1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hayashi Fumiko
    Đoá Cúc Muộn (III)​
    Trong phòng khách, Tabê đang nằm dài lim dim trên sàn nhà. Kin bước ra, lại gần tủ trà bật radio lên, cố ý để cho tiếng khá lớn. Khúc giao hưởng số 9 của Beethoven vang lên rộn rã. Tabê bật người dậy, uống thêm 1 ly whisky rồi nói:
    - Nhớ hồi đó mình đi chơi trong vùng sông ở Shibamata không? Trời mưa to, đến lữ quán thì chỉ có lươn nướng, mà phải ăn không vì họ hết cơm.
    - Nhớ chứ! Đâu cũng khoảng trước khi anh vô lính thì phải. Hồi đó thực phẩm đã thiếu lắm rồi. Có nhiều hoa đỏ để trong phòng nữa, còn nhớ hai đứa mình làm đổ cái bình hoa không?
    - Phải rồi, còn nhớ chứ! Mặt Kin bỗng trở nên đầy đặn lại, nhìn thấy trẻ hẵn ra. Tabê rủ:
    - Khi nào có dịp mình lại đi nữa nghe!
    - Đi thì đi, nhưng dạo này cũng đâm ra hơi lười rồi! Chỗ đó chắc bây giờ muốn ăn gì cũng có ...
    Nói đến đây, trong trí Kin lại hiện ra những hình ảnh ở Shibamata, nhưng không phải là kỷ niệm chung với Tabê. Lúc ấy mới hết chiến tranh, và người đi chơi với Kin là Yamazaki. Yamazaki vừa mới chết gần đây thôi, sau khi mổ bao tử. Kin như còn thấy được mọi chi tiết: Căn phòng hơi tối ở bên bờ sông Edo trong một ngày nóng hâm hấp cuối mùa Hạ, những tiếng ì ầm của cái máy bơm nước, tiếng ve kêu ra rả, trên bờ đê nhìn ra từ cửa sổ thì có nhiều xe đạp đua với nhau để đi lấy hàng, khi xe chạy những bánh xe bạc phản chiếu ánh sáng loang loáng. Tuy lúc đó chả phải là lần hò hẹn đầu tiên với Yamazaki, nhưng cái hình ảnh trẻ trung và việc chưa biết gì mấy về đàn bà của Yamazaki làm Kin nhớ mãi, coi như một kỷ niệm vàng mười. Khi đó, đồ ăn thức uống cũng đã phong phú nhiều, chiến tranh cũng đã chấm dứt nên tinh thần mọi người cũng nhẹ nhàng ra, nói chung là mọi sự khá yên tĩnh. Lúc trở về thì trời đã tối, xe buýt chạy về hướng Shin-koiwa bằng đường dành riêng cho quân xa...
    - Sau khi mình chia tay nhau thuở ấy rồi, có quen ai đặc biệt hay không?
    - Anh hỏi về tôi?
    - Phải !
    - Người đặc biệt thì ngoài anh ra đâu có ai!
    - Vậy là không phải nói thật rồi!
    - Ơ, sao anh nói vậy ? Không phải thế sao? Người như tôi, ai mà tìm tới?
    - Không tin đâu !
    - Vậy sao? Nhưng mà từ nay trở đi tôi sẽ ráng vươn lên, sống cho có ý nghĩa.
    -Ừ, con đường trước mặt còn dài mà !
    - Đúng, sống thật lâu, cho đến khi già lụ khụ luôn !
    - Từ rày, thôi đừng lăng nhăng bậy bạ với ai nữa nghe.
    - Cái anh này, mất bớt đi đâu cái hiền lành hồi trước hết cả! Sao mà ăn nói như vậy được không biết? Hồi xưa anh khá hơn nhiều mà!
    Tabê cầm cái điếu con của Kin lên hút mấy cái, vị đắng tràn đầy cả lưỡi. Thấy Tabê rút khăn ra nhổ phì vào trong đó, Kin cười, bảo "không siêng lau chùi nên chắc bị nghẹt". Rồi Kin đỡ lấy cái điếu, gõ mạnh trên tờ giấy bổi.
    Tabê vẫn thắc mắc không hiểu là Kin sống như thế nào. Thời buổi này ai ai cũng vất vả khó khăn mà nơi đây chẳng thấy dấu vết gì là lận đận cả, có vẻ như muốn kiếm ra vài ba trăm ngàn thì cũng dễ dàng thôi. Tabê chẳng thiết tha gì chuyện ôm ấp chung đụng với Kin, chỉ muốn tìm xem Kin sung túc đến mức nào. Sau khi đi quân đội về, Tabê hăng hái nhảy ra làm kinh doanh, nhưng chỉ mới nửa năm thì số vốn ông anh giúp cho đã tiêu pha cạn hết, cô tình nhân lại sắp sinh con. Trong lúc nguồn cơn bối rối, Tabê nghĩ đến Kin, những mong có gì cứu gỡ. Nhưng Kin của ngày hôm nay không còn là một người tình hết lòng hết sức như ngày xưa nữa, khiến Tabê bàng hoàng thấy cái khoảng cách giữa hai người sao đã quá xa. Lâu lắm mới gặp nhau mà Kin không tỏ ra vui mừng nồng nhiệt gì, cung cách tiếp đãi thì thật đúng đắn, vẻ mặt và cử chỉ lại rất chừng mực, lễ nghi, thấy khó mà tiến gần lại được.
    Tabê thử nắm tay Kin thật chặt một lần nữa. Nhưng Kin không chạy qua bên kia lò sưởi với Tabê mà cứ để yên bàn tay như thế, bàn tay kia thì tiếp tục lau cái điếu đều đều. Qua biết bao năm tháng, bây giờ cả hai đã mang trong mình những tình cảm phức tạp rất khác nhau. Mỗi người sống theo con đường riêng của mình, ngày lại ngày tuổi tác cứ chồng chất thêm, đẩy những kỷ niệm xưa lui dần, không còn tìm lại được. Giống như nhau, cả hai đều lặng lẽ so sánh người cũ của mình trong hiện tại với lúc trước. Thấy sao như đắm chìm trong một vòng huyễn ảo, gặp nhau mà mỗi người đã quá mệt mỏi với con đường đi phức tạp của riêng mình. Ở thực tế bây giờ, không thể hy vọng có sự ngẫu nhiên như trong tiểu thuyết, vì tiểu thuyết có khi còn đẹp hơn, dễ dàng hơn. Những gì ở đây hôm nay chính là cái thực trạng lạ kỳ của cuộc đời - có hai người tìm gặp nhau để thấy mình chối bỏ lẫn nhau!
    Có lúc Tabê suy tính là mình có thể giết Kin, nhưng lại ngại ngùng khi nghĩ nếu giết một người - dù tầm thường như thế này - cũng thành mang tội. Giá có giết một hai người đàn bà - thứ không ai thèm để ý đến - thì cũng có sao đâu, nhưng chỉ vì thế mà phí đời mình thì thật quá ngu! Sao lại phải giết một bà già, thấp hèn như sâu bọ, nhưng dù sao cũng không tội tình gì, và đang sống yên ổn ở nơi đây? Chắc chắn trong hai cái tủ áo kia phải có áo kimono chất đầy ắp. Hồi trước, có lần mình đã được xem một chuỗi đeo bằng ngọc dát kim cương nhận từngười nào tên Michel hay gì gì đó, bây giờ những thứ tương tự hẵn phải có cất đâu quanh đây. Cái nhà này cũng chắc chắn là của cô ta ...
    Tabê nghĩ thêm là nếu có giết một người đàn bà đang ở với một cô gái câm thì cũng chẳng khó nhọc gì, nhưng bỗng thấy sao những hình ảnh của ngày xưa tự nhiên lại sống dậy trong lòng rất mãnh liệt: người đàn bà này, khi mình còn đi học, trong suốt khoảng thời gian chiến tranh xáo trộn ấy, đã từng là người mình thương mến yêu đương! Không biết vì đang say hay sao mà Tabê lại thấy Kin tuy đang ngồi đó nhưng cái bóng thì ăn sâu vào trong da của mình một cách kỳ lạ. Trong trí thì không muốn đụng vào Kin - dù là chỉ đụng vào tay thôi - nhưng bao kỷ niệm cùng Kin trong những ngày đằm thắm thuở xưa lại cứ thắm thiết trong lòng, rất sâu đậm .
    Kin đứng dậy đi về phía tủ áo, lấy ra một tấm hình của Tabê thời còn đi học.
    - Ồ, cái này hay quá!
    - Ở trong nhà của Sumiko nhưng cô ấy cho lại đó. Chắc là chụp trước khi mình gặp nhau. Hồi đó trông anh như một công tử nhỉ, mặc kimonovới sọc trắng, thấy đẹp không! Cứ đem về đi cho chị nhà xem với. Coi đẹp lắm, không giống cái người hay nói chuyện xóc hông bây giờ chút xíu nào !
    - Té ra cũng có một thời tôi được như thế này nhỉ!
    - Dĩ nhiên! Nếu anh cứ như thế này mà phát triển ra tử tế đàng hoàng thì ông Tabê cũng là một người đáng kể lắm chứ!
    - Nghĩa là định nói tôi không nên người chứ gì?
    - Phải !
    - Á, cũng tại cô đó, với tại cuộc chiến tranh quá dài !
    - Ủa, lo đi đổ lỗi kìa! Không phải như anh nói đâu, tại anh hoá đục ra đó.
    - À, đục! Người ta ai cũng thô tục! Thế cả!
    - Vậy mà tội nghiệp tôi không, có lòng giữ tấm hình này thực là lâu!
    - Thì cũng thành chút kỷ niệm ít nhiều gì đó, chứ cô có cho tôi cái nào đâu ?
    - Hình tôi ?
    - Phải!
    - Thôi đi, sợ chụp hình lắm. Nhưng mà hình tôi lúc làm geisha thuở trước, có gửi ra mặt trận cho anh mà?
    - Làm rớt đâu mất rồi!
    - Đó, thấy không, tôi thật thà hơn anh nhiều!
    Bức "thành đồng" ngăn cách hai người - thể hiện qua cái lò sưởi ở giữa - có vẻ vẫn không suy suyển bớt chút nào. Bây giờ thì Tabê đã say khướt, còn Kin thì từ đầu chí cuối chỉ mới uống chưa được lấy nửa ly. Tabê cầm tách trà lạnh lên ực một hơi, rồi buông thõng tấm hình xuống bàn một cách hờ hững.
    - Coi chừng khuya quá hết tàu điện, không về được.
    - Bộ định đuổi về lúc tôi đang say thế này sao?
    - Phải, nhà này toàn đàn bà con gái, hàng xóm người ta bàn tán !
    - Hàng xóm? Người như cô mà thèm giữ ý với họ à?
    - Vâng, giữ ý chứ!
    - Tối nay ông ấy tới hả ?
    - Ôi, ngài Tabê này, quá sức rồi đó nghe! Anh nói cái kiểu này tôi ghét lắm đó !
    - Chả sao, kiếm không ra tiền thì hai ba ngày cũng chưa về được. Hay là ở lại đây ?
    Kin đưa hai tay lên ôm đầu, tròn xoe hai mắt sững sờ nhìn cái miệng vừa nói xong của Tabê. Cả một mối tình ấp ủ nghìn thu bỗng vụt biến mất! Lặng nhìn người đàn ông trước mắt, Kin chả còn thấy đâu là cái đã gây cho mình bao xao xuyến trong những ngày xưa, nơi con người này cũng chả còn chút gì là sự biết mắc cỡ của thời thanh niên lúc trước. Kin cũng muốn chìa ra một ít tiền để tống đi cho xong, nhưng nghĩ lại, thấy có cho con người đang say sưa này một xu thôi cũng không đáng. Thà để tiền cho những người ngây thơ khờ khạo còn hơn. Đàn ông mà không biết tự trọng thì chả ra gì. Trong đời Kin đã có biết bao người ngây thơ tìm đến, và Kin yêu cái ngây thơ đó, xem như một cái gì quý giá cao thượng. Xưa nay Kin chỉ thích người đàn ông nào mà Kin cho là lý tưởng, cho nên với thực tế hôm nay, Tabê đã trụt xuống cái vị trí của những kẻ mà Kin xem là quá tầm thường. Khi Tabê không chết ngoài trận tuyến mà lại trở về được bình yên, Kin cho đó âu cũng là số mệnh. Giờ này nghĩ lại, lẽ ra với những vất vả khi xuống Hiroshima thuở đó, Kin đã có thể dứt tình với Tabê được rồi.
    - Làm gì mà nhìn chòng chọc vào mặt người ta vậy?
    - Ủa, vậy lúc nãy anh cũng nhìn tôi như thế thì sao? Chắc là nghĩ gì xấu trong đầu chứ gì?
    - Đâu có, vì nghĩ đến cô Kin lúc nào cũng đẹp nên chiêm ngưỡng đó thôi.
    - Phải, tôi cũng vậy, vì nghĩ anh Tabê bây giờ thực là oai, cho nên...
    - Nói ngược chứ gì!
    Tabê đang ngồi tưởng đến chuyện giết Kin, nhưng ráng kèm được ý nghĩ để nói trớ thành chữ "nói nguợc".
    - Anh sướng quá nhỉ, từ đây sắp bước vào lứa tuổi tinh hoa phát tiết của đời người.
    - Thì cô, cũng còn lâu chán!
    - Tôi ư? Hết rồi! Cứ vậy rồi tàn thôi. Muốn hai ba năm nữa là đi về nhà quê sinh sống!
    - Vậy lúc nãy nói sống thật lâu, để rồi lang chạ nọ kia, đó là nói giỡn phải không?
    - Trời, tôi có nói vậy đâu! Tôi là người sống với kỷ niệm. Chỉ có vậy thôi. Tại sao mình không là bạn tốt với nhau?
    - Lại trớ qua chuyện khác rồi. Thôi đừng có nói như kiểu mấy cô học trò còn nhỏ nữa. Kỷ niệm thì ra sao mà chả được!
    - Vậy à, nhưng mà ... gợi lại chuyện đi Shibamata cũng là anh chứ ai!
