1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn hay nhất (Mới: Trò chơi mới-Asimov, Isaac)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 25/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Milan Kundera
    Sẽ không ai cười (VI)​
    13
    ?oBây giờ thì em không còn phải lo gì nữa?, tôi nói với Klara ở Quán rượu Dalmatie, sau khi đã kể cho nàng nghe cuộc trò chuyện vời bà Zaturecky.
    - Tôi không hiểu tại sao tôi lại phải lo lắng, - Klara trả lời với sự chắc chắn làm tôi ngạc nhiên.
    - Sao cơ? Nếu không phải là vì em, sẽ không bao giờ anh gặp bà Zaturecky hết!
    - Anh gặp bà ấy là việc tốt, bởi vì anh đã gây ra điều rất xấu cho họ! Tiến sĩ Kalousek nói rằng một người bình thường khó mà hiểu được chuyện ấy.
    - Em gặp Kalousek lúc nào?
    - Tôi đã gặp ông ấy, - Klara nói.
    - Và em đã kể tất cả cho ông ta?
    - Thế thì sao nào? Đó là bí mật chắc? Bây giờ thì tôi biết rõ anh là người thế nào rồi.
    - Thế à?
    - Anh muốn tôi nói không?
    - Em nói đi.
    - Anh là một kẻ vô sỉ điển hình.
    - Kalousek nói với em thế à?
    - Tại sao lại Kalousek? Anh không nghĩ là tôi có thể tự hiểu ra điều đó à? Anh tưởng là tôi không thể nhìn thấu trò chơi của anh à? Anh thích chơi xấu người khác. Anh đã hứa viết một bài tóm tắt cho ông Zaturecky?
    - Anh chưa bao giờ hứa viết bài tóm tắt cả?
    - Còn với tôi, anh hứa một chỗ làm. Anh đã sử dụng tôi để chống lại ông Zaturecky và dùng ông Zaturecky để chống lại tôi. Nhưng nếu anh muốn biết, thì tự tôi sẽ kiếm được chỗ làm đó.
    - Nhờ Kalousek à? - tôi cố tỏ ra châm biếm.
    - Tất nhiên là không nhờ anh! Anh thất bại ở mọi mặt trận rồi, thậm chí anh còn không thể biết tình hình tệ đến mức nào đâu.
    - Còn em thì biết à?
    - Phải, hợp đồng của anh sẽ không được gia hạn và anh sẽ thấy là hạnh phúc lắm nếu người ta nhận anh vào làm trong một galerie tỉnh lẻ. Nhưng anh phải hiểu là mọi điều xảy ra là do lỗi của anh. Nếu tôi muốn cho anh một lời khuyên, thì trong tương lai, anh nên chân thành hơn và đừng nói dối nữa, bởi vì phụ nữ không thể nào coi trọng một người đàn ông nói dối.
    Nàng đứng dậy, chìa tay cho tôi (rõ ràng là lần cuối), quay lưng về phía tôi và đi.
    Tôi phải mất một lúc mới hiểu rằng câu chuyện của tôi (cho dù im lặng băng giá đang vây quanh tôi) không thuộc loại bi kịch, mà đúng hơn là hài kịch.
    Điều đó khiến tôi cảm thấy được an ủi một chút.

