bữa đó A Hoàn càng lấy làm lo lắng cho khổ chủ lắm, chưa kịp nghĩ ra kế sách nào vẹn toàn để có thể bẩm báo lại cho Vương Lâm tin mà hiểu. Thời kỳ này cô bé Mai Liên cũng đã đến tuần cập kê, ra dáng là một tiểu thư con nhà khuê các, dung mạo càng lớn càng xinh đẹp, môi đỏ như hoa, da trơn như lụa, mắt đen thăm thẳm quyến rũ vô cùng. A Hoàn phát hiện thấy ánh mắt Trần Bười nhìn Mai Liên đã có chiều khang khác, thành ra luôn phải để mắt đề phòng. Một tối Mai Liên học thêm về, khi ngang qua cửa phòng Bười nàng lịch sự cúi đầu mỉm cười chào khách. Nào ngờ Bười khởi dục tính lao ra bịt miệng lôi tuột nàng vào phòng định giở trò tà dâm. May thay A Hoàn đã cảnh giác đối phương từ lâu, vội đấm tung cửa buồng Bười rồi nhảy vào vung chân đá mạnh trúng hạ bộ của hắn. Hai hạt vỡ nát. Bười gầm lên như con thú bị thương, hiện nguyên hình là một con chó dái to màu xám như con bê con lao bổ vào đè nghiến A Hoàn ra giữa sàn nhà định cắn đứt cổ. Giữa lúc tính mạng mong manh như tơ nhện, A Hoàn chợt nghe một tiếng nổ chát chúa vang trời, Trần Bười đổ vật ra đất giẫy giẫy một chốc rồi chết hẳn. Đứng ở cửa phòng, ông Vương đang run rẩy cầm trong tay khẩu súng săn Roller Cabinét vẫn thường treo trên bức tường phía nam phòng khách, nòng bốc hơi bỏng rẫy.
    Gần căn nhà gia đình Vương Lâm sinh sống có tay du thủ du thực họ Dư, công tác ở vị trí giao tế viên công cộng cho một công ty phần mềm, quan hệ với báo giới rất rộng. Hắn vốn là bạn nhậu với Trần Bười, hai tên thường hay bệ rạc say xỉn với nhau, lại hay đồng tâm làm nhiều điều tục tĩu khó ai mường tượng nổi. Lúc tối thấy bên nhà Vương Lâm có tiếng con gái kêu cứu, Dư vội chạy đến lén ngó qua cửa sổ, nắm được hầu hết diễn biến nội tình. Sẵn điện thoại di động Dư liền gọi ngay cho cảnh sát cơ động đến giải quyết vụ án mạng. Tình ngay lý gian, hai vợ chồng Vương Lâm lập tức bị tống giam chờ ngày xét xử. Sự vụ trở nên càng trầm trọng hơn khi Dư vì thương tiếc bạn nhậu đã gửi đăng một loạt bài trên nhiều tờ báo có uy tín với những tiêu đề như ?oTrí thức bắn chết người vô tội? hay ?oSự thật về tay sát nhân văn hoá Vương Lâm?. Tại phiên toà Dư đứng ra làm nhân chứng kể tội nhà họ Vương, rằng Trần Bười nhân thân rất tốt, trả tiền ăn ở rất hậu, lại thường xuyên kèm thêm môn toán cho Mai Liên, rằng vợ chồng Vương Lâm cùng oshin A Hoàn do muốn tống cổ Trần Bười đi để độc chiếm căn phòng nên mới bày mưu giết người. Toà án dựa trên lời khai của nhân chứng cùng vật chứng là xác chết Trần Bười với khẩu súng săn Roller Cabinét, xử hai vợ chồng Vương Lâm án chung thân. Riêng A Hoàn vì cũng tham gia ẩu đả đá vỡ hạ bộ nạn nhân nên bị hai năm biệt giam lao tù quản thúc. Vương Lâm làm đơn kháng cáo nhưng bị bác. A Hoàn cũng làm đơn xin được tăng án của mình lên chung thân, để được ở cùng biệt lao cho dễ bề chăm sóc ông bà khốn chủ, nhưng không được hội đồng xét xử thông qua.
    * * *
    Hai năm sau ngày xảy ra vụ trọng án, đúng khi tiết trời đương xuân, hoa cỏ tốt tươi, mưa bụi đầy giời, có một chàng trai mảnh mai cao độ mét tám nặng chín chục cân đang hờ hững lang thang vô định trên con đường nhỏ trước cổng trại giam. Đó chính là A Hoàn vừa được phóng thích. Hai năm gian khổ trong lao tù làm cơ thể chàng tiều tuỵ đi nhiều lắm, đặc biệt chiều cao giảm hẳn, cân nặng cũng không còn được như xưa, tuy vậy ánh mắt của chàng vẫn toát lên nét thanh cao, nụ cười vẫn âm thầm ngạo nghễ. A Hoàn về lại căn nhà xưa nơi gia đình Vương Lâm từng sinh sống hạnh phúc, thấy cửa long khoá trễ mạng nhện chằng chịt, sàn đá hoa chàng thường lau bóng lộn ngày nào nay bụi thời gian đã phủ dầy một lớp, khiến lòng thương cảm vô cùng. Chàng lần tìm quanh đó hỏi han tung tích cô con gái Vương Mai Liên qua mấy nhà hàng xóm, nhưng vật đổi sao dời, láng giềng thân quen ngày xưa đã bị qui hoạch đền bù giải toả đất mà phải di dời đến các khu tái định cư mới ở những phương trời nào rồi.
    A Hoàn tâm hồn trĩu nặng lặng lẽ quay gót trở về quê cũ là xã Cổ Đông, tỉnh Sơn Tây, cách Hà Nội chừng ba mươi dặm tính theo đường cao tốc Láng - Hoà Lạc. Nơi đây chàng huy động được chút vốn mọn của bà con nông dân cùng xã, rặt những người nghèo khổ mà vô cùng tốt bụng. Chàng bèn quyết định đầu tư kinh doanh bất động sản. Cũng may thời gian ấy tại Hoà Lạc có một loạt các dự án quốc gia liên hoàn công nghệ cao, giáo dục và du lịch văn hoá nên giá đất nơi này cứ tăng vùn vụt, A Hoàn gặp dịp đó mà làm ăn rất khấm khá. Ngày ngày chàng lái ôtô đi khắp các làng xung quanh, gạ nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp với giá rẻ, rồi thông đồng cùng uỷ ban nhân dân và địa chính các xã cấp phép thổ cư, bán lại cho đám thị dân ở Hà Nội với giá cắt cổ làm trang trại với nhà nghỉ cuối tuần. Chỉ ít lâu sau A Hoàn đã trở thành đại gia giàu có nhất tỉnh, sở hữu ba khách sạn loại sang, sáu nhà chứa cao cấp, chưa kể khu chung cư cao tầng rộng gần chục hecta.
    Có lưng vốn kha khá rồi A Hoàn mới bắt đầu dùi mài kinh sử, suốt ngày miệt mài đọc sách tại các thư viện điện tử. Sau khi lấy được chứng chỉ TOELF với điểm số 695, chàng liền bay sang đại học viện Oxford lăn lộn suốt sáu tháng trời đêm quên ăn ngày quên ngủ, bảo vệ đồng thời hai luận án tiến sĩ, một về văn chương, một về quản trị kinh tế vĩ mô. Khi về nước, đám thuộc hạ của A Hoàn rất lấy làm lạ, thường hỏi chàng: ?oĐại ca tuổi tác đã không còn thiếu nhi, tài sản lại nhiều không kể xiết, sao còn phải học hành uyên thâm đến vậy??. A Hoàn đáp: ?oTa vốn là oshin, kiếm tiền cũng chỉ để trọn đạo làm oshin, đi học cũng chỉ để trọn đạo làm oshin?. Lại nói: ?oTa làm tiến sĩ văn chương là mong hoàn thiện được ngôn từ với chủ nhân cho phải đạo, làm tiến sĩ quản trị kinh tế vĩ mô là mong tổ chức được việc quản gia cho chu toàn?. Thuộc hạ nghe vậy đều đồng thanh gật gù tâm đắc, nhưng thảy đều không hiểu.
    Thời gian làm ăn ở quê A Hoàn vẫn liên tục cho người dò tìm tung tích Mai Liên, lại cũng nhiều lần gửi đơn từ khiếu nại đến các cấp có thẩm quyền kêu oan cho ông bà chủ, nhưng vì vụ trọng án đó nhân chứng vật chứng đã rành rành nên cũng không thu được thành tựu gì.
    * * *
    Lại nói về chuyện Vương Mai Liên sau khi bị Trần Bười hãm hiếp hụt, lại phải chứng kiến cảnh tan cửa nát nhà mẹ cha tù tội, chú A Hoàn là chỗ dựa cuối cùng cũng không thoát khỏi cảnh biệt lao nên tâm trí trở nên buồn bã hoảng loạn. Không còn nơi nương tựa mà cuộc sống ngày càng đắt đỏ, tiền nong cha mẹ để lại chẳng còn bao nhiêu thành ra chỉ ít lâu sau nàng đã lâm vào cảnh túng quẫn. Mai Liên đành bỏ học, mở quán nước vỉa hè ngay trước cửa nhà để kiếm sống qua ngày. Thời gian sau nàng may mắn gặp được bà dì họ xa ở tận Sài Gòn ra Hà Nội bỏ mối đồ lót nam giới. Bà vốn là đầu nậu cung cấp hàng cho nhiều hãng thời trang lớn lắm, nay thấy hoàn cảnh Mai Liên đáng thương quá mới quyết định ở lại Hà Nội thêm vài ngày giúp đỡ cô cháu gái, hùn vốn cùng nàng mở một công ty nho nhỏ chuyên buôn bán đồ mỹ phẩm cao cấp. Nguồn hàng bà dì đứng ra lo nhập toàn bộ từ Lào qua cửa khẩu Lao Bảo. Mai Liên phụ trách mảng phân phối và thực hiện các chiến dịch quảng cáo. Công ty dần làm ăn phát đạt, trở nên nổi tiếng và có thương hiệu tốt. Mai Liên được bình bầu là doanh nghiệp trẻ tiêu biểu, đoạt đồng thời ba giải Sao Hôm, Sao Chổi và Sao Hoả.
    Trong thời gian này tên giao tế viên họ Dư vốn say mê nhan sắc của Mai Liên nên vẫn thường mượn cớ qua lại thăm hỏi, nhưng lần nào cũng bị cự tuyệt đuổi về. Có lần Dư hỏi thẳng: ?oSao nàng căm giận ta đến vậy??. Mai Liên lạnh lùng đáp: ?oNhà ta tan tác chia đàn xẻ nghé cũng do một tay ngươi gây nên, sao không căm giận cho được?. Dư cười phân minh: ?oCha mẹ nàng giết người, ta với trách nhiệm công dân phải đứng ra trình báo. Bạn thân ta bị giết, ta với trách nhiệm bằng hữu phải viết bài đăng tin. Nàng nên thông cảm mà hiểu cho mối thâm tình của ta dành cho nàng mới phải?. Mai Liên nghe lời nói đểu cáng quá phẫn uất không kìm được bèn dang tay vả mạnh vào miệng Dư, khiến hắn bị văng mất hai răng cửa, vỡ một răng sữa và nứt nửa răng hàm số 6. Dư căm hận nghiến lợi bỏ về, thề sẽ trả thù.
    Độ tuần sau có vị khách tóc ngoại quốc mặt Việt nam tìm đến công ty Mai Liên bàn việc làm ăn. Hắn giới thiệu cho nàng một số sản phẩm kem dưỡng da đặc biệt nhãn hiệu Corealine Dream, do chính viện Meduza Paris cấp bản quyền, với một số thành phần hoá học được chiết xuất từ bào thai cừu. Loại kem này rất hiệu quả trong việc loại bỏ các nếp nhăn trên làn da lão hoá, tẩy mụn trứng cá và tàn nhang trên làn da dậy thì. Mai Liên cho nhân viên dùng thử vài ngày, quả nhiên công hiệu rất tốt, liền dồn vốn nhập toàn bộ lô hàng của khách. Hàng bán rất chạy, vốn một lãi ba, Mai Liên mừng lắm bèn mở tiệc khao thưởng nhân viên. Đương khi cả đám nâng cốc chúc tụng hoạt náo vô cùng bỗng nghe xôn xao ngoài cửa, ngó ra thấy một đám đông đàn bà con gái đang đứng biểu tình đòi hành quyết Mai Liên, người nào người ấy nét mặt tả tơi, má sứt mũi lẹm cằm nứt mí sưng. Cho thư ký ra hỏi thì toàn là khách hàng dùng kem dưỡng da nhãn hiệu Corealine Dream mua từ công ty Mai Liên ra cả.