    Hai đầu gối của Tabê bắt đầu rung rung trở lại. Thấy quá cần tiền. Tiền! Phải làm sao để mượn Kin cho bằng được, năm chục ngàn thôi cũng đỡ rồi.
    - Thật tình cô không xoay được sao? Tôi lấy cái tiệm ra làm bảo đảm mà ?
    - Ủa, lại nói chuyện tiền ? Nói với tôi cũng không ích gì đâu. Tôi thực ra không có xu nào, cũng chẳng quen ai giàu. Nhìn tôi có vẻ thế nhưng thực ra thì túi rỗng. Không chừng còn phải mượn anh để mà sống nữa là !
    - Chuyến này, tôi mà thành công thì sẽ đền ơn cho cô thật nhiều. Cô là người mà tôi không bao giờ quên đâu !
    - Thôi, anh nhiều lời quá, đừng nói mấy cái vuốt ve đó nữa ... Anh đã bảo anh sẽ không nói về tiền nữa mà!
    Một ngọn gió thu lạnh lẽo mang đầy hơi nước bỗng thổi thốc vào phòng. Tabê cầm thanh sắt để khêu lửa lên. Thoáng trong một giây, hai chân mày của Tabê nhíu lại, đầy vẻ giận dữ. Như bị bóng hình huyễn hoặc nào đó lôi kéo, Tabê ghì thanh sắt thật chặt. Một tia chớp chạy nhanh vào mạch máu kích thích cả toàn thân của Tabê. Kin lo ngại nhìn theo bàn tay anh ta. Sao mà cái quang cảnh bây giờ cứ như là mình đã có thấy đâu trước đây rồi?
    - Anh say quá, thôi nghỉ lại đêm nay cũng được!
    "Thôi nghỉ lại đêm nay!" Tabê nghe mấy tiếng này, bèn thả thanh sắt ra, rồi đứng dậy đi loạng choạng vào phòng vệ sinh. Nhìn theo từ phía sau lưng, Kin như đọc được ý nghĩ của Tabê, bật cười khan, khinh bỉ. Cuộc chiến tranh này làm cho con người đổi thay hết cả! Kin với lên tủ trà lấy xuống mấy viên thuốc ngủ. Chai whisky vẫn còn một phần ba. Chừng này mà cho uống hết, để anh ta ngủ một đêm thật thẳng giấc, rồi sáng mai sẽ tống đi. Phần mình thì đêm nay không chợp mắt được là chuyện chắc!
    Kin cầm tấm hình của Tabê lên, đưa vào ngọn lửa nóng. Một ít khói bốc lên, lan nhanh ra khắp chung quanh. Thấy cô Kinu từ bên ngoài khẽ hé cửa nhìn vào, Kin đưa tay ra dấu, bảo sửa soạn chăn nệm cho Tabê. Xong, Kin cắt 1 lát phó mát mỏng đưa lên đốt để át mùi giấy vừa cháy.
    Tabê trở lại, tay vin vào vai cô tớ gái, đang còn đứng ngoài đã hỏi vọng vào:
    - Ủa, đốt cái gì thế?
    - Muốn nướng chút phó mát ăn thử xem sao, không ngờ nó rớt xuống lửa!
    Giữa đám khói trắng của giấy cháy lúc nãy, một làn khói đen cuốn lên nhanh, hoà lẫn tất cả, làm cái chụp đèn thủy tinh tròn bỗng hoá ra lờ mờ như mặt trăng khi nằm lẫn trong mây. Mùi dầu cháy thế mà cũng khá nồng. Kin thấy ngột ngạt khó chịu, đứng lên đi mở toang hết các cửa trong nhà.
    Hayashi Fumiko
    Viết xong tháng 11-1952
    Văn Lang Tôn Thất Phương dịch
    Canberra, 8-2003
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Vũ Hạnh​
    tên thật Nguyễn Ðức Dũng
    bút hiệu khác : cô Phương Thảo, Pazzi
    sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại Thăng Bình Quảng Nam
    cựu tổng thư ký hội Văn Bút Việt Nam (trước 1975)
    Tác phẩm đã xuất bản :
    * truyện ngắn :
    Bút Máu (1971)
    Vượt Thác (1963)
    Mùa Xuân Trên Ðỉnh Non Cao (1964)
    Chất Ngọc (1964)
    Người Chồng Thời Ðại
    * truyện dài:
    Lửa Rừng (1972)
    Cô Gái Xà Niêng
    Con Chó Hào Hùng
    Con Tê Giác Cô Ðộc
    Bóng Ðen Tà Nguyệt
    * tiểu luận, phê bình:
    Cha Mẹ Bơ Vơ (1964)
    Ðọc Lại Truyện Kiều (1966 tái bản 1999)
    Người Việt Cao Qúy
    Tìm Hiểu Văn Nghệ (1970)
    Bút máu (I)​
    Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
    Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
    - Máu người tanh quá!
    Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
    Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:
    - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
    Người cậu giận lắm, bảo rằng:
    - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
    Lương Sinh cúi thưa:
    - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
    Cậu nói:
    - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữa.
    Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngõ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lời.
    Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cổi. Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy.
    Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lưng muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùa. Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
    Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
    Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
    Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
    Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
    Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
    - Có người ám hại tiểu thư.
    Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời. Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
    Ðám đông có tiếng thì thào.
    - Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấy.
    - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.
    - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
    Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen này. Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
    Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
    - Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
    Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
    Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
    Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Vũ Hạnh
    Bút máu (II)​
    Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm , Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
    Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ ho. Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
    - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo ? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn ? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng ? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
    Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý **** tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
    Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
    - Bác khóc thương thân quyến nào vậy ?
    Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
    - Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.
    Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
    - ông từ đâu mà đến đây:
    - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
    Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
    - Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn ho. Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cu. Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
    Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:
    - Chẳng hay bác có biết ... danh sĩ ấy tên gì không ?
    Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
    - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì ? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có ? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu ? Nghĩ thương cho cu. Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máy ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".
    Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
    - Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
    Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
    Sài Gòn 12-1958
    (1)Một thể loại văn trong văn học cổ để ca tụng công đức.
    (2)Thể loại văn trong văn học cổ.
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hữu Phương
    Ba người trên sân ga (I)​

    Bức thư đến, vô tình chấm dứt bữa cơm tối của đôi vợ chồng già, và tự dưng rẽ họ về hai phía trái ngược nhau. Bà Cảnh chợt thấy miếng cơm nghẹn đắng ở cổ và một cái gì anh ách ở đâu đó trong bộ ngực lép xẹp, khi nhìn sự hồ hởi thái quá cũng như niềm vui đột ngột không thể giấu được trên nét mặt chồng. Bà thừa hiểu đó là thư của Tâm, mẹ cái Gianh, bởi chỉ thoáng qua cái cười lẫn trong râu và cái nháy mắt ranh mãnh của ông bạn già giao thông xã lúc giúi bức thư vào tay ông Cảnh qua hàng rào dâm bụt thì biết rõ.
    Ông Cảnh vừa có chén rượu trước lúc xới cơm, nên trong người thấy phấn chấn, và không hiểu sao, lại hứng khởi nhắc đến cái chuyện hồi còn nhỏ của hai người, làm bà Cảnh vừa thích thú cười móm mém, vừa e thẹn đỏ cả mặt. Đấy là cái thời gái mười bảy, trai đôi mươi trẻ nhất làng, đêm đi tham gia cổ động, đuốc cháy đỏ trời, khi tan cuộc hai người trở về trên lối cũ tối om, đây đó dọc vệ đường còn leo lét những tàn đuốc cháy trong cỏ. Khi đó, không hiểu sao ông nhắc đến chuyện lũ rắn cạp nong hay theo đóm ăn tàn; và bà, cũng không hiểu sao đi sát ông hơn và quờ tay nắm lấy khuỷu tay ông, bắt đền phải đưa về tận nhà. Bàn tay của họ tìm nhau trong bóng tối, và như có một luồng điện truyền qua, khiến họ lặng đi, nóng rực, chỉ nghe rõ lời của hai trái tim đập dội trong ***g ngực.
    Đó là cái phần đời đẹp đẽ và duy nhất họ có được với nhau trong hơn ba mươi năm qua; và ông chỉ nhắc khi chỉ có hai vợ chồng, muốn làm vui lòng bà. Bà Cảnh nghe ông nhắc lại chuyện ấy không biết bao lần kể từ hồi gặp lại nhau, nhưng lần nào bà cũng thấy mới mẻ và thích thú rơm rớm nước mắt. Hôm nay cái Gianh vắng nhà, nó bận tham gia đợt dã ngoại lên Bạch Mã của học sinh cấp ba, nên ông Cảnh nhắc lại chuyện cũ chẳng cần ý tứ.
    Bữa cơm đang vui vẻ và ngon miệng như thế, thì cái thư đến, và họ chẳng thể tiếp tục như cũ được nữa. Bà Cảnh ngồi thừ người, tay chống đũa trong bát cơm ăn dở, và nhìn ông Cảnh một cái nhìn trách móc, tủi hờn của kẻ "chồng chung ai dễ chi nhường cho ai". Ông Cảnh, có lẽ do quá mừng, đã không chú ý đến điều đó, tay run lẩy bẩy lật đi lật lại phong thư, miệng lẩm bẩm như nói với mình: "Thư của Tâm, thư của Tâm, bà nó ạ". Và suýt nữa ông hôn lên những nét chữ quen thuộc trên phong bì, nếu không kịp liếc qua mặt vợ. Ông cố lấy lại bình tĩnh bằng câu nói to: "Để xem... thư nói gì nào...", nhưng tay ông luống cuống đến mức bóc rách cả phong bì, và khi gí trang thư vào bên cạnh đèn, ông mới biết là mình lật đật bỏ quên cái kính lão ở đâu.
    Bà Cảnh không tài chi ngủ được, cứ rên hừ hừ như mọi lần bà cần rên. Nhưng đêm nay, bà thực sự thấy mình mệt mỏi quá sức, yếu đuối quá sức. Bà trở mình liên tục và thấy đau nhức từng khớp xương ống chân, ống tay. Hình như những đòn tra tấn của giặc xưa kia nó lặn đi đâu, giờ trở lại hành hạ bà. Và điều này lại khiến bà càng hờn giận những "ai" đó gấp bội. Hừ... hừ... "Người ta" sao lại quá sung sướng đến thế. Được tập kết ra bắc, được sống rong ruổi đây đó ở nơi xa bom đạn, thế chưa đủ sao? Mà "người ta" còn rửng mỡ đèo bòng, còn thêm vợ nọ con kia? Để bây giờ...
    Bà Cảnh bực bội trong cơn ghen tức âm thầm khi thấy ông Cảnh vẫn chưa chịu tắt đèn đi ngủ, ngồi lặng lẽ bên bàn trà, thỉnh thoảng mở trang thư ra đọc lại, và hình như còn cười thầm một mình nữa. Bức thư của Tâm viết có mấy dòng, rằng chị ốm đã mấy hôm nay, rằng không hiểu sao chị thấy nhớ cái Gianh quá". Và lần này xin phép "anh chị trong nớ" cho em nó ra quê chơi ít bữa.
    Hừ... Ôi dào, bà thì bà hiểu tâm địa các người, bà đi guốc trong bụng các người. "ốm đã mấy hôm nay" - dễ thường đời này chỉ một mình chị ốm chắc? Hừ... hừ... "Không hiểu sao thấy nhớ cái Gianh quá - Nhớ cái Gianh hay nhớ "anh Cảnh"? Điều đó thì rõ như ban ngày rồi, lại còn "không hiểu sao"! Mà cái Gianh mới mười lăm tuổi ranh ấy đi từ trong ni ra ngoài nớ một mình được răng? Khiếp. Thế mới biết người ta nhắn nhe hẹn hò nhau khôn ngoan đáo để chưa, ranh ma chưa! Nhưng không qua nổi mắt gái già này đâu! Bà thì bà biết tỏng tòng tong cái tổ con chuồn chuồn! Hừ... hừ...
    Nỗi bực bõ và đau khổ ngấm ngầm cứ dày vò, hành hạ bà. Đầu tiên bà đổ lên đầu ông Cảnh, người chồng đã bội bạc lời nguyền ước xưa: "Chỉ hai năm thôi, hai năm là anh lại về... Em ở lại cố...". Bà nhớ lúc đó, bà quàng cái tay nải gạo qua chiếc ba-lô của ông và nói, cố dằn cơn nhớ nhung, tủi hờn đang dâng lên trong cổ: "Anh đi sức gối mạnh chân... chớ lo chi cả. Mọi cái ở lại đã có em...". Bà phải cắn vào ngón tay mình để khỏi bật ra tiếng khóc, tiếng khóc của người vợ vừa mới bén hơi chồng ba hôm đã phải chia xa. Hừ... hừ... Thế mà ông đi biền biệt, không một mẩu tin, hơn hai mươi năm mới trở lại. Và khi trở lại, nào phải chỉ có một thân một mình.
    Đành rằng, cái chuyện trở về không đúng hạn chẳng phải riêng ông, và cũng chẳng phải lỗi tại ông, nhưng bà vẫn thấy tưng tức. Ông trở về, lại dắt theo một con bé chừng mươi tuổi, và tươi cười hơn hớn bảo với bà rằng: "Đây, con chúng ta đây!". Ôi chao rứa có xung máu không? Đã không thấy được cái lỗi của mình, lại còn xưng xưng như thể vừa lập được chiến tích. Té ra, bà phải chịu cảnh tù đày, tra khảo để cho "các người" ở ngoài nớ tha hồ mà... Lần ấy suýt nữa bà đã nổi trận lôi đình ngay giữa họ hàng, chòm xóm cho đã cơn giận. Nhưng cái vẻ ngây thơ con trẻ trên gương mặt phúc hậu sáng sủa và cái vẻ khép nép của người chịu nhún thay mẹ nó của con bé đã làm dịu đi cơn tam bành của bà.
    Nhưng liền đấy, bà thấy tủi thân tủi phận quá thể. Và bà òa khóc. Ông Cảnh ngỡ đấy là những giọt nước mắt mừng rỡ của ngày gặp mặt, nên cứ vuốt mãi mái tóc sớm bạc của bà mà an ủi, rằng đất nước đã trọn vẹn, rằng giờ anh đã trở về đây, em đừng khóc nữa.