    Dịch giả: Cao Việt Dũng
    Nguồn: Việt Nam thư quán


  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phan Văn Minh​
    Bản hợp xướng mùa đông​
    Bạn bè trường huyện ở vùng cát xứ Quảng ngày xưa ra đi bây giờ rất thành danh. Có người là tổng biên tập một tờ báo lớn, có người là nhà văn nổi tiếng... Riêng Phan Văn Minh vẫn ở lại vùng quê theo nghiệp gõ đầu trẻ và sáng tác nhạc. Phan Văn Minh có nhiều bài hát hay cho thiếu nhi và quê hương. Tác giả bài hát Cả nhà thương nhau này còn viết truyện ngắn và làm thơ. Nhiều truyện ngắn của anh được chọn in trong những tuyển tập lớn.
    Ông Cẩm thức dậy vào khoảng bốn giờ chiều một ngày tháng chạp ảm đạm, khi cơn gió bấc đã bắt đầu lay mạnh các cánh cửa mục rệu quanh nhà. Những tấm tôn trên mái hiên rung lên bần bật và cứa vào nhau làm cho cơn hen suyễn của bà Cẩm đến sớm hơn mọi ngày.
    Bà nằm co quắp bất động trên chiếc chõng tre, cổ họng phát ra tiếng khò khè nhịp nhàng. Có thể những âm thanh đó đã đánh thức ông Cẩm nhưng cũng có thể là do giấc chiêm bao. Ông mơ bà Cẩm đẻ ra một thằng bé chân tay dài ngoẵng. Vừa lọt lòng nó đã cười lên the thé mà gọi tên ông. Thế rồi nó ngồi đè lên ngực ông. Hai bàn tay đỏ hỏn cạy mồm và bẻ gãy của ông hai chiếc răng cửa. Khi giật mình tỉnh dậy thì hai chiếc răng còn nằm trong miệng làm ông chua xót nghĩ đến nhiệm vụ tối nay phải hát trong dàn hợp xướng ở quảng trường lớn. Gần một tháng rồi người ta ráo riết chuẩn bị cho các hoạt động kỷ niệm ngày lễ trọng đại của đất nước, trong đó có việc tổ chức một đêm văn nghệ ngoài trời không doanh thu. Có người nảy ra sáng kiến dàn dựng một tiết mục hợp xướng gồm các cựu chiến binh trong ba thời kỳ giữ nước. Và người ta chợt nhớ tới ông Cẩm qua những huyền thoại về chiến dịch Thu -Đông hồi kháng chiến chín năm. Thời đó ông làm đội trưởng đội văn công trung đoàn. Trong một đêm chuẩn bị tập kích đồn Tây ông được lệnh tổ chức biểu diễn văn nghệ trước giờ xuất quân. Dưới ánh trăng thượng tuần huyền ảo giữa rừng biên giới, đội văn công của ông đã làm cho toàn trung đoàn nổi sần da gà vì xúc động. Và buổi văn nghệ dã chiến đã kết thúc bằng một bản hợp xướng hết sức bi tráng đến nỗi ngay sau đó tất cả chiến sĩ đã rùng rùng đứng lên lao vào trận đánh giáp lá cà không một chút do dự. Trong trận đó âm vang của bài hát đã tràn lên trước cả súng đạn và thân người. Nhiều tù binh Pháp sau này đã ghi trong hồi ký rằng chính nó ?" một bài hát quỷ quái gì đó dường như đã biến mỗi người lính ********* thành một cục lửa. Họ vừa thét vừa hát đến vỡ ***g ngực và lăn xả vào tầm hỏa lực của đối phương khiến tất cả lính đồn đều phải bó tay. Nhưng ông Cẩm thì bị mìn cưa cụt bàn chân phải. Bù lại ông được một y tá từng say mê giọng hát của ông cõng về trạm quân y hậu tuyến để rồi sau này cô trở thành bà Cẩm. Họ đã yêu nhau hết sức nồng thắm nơi góc vườn ngoại ô thành phố này suốt bốn mươi năm trong nỗi quạnh hiu của một cặp vợ chồng không con.
    Thật ra bà Cẩm cũng đã mang thai vài lần nhưng đều đẻ non. Hậu quả là bị thêm chứng cục máu nhà con hành hạ lúc về già. Thỉnh thoảng trong cơn hen suyễn, nó chạy từ bụng dưới lên chặn trong ngực làm bà ngất đi vì khó thở. Những lần như thế ông Cẩm lại vuốt ngực bà với một tình âu yếm của thời xa xưa. Dường như ông đã dành nửa cuộc đời để chăm sóc người vợ bệnh hoạn và những chậu kiểng còi cọc trong khoảnh vườn hình tam giác của mình. Khoảnh vườn đó là miếng thừa thẹo còn sót lại từ gia tài của tổ tiên ông sau những giằng xé của chung và của riêng, của kẻ sống và người chết. Trải qua bao cuộc vật đổi sao dời, vợ chồng ông đã sống bám vào đó như bám vào manh chiếu rách giữa chợ đời. Lẽ ra ông đã thu nhập khá hơn nếu trồng hoa huệ, hoa hồng để bán vào các ngày chủ nhật, vạn thọ và mẫu đơn cho những ngày rằm và mùng một. Nhưng ông lại bỏ công ra uốn những cây duối và chè tàu thành nai thành hạc, đẽo gọt những gốc tre khô thành rồng thành phượng. Những của ấy mỗi năm chỉ có thể bán một lần vào dịp Tết. Còn những ngày thường thì năm khi mười họa mới có một gã khùng điên nào đó đến mua của ông vài chậu với giá rẻ mạt. Cho nên vợ chồng ông quanh năm sống lặng lẽ như hai cái bóng mờ nhạt giữa ba bờ rào cây dại đan kín mít, chẳng được và chẳng bị ai quấy rầy.
    Nhưng đột nhiên người ta cần đến ông cũng như cần nghe lại bản hợp xướng của mùa đông xa xưa. Ông được phân công phụ trách phần bè cao và các đoạn lĩnh xướng. Bởi vậy khi lom khom trong bếp đun cháo cho bà Cẩm ông đã nhẩm đi nhẩm lại bài hát ấy nhiều lần. Và cũng rất nhiều lần ông phải cầu cứu đến bà Cẩm ở những câu đã chìm khuất trong trí nhớ mệt mỏi. Bà vợ đã nhắc ông rất chuẩn xác trong tiếng thở khò khè. Sau đó, ông lôi từ đáy rương ra một bộ quân phục đã bạc phếch, một đôi giày bố, một chiếc mũ sĩ quan và hai tấm huân chương chiến công. Sau bốn mươi năm, những kỷ vật ấy bây giờ vẫn còn phả vào mũi một thứ mùi làm trái tim già nua của ông đập mạnh. Ông nai nịt tất cả vào. Chúng chạm vào da thịt làm các khớp xương, các cơ bắp của ông rung chuyển. Máu lại chảy rần rần trong huyết quản. Ông ước ao có một tấm gương, ông không nhớ lần cuối cùng mình soi gương vào dịp nào nhưng ông đang có một tấm gương trung thực nhất, đó là bà Cẩm. Ông đến trước mặt bà, hát lại bài hát từ đầu đến cuối trong tư thế biểu diễn. Bà nhìn ông mỉm cười, hai hàng nước mắt chảy dài làm ông thấy lại cái đêm bà đứng bên đống lửa nhìn ông, đôi mắt long lanh.