    Đám đông như hổ dữ ùa vào đập phá toàn bộ tài sản công ty, hành hung nhân viên bán hàng, lại có kẻ uất quá đã chuẩn bị sẵn cả can sữa chua có nồng độ axit lactic rất cao, chỉ đợi gặp nữ giám đốc Mai Liên là tạt mặt trả thù. Cũng may Mai Liên nhanh chân theo cửa phụ trốn thoát được, nhưng công ty nàng phá sản hoàn toàn, thậm chí còn bị nhiều đơn từ tố giác, vướng vòng hình sự. Mai Liên sợ hãi lắm, giấu biệt tung tích, lại không dám quẩn quanh ở Hà Nội nên cứ một mạch chạy thẳng theo đường Hoà Lạc về phía Nam. Trong ví không còn tiền mặt, nàng lấy thẻ tín dụng ra máy ATM định rút tiền thì tài khoản cũng bị phong toả mất rồi.
    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bàn Tải Cân
    Đạo Oshin ( III )​
    *****
    Lại nói về A Hoàn thì ngoài việc điều hành kinh doanh khách sạn, nhà chứa, đầu tư khu du lịch và tham gia vào các dự án xây dựng trọng điểm của quốc gia, chàng còn cho mở một trường dân lập lớn tại quê, gọi là A Hoàn Đại Học Đường. Trường được xây dựng rất khang trang hiện đại, phòng học nào cũng có kết nối Internet băng thông rộng. Ngay tại tiền sảnh có treo bức hoành phi cực lớn trên đề tám chữ đại tự ?oNhất nhật vi nô, bán nhật vi nô?, nét viết nghiêm trang như có thần, ý nói dẫu làm việc một ngày cho chủ cũng là oshin, làm việc nửa ngày cũng là oshin. Về chương trình thì đại để cứ sau năm năm chuyên cần học hành, trả hết các tín chỉ cả về lý thuyết lẫn thực hành là sinh viên được cấp tấm bằng Oshin chuyên nghiệp, là tấm giấy thông hành tốt nhất để xin được việc làm oshin tại các đại gia. Vì thế mà hàng năm đến kỳ tuyển sinh là A Hoàn Đại Học Đường của hiệu trưởng A Hoàn lại được nhiều thí sinh đăng ký dự thi lắm.
    Một lần A Hoàn đi qua kiểm tra sổ sách kế toán tại thanh lâu Thảo Viên là một trong sáu nhà chứa thuộc quyền chàng sở hữu, chợt thấy mụ chủ khúm núm ra thưa: ?oCó con bé vô cùng kháu khỉnh mới lưu lạc vào đây, kính mời đại nhân tiên dụng?. A Hoàn truyền cho gặp mặt. Lát chủ chứa đưa giai nhân vào, người vận áo dài lụa đỏ, váy ngắn hồng nhạt, dáng vẻ kiều diễm mỹ lệ vô cùng. A Hoàn nhìn kỹ khuôn mặt khả ái của giai nhân, bỗng nhiên giật mình hoảng hốt, vội quì sụp xuống vừa lạy vừa tức tưởi: ?oThuộc hạ bấy lâu lần mò tung tích tiểu thư mà đến nay mới thành công quả vậy?. Đoạn đứng dậy ôm chặt lấy Mai Liên mà khóc lóc sụt sùi. Mai Liên gặp lại A Hoàn cũng cảm động không thốt nên lời, ngất đi ngất lại mấy lần.
    A Hoàn quát mắng chủ chứa một chập, cắt thưởng quí ba của toàn bộ nhân viên thuộc Thảo Viên lâu. Xong vội đưa Mai Liên lên ôtô về chính thất, cung phụng chu đáo, tự mình làm mọi việc cho nàng mà giữ đạo chủ tớ rất nghiêm. Những buổi sáng rảnh rỗi, uống cà phê tại thư hiên, hai người lại nước mắt vắn dài, vừa ôm nhau vừa ôn lại chuyện xưa. A Hoàn kể cho Mai Liên nghe toàn bộ cuộc đời chàng kể từ khi bước chân vào chốn ngục tù, đến khi được phóng thích lần tìm dấu tích Mai Liên, sau phải tạm về quê làm ăn chờ thời, bảo vệ hai bằng tiến sĩ và hiện đang kinh doanh rất phát đạt. Mai Liên nghe vậy mừng lắm. A Hoàn lại kể: ?oNgày xưa có lần thuộc hạ buồn ra công viên khóc, gặp được bà lão bán vé số. Bà an ủi, tặng cho kính râm chiếu yêu khiến nhìn ra chân tướng Trần Bười là con chó xám to như con bê, lại còn nói mọi việc rồi sẽ hanh thông cả. Vậy xin tiểu thư cứ an nhiên tự tại, đừng lo lắng quá?. Mai Liên vốn thông minh sắc sảo, nghe chuyện chó xám với bà lão xong thì ngẩn người một lát mà bảo: ?oBà lão bán vé số phải chăng là con mèo mướp Hoa Gấm ngày xưa của ta, bị chó xám Trần Bười lừa bắt ăn thịt, chỉ còn chừa lại đôi tai, mẩu đuôi và túm lông dưới gầm giường?. A Hoàn nghe thấy rất hợp lý, gật gù khen phải.
    Mai Liên lại kể A Hoàn nghe chuyện mình mở công ty mỹ phẩm, bị họ Dư lừa đảo hãm hại, sau lưu lạc đói rách khổ sở, làm đủ mọi nghề để sinh sống, từ trồng rau cắt cỏ đến dọn rác ủ phân, từ gánh thuê vú mướn đến bồi bàn ****, chưa nghề nào chưa từng làm từng trải. A Hoàn nghe kể càng lấy làm thương cảm, cứ vò đầu bứt tai vả vào mặt tự trách mình không gặp được Mai Liên sớm hơn để giảm bớt nỗi cơ khổ cho nàng. Lại bàn đến chuyện làm sao đưa ông bà Vương Lâm thoát vòng tù tội, Mai Liên nói: ?oChỉ cần họ Dư chịu phản cung, khai đúng sự thật thì án cũng sẽ được giảm nhẹ lắm?.
    *****
    Độ hai tháng sau đám thuộc hạ A Hoàn bẩm báo đã tóm được Dư khi hắn đang lang thang kiếm gái trên đường Giải Phóng thuộc địa bàn Hà Nội. A Hoàn và Mai Liên cả mừng bèn truyền dẫn giải vào, thấy khuôn mặt Dư vẫn thư sinh trắng trẻo nhưng phong thái độ này đã có chiều nhếch nhác đi nhiều. A Hoàn hỏi: ?oHuynh giúp đứng trước toà công bố về sự thật của vụ án nhà họ Vương được không??. Dư sợ hãi nói: ?oSự thật tại hạ đã nói hết tại phiên phúc thẩm rồi, còn gì mà khai nữa?. A Hoàn nghe vậy cười nhạt, truyền thuộc hạ đem Dư đi tra tấn. Đám thuộc hạ lao vào lột hết quần áo Dư ra, lau rửa sạch sẽ, đoạn vứt hắn lên chiếc giường Hồng kông mà trói chặt bốn chân tay vào bốn cột giường. Xong đâu đó A Hoàn truyền cho hai mươi kỹ nữ đẹp nhất Thuỷ Tiên lâu vào vây quanh giường Dư, đồng tâm thoát bỏ xiêm y, cùng nhau múa khúc Điêu Ly tưng bừng. Dư thấy vậy cả mừng thầm nghĩ: ?oTưởng tra tấn thế nào, chứ thế này khác gì thiên đường, có mơ cũng chẳng được?. Hai kỹ nữ trẻ nhất lại đồng loạt lên giường liên sàng với Dư, giở đủ mọi ngón nghề, khiến hắn càng tràn đầy đê mê hứng khởi. Đám kỹ nữ cứ thế thay phiên nhau tra tấn Dư suốt 24/24. Đến ngày thứ ba thì mặt Dư xám ngoét như đít nhái, hơi thở gần đứt, huyết áp tụt mạnh, tinh xuất ra trong vắt như nước cất. Thấy Dư gần chết A Hoàn mới tới gần giường nhẹ nhàng hỏi lại: ?oHuynh giúp đứng trước toà công bố về sự thật của vụ án nhà họ Vương được không??. Dư gục đầu thều thào xin nhận lời.
    A Hoàn và Mai Liên ra Hà Nội, gặp gỡ các nhân vật quan trọng nhằm tác động mở phiên toà xét lại vụ nghi án họ Vương giết Trần Bười, chi tiền rất nhiều. Trong phiên toà Dư đã đứng ra xác nhận những lời khai trước đây của mình có phần giả dối, rằng Trần Bười định tâm hãm hiếp Vương Mai Liên, lại định cắn đứt cổ A Hoàn nên mới bị Vương Lâm bắn chết. Chủ toạ phiên toà thấy có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bèn tuyên án: ?oVợ chồng Vương Lâm vì lý do tự vệ chính đáng, lỡ tay giết người, giảm nhẹ hình phạt từ chung thân xuống 20 năm tù, cho lao động khổ sai?. A Hoàn nghe vậy thì thất vọng quá, đứng dậy hỏi lớn: ?oNếu lỡ tay giết chó thì bao nhiêu năm tù??. Lại điên lên mà quát rằng: ?oTrần Bười chỉ là con chó xám to như con bê con, bằng chứng còn nguyên dưới mộ ấy?. Toà bèn truyền pháp y khai quật mộ Trần Bười, quả nhiên trong quan tài chỉ thấy có bộ xương chó rất to. Khi ấy vội ký quyết định phóng thích vợ chồng Vương Lâm, lại bồi hoàn danh dự và hơn 10 năm oan ức bằng một biệt thự sang trọng ngay giữa thủ đô Hà Nội. Dư vì trước đây khai láo, bị toà phạt đòn hai mươi trượng, sau về già mỗi khi thay đổi thời thiết mông trái Dư lại đau buốt như để giúp hắn nhớ lại những lỗi lầm ngày xưa. Bộ xương chó khai quật lên được chuyển cho Viện Pháp y để làm rõ thành phần hoá học, sau lại chuyển cho Dr. Vũ là giáo sư có tiếng về công nghệ gene, nhằm xác định lại cấu trúc ADN xem khác gì với người, khác gì với chó. Đến nay đã mấy ngàn năm trôi qua mà vẫn chưa có kết luận gì.
    ****
    Về phần ông bà Vương Lâm được phóng thích lại về sống với cô con gái cưng, tinh thần hoàn toàn ung dung tự tại, không hề có thái độ hằn học về những năm tháng lao tù oan khổ vừa qua. A Hoàn bán toàn bộ quyền sở hữu các khách sạn, nhà chứa và chuyển nhượng lại A Hoàn Đại Học Đường cho một giáo sư đáng tin cậy, còn bản thân lại về làm oshin cho nhà họ Vương. Thường nhật ngày đông cũng như ngày rét A Hoàn luôn trở dậy từ canh ba, giặt chậu quần áo, tưới nước hoa viên. Đến giờ mão thì đi patanh ra thẳng chợ Hôm mua đồ ăn sáng, khi mấy đĩa bánh cuốn nóng, lúc vài bát phở tái thơm... Có điều Mai Liên giờ đã lớn nên không cần pha sữa nữa.
    Một ngày Vương Lâm gọi A Hoàn đến bảo: ?oCon có ơn với nhà ta nhiều quá mà chưa có gì đền đáp, hay để ta gả Mai Liên cho con??. A Hoàn nghe vậy cả mừng, vái lạy mà thưa: ?oChỉ sợ tiểu thư không có tình ý với kẻ nô bộc này?. Lúc đó Mai Liên đứng gần đấy, vội chạy ra ôm chặt lấy A Hoàn mà bảo: ?oCòn thiếp chỉ sợ chàng không có tình ý gì với kẻ chủ nhân này. Thú thật thiếp đã yêu chàng từ ngày chàng pha chén sữa to, nấu xoong bột lớn, ẵm thiếp dậy cưng nựng mà cho ăn cho uống, lại bày nhiều trò hay khiến thiếp khoái trí cười keckec?. Hôn lễ được tổ chức lớn lắm, ai ai cũng đến chia vui.
    Một tối Mai Liên bảo: ?oGã oshin kia, ra đây gãi lưng cho tiểu thiếp?, A Hoàn đang đọc sách gần đó vội chạy ra thưa: ?oThuộc hạ xin tuân lệnh?. Đoạn cởi áo vợ mà vuốt ve mơn trớn, không chỉ lưng mà còn nhiều bộ phận nhạy cảm thú vị khác, cứ thế hai vợ chồng lục đục cả đêm. Thật là khí độ của một đại gia vậy./.
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nhà văn Trung Quốc Li Rui sinh năm 1950 tại Bắc Kinh. Như đa số những người sinh cùng thời, ông chưa học hết cấp hai thì bị đưa tới một làng ở tỉnh Sơn Tây để cải tạo lao động trong phong trào *****************. Sau đó ông làm việc trong một nhà máy thép và bắt đầu viết tiểu thuyết trong thập niên 1970. Từ năm 1977 ông làm biên tập viên tạp chí Văn Học Sơn Tây.