    Ông Cảnh đâu hay rằng tận sâu thẳm tâm can, bà buồn tủi biết bao, thấy mình mất mát biết bao! Phải. Ngày ấy chia tay chồng chưa được mấy tháng, có kẻ đã rình rập theo dõi. Rồi cái "luật mười năm chín" đẫm máu tràn qua, xóm thôn tan nát, bàng hoàng như vừa qua cơn ác mộng. Bà bị chúng bắt lên bắt xuống, tra khảo, đòi tuyên bố từ bỏ người chồng ngoài bắc không biết bao lần. Người mẹ chồng già yếu đã không qua nổi đòn thù, để lại một mình bà trơ trọi, cô độc như một nhành cây yếu đuối trước bão tố, với cái tuổi hai mươi lăm dằng dặc nỗi nhớ chồng nơi xa ngái...
    Không biết bà sẽ sống tiếp ra sao, nếu không có tổ chức đến móc nối, và dẫn dắt bà. Và nỗi nhớ chồng, lời nguyền ước lúc chia tay lần ấy của ông, đã thành chỗ nắm vịn, chỗ tựa đỡ cho bà đi qua những tháng năm nghiệt ngã... Lần sơ sẩy duy nhất trong quãng đời hoạt động của bà, là lần tổ du kích bố trí giết tên xã trưởng ác ôn giữa ban ngày. Công việc thực hiện trong một khoảnh khắc cực kỳ mạo hiểm, tới mức khi cài được tờ lệnh thi hành án của Mặt trận lên cái cúc áo giữa ngực của tên bán nước, nơi cạnh đó là một lỗ thủng của viên đạn còn rỉ máu, thì bà nhận được ám hiệu có động. Bà chỉ kịp rút lui một quãng và thay đổi bộ lốt hợp pháp, thì bị bắt. Chúng nghi chính bà đã làm cái việc tày trời đó, nhưng vẫn chưa có cơ sở xác đáng; phần nữa, chắc chúng còn muốn khai thác, đơm nhử đồng đội bà, nên chúng giam bà trong một xà-lim kiên cố. Rồi từ đó, bà bị đẩy từ nhà tù này đến nhà tù khác, với bao nỗi cực nhọc mà bà không nhớ hết. Và cái phương cách giúp bà vượt qua những cực hình khủng khiếp của kẻ địch, là trong đầu bà luôn choán ngợp hình ảnh ông, là những đêm gối ấp tay kề ngắn ngủi, là lời trao gửi cho nhau ngày chia biệt...
    Cho đến một hôm, nghe súng nổ loạn xạ, rồi xà-lim bật mở, và ngoài sân lố nhố bóng áo xanh mũ tai bèo, bà mới tin là mình thoát chết. Bà đã sống trong niềm vui tràn ngập nụ cười đẫm nước mắt của ngày Đất Nước hoàn toàn giải phóng, trong nỗi háo hức chờ đón chồng trở về. Và vợ chồng sum họp như xưa...
    Những bực bõ, hờn ghen về sự ba thê bảy thiếp của chồng phút đầu, rồi cũng qua đi. Dẫu sao, giờ đây ông cũng đã trở về với bà, hiển hiện, bằng xương bằng thịt sờ sờ ra đấy, chứ không phải trong mơ như trước. Từ nay bà sẽ giữ riệt lấy chồng, sẽ không để mất ông một lần nữa, không sẻ chia cho bất kỳ một ai nữa...
    Nhưng, ngay đêm đầu tiên hai vợ chồng có được sau hơn hai mươi năm trời cách biệt, bà đã khóc tức tưởi, đấy là những giọt nước mắt buồn tủi và thất vọng về niềm hạnh phúc, đến lúc ấy, bà mới chợt nhận ra rằng mình đã quá già đã ngoài năm mươi, rằng cái tuổi hồi xuân ngắn ngủi của người đàn bà ở bà cũng đã qua đi từ hồi nảo hồi nào trong tù. Tiếng khóc của bà rấm rứt mãi khiến ông Cảnh tỉnh giấc. Có lẽ ông không hiểu bà, nên đã kéo bà vào lòng, dỗ dành như một nhà thuyết giáo: "Hoàn cảnh đất nước, hoàn cảnh lịch sử, chứ đâu phải riêng mình ta, em?". Nhưng dẫu câu nói trong khuya và cử chỉ khuyên bảo âu yếm của ông cũng làm bà dịu lại. Hoặc giả chính bà cố dịu đi để ông khỏi mất ngủ. Bà thương ông lắm lắm, giận thì giận, bà vẫn thương chiều mọi sở thích của ông như bao người đàn bà biết sống một mực về chồng...
    Có một điều, phải, một điều thôi, bây giờ bà không thể vì thương ông, vì nể ông mà gắng chiều được nữa. Với cái tuổi chưa đến sáu mươi, nước da đỏ au nhanh nhẹn và còn tráng lực như ông, đã nói chi chuyện già? Chao ôi, tạo hóa sao nỡ bất công đến thế? Trong khi bà chỉ thua ông vài tuổi. Có thể một phần do bị tù đày tra khảo, phần nữa sống trong trạng thái mòn mỏi mong chờ, đã đẩy bà nhanh qua cái mốc ấy khi nào: để bây giờ người bà chỉ còn như con mắm khô quắt, và hết kiệt mọi ham muốn, mọi thèm khát, nếu không muốn nói là "chuyện ấy" trở nên cực chẳng đã với bà. Ban ngày mọi lo toan làm khuây khỏa, nhưng đêm đến là nỗi lo âm thầm của bà.
    Quả thật, với bà đêm chỉ muốn ngả lưng cho sớm, sau khi đã nhẩm đếm số tiền bỏ ra và số tiền nhặt về của gánh rau mùi trên vai sau mỗi buổi chợ; rồi một giấc ngủ êm nhẹ của người già đến từ lúc nào; cho đến khi thấy mỏi nhừ và đau ở sống lưng biết là trời sắp sáng, dậy đỏ lửa, đun cho ông ấm nước pha trà và bắc lên nắm gạo nấu miếng cơm cho cái Gianh đi học.
    Cái mong ước ấy của bà ít khi thực hiện được, bởi đêm đêm bên cạnh bà, ông Cảnh hình như không ngủ, cứ hay trở mình, gác tay gác chân, và đôi khi trườn cả người qua người bà. Thương ông bà gắng chiều, nhưng sự gắng chiều ấy đã trở thành một sự chịu đựng...

  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hữu Phương
    Ba người trên sân ga (II)​
    Rồi bà cũng tìm được cách khéo léo để "cách ly" ông. Đấy là một dịp mùa hè đến, bà bảo ngủ chung nóng lắm, và dọn cho ông một giường riêng. Cái nhà ba gian, gian liền sát bếp là chỗ của bà và cái Gianh (buồng bà phía trong, giường cái Gianh ở phía ngoài, cạnh cửa sổ, giữa là lối đi xuống bếp), gian giữa đặt bàn thờ ở phía trong, phía ngoài là bộ bàn trà, gian trên cùng đặt giường của ông. Bà yên tâm vì đã tìm được cách mà bà cho là diệu kế này. Nhưng bà nhầm, bà không tính đến chuyện ông có đôi chân. Một tối, bà đang nằm thiêm thiếp thì chợt nghe tiếng dép nhè nhẹ đi đến, rồi thấy ông quờ tay lên người bà, vuốt tóc bà và khẽ nằm xuống bên cạnh bà...
    Từ đấy, bà nín thở và thon thót lo mỗi khi có tiếng dép của ông lê qua, dù có khi ông chỉ đi tiểu tiện. Có một lần, không hiểu vì quá lo lắng, hay vì một lý do gì khác, bà bỗng lên tiếng rên khe khẽ khi có tiếng dép của ông từ xa. Và lần ấy tiếng dép của ông chần chừ một giây rồi xa dần và im hẳn. Bà nín cười... Đấy, cái sự thỉnh thoảng hay rên hừ hừ về đêm của bà, có căn nguyên vậy đó.
    Nhưng, hôm nay bà rên không phải vì lý do đó, bà thực sự thấy mình đau yếu, thấy mình bất lực. Bà lo không biết xử trí ra sao trước yêu cầu thế nào cũng nói vào sáng mai của ông, là sẽ đi ra ngoài ấy thăm Tâm. Trước đây, lâu lâu ông xin phép bà đi thăm bạn bè, hay bà con đâu đó dăm bảy bữa, bà không đắn đo cân nhắc, thoải mái chấp nhận ngay, và thậm chí còn chuẩn bị chu đáo cho ông đi xa. Nhưng bây giờ, không hiểu sao bà hoàn toàn không muốn ông đi ra ngoài ấy một chút nào. Trái tim bà như bị ai bóp chặt khi mường tượng rằng ông sẽ được Tâm chăm sóc vồ vập như trời hạn lâu ngày gặp mưa, rằng đêm đêm hai người má ấp vai kề, thầm thì "anh anh, em em" mọi điều nhung nhớ, rồi...
    Hừ... hừ... không, không thể được. Ông ấy là chồng bà, là của riêng bà, không ai có quyền... Phải! Bà không chấp nhận chuyện đó. Bà không thể để ông đi. Hừ... hừ...
    Và, suốt đêm bà không sao chợp mắt, vừa rên vừa nghĩ kế giữ chân ông.
    Sáng hôm sau, ông Cảnh không ngồi nhấm trà như mọi khi, mà xăm văn đi vào đi ra, khi xếp các thứ rau vào rổ cho bà, khi tìm đôi quang gánh ở chái bếp... Bà Cảnh biết ông định nói điều gì rồi, nhưng bà giả lơ, không đụng đến. Cho đến khi bà cắp nón và ghé vai vào chiếc đòn gánh tre mỏng mảnh, ông Cảnh mới ấp úng, như đứa trẻ có lỗi:
    - Mình ạ... Có lẽ... tôi phải đưa cái Gianh ra quê, nhân thể xem mẹ nó ốm đau thế nào...
    Biết ngay mà! Bà Cảnh ngừng lại, lấy tay quệt thứ bã trầu dính đỏ bầm khóe miệng, ra chiều cân nhắc một giây, rồi xởi lởi:
    - ờ... Mà để tui coi... Từ hồi được làm chị làm em với mẹ cái Gianh tới chừ, đã khi mô ông cho tui được gặp mặt bà con họ hàng dì ấy ngoài nớ? Thôi chuyến ni nhân có mấy ngày nghỉ, ông để tui đưa cái Gianh đi, chị em gặp nhau lâu lâu.
    Bà nói và quày quả đặt gánh lên vai như thể sợ kéo dài chợ trưa, và như thể chuyện không có gì phải bàn lại nữa, khiến ông không kịp phản ứng gì. Khi bà ra khỏi cửa rồi, ông mới ngớ ra, mới kịp hiểu, và đứng ngẩn tò te hồi lâu như đứa trẻ bị cụt hứng, trước cái lý lẽ đơn sơ mà chết cứng ấy của bà...
    Bà Cảnh, sau chuyến đi cùng cái Gianh ra thăm "dì nó" trở về, hoan hỉ như sau một chuyến công cán dàn xếp thắng lợi. Bà hồ hởi kể với ông say sưa bao nhiêu thu nhặt được ở quê "ngoài nớ": Nào cái dòng sông Gianh nước trong và xanh dễ sợ, cứ ngỡ không có đáy, nào chạy dọc hai bờ bãi là tít tắp ngô non và lạc, với bốn bề viền những bờ dâu xanh mướt; nào đi trong đường quê cấm có thấy ánh mặt trời, cam bưởi cứ thả hương quấn quít theo người, nào bến sông chiều con gái tắm đông chi lạ, o mô o nấy tóc dài và da trắng hết chỗ nói...
    Bà vô tình, hoàn toàn không hay biết rằng, đã chạm đến nỗi niềm sâu kín nhất trong lòng ông Cảnh. Bà đơn giản nghĩ rằng, tả thực cảnh quê hương ngoài đó, cái quê hương mà quả thật đã khiến bà thích thú, sẽ làm ông vợi nỗi nhớ Tâm. Điều bà luôn luôn mong muốn là làm sao trong ông hình ảnh Tâm không vượt trội bà. Nhưng bà đâu hay rằng chính những điều bà nói, đã thắp bùng lên nỗi nhớ Tâm cháy bỏng trong ông.
    Chao ơi, cái làng quê bên bờ sông Gianh ấy cứ như là nơi ngọn nguồn nỗi nhớ của ông. Thuở ấy, ông còn trai tráng lắm. Đơn vị hải quân của ông đóng ở cảng Cửa Gianh, trấn giữ một vùng mặt biển và một cửa sông trên bến dưới thuyền tấp nập. Chiều chiều, dòng sông xanh chở những con tàu trắng đi lại giữa hai bờ làng quê trù phú yên vui. Những cô gái gánh cá lên bờ còn ngoái lại trêu mấy chàng lính thủy trên tàu. Nhưng cảnh thanh bình ấy chấm dứt đột ngột, khi những quả bom đầu tiên của giặc Mỹ ném xuống miền bắc lại rơi đúng bến cảng này.
    Không thể tiếp tục cuộc chiến đấu bất lợi giữa những con tàu chỉ đi lại được trên mặt nước hạn hẹp và trống trải, với lũ diều hâu rộng đường nhào lộn trên không và có vũ khí la-de lợi hại, đơn vị ông chuyển sang lối đánh du kích. Và những con tàu đang đêm lặng lẽ ngược dòng sông Gianh, về neo ẩn dưới những lùm tre cao vút, xanh um vươn ra mặt sông, như từ lâu nó đã chuẩn bị cho cuộc chiến đấu ác liệt này. Rồi từ đó, đêm đêm, dòng sông Gianh lại lặng lẽ tiễn đưa những con tàu ra đi trong nỗi thắc thỏm mong chờ... Để sớm hôm sau, trước khi có ánh ngày, những con tàu lại trở về nằm nghỉ dưới những lùm tre cao vút, xanh um, lim dim nghe sóng sông Gianh vỗ về ru hát, thì trên mặt báo in đậm những chiến công của nó: số tàu chiến giặc bị đánh chìm số xuồng biệt kích bị bắt gọn ngoài khơi. Đó là nỗi kinh hoàng của bọn giặc biển và nỗi khủng khiếp đến phát điên của bọn giặc trời Mỹ. Và hàng trăm tốp máy bay phản lực ngày càng sục sạo ráo riết khắp nơi mọi chốn, cố tìm cho ra dấu vết những con tàu bé nhỏ của đơn vị ông.