    Cuối cùng, ông đặt tay lên ngực bà và hỏi:
    - Bà thấy trong người thế nào?
    Bà Cẩm thều thào trong cơn suyễn. Khí quản của bà như có vạc dầu đang sôi:
    - Khỏe... Hơn mọi hôm. Ông... đi... đi kẻo muộn!
    Ông Cẩm sờ bụng vợ và thấy cục máu nhà con đang nằm ngang chớn thủy. Giọng ông thoáng chút lo âu:
    - Liệu hôm nay nó có chạy lên không?
    - Không... hề gì. Tôi sẽ... tự đẩy nó xuống.
    Bà Cẩm khẽ cựa mình, lôi từ dưới gối ra một chiếc áo capốt cũ mèm dùng làm cả áo mưa lẫn áo rét. Ông Cẩm ngần ngại hỏi bà:
    - Bà không để mà đắp sao?
    - Thôi... Tôi không thấy lạnh. Ông mang theo phòng... mưa ướt.
    Ông Cẩm đặt bát cháo lên đầu giường rồi tập tễnh bước ra khỏi nhà trong lúc cơn gió bấc đang chuyển giật, trời lất phất mưa bay. Ông run run lội qua những ngõ hẻm quanh co đầy bùn nước và xiêu vẹo băng ra con đường lớn. Nhà hai bên phố đã đóng cửa im lìm. Hình như có tin một cơn bão đang tiến vào từ phía biển. Thỉnh thoảng một cái đầu ló ra khỏi cửa, lộ vẻ ngạc nhiên nhìn người thương binh đang độc hành giữa phố. Còn ông Cẩm thì ngạc nhiên rằng sao người ta lại sợ gió mưa đến thế. Ông ngẩng đầu nhìn thẳng lên bầu trời mờ đục, miệng nhẩm lại bài hát theo nhịp quân hành. Ông còn định huýt sáo thật vang nhưng hai chiếc răng gãy đã làm ông bực mình.
    Một giờ sau ông Cẩm đã đứng trên sân khấu lộ thiên cùng dàn hợp xướng. Mặc dầu trời đang mưa gió làm lượng khán giả không đông như dự kiến nhưng tất cả những khách mời đều đã ngồi kín hai hàng ghế đầu. Ban nhạc chơi dạo một bản disco rồi chuyển sang bài hợp xướng. Bốn chục cựu chiến binh bước đều ra giữa sân khấu trong tiếng kèn đồng trống phách và tiếng vỗ tay vang dội. Người ta nhận ra trong số đó có bác thợ giày, anh Lương phó cạo. Một vài người già vừa nghỉ hưu. Chỉ có một ít không già không trẻ là vẫn thấy ngồi sau các bàn giấy. Không biết có bao nhiêu người nhận ra ông Cẩm nhưng đêm đó ông đã hát say sưa hơn cả. Ông đặt sát miệng vào micro nên giọng ông đi riêng một phần bè. Ngọn gió bấc quần thảo trong quảng trường làm các bóng đèn nhấp nháy liên hồi. Ông Cẩm có cảm giác như đang đứng giữa núi rừng biên giới trước ánh lửa bập bùng. Trong chớp sáng của hồi ức, ông sống lại nguyên vẹn cái đêm hùng tráng của bốn mươi năm trước. Và ông thét to lên ở đoạn cao trào bất chấp cả nhịp phách, mặc cho giai điệu đôi lúc bị chệch khá nhiều do hai chiếc răng cửa vừa rụng. Cho nên ba mươi chín người còn lại cố sức đuổi theo ông mà không kịp. Bởi mỗi người đều muốn tỏ ra không thua kém, bằng một cách diễn xuất riêng, nên bản hợp xướng đã trở nên đặc sắc lạ thường. Những vị khán giả ngồi ở hàng ghế đầu bị kích động cao độ. Họ vung tay cùng hát với diễn viên. Sau đó, ông Cẩm đã một mình đi vào lĩnh xướng như một người hùng một mình xông pha giữa trận mạc. Mặc cho mưa gió hắt vào người, ông đã dùng tất cả hơi sức còn lại để diễn tả quang cảnh chiến trường sau trận đánh đẫm máu. Ông xúc động đến mức nước mắt ứa ra hòa với nước mắt của đất trời. Trong giây phút, ông tưởng như mình đang độc thoại về Tổ quốc, về đồng đội và chính cuộc đời mình.
    Ông Cẩm sẽ còn hát mãi không biết đến bao giờ nếu đèn điện không bị cúp đột ngột. Một ngọn gió đã giật phăng phông màn, hất đổ cả đàn trống. Trong lúc đứng chờ được hát tiếp, ông đã không nghe thấy tiếng mọi người nhốn nháo bỏ chạy trên sân khấu và khắp cả quảng trường. Ông vẫn giậm chân giữ nhịp cho đến khi cơn mưa ập xuống như thác đổ và gió xô ông ngã ngồi trên sân khấu. Không có bàn tay nào đỡ ông. Rồi trong lúc đi tìm chiếc áo capốt ông chợt nghĩ tới bà Cẩm. Ông sờ lên chỗ hai chiếc răng cửa vừa rụng và nghĩ đến giấc chiêm bao ban chiều.
    Chợ tết năm đó ông Cẩm không còn gì để mang đi bán. Cơn bão đã bẻ gãy cẳng tất cả tai và hạc, đã vặt trụi râu cánh tất cả rồng và phượng. Chính nó cũng góp phần làm cho bà Cẩm vĩnh biệt ông ngay đêm ấy không một lời trăng trối. Ông đã khóc suốt mùa đông bên mộ người vợ yêu dấu cho đến khi nhận ra nước mắt đã khô mà nguồn sống đã cạn kiệt. Ông còn một chậu bạch mai may mắn thoát khỏi cơn bão nhờ không còn lá. Đó là cây kiểng đã sống hơn nửa thế kỷ nên tiểu sử của nó phải kể mất nhiều trang giấy. Nó vô giá ở dáng cổ thụ lùn tịt, có đủ hang bộng cho các loại bò sát và thân đốt. Nó càng quý hiếm ở chỗ mỗi năm chỉ cho ra đời năm bảy nụ hoa trắng lơ thơ. Ông Cẩm tự hào về nó bao nhiêu thì nay cũng đoạn trường bấy nhiêu khi đem gạ bán cho một tay thương gia giàu sụ. Hắn đã hẹn sẽ đến với một số tiền đủ cho ông sống hết quãng đời còn lại.
    Cả ngày cuối năm ông ngồi ngắm những cành nhánh cỗi cằn như ngắm nỗi cô đơn của mình và hy vọng của ông về người khách sẽ đến cũng mong manh như những nụ hoa trước ngọn bắc phong rét buốt.