    Bầu Kẻ Cắp (Electing A Thief) viết năm 1986 dựa trên những gì ông trải nghiệm trong thời gian sáu năm sống ở Lương Sơn, được Jeffrey C. Kinkley dịch sang Anh ngữ, trích trong The Columbia Anthology of Modern Chinese Literature, nhà xuất bản Columbia University Press ấn hành năm 1995 tại New York.

    Li Rui
    Bầu Kẻ Cắp​




    - Bầu rồi!
    Trưởng đội sản xuất nện cục đá xuống trục xay như nện búa, rồi nhấc bổng chân giậm xuống cối xay trong dáng vẻ đường bệ nhất.
    Trời ngột ngạt, nóng đủ quẫn cả trí. Khuôn mặt dân làng dưới tán cây đàn hương già trở nên đờ đẫn hết người này tới kẻ khác. Họ đứng dính chặt tại chỗ, im lặng như cây cột. Viên đội trưởng nổi sùng:
    - ****** tụi mày! Tụi mày nghĩ tới bây giờ tao còn ăn hiếp tụi mày hả? Tao cho tụi mày tự quyết định mà tụi mày vẫn không làm gì, vậy thì sao đây? Tụi mày muốn tao làm dân chủ cho tụi mày luôn hả? Trời đất quỉ thần thiên lôi ở thành phố cũng không làm lớn chuyện như vậy. Bầu đi! Nếu tụi mày không bầu thằng ăn cắp lúa ngay ngày hôm nay thì sẽ không có đập lúa, nghĩa là khỏi gặt lúa mì năm nay. Sang năm tụi mày ăn bánh bột bắp thô! Nào, lẹ lên, mỗi đứa lựa thằng mình muốn, nhưng cấm nói chuyện!
    Vẫn không ai nói hay tỏ ý gì. Đúng là không dễ chút nào.
    Hôm qua đội trưởng có nhiệm vụ gác đêm. Sáng nay, điều đầu tiên hắn phát hiện sau khi thức dậy là mất một bao lúa trong số thu hoạch lúa mì. Hắn gọi kế toán của đội và người chịu trách nhiệm nhà kho: nè, mất một bao đó nghe. Gã đội trưởng bắt đầu đào ông bới cha thiên hạ. Hắn thề sẽ tóm cổ thủ phạm và đưa ra công lý. Họ điều tra lên điều tra xuống, nhưng chỉ có một manh mối - mất một bao lúa mì. Mọi người châu đầu vào bàn bạc. Trước tiên, kẻ cắp không thể là phụ nữ, vì không mụ nào có thể vác hơn 50 ký lô. Thứ hai, không thể là một trong sáu đứa học trò Bắc Kinh ẻo lả, vì tụi nó đều sống chung trong nhà tập thể mới xây. Chúng không có chỗ giấu. Thứ ba, không thể là đội trưởng, vì ông ta gác suốt đêm. Phải có một thằng ăn cắp. Nhưng thằng ăn cắp tự một mình nó biết; nó không có can đảm thú tội, đồ khốn khiếp. Chẳng thể làm gì với cái thứ không những ti tiện mà còn vụng trộm. Nhưng người ta càng triết lý, gã đội trưởng càng đào ông bới cha họ. Hắn xem đó như một sỉ nhục nghiêm trọng. Tên ăn cắp lúa cố tình lựa tối hôm đó, không phải vì lúa mì, mà vì hắn, đội trưởng đội sản xuất. Hắn giận tới mức mờ mắt. Hắn thấy chữ kẻ cắp viết trên trán từng dân làng. Trong cơn tam bành lục tặc, hắn triệu tập hết mọi người. Hắn vận động quần chúng bình bầu và giải quyết sự vụ. Phụ nữ không có quyền bầu, vì thế họ ôm chặt con cái trong cánh tay, xúm xít vào một góc để xem chuyện hào hứng. Tụi học trò cũng không bầu. Sau khi chuẩn bị giấy bút, chúng nó chỉ việc đợi người ta nghĩ ngợi xong xuôi rồi bước ra nghiêng người nói khẽ cái tên vào tai chúng. Rồi chúng nó sẽ làm lá phiếu - chỉ cần viết tên của người bị bầu.
    Nhưng trời nóng quá, nóng quẫn cả trí, nóng tới nỗi bọn đàn ông đợi dưới bóng râm không thể tập trung nổi. Biết mình không thể chửi bới để họ hành động, gã đội trưởng lơi bộ mặt căng thẳng của mình:
    - Đừng sợ, đây là bầu bán dân chủ, mình có thể lựa bất cứ người nào mình muốn. Bầu bất cứ kẻ nào giống thằng ăn cắp lúa mì.
    Rồi hắn vỗ ngực:
    - Lựa tao nè! Kẻ được bầu chưa hẳn phải là đứa ăn cắp. Mình đang tìm manh mối thôi. Nào, bỏ phiếu, mày bắt đầu.
    Đội trưởng trỏ ngón tay vào người đàn ông ở gần bánh cối xay nhất. Hắn cứ chỉ tới khi ông ta phải phản ứng. Thế là có kẽ hở thứ nhất trong đám đàn ông dính chặt với nhau, rồi thứ hai, rồi thứ ba. Con chim ác là đậu xuống cây đàn hương bắt đầu hót líu lo, như thể nó cũng muốn bay xuống bỏ phiếu.
    Các cử tri rất trịnh trọng. Từng người một lên nói thầm vào tai lũ học trò, rồi trở về chỗ cũ, mặt mũi vẫn rất nghiêm trọng. Cuộc bầu cử tiến hành rất suôn sẻ. Mười bốn phiếu bầu; không ai bỏ quyền bầu phiếu của mình. Bọn học trò cười toe toét giao phiếu bầu cho đội trưởng. Hắn bỗng dưng nhăn mặt.
    - Được rồi, đồ chó đẻ. Tụi mày nghĩ tao tệ vậy hả? Tao làm việc không công cho tụi mày hàng bao năm nay hả? Tụi mày bầu tao hết. Nếu thiệt tình cần lúa mì thì tao ăn cắp ở sân đập hả? Đồ chó đẻ, tao ở với tụi mày hàng bao năm nay mà không thiệt hiểu tụi mày. Tao? Tao ****** tụi mày! Tuốt tuột! Tao bỏ. Đứa nào muốn cái chức khốn nạn này thì lấy đi. Tới cuối năm, thằng nào nghĩ nó có khả năng thì tới hợp tác xã xin vay khẩn cấp và lúa cứu trợ. Tụi mày nghĩ tụi mày có thể *** ra hả? Để tao coi tụi mày có lấy được xu nào không? Đồ chó đẻ, tao muốn thấy bụng tụi mày đầy gió bấc coi sao!
    Phủi tay khỏi vấn đề, gã đội trưởng rút khỏi cuộc đầu phiếu và huỳnh huỵch bước đi.
    Cử tri đoàn sững sờ vẫn cứ tụ lại với nhau.
    - Tiên sư nó, ai mà nghĩ mình nhất trí như vậy, kỳ thiệt!
    Một kẻ nào đó chịu không nổi căng thẳng cười khẩy. Bỗng nhiên mặt đất dưới cây đàn hương già rung lên vì tiếng cười. Bọn đàn ông đàn bà cười tới khi chảy nước mắt, tới khi quặn bao tử không đứng thẳng nổi. Bạn có thể nghĩ cánh đồng lúa mì bị trúng cơn lốc.
    Sau khi cười đã đời, vài kẻ bắt đầu lo lắng:
    - Nếu quả thật hắn bỏ thì từ giờ sẽ không có ai gọi mình đi làm và giao việc cho mình. Nếu mình làm tầm bậy, vụ thu hoạch lúa mì sẽ bị trì trệ.
    - Con người không thể đi mà không có lãnh tụ, con chim không thể bay mà không có con đầu đàn. Một cái làng không có ông thủ làng, không có người điều khiển có được không?
    Bọn học trò nông nổi nói:
    - Nếu ông ấy bỏ đi thật, mình chọn người khác chỉ huy!
    - Chọn ai? Mày hả? Cuối năm mày có mượn nợ và đem lúa cứu trợ cho tụi tao được không?
    Dân làng dưới cây đàn hương già tỉnh lại sau lần đùa giỡn vừa rồi. Làm sao có thể giỡn với lúa mì trước mặt, với trợ cấp cuối năm, với thức ăn, áo quần và mạng sống của chính họ? Vừa mới rồi họ đã vui một cách vô trách nhiệm. Bộ mặt tươi cười của họ lại đờ đẫn, giờ đây thêm vài nếp lo âu. Từ trong góc, các bà liến thoắng than phiền:
    - Mấy ông làm hư chuyện hết. Mấy ông làm ổng nổi khùng, bây giờ mấy ông tính sao?
    - Ai gây ra cớ sự phải lo giải quyết. Vậy sao mấy ông không làm đội trưởng?
    - Có một bao lúa mì ?" nếu mất hay ăn hết rồi thì thôi ?" có đáng để xúc phạm ổng không?
    Trời ngột ngạt, nóng đủ quẫn cả trí. Biết mình gây ra tai họa, bọn đàn ông ngượng ngùng nhe hàm răng trắng nhởn ra cười, nhưng vẫn không giấu được nỗi lo sợ ngày một tăng. Không ai nghĩ ra cách dàn xếp chuyện này hôm nay. Đội trưởng không còn đó, bỗng dưng dưới gốc cây đàn hương già có một chỗ không thể lấp đầy. Dưới ánh mặt trời nghiệt ngã, nỗi lo sợ của dân làng bắt đầu trở thành uất ức.
    - Đồ ăn cắp, đồ khốn nạn, nếu muốn ăn cắp cũng được, nhưng có cần phải đợi tới tối đội trưởng trực gác không chứ?
    - ********* đẻ cố tình làm hại chúng mình - bắt được thì đừng có nương tay!
    - Ước gì lúa mì thúi ruột nó ra, tiêu thành từng khúc.
    - Bắt thằng khốn nạn hai đời rùa đẻ giã nó thành cám đi!
    - Xét lúa! Đi từng nhà coi có thấy lúa mì đó không!
    Nhưng dù họ khích động, dù đầy lòng căm phẫn chính đáng, gã đội trưởng đã bỏ bầy đàn không trở lại. Không có hắn, họ chỉ có thể lo lắng dưới bóng cây đàn hương.
    Một kẻ nào đó đề nghị:
    - Hãy chọn một người tới nhà ổng.
    Nhưng ai sẽ đi?
    Lòng căm phẫn của họ đã nguội xuống, quần chúng lại sợ khiếp vía - mỗi người đều có phần trách nhiệm gây ra mối tai ương này, vì thế bây giờ ai xứng đáng mang gánh nặng này một mình? Và đứa đó coi chừng? Nó nên chuẩn bị mười tám đời tổ tiên nhà nó là ít nhất.
    - Chuyện này liên can tới tất cả chúng mình, vậy mọi người cùng đi.
    Quần chúng bắt đầu nhúc nhích. Tới lúc này có kẻ quyết định:
    - Đàn bà phía trước ?" mấy bả khéo nói ?" chuyện tào lao và cách làm lành của mấy bả sẽ không làm ai mất mặt.
    - Đúng, đàn bà đi trước.
    Những khuôn mặt đen bóng của dân làng lại tương phản với cái mỉm cười nhe răng trắng nhởn của họ. Cuối cùng đám đông lổn nhổn khởi hành. Sau đám bụi phủi mông, cả làng, đàn bà đi trước và đàn ông hộ tống, tản ra dưới cây đàn hương vào ánh mặt trời nóng như thiêu đốt. Trong chớp mắt, chẳng còn gì ngoài một mảng bóng râm trống trơn và mấy đứa học trò ngơ ngác.
    Một con gà trống trơ tráo tự tin nhảy lên cối xay mổ mấy hạt gạo cũ và bột mì dưới kẽ. Rồi dựng cái mồng hào nhoáng và ngẩng cao đầu, nó bắt đầu gáy, như thể một mình một cõi. Qua cử chỉ và tác phong, mỗi ly mỗi tấc của nó đúng là lãnh tụ.
    Người dịch: Phạm Văn
    Nguồn : Mỹ Xuyên

  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Đoàn Lê
    Dấu Hỏi Gửi Đời ( I )​



    Cuối tuần trước nàng đã đưa đám người tình thứ mười bảy. Vâng, thứ mười bảy trong số hăm ba người xếp theo thứ tự.
    Ông ta thuộc diện khá được ưu ái, lại cùng sống trong một khu phố với nàng, một đạo diễn điện ảnh hết sức phong nhã.
    Mở đầu vị nhà thơ số tám ra đi trước tiên, rồi tiếp đến ông họa sỹ độc thân số mười một. Năm ngoái, tới lượt ông trung tướng về hưu số năm. Cả ba người xấu số đều được nàng tặng những bó hồng bạch và tiễn đưa đến tận lúc họ lên xe ô tô.