    Ông nhớ một lần, những mái hầm của tiểu đội ông chưa kịp ngụy trang trước lúc ra đi , sớm hôm sau trở về đã thấy mọc dày những cây dâu non. Ông không ngờ có một bàn tay con gái đã làm việc đó. Và, cái chàng lính thủy ấy đã "vương phải tơ" của người con gái đất Phù Kinh tơ lụa. Những người lính chuyên đánh trận về đêm, ban ngày cố ngủ. Nhưng ông nào ngủ được đâu khi gót chân của nàng nhẹ êm bên cửa hầm và bàn tay quay xa của nàng như múa? Cái đuôi mắt hình lá dâu của nàng cứ mở to lo lắng và hồi hộp ngóng theo bóng con tàu của ông ra đi lúc hoàng hôn...
    Rồi một hôm, ông nhớ rõ là một sáng mùa hạ trời rất trong, trong đến nỗi có thể trông rõ những nhành cây khẳng khiu với những tán lá lưa thưa trên vách lên màu xám của chín mươi chín chóp núi đá vôi của dải Phượng Hoàng chạy dọc phía nam dòng sông, không hiểu chúng nghi là những con tàu nép hai bờ sông, hay chỉ là sự điên cuồng săn tìm trả thù vu vơ, mà bầu trời yên vui ban mai bỗng chốc đen đặc bóng lũ giặc trời. Thoạt đầu chúng chia thành hai toán bay hàng dọc theo hai hướng đi qua, rồi đột ngột quay ngoặt trở lại, ngỏng những cái cổ ánh bạc lên cao và bất thần đâm bổ xuống dòng sông. Cùng với tiếng rú rít gào thét man dại của hàng chục động cơ máy bay, tiếng nổ váng óc của mưa bom, của rốc - két và tiếng giòn đanh của các ổ đại liên, mười hai ly bảy dân quân vây bủa trên các đỉnh lèn đánh trả quyết liệt, là những cột nước tự lòng sông, những cột lửa từ hai bên bờ dựng vụt lên trời. Tất cả như chìm trong một vùng hỗn chiến của lửa, nước chạy dọc hai triền sông.
    Nhưng, như có phép thần, những lùm tre vẫn gan góc vươn ra che chở những con tàu. Và dòng sông Gianh cũng như đất mẹ hai bờ hứng chịu các luồng bom không chút chần chừ. Càng sục sạo săn tìm, lũ giặc trời càng điên cuồng cắt bom hối hả...
    Và, trong tiếng đạn nổ bom gào, những người lính thủy nghe rõ cả tiếng trẻ con khóc thét, tiếng của người bị thương kêu rên, tiếng gia súc thét rống, tiếng của những ngôi nhà bốc cháy nổ lốp đốp... Trái tim của họ đau nhức nhối. Không thể được! Không thể để nhân dân vì ta mà mất mát đến tính mạng và tài sản quá thể, con tàu ông xin lệnh nhổ neo, kéo cờ đỏ sao vàng, mặt đối mặt với lũ giặc trời Mỹ, thu hút các luồng bom, để bảo vệ nhân dân và hàng chục con tàu khác.
    Phút chốc, con tàu chiến sơn mầu nước biển, ở đâu đó lao vút ra giữa dòng sông. Trên boong những người lính, không ai bảo ai, gọn ghẽ trong bộ đồ lính thủy mới nhất của mình: chiếc áo trắng in những con sóng xanh, chiếc mũ xanh có hai đuôi én tung bay, lanh lẹn và bình tĩnh ngồi vào vị trí chiến đấu quen thuộc quanh cỗ pháo hai nòng vươn thẳng lên trời một cách tự tin. Lũ máy bay giặc, như một bầy nhặng, bâu lấy con tàu của ông.
    Ông nhớ là lúc đó, ông hoàn toàn không nghe một tiếng bom nào, chỉ thấy loang loáng những bóng đen to nhỏ khác nhau lao thẳng từ trời cao vút xuống hạm tàu. Con tàu khi nghiêng khi ngửa, khi chồm lên khi giật lùi, vừa tránh bom đạn vãi tứ phía, vừa nhả đạn đánh trả quyết liệt. Nước sông Gianh lúc đó cứ sôi lên sùng sục ở hai mạn tàu, và như nhuốm đỏ bởi máu đồng đội.
    Về chiều, con tàu như kiệt lực vì thương tích đầy mình mẩy và vì những hòm đạn từ đất liền chuyển ra trên những con thuyền nhỏ nhoi của các cô dân quân với búi tóc tròn và bộ đồ đen nước dính chặt thân người, vừa bơi vừa đẩy dưới mưa bom, có lúc không đủ nạp cho cỗ pháo hai nòng bấy giờ đã đỏ bỏng. Không biết lũ phi công Mỹ nhận biết điều đó, hay chúng sợ tối trời để sổng mất con tàu, đã tập trung đánh đòn cuối cùng xuống con tàu của ông. Ông nhớ là lúc đó, ông thấy chớp lóe trùm con tàu, và mình bị hất tung xuống lòng sông như một tảng đá. Từ đáy sông lắng cát, không biết nhờ một sức mạnh nào: có lẽ là sự sống còn sót lại ở hơi thở cuối cùng trước khi tắt lịm, đã đẩy bật ông lên khỏi mặt nước. Nhưng hai cánh tay ông hình như không còn điều khiển được nữa, và trở nên nặng nề, đau buốt trong sự quẫy đạp của ông. Ông bơi chỉ bằng hai chân, đúng hơn là ông chống chọi tuyệt vọng với thần chết đang nắm hai tay ông từ từ kéo xuống lòng sông ngạt thở...
    Ông tỉnh dậy khi hoàng hôn vừa buông xuống mép nước, bên bờ dâu thẫm xanh, nằm ngửa trong vòng tay một cô gái áo quần ướt sũng. Dòng sông và bầu trời yên ắng trong mầu tím sẫm của nó, như chưa từng mấy phút trước đó có cuộc ác chiến nước sôi lửa bỏng. Không biết nước từ mái tóc rối bời của người con gái chảy xuống, hay nước từ cái đuôi mắt hình lá dâu mở to lo lắng của nàng nơi mặn chát môi ông...
    Chính tình yêu đã giúp Tâm tìm được ông ở phút hiểm nghèo, và vừa bơi vừa dìu ông từ giữa dòng sông mênh mông vào bờ, trong đôi tay quay xa kéo sợi dẻo mềm của gái Phù Kinh, dưới cái bầu trời mưa bom khủng khiếp ấy.
    Sau này, khi cuộc chiến ngày càng ác liệt, có lẽ vì cái thời điểm về nam của mỗi người đã trở nên không hạn định được cụ thể, ở trên người ta cho phép những người tập kết ra bắc có thể xây dựng gia đình. Và ông đã cưới Tâm. Để kỷ niệm trận đánh không quên ấy, họ đã chọn tên sông đặt cho con gái của mình.
    Ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, ông trở về thăm quê, không ngờ người vợ thuở ấy, sau bao năm tù tội, giờ vẫn còm cọm chờ ông. Lúc đó theo lời khuyên của Tâm: "Anh sống với em như thế là đủ cho em một đời hạnh phúc rồi, bây giờ anh hãy vì chị ấy... Chị ấy nào đã trọn một ngày gọi là hạnh phúc...", ông trở về, và mang theo cái Gianh cho đỡ nhớ...
    Điều hoàn toàn bất ngờ và khó xử đã xảy ra ngoài suy nghĩ của bà Cảnh (có lẽ cả ông Cảnh nữa) là sự xuất hiện của Tâm ngay sau khi bà từ ngoài ấy trở về được ba hôm. Chiều ấy, ông Cảnh vừa hoàn thành một vòng bơi và vừa mặc quần áo, ông vừa cảm thấy hài lòng vì sự dẻo dai của mình vẫn còn khả dĩ. Ông trở về lòng thư thái. Đó là một điều hiếm hoi. Từ lâu, ông Cảnh đã là một ông già đầy tâm trạng, lặng lẽ mà man mác buồn. Chẳng còn dấu vết gì ở ông của một thuyền trưởng tiếng tăm nữa, ngoài mái tóc đốm bạc thường xuyên cắt cua kiểu lính và nước da mầu đồng hun một đời ăn nắng ăn gió, với thói quen ngày hai buổi, lúc tinh mơ và lúc chiều nhạt nắng là lại ra con sông trước làng bơi một vòng.
    Ông vừa bước vào sân, thì ngoài ngõ đã nghe tiếng của Tâm. Thoạt đầu cả ba người cùng lặng đi mấy phút. Với ông Cảnh và Tâm, có lẽ là sự dồn nén của bao ngày mong mỏi, nhớ trông; giờ gặp lại mừng quá nghẹn ngào không nói nên lời, lại nữa bên cạnh họ còn có bà Cảnh đang há hoác miệng vì ngạc nhiên, khiến họ phải dằn lòng. Nhưng bà Cảnh không thể nào tưởng tượng nổi một "nước cờ" táo bạo và khôn ngoan của "đối phương", khi nghe Tâm, sau phút giây trấn tĩnh, đã tìm được cách lý giải rằng chị đi ký hợp đồng gì đó cho hợp tác xã, tiện thể ghé lại...
    Bữa cơm chiều diễn ra bề ngoài vui vẻ, nhưng bên trong nhiều tâm trạng trái ngược nhau. Bà Cảnh lấy cớ "dì nó mới vô, còn lạ nước lạ cái", giành lấy công việc xới cơm và tiếp thức ăn, để che lấp cõi lòng rối bời đến nỗi không tài chi ăn uống bình thường được. Ngực bà lại như có một cái gì đè chẹn, tưng tức khi thấy ánh mắt chợt trở nên lấp lánh, trẻ trung của ông Cảnh cứ hướng về phía Tâm. Dào ơi, sao ông vẫn chưa chịu yên cái phận già, mà còn tí tởn!
    Họ còn gắp thức ăn bỏ vào bát nhau, nài nỉ nhau ăn thêm như một cặp uyên ương còn trẻ, khiến bà Cảnh thấy ngứa mắt. Và liền đấy bà cảm thấy tủi thân tủi phận, cảm thấy mình là người thừa trong mâm cơm, mặc dù họ cùng nhau gắp thức ăn bỏ lên bát bà thúc giục bà ăn. Nhưng bà có nuốt được đâu. Bà nhìn trộm mái tóc dài và mượt chảy phủ cái eo lưng còn thon thả của Tâm mà thèm, và giận. Này cô kia, sao bỗng dưng ở đâu lại ghé lưng vào chỗ chồng bà? Chao ôi, sao người ta hạnh phúc đến thế? Sao các người hạnh phúc đến thế? Bất giác, bà lại bật lên tiếng rên "hừ... hừ..." ngay giữa mâm cơm.
    - Chị làm sao thế? - Tâm hơi hốt hoảng và hỏi bà một cách ái ngại, khi chị thoáng nghe tiếng rên.
    - Không. Ơ mà ... cái hồi bị chúng tra tấn, chừ trở trời cứ hay tức ngực...
    Bà Cảnh nói lí nhí và đưa tay vuốt ngực, cố nén cơn hờn ghen đang dâng đầy ứ trong người.
    Rồi bà cũng tìm được cách để chống trả "đối phương". ấy là đêm đó, trước khi đi ngủ, bà Cảnh nói như phân công.
    - Dì nó với cái Gianh ngủ giường của tui trong buồng cho rộng; hai mẹ con tha hồ tâm sự, hỉ!
    Đấy là bà nói cho hợp lý thế thôi, chứ cái Gianh đã ý tứ xin phép bà đi học tổ và ngủ lại nhà bạn từ đầu hôm. Rồi trước khi tắt đèn, bà dịch cái giường đơn của Gianh ra chặn cửa buồng, và vừa soạn chỗ nằm cho mình, bà vừa phân bua rằng: "Để hai chị em trò chuyện cho rõ".
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Hữu Phương
    Ba người trên sân ga (III)​
    Cứ thế, suốt nửa tháng trời có mặt của Tâm, đêm đêm bà Cảnh nằm canh cửa buồng, mặc cho hai đầu ông Cảnh và Tâm, cứ trở mình thao thức trong khuya... Của đáng tội, mấy lần ông Cảnh có mạnh bạo bước tới, nhưng tiếng dép của ông dù nhẹ nhàng, dù rón rén đến mấy, cũng bị những ăng - ten thính giác của bà phát hiện, và lập tức miệng bà phát ra những tiếng rên "hừ... hừ...", khiến ông phải rụt cổ lại.
    Không thể nấn ná, hy vọng tìm kiếm một cơ hội nào được nữa, Tâm đành dằn lòng khăn gói trở về, sau hơn nửa tháng vợ chồng chỉ được phép "kính nhi viễn chi". Ngày Tâm lên đường là một buổi chiều nắng cuối xuân vàng mong manh trên từng ngọn so đũa ven đường. Ông Cảnh vừa đưa Tâm đi được một quãng, cả hai chưa nói với nhau được một lời riêng tư, đã nghe sau lưng tiếng chân gấp gáp. Không hiểu sao đến phút chót bà Cảnh lại thay đổi ý kiến: bà không muốn để ông Cảnh tiễn chân Tâm một mình, bà đuổi theo họ. Bà vừa thở vừa phân trần về sự cần thiết có mặt của mình rằng: chuyện vé vũng ở bến tàu là phức tạp lắm, dì nó thì lạ, mà ông Cảnh đàn ông đàn ang vô lo, rồi kẻ cắp nó móc sạch...