  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Graham Greene
    Phim tục​
    Graham Greene (1904- 1991- Vương quốc Anh)
    là tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Người Mỹ trầm lặng" được mệnh danh là một trong những nhà văn Anh quan trọng nhất của thế kỷ XX. Kho tàng văn chương đồ sộ của cựu sinh viên Oxford này - gồm 26 tiểu thuyết và rất nhiều truyện ngắn - được người bản ngữ xếp vào loại khá khó đọc, chứa đựng tính hài hước, lòng thương hại và thù giận, sự phản bội và kiếm tìm. Truyện ngắn dưới đây ra đời đúng nửa thế kỷ trước, được kết cấu chủ yếu bằng các lời thoại với lối hành văn điển hình của ông: vừa hài, vừa bi, vừa buồn, vừa đầy kịch tính bất ngờ.

    Ông xem, thiên hạ người ta đang tận hưởng cuộc sống!".-bà Carter lên tiếng. "Ừ thì - ông chồng đáp - mình cũng đã xem ...". "Tượng Phật nằm, rồi tượng Phật ngọc bích, lại những chợ nổi nữa... Rồi mình đi ăn tối và sau đó về ngủ". "Tối qua mình cũng đã đến Chez Eve...". "Nếu không đi cùng tôi - bà Carter sẵng giọng - hẳn ông đã mò tới... ông biết tôi định nói gì rồi đó... "Khu ăn chơi".
    Đúng thế, ông Carter thầm nghĩ, đánh mắt nhìn vợ khi hai người đang ngồi nhâm nhi càphê. Chùm vòng kiểu nô lệ của bà kêu leng keng cộng hưởng cùng nhạc điệu chiếc thìa bà dùng khoắng càphê. Bà đã tới độ tuổi nhan sắc của một người đàn bà viên mãn nở rộ nhất, dù đâu đó đã xuất hiện những vết hằn đầy bất mãn. Khi nhìn tới phần cổ, ông bất giác chợt hiểu nỗi khổ của chuyện chăn gối cùng một ả gà tây. Đó là lỗi của mình chăng, ông tự hỏi, hay của chính bà ấy - hay lỗi của tạo hoá khi sinh ra bà, của chứng thiểu năng tuyến, của đặc điểm di truyền? Thật tiếc, lúc còn trẻ, con người ta cứ hay lầm lẫn những dấu hiệu thiếu gợi cảm là những nét độc đáo.
    "Ông hứa là mình sẽ hút á phiện cơ mà!". - bà Carter nhắc. "Ồ, bà ơi, nhưng không phải ở chỗ này, trên đất Sài Gòn. ở đây, hút sách được gọi là "tệ nạn" đấy". "Ông mà cũng gia giáo thế kia a". "Đấy thực ra chỉ là những khu lao động dơ dáy nhất. Bà sẽ bị chú ý. Dân họ sẽ nhìn vào bà chằm chằm cho mà xem. Lại còn đầy gián nữa chứ". "Người ta sẽ đưa tôi tới khối khu ăn chơi nếu tôi không đi với chồng".
    Ông cố gắng gợi ra, những cô gái Nhật thoát y vũ..., nhưng toàn là thứ bà đã biết rồi. "Mấy mụ xấu xí mặc đồ lót chứ gì" - bà thủng thẳng. Cơn bực tức của ông trào dâng. ông nghĩ tới khoản tiền phải bỏ ra để đưa bà cùng đi và cũng để tạ lỗi với lương tâm - ông thường xuyên xa nhà một mình nhưng quả là không có cuộc đồng hành nào tẻ nhạt bằng việc phải đi cùng người phụ nữ mình không thích. ông cố gắng nhấm nháp ly càphê một cách điềm tĩnh - thực lòng, ông muốn cắn vỡ cái miệng tách.
    "ông để càphê hỏng mất rồi". - bà Carter nhắc. "Tôi xin lỗi - ông đứng bật dậy và nói - Thôi được.
    Tôi sẽ làm cái gì đó để chuộc lỗi. Bà cứ chờ ở đây nhé - ông vươn cả người qua chiếc bàn - Bà đừng có mà choáng đấy. Chính bà muốn thế mà". "Xem ra thường thì người choáng không phải là tôi" - bà Carter bốp chát bằng nụ cười nhạt.
    Ông Carter rời khách sạn, rảo bước về phía Tân Đại Lộ. Một thằng bé nhũng nhẵng quanh ông và hỏi: "Muốn gái trẻ không?". "Tôi đã có người đàn bà của mình rồi". - ông Carter trả lời bằng giọng thiểu não. "Thế muốn con trai không?". "ồ không, cảm ơn!". "Hay xem phim Pháp nhé?". Ông Carter dừng lại: "Giá bao nhiêu?".