    Bao giờ cũng thế, nàng đợi cái quan tài của người tình đặt yên vị trên xe tang, khi ai đó đứng lên nói lời cảm tạ bà con thân bằng cố hữu, nàng mới từ cuối dòng người lặng lẽ đi tới nghiêng người đặt bó hoa hồng bạch trên nắp quan tài, mặc cho những đôi mắt tò mò nhìn nàng. Nàng kiêu hãnh vì được đàng hoàng vĩnh biệt người ********, như thể nàng thách thức cả thế gian này đàm tiếu. Rồi nàng thong thả quay về nhà.
    ?oHãy tha lỗi cho em. Em đã không dám mang khăn sô, mũ mấn, không dám níu quan tài anh để thỏa sức nức nở. Những giọt nước mắt đau đớn em xin gửi vào những cánh hồng. Hãy nhận lấy tình em, anh yêu??
    Rằm tháng bẩy theo gợi ý của lão hàng mã, nàng sắm gươm, kiếm và một con ngựa bạch cho ông trung tướng. Dưới cõi âm các quan đi làm việc đều phải đầy đủ lệ bộ như vậy. Với ông thi sỹ, lão hàng mã cho rằng cần cấp một căn nhà, tiền vàng, đô la thật nhiều để ông ta yên tâm làm thơ. Ông họa sỹ ngoài bút vẽ, sơn dầu, phải có dăm chai rượu ngoại. Tốn kém nhưng khi hóa vàng nàng vô cùng thỏa nguyện. Đêm mười sáu nàng mơ thấy cả ba ông đều về, mỗi người một vẻ xúc động?
    Tất cả những điều này tôi biết được nhờ hai cuốn nhật ký nàng để lại. Hai cuốn nhật ký ấy đến tay tôi bất ngờ như những mảnh thiên thạch rơi xuống từ cơn mưa sao. Trước hết nó làm tôi choáng váng. Không thể tin người đàn bà gù bé nhỏ bán sách báo ngay cùng nhà tôi lại có nét chữ đẹp đến thế. Tưởng chừng mỗi nét nàng đều trân trọng nắn nót. Ông giáo già độc thân khó tính như tôi nhưng nhìn trang giấy với những hàng chữ gọn gàng đều tăm tắp, tự nhiên tôi sinh ra kính trọng nàng. Bằng nét chữ, nàng bỗng thoát xác thành con người khác, một tiểu thư gia giáo, mơ mộng. Người đàn bà gù tội nghiệp thường ngày chỉ là cái vỏ xấu xí của một nàng tiên bị đày đọa.
    Trong những trang sổ còn phảng phất mùi thơm của những cánh hồng khô, tôi vừa đọc vừa đoán những tên người viết tắt, những ý tứ lấp lửng rất tế nhị. Giữa hăm ba người tình, ông trung tướng có tên là "phờ", Phan, Phúc, Phú đây. Còn "phờ" thêm gờ phía sau như ông đạo diễn chắc mang tên Phong hay Phùng gì đó. Người duy nhất tôi biết cụ thể là diễn viên đóng vai Chí Phèo, mang số mười ba. Anh ta được dán kèm tấm ảnh cắt trong họa báo. Nàng say đắm cũng sớm tuyệt vọng ở mối tình ấy.
    ?oSao anh nhìn em quá thờ ơ như thế? Anh không nhận ra bàn tay em run rẩy khi trao cho anh mấy tấm phong bì ư? Anh cũng không nhận ra chút mẹo vặt để sáng nay em được nấn ná thêm một lát bên anh ư? - Tôi không có tiền lẻ trả lại anh đâu. Tôi cho anh nợ vậy - Để tôi đi đổi - Sáng sớm mai ít người có sẵn tiền lẻ. Thôi anh cứ cầm lấy, tôi biếu anh, lúc nào tiện anh ghé qua mua báo giúp tôi là được - Đừng? chị làm tôi áy náy quá??
    Anh cứ lục túi áo mãi. Chợt anh reo khẽ. Trời ơi, lúc đó đôi mắt anh sáng lên niềm vui hồn nhiên biết bao. Anh tìm thấy một tờ năm hào nằm quăn queo ở góc ví. Anh cố vuốt phẳng lại. Em đi vòng ra trước quầy hàng để nhận tờ năm hào bằng cả hai tay. Điều cốt yếu, như thế, em được sát gần anh hơn, được cảm thấy hơi ấm từ thân thể cường tráng của anh lan thấm vào em?.
    ?oAnh đi rồi, cái giọng trầm êm với tiếng cười nhẹ nhàng, cứ khiến lòng em đau thắt. Bao giờ em lại được nghe anh nói cùng em lần nữa? Em cầu Trời khi nào về qua đây, anh sẽ ngoái nhìn em mỉm cười, như thể chúng ta có một chuyện riêng tư với nhau đã từ lâu lắm. Sẽ đúng thế phải không anh, dù chỉ một lần thôi??.
    Đêm đó cũng như nhiều đêm sau, nàng mơ thấy anh ta, những giấc mơ nồng nàn, ngọt ngào.
    Song chưa đầy ba tuần sau, nàng bỗng bắt gặp anh ta đi sóng đôi với một cô gái xinh đẹp. Họ cười nói ra chiều lơi lả. Họ đi sát qua quầy sách báo tưởng chừng cố tình trêu ngươi. Anh ta không hề lướt mắt tới cái nhìn ngây dại tuyệt vọng của nàng. Chưa bao giờ nàng bị tổn thương đến thế? Vĩnh biệt mối tình số mười ba ngắn ngủi! Nàng không giận anh, nhưng cố quên anh đi.
    Xin vong linh nàng tha thứ, tôi không dám kể lại tất cả hăm ba mối tình si mê tội nghiệp của nàng. Nó chỉ là một chuỗi khao khát dày vò. Hoặc nàng tự huyễn hoặc mình để xoa dịu sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian.
    Dù sao tôi cũng đã đọc cả hai cuốn sổ không bỏ qua một dòng nào, sau khi tìm thấy chúng trong cái hòm sắt nhỏ.
    Và tôi đã tiếp nhận chuyện hăm ba người tình của nàng hết sức nghiêm túc, thậm chí với niềm thương cảm sâu sắc.
    Chẳng lẽ chúng ta những kẻ lòng dạ đầy ác độc, không bao giờ tha thứ cho kẻ phản bội, lại chê cười một trái tim chỉ biết yêu thương, yêu thương không đòi hỏi, không thù hận hay sao? Trái tim ấy hồn nhiên khao khát được hiến dâng, bao dung hỉ xả đến mức thánh thiện. Nó đã không bị sự mặc cảm dung tục làm vấy bẩn. Nó khiến cho tôi phải gọi con người mang trái tim đó bằng Nàng, dù nàng xấu xí đến đâu, thậm chí già nua hơn nữa.
    Chuyện này xảy ra từ buổi trưa nay, khi bỗng dưng tôi tỉnh giấc bởi thứ tiếng ồn ào đâu đó vọng tới. Rồi có tiếng gõ cửa phòng. Lão Đúa xuất hiện với đôi mắt thất thần nhìn tôi.
    - Ông giáo ơi, cô Huệ chết rồi.
    Tôi bật dậy. Suốt từ khi chúng tôi làm hàng xóm với nhau, tôi nhớ không lầm, lão Đúa chỉ bước chân vào phòng này buổi chiều mồng một Tết mỗi năm. Thế nên sự xuất hiện đột ngột của lão cộng thêm mấy lời thông báo ngắn ngủi cứ làm tôi ngây ra. Đôi dép như biến mất dưới chân tôi:
    - Làm sao cô ấy lại chết?
    - Chiều nay tôi không thấy cô ấy dọn hàng, mà gọi cửa gửi chìa khóa mãi mà không được, tôi sinh nghi gọi bác Tài gái cạy cửa vào? Cô ấy nằm trên giường như ngủ mới lạ ông giáo ạ.
    Tôi chợt hiểu tiếng xì xào chắc hẳn từ dưới đó. Tôi cùng ba hộ khác sống trên khu nhà chính, lão Đúa với cô Huệ chia thành hai hộ ở cái ga ra phía sân sau. Hàng ngày hai tấm cửa gỗ ga ra đều đóng. Lão Đúa với cái xe đẩy bán tạp hóa rong, chưa ra khỏi ngõ đã nghe tiếng loa điện eo éo: Một người đi với một người, một người lặng lẽ buồn thiu đứng nhìn? Còn nàng, quầy sách báo dọn ngay dưới gốc cây sấu già đầu ngõ. Khu nhà chúng tôi sống hết sức êm đềm, hầu như chưa xảy ra sự cố gì cho tới hôm nay.
    - Vậy bây giờ phải đi trình báo. Thủ tục rầy rà lắm đây.
    - Vâng, bác Tài đã đi báo công an phường. Bác Thu gọi điện thoại cho người nhà cô ấy trên Hà Giang về.
    - Cô ấy có người nhà ở Hà Giang ư?
    - Vâng. Trong khi chờ đợi chúng tôi muốn mời ông giáo cùng xuống xem xét?
    Tôi đã mặc xong quần áo, theo chân lão Đúa xuống sân. Trên con đường ngắn ngủi ấy toàn bộ những hiểu biết về người đàn bà gù được tôi tập hợp lại. Ô, hóa ra tôi chẳng biết nhiều nhặn gì ngoài quầy sách có nhiều tiểu thuyết Mỹ cho thuê, cái bóng dáng dị dạng hàng ngày qua lại lặng lẽ, tiếng thưa gửi nhỏ nhẹ như luôn biết thân biết phận, cố gắng để không làm phiền ai, cố gắng để ít ai nhìn ngó đến mình.
    - Ông nói cô Huệ có người nhà ở Hà Giang, họ là thế nào với cô Huệ vậy?
    - Hai người anh ruột, ông giáo ạ. Cô ấy nghe đâu con nhà buôn bán khá giả nhất vùng. Sau khi cha mẹ chết anh em ăn ở với nhau không được hòa thuận, cô ấy bỏ lên Hà Nội, không bao giờ về nữa. Mà xem chừng hai ông anh cũng tệ, tôi chưa thấy họ tìm đến đây thăm nom cô ấy một lần nào.
    Cái ga-ra được ngăn đôi bằng bức tường xây, lúc nào bên trong cũng tối nhờ nhờ. Được cái cả hai bên đều ít đồ đạc nên họ sống khá gọn gàng. Chưa kể cái tủ phấn với tấm gương lớn, cái giường trải đệm hoa rất sạch đã khiến căn phòng của nàng trở nên ấm cúng. Nàng nằm đó, dưới tấm chăn xanh nhạt. Một vệt nắng lướt trên đôi dép nhựa ngay ngắn dưới chân tường? Tôi, lão Đúa cùng dăm người đàn bà trong khu nhà đều bỗng dưng dè dặt trước cảnh bình yên thanh khiết đó.
    Cuối cùng người ta kết luận nàng bị đột tử do trụy mạch tim. Đến sẩm tối điện từ Hà Giang về cho biết không tìm ra địa chỉ mới của hai người anh, từ khi họ kéo nhau đi Trung Quốc. Dân cư khu nhà chúng tôi thống nhất sẽ đứng lo tang ma đầy đủ cho khỏi tủi vong linh người đã khuất. Xem ra cách ăn ở khiêm nhường của nàng rất được cảm tình xóm giềng.

  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Đoàn Lê
    Dấu Hỏi Gửi Đời ( II )​
    Cái hòm sắt nhỏ được mở khóa dưới con mắt chứng kiến chung. Tài sản có đôi nhẫn vàng, một cuốn sổ tiết kiệm gần ba triệu đồng, vải vóc loại sang trọng, những thứ chúng tôi chưa hề thấy nàng mặc bao giờ.
    Tiền nong thừa lo đám tang, kể cả việc mua một khu đặt di hài vĩnh viễn sau khi hỏa táng. Một tiểu ban tổ chức được cử ra để lo toan tất cả mọi việc. Riêng hai cuốn sổ nhật ký họ trao cho tôi xem xét. Lỡ có điều gì quan trọng ghi lại trong đó?
    Đêm ấy tôi cùng lão Đúa, hai lão già độc thân khó ngủ, tự nguyện thức trông coi nàng. Lão Đúa pha một ấm trà ngon, chong đèn sáng choang, mở tung cửa, lúc thắp hương, lúc lại ngồi thừ bó gối nhìn ra mảnh sân chung với cây bàng non xào xạc hai tán lá đầu tiên. Còn tôi, tôi mải mê đọc, chìm vào thế giới đầy huyền hoặc của nàng giữa mùi hương phảng phất.
    Đêm đêm trong căn phòng này nàng đã mơ những giấc mơ vô cùng ngọt ngào. Những người tình đã tới thủ thỉ bên gối nàng cả ngàn lời âu yếm. Không ai gian dối, không ai thô lậu, vô tình, mọi người đều tìm cách chiều lòng nàng, nhận sự hiến dâng của nàng như nhận một ân phước. Đêm đêm những vòng tay ân ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm đềm? Có một cuộc du lịch nho nhỏ với ông nhà báo, nhưng giữa đêm nàng tỉnh giấc vì cơn mưa phá vỡ. Nàng tiếc vô cùng, không rõ chuyến đi du lịch kết thúc ra sao. Hơn thế nàng thức dậy đúng khi ông ta đang kéo tay nàng dìu vào một vòm cửa tòa lâu đài.