    Thế là cả ba người có mặt ở sân ga, ngồi trơ như ba pho tượng trên một cái ghế băng đặt ở góc phòng đợi, không giấu được vẻ ngượng nghịu và sượng sùng. Cho đến khi cửa nhà ga bật mở và người tuôn vào như nước chảy về phía đoàn tàu đang đợi họ, bà Cảnh như sực nhớ điều gì, liền đi đến mấy quán hàng bày bán dọc ga. Bà mua vội mua vàng mấy gói kẹo, vài ổ bánh mỳ, rồi quay trở lại chỗ cũ; nhưng ông Cảnh và Tâm không còn ở đấy nữa. Bà đuổi theo bóng họ thấp thoáng ở cuối đoàn tàu.
    Khi tìm được số ghế của Tâm, nhận ra túi đồ đạc đơn sơ của chị xếp gọn trên giá, mà không thấy hai người đâu, tự dưng bà thấy khó thở. Và một cái gì lại đầy ứ trong cổ họng và anh ách trong ***g ngực vừa khô khát vừa day dứt, thúc giục bà lao đi. Bà lách về phía cuối toa, nơi có phòng vệ sinh nhỏ bé, nhưng ở đấy bọn con buôn đã lèn chặt quá đầu những bao tải lớn hàng hóa. Như con mèo đuổi hút bóng con chuột, bà đảo mắt một lượt dọc các lối đi, phán đoán và lường ước điều gì, rồi bà lao qua phía cửa bên kia, nơi đoàn tàu quay lưng với một bức tường bao bọc sân ga dài và cao có chắn thép gai. Đấy là nơi vắng vẻ nhất hiện giờ. Bà nắm lấy lan can toa tàu, vội vã bước xuống bậc tam cấp bằng sắt cuối cùng, định nhảy xuống đường đá. Nhưng không hiểu vì cái bậc quá cao so với mặt đường lổn nhổn đá khiến bà sợ, hay vì một cái gì khác làm bà khựng lại. Bà thấy bải hoải và con tàu chao đảo dưới chân. Bà tựa người vào thanh vịn bằng sắt rỉ vàng lấm tấm, bên bậc cửa lên xuống của con tàu, và rũ ra.
    Không ai thấy cả (người ta còn bận tíu tít với việc tìm chỗ ngồi và xếp hành lý ở phía bên kia), chỉ có một mình bà thấy, Tâm, một tay vòng qua vai ông Cảnh, tay kia lần những ngón tay dài và trắng của gái Phù Kinh tằm tơ xưa kia, xoa vuốt bờ vai và bộ ngực còn vạm vỡ của ông một cách âu yếm. Đầu nàng tựa ngả vào ngực và hướng khuôn mặt phúc hậu với đôi mắt nhắm lơ mơ vào mặt ông Cảnh, để mặc cho nước mắt ràn rụa hai má, miệng nở một nụ cười sung mãn của hạnh phúc. Ông Cảnh đứng như trời trồng một tay vòng qua eo lưng Tâm, tay kia vuốt nhẹ mái tóc dài được búi lại thành trái bưởi sau gáy. Ông gần như quay lưng lại, nên bà không nhìn rõ sắc mặt ông. Rồi bà thấy ông cúi xuống, áp khuôn mặt của mình vào khuôn mặt của Tâm, đôi môi của họ tìm được nhau và hút chặt lấy...
    Bà Cảnh như sực nhớ điều gì, đứng bật dậy, và thay vì nhảy phóc xuống, kéo xé hai người ra như bà đã từng tốn công kèm giữ họ lâu nay; không hiểu sao, bà lại lật đật leo lên sàn tàu, và vội vã tụt xuống phía cửa trước, nơi người ta vẫn còn lên xuống đông đúc. Bà sấp ngửa bước qua những con đường đá có những thanh tà vẹt bằng bê-tông bắc ngang và những đường ray sắt chạy dọc một cách vô thức. Hình như bây giờ bà không còn ý thức được thời gian và không gian quanh mình nữa. Bà đi như một cái máy, đôi khi suýt đâm bổ vào người đi ngược. Cứ thế bà đi, bước qua tất cả, bàn chân gầy guộc xương xẩu va vào đá vẫn không biết đau. Bà bước lên cái hành lang rộng có mái che, bước qua cánh cửa phòng đợi, qua những dãy ghế giờ không một bóng người, đầu không ngẩng lên. Có lẽ chính bà cũng không biết bà đi đâu. Cho đến khi nghe tiếng cô nhân viên bán vé giọng miền trung hỏi thoảng đâu đó rất xa xăm: "Mẹ xuống ga mô?", bà mới sực tỉnh, và nhận ra là tay mình đang chìa tiền qua cửa bán vé. "Lệ Sơn", bà nói rồi cầm tấm vé quày quả trở lại con tàu, cũng vội vã và vô thức như khi bà đi đến đây: bàn chân gầy guộc rớm máu vượt qua những con đường rải đá, những hàng tà vẹt bê - tông bắc ngang và những đường ray sắt chạy dọc. Hai bên thành tàu chỉ còn lại những người đưa tiễn, mặt hướng về các cửa sổ, và loáng thoáng đó đây những lời dặn dò chúc tụng cuối cùng. Bà gặp ông Cảnh cũng vừa từ trong toa bước xuống bậc tam cấp, mặt ửng đỏ và mi mắt còn ngấn lệ chia phôi. Tự dưng, nước mắt bà cũng trào ra, chảy ào xuống gò má đầy nếp nhăn của lớp da mồi khô đét vì tuổi tác và vì những tháng năm tù đầy cay cực. Bà ngăn ông lại ở bậc cửa và giúi vào tay ông tấm vé tàu.
    - Ông đừng quay lại nữa...
    - ??
    - Nó còn trẻ người non dạ rứa, ông nỡ để nó đi một mình răng đành?
    Không hiểu nhờ một sức mạnh nào; một cái gì mới mẻ, bao dung và độ lượng đã giúp bà đứng vững và nói được những lời rắn rỏi đó, khiến ông Cảnh cầm tấm vé lật đật quay vào toa tàu, như thể vừa nhận được một mệnh lệnh không thể thối lui...
    Và con tàu chợt giật mình, như thể vừa chứng kiến quá say sưa cuộc đưa tiễn dùng dằng của ba người suýt làm nó trễ giờ, liền hú lên một hồi còi giữa trời hôm sâu thẳm...
    Có phải tất cả mọi cái xảy ra trong mơ không? Bà không biết nữa. Chỉ biết rằng, khi cái chấm đen cuối cùng của con tàu nhòa hẳn vào không gian hun hút xa lắc, bà mới quay người lại, chợt nhận ra sân ga vắng lặng, và mình bà đứng trơ giữa những con đường đá với những hàng tà vẹt bê-tông rải ngang, những đường ray sắt chạy dọc vô tận. Bà bỗng bật lên tiếng nấc tủi thân, vì tuồng như con tàu đã bỏ rơi bà; trơ trọi và cô độc giữa đời...
    Bà cắm cổ bước như chạy ra khỏi sân ga, lủi thủi một mình và cũng hoàn toàn vô thức. Cho đến khi bàn chân bắt gặp loi bờ sông quen thuộc, nơi chồng bà sớm và chiều hai lần gắng gỏi bơi đủ một vòng, bà cố lấy lại vẻ bình thường để vào nhà; bởi bà biết trong nhà còn có cái Gianh. Nhưng khi đã vào được buồng mình, bà nằm vật ra giường, âm thầm héo rũ đi. Trái tim bà vẫn chưa dễ tha thứ cho hành động mã thượng của bà lúc ở sân ga. Thế là, cơn giằng co giữa lòng vị tha, độ lượng của người mẹ cao cả, với sự hờn ghen tủi phận của người vợ bị cướp mất chồng cứ bám riết, hành hạ bà; chốc chốc lật tấm thân già nua, khô héo của bà từ mép giường bên này sang mép giường bên kia.
    Bà mơ hồ có tiếng chân bước nhẹ, và liền đấy cảm nhận được một cái gì mềm mại, mát rượi và êm ái đang lướt trên lớp tóc cằn khô của mình, đã kéo bà dứt ra khỏi cái tâm trạng dằn vặt kia. Và đến lúc đó, bà mới hiểu ra rằng, đó là những ngón tay thon thả của cô gái đang lớn phổng trong nhà bà - cô con gái đã tắm uống cái nguồn nước sông Gianh kia từ thuở lọt lòng.
    - Má... Ba đi rồi hả má?...
    Không biết nhờ tiếng nói khẽ khàng, dịu ngọt, pha giọng của hai vùng đất của Gianh, hay nhờ một cái gì khác, khiến bà thấy mình bỗng chốc khỏe khoắn như không. Và cái cảm giác bị bỏ rơi trên sân ga cũng không còn nữa. Phải rồi, chuyến tàu của bà là chuyến cuối cùng với Gianh, thậm chí cùng con cái của cái Gianh...
    Bà nhỏm dậy, kéo cái Gianh vào lòng, và kín đáo lau những giọt nước mắt tấm tức của mình bằng mái tóc mềm mượt của nó.
    Lúc đó, căn buồng bỗng rạng lên chốc lát bởi những tia nắng cuối ngày bất chợt rọi qua những song cửa phía tây.
    Huế, 8-1990
    Đồng Hới, 12-1990

  7. Thinkahead

    Thinkahead Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2003
    Bài viết:
    798
    Đã được thích:
    0
    Xin bác tí đất để em post truyện ngắn này lên nhé. Chẳng biết xuất xứ của nó ở đâu, chỉ biết là một mẩu chuyện rất thú vị thôi! Tkss!!!!
    Chân dung mẹ
    Trương Thị Thanh Hiền
    Cổng trường đại học đã hiện ra trong tầm mắt của tôi. Nó rất thân quen với tôi suốt mười mấy năm nay, nhưng hôm nay nó lại có một cái gì thật mới mẻ. Có lẽ vì tôi không còn là thằng bé con lẽo đẽo theo ba lên lớp những khi mẹ vắng nhà, mà đã trở thành một sinh viên thực thụ. Tôi không biết mình vui hay buồn.
    ****
    Ba mẹ đều là tiến sĩ hóa, nên việc đậu vào đại học đối với tôi không quá khó khăn, nhưng không vì thế mà tôi không cảm thấy vui và hãnh diện. Chỉ có điều lẽ ra ngày này tôi có cả ba và mẹ chia sẻ niềm vui cùng tôi, thì cả hai lại đưa nhau ra tòa ly dị. Tôi đã đến tuổi mười tám, vấn đề tôi sẽ theo ai không còn quan trọng nữa. Tôi chẳng theo ai, lầm lũi đi mướn nhà trọ ở một mình. Ba tôi đứng chết lặng nhìn tôi dọn đồ đi. Mẹ tôi nước mắt như mưa, không ngờ có một kết cục như thế. Ai đã trắ ng tay sau phiên tòa ấy ? Mẹ tôi ư ? Bà có cả một sự nghiệp đồ sộ, đồ sộ hơn cả ba tôi. Ba tôi ư ? Nay ông có cả một gia đình mới để chăm nom, có cô vợ chỉ hơn tôi năm bảy tuổi. Tôi ư ? Một thằng bé suốt tuổi thơ lúc thì xa cha, lúc thì xa mẹ, thường xuyên phải gặm bánh mì khô cứng, ăn những món ăn để hết ngày này qua ngày khác trong tủ lạnh...
    Sau buổi lễ khai giảng, tôi đi vào thư viện. Tất cả sinh viên mới chưa ai biết chỗ này trừ tôi, vì tôi đã từng thường xuyên ngồi đây chờ ba lên lớp giảng bài. Cô Liên thủ thư vồn vã chạy ra đón.
    - Ôi, tân sinh viên đây mà. Mới nhập trường mà đã tìm đến thư viện rồi, coi bộ sau này sẽ thành tiến sĩ như ba như mẹ đây.
    - Con vào thăm cô, không phải vào đọc sách. Con không thích làm tiến sĩ đâu - Tôi định nói không thích làm tiến sĩ như ba như mẹ, lại thôi. Tôi ngồi xuống bàn. Tất cả thứ gì cũng quen thuộc, kể cả không khí im phăng phắc nghe được cả tiếng ruồi bay qua, cả cái cảm giác như nhập thiền của các anh chị sinh viên đang say sưa nghiên cứu. Ôi, sao mà thân thuộc quá, chỉ có cái thằng tôi là không còn là mình nữa. Tôi, thằng bé con suốt tuổi thơ bị bỏ rơi, và hôm nay đã trở thành một đứa con thực sự bị bỏ rơi !
    Ngày hôm sau tôi lên lớp. Người dạy đầu tiên là một cô giáo trẻ măng mới ra trường chỉ vài ba năm. Đó là Tôn Quyên, người vợ sau của ba tôi, người mà tôi thường gọi là chị, người mà có một thời gian tôi yêu mến hết mình, khi ba tôi hướng dẫn cho chị làm luận văn, khi chị thường lui tới nhà tôi nấu giùm một bữa cơm, chỉ dạy tôi một bài toán, ủi giùm tôi những bộ đồ đi học những khi tôi quá lười. Hồi ấy mẹ đang ở nước ngoài. Chị đã từng là cô tiên trong mắt tôi, một cô Tấm hiền hậu hay giúp đỡ mọi người, cho đến một ngày tôi biết được mối quan hệ của ba và chị, cho đến một ngày ba phải chọn lựa chị hay tôi và mẹ. Ba không thể chọn lựa. Ba không thể bỏ hai mẹ con tôi, bỏ đi một thời vàng son của một mối tình đẹp như mơ, nhưng ba cũng không thể bỏ chị với một đời con gái dở dang, vụng dại... Mẹ trở về nước, nhìn chị với nỗi đau cộng lại của hai cuộc đời, của mẹ và của chị. Mẹ đã quyết định giùm ba. Mẹ mất cả gia đình, mất ba, và mất cả tôi.