    Cả hai đứng ngã giá một lúc trong góc phố tối om. Chuyện taxi đưa đón, chuyện mối lái dẫn dắt, chuyện phim, tất cả vị chi tới tám bảng, nhưng ông thầm nghĩ thế cũng đáng nếu như có thể làm cho bà ngậm miệng hẳn, không đòi khu ăn chơi nữa. Ông quay lại đón bà Carter.
    Họ phải đi một chặng khá xa rồi dừng bên chiếc cầu bắc ngang con kênh, một dải nước xú uế nồng nặc những thứ mùi rất khó tả. Thằng nhỏ mối nói: "Cứ đi theo tôi". Bà Carter đặt bàn tay lên cánh tay chồng, hỏi: "Liệu có an toàn không?". "Làm sao tôi biết được" - ông đáp, gồng mình lên dưới bàn tay bà.
    Tất cả cùng bước qua gần năm mươi mét đường không đèn đóm rồi dừng lại bên hàng rào nứa. Thằng mối gõ cửa mấy lần. Cửa mở, trước tiên họ đi vào cái sân đất hẹp, rồi tới một túp lều gỗ. Một cái gì đó - hình như là người - nhô mình lên trong bóng tối của chiếc mùng. Người chủ đưa họ vào căn phòng nhỏ ngột ngạt chỉ có hai cái ghế và bức chân dung Đức Vua. Màn hình to khoảng bằng cỡ tập bản thảo.
    Phim đầu tẻ nhạt vô cùng, kể về một ông già chơi trống bỏi trong vòng tay hai cô gái mátxa tóc vàng. Cứ nhìn vào kiểu tóc của mấy người đàn bà thì có thể đoán chừng bộ phim được quay vào cuối thập niên hai mươi. Vợ chồng Carter ngồi nhìn nhau bối rối trong khi bộ phim quay nhanh rồi dừng hẳn.
    "Chẳng hay lắm" - ông nhận xét, ra vẻ như mình là tay chơi sành điệu. "Ra đó là cái thể loại họ vẫn gọi là phim *** - bà nói- Bậy bạ mà cũng chẳng hay hớm gì".
    Phim thứ hai bắt đầu. Bộ phim này rất ít cốt chuyện. Một chàng trai - không thể coi rõ mặt vì chiếc mũ mềm của thời đó lấp mất - lựa một cô gái trên hè phố (chiếc mũ kiểu cloche (1) che khuất cô như miếng vải phủ thịt) rồi đi cùng cô về phòng. Cả hai diễn viên đều còn trẻ: trên phim lộ rõ dáng vẻ hấp dẫn và sự phấn khích của họ. Ông Carter chợt nghĩ, khi cô gái bỏ mũ ra, rằng mình có quen khuôn mặt ấy, và thế là hồi ức đã chôn vùi hơn một phần tư thế kỷ lại dội về. Con búpbê nằm vắt ngang chiếc điện thoại, cô gái làm mẫu chụp ảnh của thời đó nằm vắt ngang chiếc giường đôi. Cô gái cởi quần áo rồi gấp rất gọn gàng. Cô cúi xuống chỉnh lại giường, đưa người hướng về phía ống kính và về phía chàng trai. Anh chàng thì cứ quay đầu tránh máy quay. Sau đó, cô gái giúp anh tháo bỏ quần áo. Chỉ đến lúc này, ông mới nhớ lại hết cảnh chơi bời đặc biệt đó do dấu tích khẳng định của vết chàm trên vai chàng trai.
    Bà Carter cựa quậy trên ghế. "Tôi chẳng hiểu làm thế nào họ kiếm được bọn diễn viên này nhỉ" - bà thốt ra đầy vẻ khó chịu. "Một cô gái làm tiền - ông đáp - Phim này hơi thô nhỉ? Bà có muốn về không? - ông giục bà, chờ cho chàng trai quay đầu lại. Cô gái quỳ trên giường và ôm ngang thắt lưng chàng trai - trông cô không quá hai mươi tuổi. ồ không phải, chính xác là hai mươi mốt". "Mình cứ ở lại đi - bà Carter quả quyết - đã trả tiền rồi mà" - Bà đặt bàn tay nóng và khô lên đầu gối ông. "Tôi tin chắc là mình có thể kiếm được chỗ khác hay hơn thế này". "Tôi không đi đâu hết!".
    Trong phim, chàng trai nằm ngả mình ra và cô gái bỏ đi đâu một lát. Thoáng chốc, dường như vô tình, anh nhìn vào ống kính. Tay bà Carter run lên trên đầu gối chồng. "Trời đất! - bà kêu lên - là ông à?". "Đó chính là tôi hồi đó - ông thú nhận - ba mươi năm trước".
    Trên màn hình, cô gái lại trèo lên giường.