    Cả người nàng ớn lạnh trong sự chờ đợi đôi môi người tình đặt lên môi nàng cái hôn đầu tiên?
    Tuy nàng không viết rõ nhưng tôi hiểu trong tất cả những giấc mơ tình yêu ấy nàng thật xinh đẹp, óng ả với những bộ trang phục thanh nhã nhất. Nàng viết:
    ?oTa đi rất chậm. Gió từ lòng hồ làm bay tung hai tà áo vàng nhạt tựa như chút nắng mùa thu vương vất quanh ta. Những cặp mắt tò mò dõi theo. Ta muốn mỉm cười nhưng vờ thờ ơ. Ta đang hồi hộp thắt lòng chờ người ấy đến??
    Làm sao có chỗ cho một khuyết tật xuất hiện trong những giấc mơ tuyệt vời đó? Cái thực tế phũ phàng đã được nhốt kín lại. Bởi nếu nó sổ ***g, dù chỉ thấp thoáng, lập tức mọi thứ sẽ tan tành. Để chống lại sự dày vò tâm hồn nàng bằng cái lưng gù, nàng tìm cách thắng ông ta, thắng tuyệt đối bằng những giấc mơ. Ở khía cạnh ấy nàng thật đáng khâm phục?
    Lão Đúa thở dài đánh sượt, dịu giọng hỏi tôi:
    - Cô ấy viết gì nhiều vậy ông giáo?
    - À, toàn chuyện loanh quanh nghĩ ngợi thường ngày.
    - Có cần giữ lại cho người nhà cô ấy không nhỉ?
    - Không cần. Mai tôi sẽ bỏ vào áo quan cho cô ấy. Những nghĩ ngợi chả liên quan đến ai.
    Sao lại không liên quan đến ai? Thực lòng tôi muốn thông báo cho tất cả mọi người dù vô tình nhưng đã tới căn phòng này, họ phải mang những bông hồng bạch đến vĩnh biệt một trái tim từng yêu thương họ vô điều kiện, thổn thức vì họ ngày đêm, biến họ thành những trang nam nhi hào hoa lý tưởng, và ai cũng có phần trọn vẹn của người đó trong nàng? Nếu không, tôi xin hứa trước vong linh nàng, sáng sớm mai tôi sẽ mua mười chín bông hồng bạch đặt lên linh cữu thay mặt mười chín gã đàn ông vô tình bội bạc. Là tôi trừ cho bốn ông đã chết.
    Lão Đúa lại thở dài.
    - Ông giáo ạ? Lẽ ra sự thể đã không như thế?
    - Ông muốn nói đến sự thể gì? - Tôi ngạc nhiên hỏi lão.
    - Vâng, lẽ ra? lẽ ra? cái đêm ấy?
    Bằng những lời gãy đôi gãy ba, lão Đúa kể cho tôi nghe về một đêm mưa cách đây chín năm.
    Cơn mưa của chín năm về trước đã kéo dài từ chiều. Đến nửa đêm gió ***g lộng như bão. Đèn đóm cả phố tắt ngấm ngay chập tối. Lão Đúa đi nằm rất sớm. Tuy có chén rượu thuốc thường lệ bữa cơm chiều để dỗ giấc ngủ, nhưng lão cứ bồn chồn thao thức. Lão ngờ những vết thương trong người lại dở chứng. Khi người ta đã xấp xỉ năm mươi, không cần cái thẻ thương binh cũng đủ rệu rã. Huống hồ trong người lão mọi thành phần đều có địch nằm vùng, chỉ rình cơ hội phá hoại.
    May sao quá nửa đêm lão thiếp đi được. Nhưng lão lại choàng dậy ngay lập tức. Lão thức giấc vì hình như có tiếng động cửa liếp. Ờ, cái cửa vốn xưa nay chẳng muốn chặt chẽ với ai, cứ khẽ động là nó hồ hởi bung ra ngay. Rồi có thêm tiếng quần áo sột soạt. Lão Đúa không sợ ma, càng không sợ trộm. Nhưng dù sao cũng cứ nhồn nhột. Lão cần tìm cái gối gỗ cầm tay, ngồi nhỏm dậy đề phòng. Trong khung cửa bỗng nổi lên ánh sáng âm u của một làn chớp nhẹ. Lão nhận ra cửa đã mở toang và một bóng người đứng sững đó. Lão Đúa nín thở. Có giỏi vào hẳn đây, ông thì phang thật lực!
    - Ông Đúa ơi, có nến không thế?
    Lão Đúa hoàn hồn. Lão đã quá quen với cái giọng gượng nhẹ của cô hàng xóm.
    - Có đấy. Để tôi lấy?
    Lão lập cập que diêm soi tìm đôi dép. Ánh lửa bừng lên rồi tắt ngấm ngay. Lão quờ quạng chân trên mặt đất ẩm ướt? Bỗng nhiên một thân thể đàn bà ấm nóng, ngào ngạt mùi thơm nước lá gội đầu, cái thân thể ấy áp vào lão, bàn tay lần giữ áo lão không cho đánh diêm.
    - Đừng? Em không cần ánh sáng?
    Và mưa ở bên ngoài dữ dội hơn trước.
    Lão Đúa đã dứt lời. Tim tôi cũng như ngừng đập. Lại còn thế nữa. Nhưng tôi cũng không hề đọc một chữ nào về chuyện lão Đúa kể, thậm chí cái tên lão cũng không một lần xuất hiện trong hai cuốn nhật ký. Tôi cứ chằm chằm nhìn lão nghi ngại. Còn lão không để ý đến phản ứng của tôi, chỉ lơ đãng ngó ra khoảng mông lung ngoài sân. Không, người như lão Đúa không thể bịa ra chuyện tày đình trước vong linh người đang nằm kia. Câu chuyện được tóm tắt quá ngắn gọn với lời kết luận nửa vời của lão Đúa càng chứng tỏ lão không có tính tô vẽ.
    - Nghĩ cũng tội, con người ta thật là?
    Một cơn gió lạnh đột ngột ùa vào phòng làm tắt ngọn nến đặt lên bát cơm trứng, như thể còn có người thứ ba vô hình lẩn quất quanh đây. Với vẻ bối rối, lão Đúa đứng dậy thắp lại ngọn nến.
    Tôi nghe gáy mình hơi ớn lạnh. Biết đâu chẳng có sự hiển linh nào đó? Quả nhiên chưa đầy giây sau một tiếng dép khẽ khàng khua động. Có thể nàng sắp đi vào phòng, cầm lấy hai cuốn sổ nhật ký với vẻ giận dữ.
    Nhưng người đi vào phòng lại là thím Thu, người Tàu lai, ở ngay sát phòng tôi. Thím bê cho chúng tôi hai bát chè bột sắn trứng gà vừa nấu xong.
    - Tôi cũng có ngủ được đâu. Nghĩ mà thương cô ấy. Chỉ vì ông trời bắt mang tật, chứ người tốt nết như cô ấy thiên hạ không dễ kiếm đâu các ông ạ. Tôi cũng đã làm mối khối đám nhưng cô ấy không chịu.
    Tôi liếc nhanh lão Đúa. Thấy chưa, ông đừng tưởng cô ấy dễ dãi. Hãy ngắm thử cái mặt nhăn như trái táo héo xem. Cứ cho rằng chín năm trước ông còn phong độ hơn, nhưng ai đã bằng ai? Thân phận một anh bán tạp hóa rong, gia tài chỉ có cái xe đẩy, ông ngỡ mình báu lắm đấy?
    Một chút ghen tức ùa vào lòng tôi. Tôi nghĩ đến cái thân thể còn trinh nguyên, cho dù có khuyết tật chăng nữa, với một tâm hồn ý nhị đầy mơ mộng kia làm sao có thể lạc vào vòng tay đen đúa khô cằn ấy được.
    Thím Thu đã lên nhà. Lão Đúa pha ấm trà mới. Mùi sen bay hương trong chén nước tỏa khói, nó làm dịu đi cái lạnh lẽo trong phòng. Vào những đêm như thế này thiếu một tiếng khóc hờ khóc nỉ non thảm thiết của những người thân thì thật đau đớn cho người ra đi. Tôi chợt nhớ nàng từng ao ước cầu nguyện có một đứa trẻ để ôm ấp. Ơ, giá mà?
    Tự nhiên tôi sinh độ lượng với lão Đúa. Có thể vì cái cử chỉ cung kính lão nâng hai tay chén trà mời tôi, có thể vì nhớ những dòng tâm sự mủi lòng khi nàng tự ví mình là một quả táo điếc, một người đàn bà bị nguyền rủa vì không được sinh nở? Tôi bỗng nhẹ giọng bảo lão:
    - Nếu như cô ấy có được đứa trẻ để bồng bế cũng đỡ buồn. Cánh ta đàn ông đã đành, phải không ông?
    - Vâng, tôi hiểu quá đi chứ. Cái đêm mưa gió đó hẳn là mong mỏi đến thế nào cô ấy mới liều lĩnh vậy. Nhưng?
    Lão Đúa gằm mặt xuống vẻ đau đớn. Rồi sau vài giây yên lặng lão ngước nhìn tôi, cái nhìn sầu thảm thống thiết. Cả người lão run bắn lên.
    - Tôi không thể? một mảnh đạn đã khiến tôi không còn ra giống người ông giáo ạ. Tôi âm thầm bỏ làng ra đây, tự coi như đã chết, cũng vì lẽ đó.
    Tôi không dám nhìn lão nữa. Ôi cuộc sống tưởng chừng bình lặng trong khu nhà tôi, nó chứa đầy những cơn sóng ngầm dữ dội.
    Tôi thắp thêm một tuần hương cho nàng. Dưới tấm chăn mỏng, hình hài nàng cong lại tựa hồ một dấu hỏi bất động.
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 04:00 ngày 23/04/2004
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hayashi Fumiko
    Đoá Cúc Muộn (I)
    Lời người dịch:
    Hayashi Fumiko(1903-1951) rất nổi tiếng về phân tích tâm lý phụ nữ - đặc biệt là phụ nữ nghèo - trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhưng với "Bangiku" thì nhân vật nữ của bà không nghèo chút nào, mà phần diễn tả tâm lý lại sâu sắc, chứng tỏ tài nghệ của Hayashi Fumiko không chỉ hạn chế trong một lãnh vực duy nhất. Tuy qua đời sớm, sự nghiệp viết lách không đến được 24 năm, nhưng bà để lại được trên 85 cuốn sách và hơn 200 tác phẩm khác gồm truyện ngắn, thi tập, đoản văn, vv... Khi nói về tác phẩm nào hay nhất của bà, giới văn học Nhật Bản đồng thanh nhất trí: truyện ngắn thì Cúc Muộn (Bangiku), truyện dài có Phù Vân (Ukigumo).
    Bài dưới đây dịch theo nguyên văn của nhà xuất bản Chikuma Shobo, Tokyo 1978. Tuy nhiên để tránh rườm rà, những tên người hay địa danh nào không cần thiết đều được bỏ bớt. Có một điểm nhỏ xin lưu ý: người Nhật xem cúc là loài hoa quý, đài các, không phải thứ "liễu ngõ hoa tường".

    Kin để ống điện thoại xuống, tiếng nói ở đầu giây bên kia còn như văng vẳng: "Vâng, lát nữa, khoảng năm giờ, sẽ đến". Kin nhủ thầm - lâu lắm không gặp, cũng hơn cả năm rồi chứ nhỉ! Mới có ba giờ, còn đến hai tiếng nữa. Trước hết là phải đi tắm mới được! Kin dặn cô giúp việc tối nay cho mình ăn sớm hơn một chút, rồi lật đật bước vào phòng tắm. Vừa cho thân mình chìm từ từ trong làn nước ấm, Kin miên man suy nghĩ : "Nhất định phải cho thấy mình đẹp hơn hồi hai đứa chia tay mới được. Nếu để nhận ra được mình đã luống tuổi thì kể như là hết "... Kin để thì giờ ngâm trong bồn nước khá lâu.
    Tắm xong, Kin mở tủ lạnh lấy nước đá ra đập nhỏ, cuốn trong hai lần khăn mỏng, rồi đến ngồi trước kiếng cẩn thận xoa khắp gương mặt đến hơn mười phút. Cái lạnh làm da mặt Kin đỏ lên, mất hết cảm giác. Từ bên trong, chút ý nghĩ về cái tuổi đã 56 của mình tự nhiên len đến. Nhưng qua bao nhiêu năm kinh nghiệm trong nghề, Kin dư sức biết làm thế nào để che vết tích của thời gian. Kin lấy ra một hộp kem dưỡng da thượng hạng, loại nhập cảng, xoa đều lên mặt. Nhìn vào kiếng, Kin thấy một người đàn bà lớn tuổi có gương mặt tái ngắt như người chết đang mở lớn đôi mắt nhìn mình.