    Ánh mắt chị dừng lại ở chỗ tôi ngồi. Mắt tôi vẫn nhìn chị không nao núng. Mẹå dạy tôi phải tôn trọng ba và chị, phải gọi chị là dì. Nhưng từ lúc ba mẹ chia tay đến giờ, tôi chưa hề nói chuyện với chị một lời, kể cả tiếng gọi chị thân thương trìu mến thuở nào. Kể cả ba và mẹ, tôi cũng chỉ trả lời khi cần thiết. Tôi đã không theo ai trong hai người, với quyết tâm tự lập không cần đến họ. Tôi đi dạy thêm, đi giao báo, cố gắng thu hẹp mọi nhu cầu của mình. Tôi biết mẹ vẫn nhét tiền qua khe cửa phòng tôi. Nhưng mẹ quên mất một điều, tôi là con của mẹ, thừa hưởng ý chí và nghị lực của mẹ. Những đồng tiền của mẹ cho tôi có mang lại hạnh phúc cho tôi không ?
    Khi tan học, chị Tôn Quyên đón tôi ở cửa ra vào. Chị rụt rè:
    - Chị có thể gặp em một lát không ?
    Tôi lẳng lặng theo chị, không nói một lời. Chị dẫn tôi vào căng-tin, gọi cho tôi ly cà phê sữa.
    - Không, tôi uống cà phê đen.
    Chị không nói gì. Có lẽ chị biết, tôi không còn là thằng bé con lẵng nhẵng theo chị đòi uống cà phê sữa đá, hay mè nheo đòi chị dắt ra bến Bạch Đằng ăn kem. Tôi đã là một chàng trai trưởng thành vừa mất cả cha lẫn mẹ, đêm đêm ngồi quán cà phê một mình để suy ngẫm về nhân tình thế thái.
    - Chị biết chị có lỗi với cô, với em, nhưng...
    - Không - tôi kiên quyết ngắt lời - Chị đừng nói về chuyện ấy nữa, cũng đừng cố thuyết phục tôi về sống với mẹ hay với ba. Tôi đã từng sống thiếu một trong hai người, nên bây giờ có thiếu cả hai cũng không phải là vấn đề quan trọng lắm. Họ chỉ giả vờ đau khổ thôi, chứ không có tôi thì họ cũng không sao cả.
    - Em không nên nói thế, không nên làm đau khổ mẹ mình.
    - Thế còn chị, chị làm mẹ tôi đau khổ thì nên ư ?
    Tôi đứng phắt dậy bỏ đi, không quan tâm đến chuyện của họ nữa. Ba con người đó, ba người tôi từng rất đỗi yêu thương, ba tấm gương trong suốt qua họ tôi đã thấy được cuộc đời, bỗng chốc vỡ tan tành. Chỉ có điều mẹ tôi, một người tôi nghĩ không bao giờ biết đau khổ, nay nỗi đau của bà làm nhói trái tim tôi, dẫu tự sâu thẳm lòng mình tôi vẫn còn buồn giận một cách mơ hồ về mẹ, như một đứa bé giận dỗi vì mẹ không yêu thương nuông chiều nó.
    ***
    Trong tất cả những câu chuyện về người mẹ, tôi thường gặp những bà mẹ hiền lành nhân hậu, chịu đựng và hy sinh. Đó là những mẫu người mẹ trong thế hệ trước. Tôi gặp hình ảnh đó ở bà tôi. Nhẫn nại, chịu đựng, bà đã nuôi năm đứa con thành tài khi một chữ cắn đôi bà cũng không biết. Nhìn bà rồi nhìn mẹ, tôi vẫn thường tự hỏi, mẹ có thể là con của bà sao ? Bà có thể sinh ra một đứa con như mẹ sao ? Hình ảnh về người mẹ ở mẹ tôi không hề giống bà tôi, không hề giống những mẫu ngư ời mẹ tôi thường đọc trong sách vở. Mẹ có một tấm hình chân dung rất đẹp khi mẹ còn rất trẻ, mặc áo thụng, đầu đội mão trong buổi lễ tốt nghiệp ra trường. Mắt mẹ sáng và thông minh, nụ cười tươi tắn. Mẹ khác hẳn bà, khác hẳn những người mẹ âm thầm, lặng lẽ trong những trang sách.
    Ba kể, mẹ học rất giỏi - cả đời mẹ chỉ biết học và nghiên cứu mà thôi. Bụng mang dạ chửa vẫn miệt mài trong phòng thí nghiệm. Sinh con chưa đầy năm đã thi đậu nghiên cứu sinh. Nhưng mẹ đã không đi học, ở nhà nuôi con đến năm tuổi, khuyến khích ba đi học trước rồi đến mẹ sau. Thế là từ đó, ba và mẹ cứ thay phiên nhau đi học, người ở lại thì vừa nuôi con, vừa nghiên cứu giảng dạy. Tuổi thơ của tôi hết khao khát gặp cha, lại khao khát chờ mẹ. Tôi từng phục bà tôi, nhưng khi bắt đầu hiểu biết, tôi lại phục mẹ tôi gấp bội. Khi tôi tròn năm, ba đã đi học nước ngoài, mỗi ngày mẹ chỉ ngủ bốn năm tiếng, phần thì giờ còn lại trong ngày mẹ hết lo cho tôi, lại soạn giáo án, lại lên lớp, lại vào phòng thí nghiệm, đêm về lại đọc sách đến khuya. Người mẹ gầy quắt vì ăn uống qua quýt, vì thức đêm. Rồi đến khi mẹ đi học thì cũng chẳng hơn gì, vì ở nước ngoài mẹ còn cực hơn gấp bội. Để rút ngắn thời gian học, mẹ phải học ngày học đêm, học gấp đôi người thường. Tôi đã từng hỏi mẹ, vì cái gì phải như thế, sao mẹ không chỉ làm một người phụ nữ bình thường, tận hưởng những niềm vui hạnh phúc của người vợ, người mẹ. Mẹ không trả lời, chỉ bảo rằng con sẽ tự tìm thấy câu trả lời ở chính con, trong tương lai sau này, khi con đủ trưởng thành để hiểu thế nào là ý nghĩa của cuộc đời.
    Ý nghĩa của cuộc đời ư ? Tôi vẫn miên man nghĩ về điều đó khi nằm cô đơn trong căn phòng trọ của mình. Ý nghĩa gì khi mẹ đã mất cả một gia đình. Điều đó chẳng ai muốn xảy ra - Mẹ trả lời - Có chăng là con người vốn rất yếu đuối, có khi lại không vượt qua được những thử thách của cuộc đời.
    Tôi tìm thấy mẹ trong phòng thí nghiệm hóa của trường. Mẹ đang chưng cất cái gì đó. Nhìn thấy mẹ, không hiểu sao tôi lại muốn trào nước mắt. Vì cái gì, vì ai, mà nước mắt lại rơi đây ? Mẹ tôi kéo tôi ngồi kế bên. Như niềm mơ ước tuổi thơ, tôi lại muốn mẹ ôm tôi vào lòng, nhưng tôi đã quá lớn để có thể nhận được điều đó, lại quá khô khan lạnh lùng khiến mẹ không thể đối với tôi như với một đứa bé lên năm như ngày xưa. Mẹ ngồi mãi như thế, không nói gì. Tôi biết mẹ chỉ cần thốt ra một lời là cả hai mẹ con đều khóc. Cố nén nghẹn ngào, tôi bảo:
    - Con không sao đâu, mẹ đừng gửi tiền cho con nữa. Con cần thời gian để quen với cuộc sống mới. Ngày mai con vào ký túc xá ở rồi. Khi nào ra trường con sẽ tự lo cho mình được.
    Tôi dúi tiền vào tay mẹ, đứng dậy bỏ đi. Tôi cảm nhận dòng nước mắt mặn chát đang chảy dài trên má tôi, và cũng cảm nhận nước mắt mẹ rơi sau lưng mình.
  8. Thinkahead

    Thinkahead Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/11/2003
    Bài viết:
    798
    Đã được thích:
    0

    Chân dung mẹ (II)
    Trương Thị Thanh Hiền
    Về phòng nằm, hình ảnh của ba, của mẹ, của chị Tôn Quyên lại hiện ra trước mắt tôi. Ngày ra tòa, tài sản của ba và mẹ không có gì để chia, ngoài căn nhà nhỏ ba để lại cho mẹ. Hơn hai mươi năm tận tụy với khoa học, những gì ba mẹ thu được không gì ngoài kiến thức và thật lạ kỳ, họ lại rất mãn nguyện với điều đó. Chỉ có chuyện gia đình tan vỡ là ngoài dự kiến. Tôi cho rằng đó là cái giá phải trả của mẹ. Mẹ đã chọn sự nghiệp, thì phải hy sinh gia đình. Mẹ lại không cho là như vậy. Mẹ bảo rằng, người ta có thể dung hòa được mọi thứ, nếu con người biết sống bằng tình yêu và sự cảm thông. Tôi hỏi ba. Ba nói đó là mẹ nói về ba. Hai cha con ngồi bên bờ sông Sài Gòn. Lâu lắm rồi tôi mới được ra đây. Khi còn bé, những đêm nhớ mẹ tôi cứ gào khóc, ba phải chở tôi trên chiếc xe đạp cọc cạch của mình đi khắp Sài Gòn. Ba chỉ cho tôi những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời, bảo đó là ánh mắt của mẹ đang nhìn tôi. Mẹ đang ở rất xa, nhưng lúc nào mẹ cũng đang ở bên tôi. Tôi lớn lên bằng những hoài vọng về một tương lai có cả cha lẫn mẹ. Mẹ đi, rồi mẹ về. Lúc mẹ ở nhà, thì mẹ cũng tất bật như con thoi với những nghiên cứu, những báo cáo khoa học, những bài giảng. Tôi là đứa con duy nhất của mẹ, một người mẹ tài năng của một thế hệ mới đầy những phụ nữ tài năng, nên tôi cũng phải biết hy sinh. Thế nhưng tôi cũng như ba, có lúc chạnh lòng, vì phải chia sẻ quá nhiều cho thiên hạ người mẹ yêu quý của tôi. Khi hai cha con ngồi bên bờ sông Sài Gòn, nhìn những ngôi sao lấp lánh, bỏ qua mọi buồn phiền của phiên tòa định mệnh, hai cha con lại thấy gần nhau hơn.
    Ba tôi đột nhiên trở nên yếu đuối hẳn, như đang cần ở tôi niềm an ủi cảm thông. Ông tâm sự:
    - Con đã lớn khôn rồi, nhưng chắc con cũng chưa đủ kinh nghiệm để hiểu được những éo le của cuộc đời. Con chỉ có thể hiểu được nỗi vắng mẹ như thế nào. Tâm trạng ba cũng như con vậy. Chỉ có điều ba không phải là đứa trẻ như con, có thể xoa dịu lòng bằng vài viên kẹo, bằng một ly kem. Khi ba cưới mẹ con, ba rất tự hào về mẹ. Tài năng, sắc đẹp và sự thông minh của mẹ làm cho ba rất hãnh diện. Cả ba cả mẹ đều phấn đấu cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình. Ba đ ;ã tạo điều kiện tốt nhất cho mẹ phát huy hết mọi năng lực, sẵn sàng chịu cảnh gà trống nuôi con cho mẹ yên tâm học tập. Nhưng con người ta cũng có lúc yếu lòng, cũng có lúc thèm một bàn tay chăm sóc, một buổi họp mặt gia đình vui vẻ, một sự thương yêu chiều chuộng.
    - Sao ba không nói với mẹ.
    - Mẹ cũng biết. Nhưng mẹ sẽ chọn lựa sao đây ? Mẹ không thể từ bỏ sự nghiệp, làm mai một chính bản thân mình vì sự ích kỷ của riêng ba. Xét cho cùng, khi mẹ ở nhà, như con đã thấy, mẹ dành thời gian cho riêng mẹ rất ít. Tất cả cho công việc, rồi cho cha con mình, nhiều khi từ trường về nhà rất xa mẹ cũng đạp xe về để nấu cho ba một tô canh chua ba ưa thích. Tiếc rằng, thời gian mẹ ở nhà quá ít. Cha con mình như những người đói khát quá lâu ngày, mỗi lần chỉ được cho ăn một chút nên cảm giác thiếu thốn thèm thuN 91;ng càng tăng lên.
    - Vì vậy mà ba đến với chị Tôn Quyên ?
    - Đó là sai lầm của ba đối với cả hai người, mẹ và chị ấy. Ba là người từng trải, hiểu biết, lẽ ra không nên để cho chị ấy đến chăm sóc cho cha con mình. Hai cha con đã vượt qua được những đoạn đường chông gai nhất, chỉ vì một phút yếu lòng của ba mà đến nông nỗi này.
    Ba úp mặt vào tay. Tôi biết tin ai ? Mẹ cũng bảo đây là lỗi của mẹ, chị Tôn Quyên cũng bảo là lỗi của chị ấy. Nhưng không ai dám quyết định một điều gì, chỉ trừ mẹ. Mẹ quyết định một cuộc ly hôn, vì mẹ không có tình yêu, hay vì mẹ có quá nhiều tình yêu với ba, với chị Tôn Quyên, một cô học trò xuất sắc nhất của ba và mẹ ? Hay vì mẹ muốn chuộc lại những sai lầm của mình với ba, muốn ba có một cuộc sống tốt đẹp hơn, toại nguyện hơn?
    Nhưng ba có một cuộc sống tốt đẹp hơn không, khi hằâng ngày ba vẫn ăn cơm hộp, khi ba và chị Tôn Quyên cũng chỉ gặp nhau vài giờ trong ngày, chỉ trừ khi đi ngủ; khi vào niên học sau chị Tôn Quyên lại phải đi học ở nước ngoài ?