    "Kinh tởm thế" - bà Carter đáp lời. "Tôi thì nhớ đó không phải là chuyện kinh tởm". "Tôi thấy cả hai làm trò và nhìn nhau hau háu còn gì". "Không phải, tôi không hề thấy thế". "Sao ông lại làm việc này? Tôi không thể nào nhìn ông được nữa. Xấu hổ chết đi được". "Tôi đã bảo bà đi chỗ khác rồi còn gì". "Họ có trả tiền cho ông không?". "Chỉ trả cô ấy thôi. Được năm mươi bảng. Lúc đó, cô ấy đang rất cần tiền". "Còn ông thì được vui vẻ mà không cần nhận gì chứ?". "Đúng vậy". "Tôi mà biết chuyện này thì không đời nào tôi thèm lấy ông. Không đời nào!". "Chuyện lâu rồi mà". "ông vẫn chưa chịu giải thích lý do. Liệu ông có cách nào biện minh không?" - bà chặn lời. Ông biết bà vẫn đang mải xem, nhổm cả người về phía trước, dán mắt vào pha nóng bỏng của đoạn cao trào đã diễn ra hơn phần tư thế kỷ. Ông nói: "Đó là cách duy nhất tôi có thể giúp đỡ cô ấy. Cô ấy chưa từng đóng cảnh này bao giờ. Cô ấy cần một người bạn giúp". "Một người bạn?". "Tôi đã yêu cô ấy". "Ai lại có thể yêu thứ con gái hư hỏng ấy bao giờ". "ồ, có chứ. Tôi có thể đấy. Tôi không nhầm đâu". "Tôi nghĩ là ông đã vồ lấy cô ta". "Bà nói vậy là hơi quá lời" - ông Carter phủ nhận. "Rồi chuyện gì xảy ra với cô ta?". "Cô ấy đã đi mất. Những người như vậy luôn đi mất tiêu".
    Cô gái ngả lên mình chàng trai rồi tắt đèn. Bộ phim kết thúc. "Tuần tới tôi lại có phim mới" - thằng bé người Xiêm mời chào, cúi gập người xuống. Hai vợ chồng theo thằng mối quay lại đoạn đường tối thui để về taxi.
    Trên xe, bà Carter gặng: "Thế cô ta tên gì?". "Tôi chẳng nhớ nữa". - ông Carter ậm ừ. Nói dối là cách dễ nhất.
    Khi họ ngoặt sang Tân Đại Lộ, bà lại phá vỡ bầu không khí yên lặng đầy cay cú của mình: "Làm sao ông có thể chịu làm việc đó? Hạ mình quá. Giả sử có người quen - trong công sở chẳng hạn - nhận ra ông thì sao?". "Mọi người không bàn tán về việc nhìn thấy những chuyện như vậy. Vả lại, hồi đó tôi chưa đi làm". "Thế chuyện này có bao giờ làm ông lo sợ không?". "Tôi dám chắc là trong suốt ba mươi năm qua, tôi không hề nghĩ tới nó". "Ông quen cô ta bao lâu?". "Có lẽ mười hai tháng". "Bây giờ trông cô ta chắc phải khủng khiếp lắm, nếu vẫn còn sống. Rút cuộc, cô ta cũng chỉ là loại cà mèng, kể cả hồi đó". "Tôi lại thấy cô ấy đáng yêu" - Ông Carter phản kháng.
    Hai người im lặng lên gác. Ông đi thẳng vào buồng tắm và khoá cửa lại. Đàn muỗi bu quanh ngọn đèn và chiếc bình đựng nước to. Khi cởi bỏ quần áo, ông bắt gặp hình ảnh của chính mình trong chiếc gương nhỏ. Ba mươi năm thật tàn nhẫn: ông đã cảm nhận được sự nặng nề và độ tuổi trung niên của mình. ông nghĩ: Mình cầu Chúa cho cô ấy không còn sống. Mong Chúa hãy lấy đi mạng sống của nàng, ông thầm nói. Khi mình quay lại trong kia, những tràng thoá mạ sẽ lại bắt đầu tuôn ra.
    Nhưng khi ông vào, bà Carter đang đứng bên cạnh chiếc gương. Bà gần như khoả thân. Đôi chân trần gầy guộc của bà nhắc ông nhớ tới hình ảnh một con diệc đang đứng chờ đớp cá. Bà bước tới và đưa hai tay ôm lấy ông, một chiếc vòng kiểu nô lệ khẽ cọ vào vai ông. Bà gợi: "Tôi quên mất là ông đã có thời trông thật tuyệt". "Tôi rất tiếc. Người ta ai rồi cũng phải thay đổi mà". "Ý tôi không phải vậy. Tôi muốn chính con người ông bây giờ kia".
    Cơ thể bà nóng, khô và bốc lên cơn đam mê mãnh liệt. "Nữa đi!" - bà nài nỉ - "Nữa đi cưng!..." - rồi kêu rống lên như một con chim bị thương và đang trong cơn giận dữ. Sau đó, bà lẩm bẩm "chuyện ấy đã từ nhiều năm trước", và cứ thế lải nhải bên mình ông trong trạng thái phấn khích tới cả nửa giờ đồng hồ dài đằng đẵng. Carter nằm lặng lẽ trong bóng tối, tràn ngập cảm giác cô đơn và tội lỗi. Ông cảm thấy chính đêm nay, ông đã phản bội lại người phụ nữ duy nhất mà ông yêu. Phong Nha dịch