    Điểm trang thêm một lát, Kin thấy cái mặt của mình sao mà phát chán. Nhưng trong trí Kin cũng hiện ra ngay những hình ảnh của chính mình ngày xưa, được in trên những tấm bưu thiếp, tươi đẹp, trẻ trung. Kin vén vạt áo lên, nhìn vào đùi. Còn đâu nữa cái tròn lẳng căng nhựa sống của những ngày xưa cũ. Bây giờ, gân xanh thấy rõ dưới làn da. Được một cái là hai đùi vẫn còn khép sát vào được với nhau. Cứ mỗi lần đi tắm, Kin vẫn thường khép hai đùi lại và đổ nước trên chỗ hủng để thích thú thấy nước được giữ lại, chứng tỏ còn sát lắm, làm Kin thấy an tâm về tuổi tác của mình. Phải, đối với đàn ông, mình vẫn còn hấp dẫn. Điều này là tất cả đối với Kin, nó cho Kin sức mạnh để mà sống. Kin luồn tay vào phía bên trong giữa hai đùi, vuốt ve nhè nhẹ và tưởng tượng đây là bàn tay của một người nào khác. Vẫn còn mềm mại êm ái, thấy như vuốt những lông tơ trên tấm da nai mịn có tẩm thêm dầu.
    Kin trực nhớ đến một bức vẽ trong cuốn sách của Saikaku nói về hai cô gái đẹp ngồi gảy đàn Samisen ở miền Isê. Người ta giăng những chiếc lưới đỏ quanh chỗ hai cô ngồi. Trước khi hai cô bắt đầu gảy đàn, khách đến xem thi nhau ném tiền vào kẽ lưới xem tiền của ai có thể đụng vào được người đẹp. Cái hình ảnh một mỹ nhân xinh như tranh vẽ ngồi sau những chiếc lưới màu đỏ, bây giờ đối với Kin đã là một dĩ vãng quá xa vời. Những ngày còn trẻ, Kin sống theo vật chất, trong mắt chỉ có đồng tiền. Nhưng bây giờ luống tuổi, nhất là sau khi đã sống qua một thời chiến tranh khốc liệt, Kin thấy cuộc sống thiếu người đàn ông thì thật trống trải và quá bấp bênh. Càng già, sắc đẹp càng biến đổi đi, mà tính chất của vẻ đẹp cũng cứ mỗi năm lại khác ra một chút. Nhưng Kin không dại đến nỗi đi mặc những thứ màu mè sặc sỡ để che dấu tuổi tác. Có nhiều phụ nữ, khi đã ngoại năm mươi, thường hay mang chuỗi để che bớt cái thiếu thốn trên ngực, hay mặc váy có nhiều sọc đỏ - coi cứ giống như mặc vải lót; hay mặc áo xa-tanh láng bóng, lùng thùng; hay đội mũ rộng vành để che đi vết nhăn trên trán. Kin coi rẻ những thứ tiểu xảo đó, cũng như ghét cái kiểu những bà mặc kimono mà có thêm một viền đỏ quanh cổ, trông thật rẻ tiền.
    Kin không hề mặc âu phục bao giờ. Cái áo được chọn hôm nay là chiếc kimono thẳng nếp có màu chàm đậm gần như đen, làm nổi bật cái trắng muốt của giải tơ mềm chạy viền từ cổ xuống đến ngực. Chiếc obi để thắt quanh lưng là lụa vàng thật nhạt, có pha những đường trang trí kiểu Hakata. Sợi giây cuốn dưới obi thì có màu xanh nhẹ mà khi mặc áo Kin sẽ cẩn thận không để phần chuôi của nó ló ra phía trước. Kin cũng sửa soạn thân mình rất kỹ càng: nâng ngực cho cao thêm, siết eo cho nhỏ xuống, bụng thì quấn chặt đến sát rạt, mông thì chêm một chút cho thấy cao và cong lên. Tóc Kin vốn màu nâu. Màu này đi đôi với làn da trắng của gương mặt rất hợp, không cho ai nhận ra được là tuổi người phụ nữ đã quá năm mươi. Thân hình Kin cũng cao ráo, nhờ đó khi mặc kimono thì phần phía dưới vạt áo úp vào một cách gọn ghẽ, thấy tươm tất, nhẹ nhàng.
    Kinh nghiệm dạy cho Kin một điều quan trọng mà mỗi lần sắp gặp người đàn ông nào Kin cũng không quên, đó là uống một ly rượu nhỏ. Kin đứng trước tấm gương, nốc nhanh một ly sakê lạnh, rồi đi đánh răng súc miệng tức khắc để làm mất mùi. Với Kin, chất rượu có hiệu quả diệu kỳ, không loại mỹ phẩm nào trên đời sánh kịp. Nó làm cho đôi mắt được phớt một màu hồng dìu dịu và mở ra rất to, long lanh. Bây giờ gương mặt của Kin - sau khi có thoa một lớp phấn màu xanh nhạt và phủ lên một lớp kem mỏng có pha glycerine - đã trở nên láng lẩy tươi tắn, trông trẻ hẵn ra. Kin thoa màu son đỏ thật đậm lên môi. Chỉ có làn môi là nơi duy nhất trên người Kin chịu dùng màu đỏ.
    Kin cũng không hề sơn móng tay bao giờ. Càng lớn tuổi thêm lại càng thấy không cần thiết, chỉ tổ bày tỏ sự thiếu thốn thèm khát bên trong. Cứ xoa tay với kem, rồi cắt từng móng cho sát vào, và chà vào vải cho láng là được. Nơi tay áo, phần ở cổ tay thì Kin nghĩ nên có màu gì nhạt, cho nên chọn thứ có sọc hồng nhạt và xanh. Xong xuôi, Kin thoa nước hoa lên hai vai và cánh tay, lựa thứ có mùi thật dịu, ngọt ngào. Không bao giờ nên thoa lên hai trái tai, không bao giờ!
    Kin vẫn biết dù sao mình cũng chỉ là nữ giới: chẳng thà chết sớm, hơn là sống lâu làm một bà già bẩn thỉu cọm rọm giữa lòng đời. Kin nhớ đến lời của một bài hát cũ mà mình vẫn thích:
    Chả giống như người thiên hạ đâu
    Chi để cho ai thấy bạc đầu
    Cứ như những đoá hoa hồng đó
    Lòng này mơ được thế từ lâu.
    Giá phải sống chẳng có người đàn ông nào chung quanh - ôi, mới có nghĩ đến thế thôi mà đã thấy bồn chồn trong dạ. Kin liếc nhìn những cánh hoa hồng do ông Itaya mang đến tặng: màu hoa rực rỡ, làm nhớ đến những ngày tháng vàng son cũ! Có 1 thứ cảm giác gì đầy hoài niệm pha thích thú khi nghĩ về cái thưở xa xưa lúc trước, những thói quen, những điều mình thích, những sung sướng ... mọi thứ đều với thời gian mà thay đổi cả. Những khi nằm ngủ một mình, nửa đêm tỉnh giấc, Kin thường âm thầm đếm xem có bao nhiêu người đã qua trong đời mình kể từ thưở còn là con gái. Đã có người này, người này, rồi người này ... à, còn người này, người này nữa ... nhưng mà so với người kia, người này đến trước với mình, hay đến sau? Cứ mỗi lần miên man với cái điệp khúc hồi tưởng như thế, Kin thấy kỷ niệm kéo về rào rạt trong lòng. Có nhiều phụ nữ thường ứa nước mắt khi nghĩ đến lúc chia tay với người xưa, nhưng Kin chỉ thích nhớ về những ngày mới gặp gỡ ban đầu. Có lẽ một phần nào đó Kin đã học theo người xưa trong truyện Isê, nhưng phải nói là Kin rất thích nằm nhớ về những người đàn ông cũ như thế mỗi khi cô đơn nằm thao thức trong đêm.
    *
    Khi nãy nhận điện thoại, Kin không ngờ là Tabê liên lạc lại với mình. Bây giờ cái cảm giác cứ như đang nhìn một ly rượu đào thượng-hạng ngon nồng, mời mọc. Chắc chắn là Tabê đến để tìm lại dĩ vãng! Hẵn trong lòng còn vương vấn mãi những kỷ niệm của ngày xa xưa ấy, nên mới muốn về tìm lại chút dư âm! Nhưng giờ này không phải lúc để thở than và hoài niệm về quá khứ, lại càng không phải là lúc để lộ ra vết tích về cao tuổi hay nghèo nàn. Phải làm sao tỏ ra mình biết trân trọng, và tạo được một không khí dễ thương thân mật "thời gian này riêng của đôi ta"! Làm sao để khi về rồi, Tabê sẽ tự nhủ "người yêu cũ của tôi vẫn không khác với thưở nào, còn đẹp lắm" ...
    Trang điểm xong, Kin đứng dậy xoay mình qua lại ngắm nghía trong gương. Còn chỗ nào chưa được không nhỉ! Kin cẩn thận nhìn một lần chót, rồi mở cửa bước ra phòng ăn. Khay cơm đã dọn sẵn. Kin ngồi đối diện với cô tớ gái, ăn bữa cơm nhẹ - một chén cơm với canh mixô, và chút ít rong biển. Xong xuôi, Kin đập một cái trứng sống, bỏ hết, chỉ nuốt cái lòng đỏ.
    Xưa nay Kin không có thói quen mời đàn ông ăn cơm với mình. Kin thấy không cần. Việc gì phải tỏ ra giỏi, đi nấu thức này món kia cho cẩn thận để được đàn ông khen? Làm việc nội trợ, có chi hay đâu mà thích thú? Mình đã không định lập gia đình thì cần gì phải cho đàn ông thấy đây sẽ là một người nội trợ đảm đang? Còn các ông ư? Họ có đem bao nhiêu vật quí giá đến biếu cũng là việc tự nhiên thôi. Kin không bao giờ giao tiếp với những ai không có tiền. Đàn ông mà nghèo thì chả có gì hấp dẫn. Khi gần gũi với Kin, người nào mà để áo vét lôi thôi thiếu chải chuốt, hay có đồ lót đứt nút nhưng cứ để thế mà dùng, Kin thấy chán ngán đến tột cùng. Với Kin, việc ân ái chính là nghệ thuật, cứ mỗi lần như thế là cả hai cùng tạo một sự hài hoà đặc sắc khác nhau. Kin nhớ lại từ khi còn rất trẻ thiên hạ đã bảo nhau sao mình giống cô Manryu, một người đẹp nổi tiếng ở vùng Akasaka. Sau khi lấy chồng rồi cô ấy vẫn còn đẹp, và Kin có thấy được một lần, lấy làm hâm mộ sắc đẹp, cứ tấm tắc hoài. Kin hiểu rằng để được đẹp bền lâu, điều quan trọng nhất là phải có tiền.
    Kin trở thành geisha khi mới lên 19. Vô nghề chưa bao lâu đã nổi tiếng, vì Kin quá đẹp, chứ tập luyện tay nghề thì chả có bao nhiêu. Lần tiếp khách đầu tiên, Kin gặp một người Pháp đã đứng tuổi. Ông ta đi chu du vùng Viễn Đông, và ghé đến Tokyo. Cuộc gặp gỡ cũng thơ mộng. Ông ta say đắm Kin, gọi Kin là Marguerite Gautier Nhật Bản, làm Kin cũng có cảm giác mình là nhân vật tiểu thuyết Trà Hoa Nữ thực sự. Tuy chuyện chăn gối thì ông yếu xịu, nhưng Kin không quên được ông ta. Ông tên là Michel, chắc bây giờ cũng đã qua đời ở một nơi nào đó phía bắc nước Pháp. Hồi mới về nước, Michel có gửi tặng Kin một chuỗi đeo tay có gắn ngọc Opal và nhiều hạt kim cương nhỏ long lanh. Kin quý nó lắm, ngay trong những ngày khốn khó nhất của thời chiến tranh cũng không bán đi. Những người đàn ông khác có liên hệ với Kin lúc trước, về sau cũng ăn nên làm ra và có tên tuổi, nhưng rồi chiến tranh loạn lạc, bây giờ không biết họ ở đâu.
    Người ta đồn đãi với nhau là "tài sản của Aizawa Kin nhiều lắm". Thực sự thì Kin đâu có bao nhiêu. Chỉ vẻn vẹn một cái nhà Kin đang ở - may mà hồi chiến tranh chưa bị cháy - và một ngôi biệt thự nằm cạnh bờ biển ở Atami. Mà biệt thự này lại do đứa "em gái nuôi" đứng tên, nên lúc sau chiến tranh thấy giá nhà lên cao, Kin đã bán quách. Kin cũng không muốn bắt chước những người geisha khác đi mở một tiệm ăn hay trà đình gì đó để làm kế sinh nhai. Thực sự là Kin chẳng làm gì, chỉ sống ngày-lại-ngày với một cô giúp việc bị câm - tên Kinu - cũng do cô em nói trên kiếm cho.