    ***
    Nỗi khắc khoải nhớ mong lại đưa chân tôi về tìm mẹ. Tôi bước chân vào nhà, lòng quặn lên những cảm giác bồi hồi khó tả. Kia là gian bếp nhỏ, cả nhà quây quần cùng nấu ăn. Những bữa cơm đầm ấm đó rất hiếm hoi, nhưng nó cũng đủ sức xua đi băng giá của những tháng ngày xa cách. Xét cho cùng, vì công việc của mỗi người, vì cơn lốc thời đại cuốn phăng người ta theo sự tiến bộ của nó mà người ta có ít thời gian để dành cho gia đình, nhưng những thứ đó cũng không ngăn chúng tôi có những tiếng cười hạnh phúc khi bên nhau. Mẹ tôi là một nhà khoa học có tiếng, ra đường ai cũng nể trọng, nhưng khi về nhà, bà cũng dịu dàng đằm thắm như ngoại tôi ngày xưa. Những món ăn mẹ nấu không ngon lắm, nhưng cha con tôi đã tận hưởng chúng một cách thú vị như nuốt vào lòng tình thương của mẹ. Phòng khách vẫn đầy những sách. Bao nhiêu tiền có được mẹ đều mua sách. Sức đọc của mẹ thật là kinh khủng. Sức làm việc của mẹ thật cũng chẳng ai qua được. Tất cả đều do lòng đam mê của mẹ. Lẽ nào mẹ phải trả giá cho sự đam mê của mình, cũng là nỗi đam mê chân chính của biết bao người ?
    Hai mẹ con ăn cơm với nhau, một bữa ăn không có ba. Tôi đã trải qua nhiều bữa ăn như thế này, khi thì vắng mẹ, khi thì vắng ba, nhưng cảm giác hôm nay rất khác. Vĩnh viễn không bao giờ tôi được ngồi ăn cùng ba mẹ với niềm sở hữu thiêng liêng đây là ba của con, đây là mẹ của con, chúng mình là của nhau. Mắt mẹ cũng rưng rưng. Miếng cơm đắng nghét. Tôi bảo mẹ:
    - Mẹ có muốn xem tranh con vẽ về mẹ không ?
    - Con vẽ ư ?
    - Mẹ không tin con vẽ được sao ?
    - Sao lại không tin. Con người có thể làm mọi thứ mình muốn, trừ hạnh phúc.
    - Mẹ đừng nhắc đến hai từ ấy nữa - Tôi khó chịu - Con không muốn nhắc đến những chuyện đã qua, con không muốn nghe lời xưng tội của ai nữa. Con người có thể đạt được mọi thứ, cũng có thể có được cái này thì phải mất cái kia, có thể không được gì cả, như một trò may rủi. Con xem tấm hình mẹ chụp khi còn trẻ rất nhiều lần, cảm thấy nó như là một biểu tượng của sự thành đạt. Nhưng mặt sau của tấm chân dung đó là gì, là những tháng ngày vất vả của mẹ, sự hy sinh của ba, và c ó lẽ cũng có cả của con. Nụ cười của mẹ có được là nước mắt chảy vào tim, là...
    - Thôi, con đừng nói nữa.
    Mẹ bật khóc. Mẹ khóc cho nỗi niềm riêng của mẹ, cho những đau khổ riêng tư, nhưng tôi biết, ngày mai mẹ vẫn lên giảng đường với dáng vẻ ung dung, truyền hết mọi kiến thức khoa học lẫn niềm nhiệt huyết cho thế hệ sau, vẫn miệt mài bên những thí nghiệm mà quên hết mình đã mất mát những gì - tuổi trẻ, gia đình, con cái.
    Tôi đưa cho mẹ tấm chân dung tôi nguệch ngoạc vẽ. Gương mặt mẹ tôi bê nguyên si từ tấm hình sang, nhưng già đi rất nhiều. Mẹ đang bồng một đứa bé là tôi, tay kia cầm ống nghiệm, mắt đang dò trên sách tìm công thức. Chân dung của mẹ tôi ấy, là chân dung của cả một thế hệ phụ nữ sau khi được giải phóng để phát triển tài năng của mình. Có bao nhiêu nụ cười, bao nhiêu dòng nước mắt sau tấm chân dung ấy. Hôm rồi, khi thực tập tại phòng thí nghiệm, nhìn thấy chị Tôn Quyên đang cầm ống nghiệm làm phản ứng, tôi chợt liên tưởng đến mẹ, nên mới có ý tưởng vẽ tấm chân dung ấy. Vài ba năm nữa khi chị sinh em bé, thì có khác gì đâu. Chị là quá khứ của mẹ tôi. Mẹ tôi là tương lai của chị. Không biết hai mươi năm sau ba có còn đủ thời gian để cám cảnh cho mình.
    Chân trời khoa học đang mở ra trước mắt tôi. Chân trời tình yêu cũng sẽ mở ra trước mắt tôi. Tôi sẽ yêu ai đây ? Chắc hẳn cũng là một cô gái tân thời, tài năng như mẹ, như chị Tôn Quyên. Và tôi phải sống như thế nào hay lại phải loay hoay lựa chọn rồi lựa chọn...
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Adichie, Chimamanda Ngozi
    Sứ Quán Mỹ (I)
    Cô gái châu Phi đầu tiên đoạt giải O''Henry
    Năm nay 26 tuổi, Chimamanda Ngozi Adichie chào đời và lớn lên tại thành phố đại học Nsukka của Nigeria. Cô sang Mỹ học đại học chuyên ngành truyền thông và khoa học chính trị. Tốt nghiệp, Adichie lại chuyển qua viết văn. Nhiều truyện ngắn của cô được đăng trên các tạp chí Mỹ như Iowa Review, Pris International, Calyx, Wasafiri và Other Voices.
    Năm 2002, Adichie được chọn vào danh sách chung kết giải thưởng Cain. Cô cũng giành được giải thưởng truyện ngắn của Đài phát thanh Khối thịnh vượng chung và Đài BBC (Anh).
    Mùa thu năm 2003 tiểu thuyết đầu tay của Adichie có tựa Bông bụt đỏ tía được Nhà xuất bản Algonquin cho ra mắt bạn đọc. Hiện Adichie đang hoàn tất tiểu thuyết thứ hai của cô viết về cuộc nội chiến tại Nigeria.
    Adichie chia thời gian của cô giữa nước Mỹ và Nigeria, nhưng khi trả lời phỏng vấn của tờ Star Tribune ngày 17-10-2003, Adichie cho biết cô sẽ trở về hẳn nơi chôn nhau cắt rốn sau vài năm nữa.

    Nàng là người thứ 48 trong số khoảng 200 người nối đuôi nhau thành một vệt dài kéo lê từ những cánh cổng đóng chặt của sứ quán Mỹ vắt qua trước cánh cổng nhỏ hơn chạm trổ dây leo của sứ quán Czech. Nàng không để ý tới những người bán báo rong huýt sáo inh ỏi bên tai đồng thời dí vào mặt nàng những tờ Người Bảo Vệ, Nước Nigeria Mới, Người Tiên Phong.
    Nàng cũng không chú ý tới những kẻ hành khất đang chìa những chiếc đĩa tráng men năn nỉ, những chiếc xe đạp bán cà rem bóp kèn ầm ĩ. Khi người đàn ông đứng sau nàng chạm nhẹ vào lưng nàng và hỏi: ?oCô có tiền lẻ đổi không? Hai đồng 10 xu Mỹ lấy 20 naira? thì nàng mới giật mình. Nàng nhìn ông ta chòng chọc mất một lúc, để kịp tập trung đầu óc, để nhớ lại xem nàng đang ở đâu, trước khi nàng lắc đầu và đáp ?oKhông?.
    Bầu không khí quanh nàng nặng trĩu bởi cái nóng ẩm ướt, bởi những con ruồi kêu vù vù và những nỗi lo âu. Bầu không khí ấy đè nặng lên đầu nàng, khiến nàng khó giữ cho trí nhớ của nàng trống rỗng. Giữ cho ký ức trống rỗng tới mức tối đa là phương cách duy nhất giúp nàng giữ được sự minh mẫn - hôm qua bác sĩ Balogun nói với nàng như vậy. Bác sĩ từ chối không cho nàng thêm bất kỳ thuốc an thần nào vì nàng cần tới sự tỉnh táo trong cuộc phỏng vấn xin thị thực nhập cảnh.
    Giữ cho trí nhớ trống rỗng - dễ nói quá! Cứ như thể việc đó ở trong khả năng của nàng, như thể chính nàng đã rước vào đầu mình hình ảnh thân thể bụ bẫm của Nnamdi bị nát bấy, hình ảnh vết đỏ loang lổ trên ngực thằng bé - đỏ đến độ nàng suýt bật cười và bảo nó đừng có nghịch dầu cọ nàng cất trong bếp. Nhưng thằng bé không thể với tới cái giá nơi nàng cất những thứ dầu ăn và gia vị, nó cũng không thể vặn nắp cái chai nhựa đựng dầu cọ. Nnamdi mới lên ba tuổi.
    Người đàn ông phía sau khẽ chạm lưng nàng lần nữa. Giật mình quay người lại, nàng suýt nữa hét lên vì cơn đau buốt chạy dọc sống lưng. Cơ khớp bị trật, bác sĩ Balogun nói, vẻ mặt kinh hãi của ông khiến nàng hiểu rằng sau cú nhảy từ trên bancông xuống, đối với nàng chẳng có cái gì có thể gọi là nghiêm trọng.
    - Xem tên lính kia đang làm gì kìa - người đàn ông sau lưng nàng vừa nói vừa chỉ.
    Nàng chậm rãi xoay cả người để nhìn sang bên kia con phố. Một tên lính đang vung roi đánh một người đàn ông đeo kính, sợi roi da dài xoắn lại trong không khí trước khi quất xuống cơ thể người đàn ông nọ. Một đám đông nhỏ xúm xít. Ngọn roi đập vào mặt hay vào cổ người đàn ông - nàng không chắc vì ông ta giơ cả hai tay lên như để che chắn mình khỏi sợi roi. Nàng thấy cặp kính của ông ta tuột ra và rơi xuống đất. Nàng thấy gót chiếc giày ống của tên lính giận dữ nghiền nát cái gọng bằng nhựa, đôi tròng kính nhuộm màu trà.
    - Bọn lính này quen coi người ta như trâu ngựa còn chúng là những kẻ chăn dắt - người đàn ông phía sau nàng nói.
    Nàng biết ông ta đang tự hỏi có điều gì không ổn với nàng, tại sao nàng không bắt chuyện với ai trong hàng, tại sao nàng để mặc bầy ruồi bu lên mái tóc mà không thèm đuổi, tại sao hai tay nàng khư khư co trước ngực. Những người đứng xếp hàng ở đây trở nên thân tình với nhau nhờ những lời than thở về những chuyện khó chịu mà họ từng trải qua.
    Tất cả họ - dĩ nhiên là đối với những ai chợp mắt được - đều thức dậy vào lúc gần nửa đêm, đến sứ quán Mỹ thật sớm để tham gia vào cuộc vật lộn hòng giành chỗ trong hàng người xin thị thực. Bị dồn tới dồn lui hệt như bầy thú bướng bỉnh trước khi xếp thành hàng ngũ, họ cố tránh né những ngọn roi da của đám lính. Tất cả họ đều lo sợ rằng có thể hôm nay sứ quán Mỹ sẽ không mở cửa và họ sẽ phải làm lại mọi việc vào ngày mốt vì sứ quán Mỹ không mở cửa vào các ngày thứ tư.
    - Nhìn mặt ông ta kìa, bị roi cắt trông sợ quá - người đàn ông phía sau nàng nói.
    Nàng không nhìn vì nàng biết máu chắc chắn có màu đỏ tươi, giống màu dầu cọ mới ép. Thay vào đó, nàng ngước mắt nhìn những đám đông trên phố Eleke Crescent - một con phố ngoằn ngoèo như bao con phố khác trong khu Victoria Island sang trọng của Lagos, nơi các tòa nhà sứ quán với những bãi cỏ tươi tốt trong khuôn viên được xây thành hàng.
    Ngày hôm qua, nàng chôn con nàng trong nghĩa trang Ikoyi và cả ngày của nàng trôi qua trong sự bao bọc của những người bạn mà bây giờ nàng không nhớ nổi họ là những ai. Ngày hôm kia, giấu chồng trong cốp xe, nàng đánh chiếc Peugeot 504 đưa anh tới nhà một người bạn của anh nhờ ông bí mật đưa chồng nàng ra khỏi đất nước.
    Trước đó một ngày, cuộc sống của nàng diễn ra bình thường. Trong lúc lái xe từ trường tiểu học nơi nàng dạy về nhà, nàng khẽ hát theo một ca khúc của Majek Faskek đang được phát qua radio. Nếu một trong những lão thầy bói - cánh này hay gõ cửa các xe hơi đậu trên đường phố Lagos với hi vọng múa mép kiếm 10 naira - nói cho nàng biết rằng trong vòng hai ngày nữa nàng sẽ phải chạy trốn sang Mỹ thì nàng sẽ cười phá lên.
    - Xem người ta nài xin bọn lính kìa - người đàn ông đứng sau nàng lại lên tiếng - Dân ta đâm ra đã quá quen thói nài xin bọn chúng
    Nàng muốn ông ta im miệng lại. Những lời lẽ của ông ta khiến nàng càng khó giữ cho trí nhớ trống rỗng, thoát khỏi Nnamdi. Nàng nhìn qua bên kia phố lần nữa: tên lính đang bỏ đi nhưng thậm chí từ chỗ đang đứng nàng vẫn có thể nhìn thấy ánh mắt trừng trừng đầy trịch thượng trên mặt hắn - ánh mắt trừng trừng của một kẻ đã trưởng thành đủ khả năng, nếu hắn muốn, dùng roi đánh đập một người trưởng thành khác. Không biết nàng đang tưởng tượng hay đó chính là ánh mắt trừng trừng của một trong những kẻ cách nay hai đêm đã phá cửa sau xông vào nhà nàng?
    - Thằng chồng mày đâu? Nó đâu? - Chúng phá toang các tủ quần áo trong hai căn phòng, thậm chí lục soát các ngăn kéo. Lẽ ra lúc đó nàng nên nói với chúng rằng chồng nàng cao hơn mét tám nên anh không thể trốn trong ngăn kéo. Ba gã đàn ông đó mặc đồ đen. Người chúng bốc ra mùi rượu, mùi súp hồ tiêu. Sau này, khi ôm cơ thể cứng đờ của Nnamdi, nàng hiểu rằng trong đời nàng sẽ không bao giờ có thể nếm qua món súp hồ tiêu được nữa.