    (1) Một kiểu mũ thời trang cổ.

    Nguồn: Lao động
    Tham khảo:
    http://www.nhandan.org.vn/vietnamese/vanhoa/100403/pvan_graham.htm
    http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/nguoimytramlang.zip
    http://www.literarytraveler.com/special/greene.htm
    http://www.kirjasto.sci.fi/greene.htm
    http://www.fantasticfiction.co.uk/authors/Graham_Greene.htm
    http://members.tripod.com/~greeneland/
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Mikhail Zoshchenko​
    Tuyên truyền viên​

    Lời giới thiệu của dịch giả: Nhà văn, kịch tác gia Nga Zoshchenko sinh năm 1895, tham gia nhóm văn bút "Huynh đệ Serapion" trong thập niên 20 thế kỷ trước. Những truyện ngắn của ngài Sinebryukhov Nazar Ilyich, tác phẩm thành công đầu tiên của Zoshchenko ra đời năm 1922. Văn hào Gorky từng đánh giá ông là người tài năng nhất của nhóm "Huynh đệ Serapion", đồng thời là nhà văn Xô-viết có triển vọng nhất. Cuối thập niên 1920, tuyển tập các tác phẩm của Zoshchenko được in ở Liên Xô thành sáu tập.
    Các nhân vật của Zoshchenko nói bằng ngôn ngữ hỗn tạp của tiểu thị dân Nga, quan chế Xô-viết và tiếng lóng thành thị; đây là nguồn gốc chính của tính khôi hài, châm biếm thấm đượm trong các tác phẩm của ông.
    Năm 1946, vì sự hiểu lầm trong một số truyện ngắn, Zoshchenko, bị thanh trừng và bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn Liên Xô. Ông bị cấm sáng tác; các tác phẩm của ông cũng không được đăng tải. Mãi tới năm 1956, khi đời sống văn nghệ ở Liên Xô có những chuyển biến mới, Zoschenko mới được viểt trở lại, nhưng vì phải sống quá lâu trong cực khổ và vô vọng, ông không còn sáng tác được như trước nữa. Ông mất năm 1958.
    Phải đến thời kỳ cải tổ, Zoshchenko mới được phục hồi danh dự hoàn toàn và các tác phẩm của ông mới được xuất bản đầy đủ.
    Truyện ngắn châm biếm sau đây được Zoshchenko viết năm 1923. Chúng tôi dịch từ tuyển tập Con gà mái bốn chân (A négylábú tyúk), Nhà xuất bản Văn học Budapest, năm 1984.