    Cuộc sống của Kin cũng đơn giản hơn người ta tưởng. Đi xem phim hay xem hát cũng không, đi dạo quanh quẩn ngoài phố cũng chả thích. Kin không muốn ra ngoài lúc ban ngày, ngại thiên hạ thấy được mình đã luống tuổi. Ánh mặt trời bao giờ cũng làm cho cái già nua thấy rõ ra, dù có ăn mặc sang trọng đến mấy cũng chả che dấu được. Cho nên Kin sống như một loài hoa ưa bóng mát, lấy thú đọc sách làm vui. Có người khuyên nên kiếm một đứa con nuôi để sau này nhờ vả khi tuổi già sức yếu, nhưng Kin không muốn suy nghĩ sau này già thì sẽ ra sao. Hoàn cảnh cũng đã làm Kin quen sống một mình từ khi còn bé.
    Kin không biết gì về cha mẹ của mình. Chỉ còn nhớ được quê là Kosagawa, ở gần Akita, và khi lên năm tuổi thì được một gia đình ở Tokyo nhận làm con nuôi. Kin đổi ra họ Aizawa từ đó. Cha nuôi của Kin tên Kyujiro. Ông sang làm việc xây cất bên Trung Quốc rồi bặt tin luôn từ khi Kin còn ở Tiểu Học. Mọi sự trông vào ở mẹ nuôi - tên là Ritsu - một người khá giỏi chuyện làm ăn. Bà biết đầu tư trong cổ phiếu, và mua nhà cho thuê, nhờ đó chả mấy chốc trở nên khá giả. Nói đến gia đình Aizawa ở vùng Ushigomê, ai cũng biết là giàu.
    Thưở đó trong vùng có tiệm làm vớ (tabi) của ông Tatsuirất nổi tiếng và có uy tín. Gia đình Tatsui có một cô con gái rất đẹp tên Machiko. Machiko thường ngồi may hàng ngay dưới tấm rèm xanh trước cửa tiệm, mái tóc nghiêng nghiêng giắt hoa đào, cổ áo viền xa-tanh màu đậm, làm bao nhiêu người điên đảo, kể cả những chàng trai của trường đại học nổi tiếng như Waseda. Người ta nườm nượp tới mua hàng, nhiều chàng còn tặng thêm tiền, để lên bàn rồi lặng lẽ rút lui. Kin lúc đó nhỏ hơn Machiko khoảng 4-5 tuổi, nhưng thiên hạ cũng đã kháo nhau là cô bé quá xinh. Xa gần nức tiếng trầm trồ về hai đoá hoa tươi biết nói.
    Từ khi có một tay cờ bạc tên là Tori-goêhay tới lui với bà mẹ thì gia đình bắt đầu xuống dốc. Khi đó Kin mới lên 19. Rồi bà mẹ đâm ra nghiện nặng, say sưa mãi, những chuỗi ngày đen tối của Kin cứ kéo dài. Cho đến một hôm, trong lúc nửa thật nửa đùa,Tori-goêlàm tới, cướp mất của Kin đời người con gái. Trong cơn hốt hoảng rả rời, Kin bỏ nhà ra đi, rồi trở thành một geisha ở vùng Akasaka sang trọng. Machiko cũng bạc mệnh. Cũng khoảng thời gian đó, khi phi cơ vừa mới bắt đầu bay trong nước, người ta mời Machiko mặc áo kimonolớn đi với chuyến bay. Không may phi cơ bị rớt, tai nạn này báo chí xa gần đều có loan tin. Riêng phần Kin thì khi vào nghề rồi mới đổi tên thành Kin-ya. Chả mấy chốc mà các tạp chí đăng ảnh của Kin rất nhiều. Sau đó, khi các bưu thiếp có ảnh người đẹp trở thành mốt phổ biến, hình của Kin cũng được in bán khắp nơi.
    Những chuyện trên bây giờ đã thành quá khứ xa vời, nhưng Kin cũng chưa quen với cái cảm giác là mình đã ngoài 50 tuổi. Cũng có khi Kin nghĩ là mình sống tới chừng này thì cũng đủ, nhưng cũng có lúc lại nghĩ sao thời thanh xuân chả được bao lăm. Mẹ nuôi giờ cũng đã mất, gia sản cũng đã về tay người con gái ruột là Sumiko - sinh ra sau khi đã nhận Kin - cho nên Kin chẳng có chút trách nhiệm gì phải vướng bận với gia đình.
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 05:30 ngày 23/04/2004
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hayashi Fumiko
    Đoá Cúc Muộn (II)​
    *
    Kin quen Tabê vào khoảng 1942-1943, lúc chiến tranh Thái Bình Dương vừa bùng nổ. Khi ấy Kin nghỉ làm đã ba năm, về thuê một phòng trong nhà Sumikođể ở. Vợ chồng Sumiko có cho sinh viên ở trọ nên Kin mới gặp Tabê. Nếu so tuổi ra thì cứ như mẹ với con, nhưng cả hai tự nhiên thấy thích nhau. Có lẽ nhờ bề ngoài của Kin trông cứ trẻ như mới 37-38, với hai nét mi đậm đà, dễ bắt mắt người ta. Năm sau, Tabê xong đại học thì bị động viên ngay, đeo lon thiếu úy, nhưng binh đoàn còn đóng ở Hiroshima. Kin có xuống đó thăm Tabê hai lần.
    Trong lần thứ nhất, khi Kin vừa ngồi chưa yên chỗ trong khách sạn thì Tabê đã đến. Vì Tabê mặc quân phục nên mùi hôi của da thuộc cứ làm Kin thực ngạt thở. Tuy vậy Kin cũng ở với Tabê đến hai đêm. Đã mệt mỏi vì lặn lội đường xa mà Tabê lại mạnh quá làm Kin mệt ứ hơi, về sau Kin kể lại với người quen là lúc đó Kin ngất ngư gần chết. Kin có đi thăm Tabê lần thứ nhì, nhưng sau đó hết muốn đi nữa, dù Tabê có gửi điện tín thúc giục nhiều lần. Sau đó, Tabê chuyển đi Burma (Miến Điện), sau chiến tranh khoảng một năm mới về nước, có lên Tokyo để tìm Kin. Trông người Tabê già mọp, loạt răng cửa lại gãy mất, Kin vỡ cả mộng. Sau đó Tabê nhờ có ông anh cả - làm luật sư - giúp vốn cho để buôn bán xe hơi nên trong vòng một năm thấy sang trọng hẵn ra. Gặp Kin, có khoe là sắp cưới vợ. Bẵng hơn cả năm trời Kin chưa gặp lại lần nào.
    Nhà của Kin đang ở nằm trong khu Numabukuro. Ngôi nhà này rất sang, có gắn điện thoại hẳn hoi, nhưng hồi đó Tokyo còn bị ném bom liên miên nên Kin mua được với giá rẻ mạt. Nhà chỉ cách nơi vợ chồng Sumiko ở độ vài chục thước, nhưng nhà của Sumiko thì bị bom làm cháy rụi cả, vợ chồng Sumiko phải qua tá túc với Kin, chiến tranh xong thì Kin mới bảo đi ra. Hai vợ chồng trở về miếng đất cũ xây lại được căn nhà, nhờ vật giá lúc đó cũng còn rẻ. Sumiko vẫn cám ơn Kin về chuyện đã cưu mang mình.
    Về cái biệt thự ở Atami thì Kin cũng đã bán xong khá lâu. Thu vô được ba trăm ngàn, Kin đem mua ngay mấy căn nhà ọp ẹp, cho tân trang lại rồi bán ra với giá gấp đến mấy lần. Với chuyện tiền nong thì cái đầu Kin rất tỉnh. Kinh nghiệm cho Kin biết nếu mình không hấp tấp thì tiền bạc sinh sôi nẩy nở rất dễ, cứ như trái banh bằng tuyết lăn xuống dốc, càng lăn xa thì càng hoá ra to. Khi cho ai vay, Kin không cần lấy lời nhiều, nhưng đòi phải có gì bảo đảm chắc chắn. Kin cũng không tin ở chuyện gửi tiền vô ngân hàng, hễ có bao nhiêu là lo xoay chuyển thật nhanh, không bắt chước dân nhà quê cứ lo cất trong nhà trum trủm. Những tính toán về tiền bạc này nọ thì Kin thuê chồng của Sumiko lo liệu. Kinh nghiệm cho Kin biết nếu chia cho người ta ít phần trăm trong số tiền lời thì thiên hạ sẽ lo làm rất tận tâm.
    Trong căn nhà rộng bây giờ chỉ có mỗi Kin và cô tớ gái. Coi thì buồn bã nhưng Kin không thấy buồn chút nào, vì Kin vốn không thích đi đâu. Cũng chẳng nuôi chó vì Kin nghĩ không ích lợi gì, có phòng kẻ trộm thì lo đóng cửa ngõ cho chắc chắn, khoá cho cẩn thận thì vẫn tốt hơn, do đó nhà Kin cửa ngõ rất kỹ lưỡng. Sống chỉ có hai người thôi cũng có cái thoải mái. Cô tớ gái không nói được, cho nên có khách đàn ông đến, dù là ai đi nữa, Kin cũng không sợ chuyện lời vào tiếng ra. Dù sao có lúc Kin cũng tự nhiên thấy bất an, cứ nghĩ biết đâu số mình sẽ bị ai đó giết không chừng, nên hơi lo về cái không khí của căn nhà quá tịch mịch. Kin cứ để radio nói suốt ngày là vì thế.
    Người thường hay đến với Kin hiện nay là ông Itaya Kiyoji, chủ một tiệm hoa ở Chiba. Ông này là em ruột của người đã mua cái nhà của Kin ở Atami nên quen nhau. Lúc đầu thì Itaya chỉ gặp Kin có vài lần, nhưng sau đó hầu như tuần nào cũng đến. Tuổi ông ta mới tứ tuần mà trên đầu không còn sợi tóc nào nên trông già hơn nhiều. Hồi chiến tranh, ông có mở hãng buôn ở Hà Nội, sau này về nước nhờ người anh giúp vốn để mở một trại trồng hoa, nhờ thế nên Kin cứ có hoa tươi cắm đầy nhà. Hôm nay thì bó hoa trong bình là loại hoa hồng vàng "Castanien". Nhìn những cánh hoa xinh, Kin nhớ lại mấy câu của một bài ca nào đó:
    Khi Ichô đổ lá vàng
    Vườn hồng hẳn đã mấy lần đẫm sương?
    Cánh hoa vàng thắm nõn nường
    Đẹp như ai tuổi xa dần thanh xuân!
    Kin yêu những cánh hoa hồng vàng tươi thắm, mùi hương của chúng bao giờ cũng gợi nhớ nhung. Từ khi nhận điện thoại của Tabê, Kin miên man suy nghĩ, thấy tình cảm của mình nghiêng nhiều về phía Tabê. So với Itaya, Tabê trẻ hơn. Hồi ở Hiroshima tuy Kin phải vất vả với Tabê, nhưng lúc đó Tabê đang là quân nhân sống lâu ngày trong trại, tuổi lại còn trẻ nên hơi mạnh bạo ít nhiều thì cũng dễ hiểu, nhớ lại cũng thấy vui vui. Ngay cả những điều không vui trong quá khứ, sau một thời gian, đôi khi cũng gây cho ta nhiều hoài niệm, huống chi!
    *
    Cũng đâu khoảng năm giờ rưỡi Tabê mới đến, mang theo gói quà với nhiều thứ quý như rượu whisky, phó mát, giăm bông. Đến gần chiếc ghế để bên cạnh lò sưởi, Tabê buông mình xuống một cái rầm. Trông người chả còn vẻ gì là những trẻ trung của ngày xưa: áo vét thì xám, quần màu lục đậm đen, cứ giống như một ông thợ máy. Tabê mở lời:
    - Thấy vẫn vậy, lúc nào cũng đẹp!
    - Vậy sao? Cám ơn, tưởng cũng đâu sắp hết thời rồi!
    - Đâu có, coi hấp dẫn hơn bà-nhà của tôi nhiều!
    - Ủa, chị còn trẻ mà?
    - Trẻ thì trẻ, nhưng mà dân nhà quê!
    Vừa nói, Tabê vừa đưa cái hộp bằng bạc đựng thuốc lá ra mời và tự tay châm lửa cho Kin. Vừa lúc cô tớ gái bưng ra một khay lớn đầy phó mát và giăm bông cắt sẵn, cùng với hai cái ly uống rượu. Tabê buột miệng:
    - Cô này coi khá quá!
    - Phải, nhưng mà không nói được đâu nghe!
    Cô gái cúi đầu chào Tabê một cách kính cẩn, đôi mắt nhu hoà; còn Tabê thì nhìn vào thân hình cô chòng chọc. Thường ngày Kin không chú ý lắm, nhưng bây giờ tự nhiên thấy cái trẻ trung của cô ta bỗng trở nên gai mắt. Kin kéo Tabê trở lại câu chuyện:
    - Mọi sự đều suông sẻ cả ?
    - Ơ ! Ai? Việc tôi ấy à ? Tháng sau thì đứa nhỏ sinh ra rồi !