    - Chồng mày trốn đâu? Nó đâu? - Chúng dí súng vào đầu nàng, còn nàng đáp: ?oTôi không biết. Anh ấy mới đi hôm qua?. Nàng vẫn đứng yên, bất chấp dòng nước âm ấm chảy nhỏ giọt xuống theo hai ống chân nàng.
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Chimamanda Ngozi Adichie
    Sứ Quán Mỹ (II)​
    Một gã trong bọn chúng, cái gã đội mũ bêrê xanh lá cây và bốc mùi rượu sặc sụa nhất, có cặp mắt đỏ như lửa. Thét lác to mồm nhất bọn, hắn vung chân đá chiếc máy truyền hình, xé vụn đống giấy tờ để trên bàn - những bài kiểm tra của học trò mà nàng đang chấm điểm.
    - Mày biết bài báo thằng chồng mày viết chứ? Mày biết nó là thằng nói láo hay không? Mày có biết rằng những thằng như nó đáng phải ngồi tù vì chúng làm loạn, vì chúng không muốn nước Nigeria này tiến bộ?
    Hắn ngồi xuống chiếc ghế bành - chỗ chồng nàng thường ngồi xem chương trình tin tức buổi tối - rồi kéo nàng ngồi lên đùi hắn, tay hắn thộp lấy vú trái của nàng: ?oMột con đàn bà đẹp. Tại sao mày lại đi lấy một thằng phiến loạn??. Nàng kinh hãi vì bàn tay cứng ngắc của hắn. Ngửi mùi men chua chua trong hơi thở của hắn, nàng cố nín thở để khỏi ói mửa.
    - Để nó đấy - một gã khác có cái nốt ruồi trắng trên má trông như hột trái cây nói - Chúng ta đi thôi.
    Nàng đứng dậy khỏi chiếc ghế bành. Vẫn ngồi trên ghế, gã đội mũ bêrê xanh phát mạnh mông nàng. Nnamdi khóc ré lên và chạy về phía mẹ. Gã đàn ông vừa khua khẩu súng lục vừa cười nham nhở chê vú nàng nhão quá. Nnamdi thét thất thanh - chưa bao giờ Nnamdi thét thất thanh khi nó khóc, nó không phải là đứa trẻ như vậy. Rồi súng nổ và một vệt dầu cọ loang lổ xuất hiện trên ngực Nnamdi.
    - Cô nếm thử cam ở đây đi - người đàn ông đứng phía sau nàng nói và chìa bao nhựa đựng sáu trái cam đã lột vỏ mời nàng. Nàng không để ý ông ta mua chúng lúc nào.
    - Cảm ơn ông - nàng lắc đầu.
    - Cô cứ cầm lấy một trái, tôi thấy suốt buổi sáng nay cô chưa ăn gì.
    - Không, xin cảm ơn - nàng đáp và lắc đầu lần nữa. Cơn đau vẫn âm ỉ đâu đó, trong khoảng giữa hai mắt nàng. Làm như cú nhảy của nàng từ bancông xuống đã đánh bật cái gì đó trong đầu nàng ra khỏi vị trí của nó và bây giờ nó đang khua lách cách làm nàng đau đớn.
    Ba gã đàn ông mãi to tiếng cãi nhau cách che giấu sự thật, còn nàng vẫn cố tin, dù chỉ trong chốc lát, rằng tiếng nổ mới đây không phải là tiếng súng lục của gã đàn ông nọ. Có lẽ đó là tiếng sấm rì rầm thường xuất hiện vào đầu mùa gió Harmattan. Còn vết đỏ loang lổ thực ra là dầu cọ do Nnamdi, không biết bằng cách nào, đánh đổ lên ngực. Rồi những tiếng cãi cọ của ba gã đàn ông kéo nàng trở về thực tại, khiến nàng đứng chết lặng: Đây là một tai nạn. Ý mày là sao? Mày nghĩ con đàn bà đó sẽ nói với mọi người rằng đây là một tai nạn? Oga đâu có ra lệnh chúng ta làm việc này. Ôi, một thằng nhóc! Chúng ta sẽ phải khử con mẹ đó. Phải đấy. Đừng. Mụ sẽ kể ráo mọi chuyện, nhưng nếu chúng ta xử mụ, chẳng còn ai nữa mà kể. Không nên. Làm thôi.
    Nàng lao qua chiếc mùng khiến nó rách toang và chạy ra phía bancông. Trong nháy mắt nàng đã ở bên ngoài cánh cửa nàng mở từ trước để hứng lấy ít khí trời ban đêm. Một lúc lâu sau, nghe tiếng xe jeep rồ máy bỏ chạy, nàng lần theo cầu thang lên gác, người còn bốc mùi lá chuối thối rữa trong thùng rác mà nàng rơi lọt vào. Nàng ôm thân thể Nnamdi trong lòng, áp má nàng vào ***g ngực bất động của thằng bé. Nàng chợt nhận ra rằng chưa bao giờ nàng cảm thấy hổ thẹn đến thế. Nàng đã không bảo vệ được con mình.
    - Cô lo lắng về cuộc phỏng vấn hả? - người đàn ông đứng sau nàng hỏi.
    Nàng nhún vai, nhẹ thôi, để hai vai nàng không bị đau, và cố rặn một nụ cười trống rỗng.
    - Tôi cũng hồi hộp. Nhưng cô nhớ nhìn thẳng vào mắt người phỏng vấn khi người ấy hỏi cô. Thậm chí nếu cô có lỡ nói sai cũng đừng sửa lại, họ sẽ cho là cô nói dối. Tôi có nhiều người bạn bị họ từ chối cấp thị thực chỉ vì những lý do nhỏ nhặt.
    Nàng quay người, dời ánh mắt khỏi người đàn ông để tránh đôi mắt sốt sắng của ông ta, để tránh những lời nói có dụng ý giúp đỡ nhưng thật ra lại đang thiêu đốt nàng. Tiếng nói của ông ta giống hệt tiếng nói của những người đã ở bên nàng để giúp nàng chôn cất Nnamdi, y như giọng của những người đã chở nàng tới sứ quán, không khác gì giọng của những người đã giúp chồng nàng chạy trốn - những giọng nói quen thuộc của những người mà nàng không còn nhớ họ là ai.
    Nhớ nhìn vào mắt nhân viên cấp thị thực - những giọng nói đó từng khuyên nàng như vậy. Đừng ngập ngừng, hãy kể hết cho họ nghe mọi chuyện về Nnamdi, nhưng đừng nói quá lên, bởi vì ngày nào cũng có người bịa ra cái chết của những người thân không hề có trên đời hòng xin tị nạn. Hãy chứng tỏ Nnamdi là có thật. Nhớ khóc nhé. Cứ như thể người ta đang dạy nàng những qui tắc nói chuyện với Thượng đế vậy.
    - Cô nộp đơn xin nhập cư hay đi du lịch? - người đàn ông hỏi.
    - Xin tị nạn - nàng đáp nhưng không nhìn mặt ông ta. Tuy nhiên, nàng cảm nhận được sự ngạc nhiên của ông ta.
    - Tị nạn? Khó chứng minh đấy.
    Nàng tự hỏi ông ta có đọc tờ Nước Nigeria Mới hay không, ông ta có biết chồng nàng hay không. Bất cứ người nào ủng hộ báo chí dân chủ đều biết chồng nàng, biết anh dũng cảm ra sao, biết rằng bốn năm trước anh đã viết một bài báo về những kẻ vận chuyển cocain cho ?oThủ lĩnh quốc gia?. Những tên lính chở tất cả các bản in của số báo hôm đó đi trên một chiếc xe tải màu đen. Nhưng những bản sao chụp bằng một cách nào đó xuất hiện và lưu hành khắp Lagos, cuối cùng chúng được dán lên những bức tường, những cây cầu, cạnh những tấm apphích quảng cáo cho các cuộc lạc quyên của nhà thờ hay những bộ phim mới phát hành.
    Bọn lính giam giữ chồng nàng một tuần, đánh anh bằng báng súng toác da trán, tới bây giờ anh vẫn còn sẹo hình chữ L. Lúc đó nàng đã cấn thai, anh sợ nàng vì lo lắng mà để mất đứa bé nên anh ngưng viết báo và chấp nhận chân giảng viên tạm thời tại Đại học Lagos cho tới khi Nnamdi chào đời. Tuy vậy, thời kỳ đó nàng không quá lo lắng, kể cả khi bí thư Liên minh Dân chủ - một người quen của chồng nàng - bị bắn chết trong xe hơi của ông ta. Có cái gì đó ngoan cường toát ra từ chồng nàng, từ đôi vai vuông vức của anh, từ đôi mắt giễu cợt và cái miệng như đang mỉm cười.
    Thậm chí nàng cũng không lo lắng nhiều lắm về bài báo cuối cùng của anh trong đó liệt kê 45 cái tên của những người đã bị giết theo lệnh của ?oThủ lĩnh quốc gia?. Có lẽ chúng sẽ đóng cửa tờ báo. Có thể chúng sẽ nhốt anh ít ngày. Tất cả những cái đó sẽ qua đi. Người Nigeria sẽ làm như không biết gì về những vụ mất tích, về những người bị quăng xuống Đại Tây Dương, về những cái huyệt đào vội được rảy nước kiềm để xác người mau rữa.
    Nhưng chỉ một ngày sau khi báo ra, Đài BBC đưa bài báo vào chương trình thời sự và phỏng vấn một người Nigeria lưu vong. Vị giáo sư môn chính trị này nói chồng nàng xứng đáng được trao giải thưởng nhân quyền. ?oBằng ngòi bút ông ấy đấu tranh chống lại sự đàn áp. Ông ấy nói thay cho những người không nói được, ông cho cả thế giới biết sự thật ở Nigeria?. Những lời lẽ đó làm người nàng tràn ngập cảm giác xấu hổ đến tê cóng, khiến nàng giận dữ - hệt như khi người ta chỉ bảo nàng cách nói chuyện với Thượng đế ở trong sứ quán Mỹ.
    Chồng nàng cố giấu nàng nỗi lo sợ của anh khi thấy bài báo gây to chuyện. Nhưng tối đó, sau một cú điện thoại nặc danh được gọi tới, anh không nén nổi sự sợ hãi và để mặc cho nàng thấy hai tay anh run rẩy. ?oThủ lĩnh quốc gia? nổi cơn giận dữ, người gọi điện nói với anh như vậy. Bọn lính đang trên đường tới bắt anh. Theo lời của người này, đây có thể là lần cuối cùng anh bị bắt giam, anh sẽ không bao giờ được trở về nhà.
    Chỉ vài phút sau cú điện thoại, chồng nàng trèo vào trong cốp xe hơi, nhằm mục đích để những người gác cổng có thể thật thà khai báo, nếu họ bị tra hỏi, rằng họ không biết chồng nàng trốn đi vào lúc nào. Mặc chồng thúc hối, nàng tranh thủ rảy nước vào cốp xe, không hiểu sao nhưng nàng cho rằng như thế sẽ mát hơn, anh sẽ dễ thở hơn. Nàng lái xe đưa chồng tới nhà của vị đồng chủ bút tờ báo nơi anh làm việc.
    Ngày hôm sau, từ Togo anh gọi điện về cho nàng. Vị đồng chủ bút kia có những người quen và họ đã bí mật đưa anh trốn qua biên giới. Thị thực nhập cảnh vào Mỹ của anh vẫn còn hiệu lực. Nàng dặn anh đừng lo lắng, nàng và Nnamdi sẽ ổn, nàng sẽ xin thị thực khi học kỳ kết thúc, chỉ còn ba tuần nữa thôi họ sẽ đoàn tụ với nhau ở nước Mỹ.
    Đêm đó Nnamdi bồn chồn không ngủ được và nàng để mặc nó thức chơi với những chiếc xe hơi đồ chơi trong lúc nàng ngồi bên bàn ăn sửa bài tập của học trò. Khi ba gã đàn ông xông vào nhà qua cửa bếp, nàng đâm hối tiếc là đã không ép Nnamdi đi ngủ.
    - Khối người nộp đơn xin thị thực nhập cảnh nhưng không được - người đàn ông đứng sau nàng nói. Hình như ông ta nói không nghỉ từ nãy tới giờ.
    - Ông có đọc báo Nước Nigeria Mới không?
    - Có. Sao, cô muốn mua báo à? Những người bán rong có lẽ còn báo đấy.
    - Không. Tôi chỉ hỏi thế thôi.
    - Tờ báo cô vừa nhắc tới đọc được lắm. Hai vị chủ bút là những người nước Nigeria chúng ta đang cần. Họ mạo hiểm mạng sống của mình để hằng tuần nói cho chúng ta biết sự thật. Những người dũng cảm!
    - Như thế gọi là dũng cảm? - nàng quay cả người lại để nhìn vào mắt ông ta.
    - Tất nhiên. Đâu có phải bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể làm được chuyện đó.
    Người đàn ông nhìn nàng một lúc lâu bằng ánh mắt thẳng thắn và ngờ vực. Dường như ông ta đang ự hỏi không biết nàng có phải là người biện hộ cho chính phủ, là một trong những người chỉ trích phong trào đòi dân chủ, là người khăng khăng cho rằng ở Nigeria chỉ có chế độ quân sự mới có thể làm việc hữu hiệu.
    Nàng quay mặt đi. Cơ ở lưng nàng co giật, mồ hôi đọng lại dưới vú nàng thành những vũng nhỏ. Ông ta đâu biết nàng không phải là người biện hộ cho chính phủ, cũng không phải là người ủng hộ dân chủ. Nàng chẳng là cái gì hết, mặc dù không phải lúc nào nàng cũng như vậy. Nàng đã từng là một phụ nữ khao khát có đứa con, đã từng gặp hàng lô bác sĩ trị vô sinh để xin thăm khám, đã từng mừng rỡ phát điên khi nghe rằng nàng có thể sẽ có một cơ hội: một đứa con.

Chia sẻ trang này