    - Ủa, vậy sao? Kin vừa nói vừa cầm chai whisky rót vào ly của Tabê. Anh ta cầm lên ực một cái cạn sạch, rồi rót lại cho Kin trả lễ.
    - Sống thoải mái quá nhỉ !
    - Anh nói sao ?
    - Ngoài đời thì giông bão đủ thứ mà ở đây chả có gì thay đổi, lúc nào cũng sung túc đầy đủ, thực là kỳ diệu. Chắc chắn là có ông nào đó chu tất cho đủ cả chứ gì ? Làm đàn bà sướng thật !
    - Sao mỉa mai chi quá vậy. Tôi cũng có làm gì xúc phạm đâu mà bị nói như thế?
    - Không có, không có, đâu có ý mỉa mai chi đâu, đừng giận nghe! Tôi chỉ định nói cô là người sung sướng, thế thôi. Định nói là đàn ông đi kiếm sống thì khó khăn hơn đàn bà nhiều, rồi tự nhiên diễn tả thành như thế thôi. Ở đời này, muốn sống yên cũng không được - khôn sống mống chết - đôi khi không hại ai thì người ta cũng hại mình. Tôi đây, ngày nào cũng phải như đánh bạc để mà sống chứ phải đâu !
    - Nhưng ... chuyện buôn bán lúc này khá lắm mà?
    - Khá quái gì, cứ giống như đi lắc lư trên sợi giây, ù cả tai để kiếm tiền đó chứ !
    Kin không nói gì, ngồi yên nhắp nhắp ly rượu. Dưới chân tường vọng lên tiếng của một con dế nào đó, nghe sao mà buồn bã, lẻ loi.
    Tabê uống thêm một ly nữa, rồi đột nhiên vói qua trên lò sưởi, nắm tay Kin thật chặt. Bàn tay Kin không đeo nhẫn, cứ như một chiếc khăn lụa, thật mềm. Kin cứ ngồi yên nín thở để cho Tabê nắm một cách thụ động, bàn tay để lỏng, lạnh ngắt, mềm nhũn. Đôi mắt đã ngà ngà hơi men của Tabê nhìn Kin, thấy những hình ảnh của ngày xưa kéo về trong trí - Trước mắt mình, Kin đang ngồi đó, vẫn đẹp như xưa. Cái cảm giác sao mà lạ kỳ. Trong đời con người, theo năm tháng dần trôi, mọi sự lúc nào cũng đổi thay, tình cảnh có khi lên, có khi xuống; nhưng người đàn bà này của mình ngày xưa thì chẳng thấy đổi thay gì cả, và đang ngồi đó thực, rõ ràng. Những vết nhăn nho nhỏ dưới viền mắt cũng vẫn còn đó, giống hệt thưở trước. Nét mặt cũng thế, đường nét vẫn không thấy khác đi gì cả! Làm sao biết được người này đang sống như thế nào? Từ đó đến nay, bao nhiêu là biến chuyển lớn lao trong xã hội đã xảy ra, nhưng có vẻ cuộc sống chẳng bị chút ảnh hưởng gì, lại khá tiện nghi là đằng khác. Nơi đây có đủ cả, tủ áo, lò sưởi, hoa hồng tươi thắm cắm khắp nơi ... và người ấy đang ngồi đó mĩm cười, trước mắt mình, rõ ràng, thực sự! Tuổi thì chắc cũng phải hơn 50 rồi, nhưng vẫn còn đầy vẻ quyến rũ, nồng nàn ... Nghĩ đến đây, tự nhiên trong trí Tabê cái hình ảnh của người vợ trẻ ở nhà bỗng hiện ra. Trong căn gác chung cư, giờ này đang lo làm việc nội trợ, tuy chỉ mới 25 tuổi nhưng đã nhiều mệt mỏi ...
    Kin mở ngăn kéo lấy ra một ống điếu nhỏ bằng bạc, đặt điếu thuốc vào, châm lửa hút và lặng lẽ quan sát Tabê. Hai cái đùi của Tabê cứ rung rung làm Kin thấy khó chịu. Có phải đây là dấu hiệu đang gặp khó khăn về tiền bạc? Kin nhìn Tabê, thấy chẳng còn chút nào tình cảm nồng cháy của những ngày ở Hiroshima thưở trước - Cái khoảng trống giữa mình với Tabê thế mà thực diệu vợi, bây giờ đây gặp lại mới nhận ra được. Thấy sao quá chơi vơi, sao mà lòng lại tự nhiên buồn, sao mà tất cả những gì thân thiết của ngày xưa bỗng phút chốc trở nên nguội lạnh! Phải chăng vì thân thể của người đàn ông này đã quá quen thuộc nên chẳng có gì hấp dẫn nữa? Sao mà thấy không an tâm được, ngồi gần nhau mà tình cảm thực là xa!
    - Có quen ai, mượn giùm cho tôi bốn trăm ngàn được không?
    - Tiền à? Bốn trăm ngàn là nhiều lắm đó.
    - Phải, đang kẹt quá, không biết có cách gì không?
    - Có lẽ không được đâu. Bây giờ tôi không đi làm cho nên không có thu nhập gì, bàn chuyện này có vẻ không phải lúc.
    - Vậy sao? Trả tiền lời thật nhiều cũng không được sao?
    - Chả có tiền làm sao mà nói được hay không chứ! Chuyện này tôi không làm được đâu.
    Kin bỗng nhiên cảm được bầu không khí sao trở nên rờn rợn, và thấy nhớ những lúc bình yên bên cạnh ông Itaya. Nén nỗi thất vọng về Tabê, Kin nhấc người dậy nâng ấm nước đang sôi trên lò sưởi rót vào bình trà.
    - Nếu không có thì thôi hai trăm ngàn cũng được, tôi cám ơn nhiều!
    - Anh hay quá à, ai lại đi nói chuyện tiền với tôi! Anh đã biết là tôi không có tiền mà ? Giá có nhờ được ở đâu thì tôi cũng đã đi vay để mà sống rồi. Chắc anh đến để nói chuyện mượn tiền, đâu phải để thăm nhau?
    - Đâu có, đến thăm đó chứ. Đến để gặp lại thôi, nhưng mà nói ra là vì nghĩ chuyện gì thì mình cũng tâm sự với nhau được.
    - Thử nhờ ông anh một lần nữa xem sao?
    - Tiền này dùng vào chỗ không thể đi bàn với anh ấy được!
    Kin lại ngồi yên lặng, miên man nghĩ chắc tuổi trẻ của mình cũng chỉ một hai năm nữa là hết. Bây giờ mới hiểu cái tình yêu nồng nhiệt khi xưa có vẻ chẳng còn chút dư âm nào trong cả hai. Nhưng đó hình như cũng chẳng phải tình yêu, đúng hơn là một thứ đam mê thu hút lẫn nhau giữa trai gái, cứ lăn quyện vào nhau như lá vàng bị hút theo cơn gió cuốn ào ào. Bây giờ mình ở đây, Tabê đang ngồi đó, thế mà cả hai không còn chút gì với nhau nữa, ngoài cái điều đã quen với nhau ngày xưa. Có chút cảm giác gì như hụt hẫng khẽ len đến làm Kin thấy trong lòng buồn buồn, tê tái.
    Đang ngồi nhắp trà, Tabê dường như nhớ được nên ra vẻ tươi cười, hỏi nho nhỏ: "tối nay ngủ lại được không"? Kin nhìn Tabê, ngạc nhiên: "Không được đâu, cứ giỡn hoài!" Nói xong, Kin nheo mắt với Tabê, hàm răng giả trắng đều ánh lên trông thật đẹp với nụ cười chưa tắt.
    - Trời ơi, sao mà lạnh lùng vậy không biết! Có nói chuyện tiền bạc gì nữa đâu! Chỉ thử vòi vĩnh người xưa một chút mà sao khó quá không biết! Nhưng mà, ở đây cứ như một thế giới khác chứ nhỉ ! Thời buổi khó khăn mà cô thực là giỏi, có gì đi nữa cũng vượt qua được cả. Cái này thì mấy cô mới lớn chịu bó tay thôi. À, cô có hay nhảy đầm không?
    Kin cười bằng mũi, nghĩ thầm: Nói chuyện mấy cô còn trẻ. Mấy cô ra sao, làm thế nào biết được!
    - Nhảy? Có biết gì đâu! Anh có hay nhảy không?
    - Cũng có chút chút.
    - Vậy sao? Chắc là với người nào tuyệt lắm. Cho nên mới cần tiền, phải không?
    - Cứ nói bậy! Đâu có kiếm được tiền nhiều đến độ đem lo cho mấy chuyện như vậy!
    - Ơ, nhưng mà nhìn trang phục thế này, nếu không phải làm gì khá thì đâu mà tề chỉnh hẳn hoi như thế!
    - Bề ngoài đó thôi, thực ra rỗng túi rồi! Dạo này chuyện làm ăn cũng bầm dập ngóc lên té xuống, hết chịu nổi.
    Kin bật cười lớn nhìn Tabê, thấy mái tóc rậm dợn phồng ấy vẫn còn vương xuống trên trán. Mặc dù cái trẻ trung của thuở học trò khi trước không còn nữa, nhưng những đường nét trên khuôn mặt - tuy là không thanh tú lắm - cũng cho thấy được sự cường tráng của một người đàn ông ở tuổi trung niên. Dè dặt như con thú sống trên đồng hoang khi đã đánh được hơi gì lạ, Kin bước lại gần Tabê, vừa châm trà vừa hỏi, nửa đùa nửa thật:
    - Nghe đâu tiền sắp phá giá, có phải không?
    - Bộ có tiền nhiều lắm hay sao mà lo quá vậy ?
    - Coi kìa, mới đó lại trở lại chuyện tiền nhiều với ít, anh thực là lạ! Nghe người ta đồn ngoài chợ thì cũng hỏi cho biết vậy thôi chứ!
    -Ừm, nước Nhật bây giờ sao mà làm được chuyện vô lý thế. Nhưng không có tiền thì hơi đâu mà lo!
    - Phải rồi! Kin vừa nói vừa nghiêng chai whisky rót cho Tabê.
    - A .. à, bây giờ mà được lên Hakonê hay chỗ nào yên tĩnh như vậy để nghỉ thì khoái lắm. Ở đó mà ngủ luôn một hơi hai ba ngày thì tuyệt!
    - Anh mệt lắm sao?
    - Cũng tại cứ lu bu lo kiếm cho ra tiền.
    - Nhưng ... anh mà có bao giờ phải lo gì chuyện tiền! Chắc là nghĩ đến cô nào nhiều quá đó thôi!
    Tuy không ưa cái sự mực thước quá đàng hoàng của Kin trong cách đối xử, Tabê cũng thấy Kin hay hay, cứ như đang nhìn một món đồ cổ sang và quý giá. "Nếu đêm nay mà mình ngủ lại, thì cũng như mưa xuân đổ xuống ruộng cằn", Tabê vừa nghĩ thầm như thế vừa nhìn vào khuôn mặt của Kin. Những đường nét ở cằm như thế này là biểu hiện của một người cương nghị. Tự nhiên hình ảnh còn mơn mởn của cô tớ gái câm bỗng hiện ra trong trí. Cô ta không đẹp, nhưng kinh nghiệm với nhiều phụ nữ khác nhau cho Tabê biết rằng sự trẻ trung là một điểm tốt không có gì sánh bằng. Tabê nghĩ thêm: Giá hôm nay là lần đầu tiên gặp Kin, chắc mọi sự đã không khó khăn như thế này. Mà sao bây giờ thấy Kin lại có vẻ khá già nua ...
    Kin như linh cảm được ý nghĩ đó, bèn lật đật đứng dậy đi sang phòng bên cạnh, đến thẳng chỗ có tấm kiếng lớn, lấy ra một ống hormone chích vào tay. Rồi vừa cầm miếng bông gòn chà lên chỗ mới chích vừa soi mình trong kiếng, Kin thấy cần chấm thêm lên mũi mình một chút phấn. Thực là chán, trai gái mà không đậm tình với nhau thì mới đi làm những việc vô duyên như thế này! Kin nghĩ thế mà buồn, bất giác ứa nước mắt. Nếu mà người ngồi ngoài kia là Itayathì Kin đã có thể dựa đầu trên gối ông ta mà khóc, hay làm nũng nọ kia. Nhưng với Tabê thì khác, Kin không biết rõ là mình thích hay ghét bây giờ. Một phần thì muốn để về phứt đi cho xong, một phần thì Kin lại muốn ghi giữ chút gì là hình ảnh mình trong tim anh ta. Chàng này, từ lúc chia tay với mình đến nay, hẳn đã quen rất nhiều cô khác!
    Kin đi rửa tay, rồi trên đường trở lại phòng khách, ghé nhìn thử vào phòng cô tớ gái. Kinu đang cúi mình cắt giấy báo thành những miếng mẫu để học may, cái mông to ngồi trên chiếu, tóc búi cao đưa cái ót cao trắng mịn coi thật đẹp. Cái thân hình săn chắc thấy sao mà ngon mắt!

Chia sẻ trang này