    Grigory Kosonosov, người gác đêm của trường không quân, trở về làng trong kỳ nghỉ phép.
    - Này, đồng chí Kosonosov ơi, - bạn bè nói với anh trước khi đi -, nếu về thăm nhà, cậu hãy tuyên truyền cho nông dân làng cậu nhé. Hãy nói cho họ biết ngành không quân đang phát triển... Có lẽ ngay cả các bạn nông dân của chúng ta cũng sẽ đóng góp chút gì để phát triển ngành!
    - Các đồng chí có thể tin chắc là tôi sẽ thuyết phục được họ, - Kosonosov nói. - Nếu chuyện khác thì không dám... nhưng thế nào tôi cũng sẽ nói về ngành hàng không.
    Mùa thu, Kosonosov về thăm nhà và vừa đến nơi, ngay ngày đầu tiên anh đã đến hội đồng.
    - Thưa các đồng chí, - anh nói -, tôi muốn tuyên truyền. Có thể tổ chức mít-tinh được không, bởi tôi vừa ở thành phố về?
    - Sao lại không, đồng chí cứ làm đi, - ông chủ tịch nói -, rồi ngày mai tôi sẽ triệu tập các bạn nông dân của chúng ta.
    Hôm sau, ông chủ tịch tập trung nông dân trong vùng ở kho chứa dụng cụ cứu hỏa.
    Grigory Kosonosov đến chỗ họ, cúi đầu chào và vì chưa quen diễn thuyết, anh vào đề bằng giọng nhút nhát, run rẩy:
    - Nghĩa là, thế này... - anh nói -, ngành không quân, các đồng chí nông dân ạ... Các bạn, là thứ dân chậm tiến, nghĩa là về mặt chính trị... Ví như nước Đức ở xa kia kìa, còn Curson ở đây... Nước Nga ở đây, còn... Tóm lại...
    - Ơ kìa, cậu nói về cái gì thế? - những người nông dân tỏ vẻ không hiểu.
    - Gì ư? - Kosonosov phật ý. - Tôi nói về ngành không quân... rằng ngành không quân phát triển. Nước Nga ở đây, còn Trung Quốc ở đằng kia...
    Những người nông dân nghe ngóng với vẻ mặt u ám.
    - Đừng làm mất thời gian của chúng tôi! - Ai đó kêu lên ở phía sau.
    - Tôi không làm mất thời gian của các bạn, - Kosonosov nói. - Tôi nói về ngành không quân... Nó phát triển lắm, các đồng chí ạ... Tôi không thể có một lời nào chống lại nó. Nếu có một chuyện gì như thế thì nó cũng sẽ như thế. Tôi không thể tranh cãi với nó.
    - Không tài nào hiểu nổi! - Ông chủ tịch kêu lên. - Đồng chí hãy nói gần gũi với quảng đại quần chúng nhân dân thôi!
    Kosonosov bước đến gần mọi người, hít cật lực một hơi thuốc lá hôi rình, rồi lại bắt đầu:
    - Vậy nhé, thế này, các đồng chí nông dân ạ... Người ta làm ra tàu bay rồi bay lượn với nó. Nghĩa là ở trên không trung, trên kia kìa. Tất nhiên cũng có cái không trụ lại được ở trên đó, nó bổ nhào như chim hoàng tước. Cũng như cái cậu phi công, đồng chí Yermilkin ấy. Cậu ấy bay lên thật, nhưng rồi rơi đến nỗi vỡ toạc cả người...

    - Thì anh ấy có phải là chim đâu... - mọi người bảo.

    - Thì chính thế, tôi cũng bảo vậy, - Kosonosov mừng rỡ vì nghe thấy một tiếng nói đồng tình -, nào phải là chim. Nếu một con chim bị rơi, nó chỉ lắc mình rồi lại cất cánh... Đằng này thì không, chí ít cũng gãy răng... Một anh khác, cũng phi công, tên là Mikhail Ivanovich Popkov. Cậu ấy bay như tranh vẽ, rồi bỗng nhiên, động cơ trục trặc... Ối chào, nó rơi mới ghê làm sao!...

    - Thật đấy? - những người nông dân hỏi.

    - Chứ sao nữa... Một... Một người khác rơi bộp xuống cây. Anh ta lủng lẳng ở đó như một đứa trẻ. Cậu ấy mới hoảng hốt, mới thần hồn nát thần tính làm sao... có thể cười đến chết được... Ở vùng nọ còn có những câu chuyện nho nhỏ lý thú lắm. Một bận, một con bò cái chui vào dưới cánh quạt máy bay. Một - hai, thế là nó bị xay thành cám. Không còn biết đâu là sừng, đâu là lòng ruột... Và tất nhiên tàu bay cũng còn cuốn cả chó nữa.

    - Thế còn ngựa thì sao? - những người nông dân hỏi. - Chắc nó không cuốn nổi ngựa chứ?

    - Có chứ, cả ngựa nữa, - Kosonosov nói. - Làm gì có chuyện nó không cuốn được ngựa?

    - Quỷ tha ma bắt, bọn ********! - ai đó nói. - Rõ là lũ vô công rồi nghề, nghĩ ra lắm thứ vớ vẩn! Xay ngựa thành cám? Thế mà cậu còn bảo rằng cái trò ấy phát triển ư?

    - Thì tôi đang giải thích về chính chuyện ấy đấy thôi, - Kosonosov nói -, nó phát triển lắm, các đồng chí nông dân ạ... Tóm lại, các bạn hãy triệu tập một cuộc mít-tinh trong làng, rồi bỏ phiếu chút ít để ủng hộ nó cho phát triển nhé.

    - Nhưng bỏ phiếu để làm gì chứ? - mọi người hỏi lại.

    - Làm gì ư? Để làm tàu bay chứ còn làm gì! - Kosonosov nói.

    Những người nông dân cau có, nói cười cáu kỉnh rồi tản đi mọi ngả.
    Dịch giả: Hoàng Linh
    Nguồn: eVăn
    Tham khảo:
    www.spartacus.schoolnet.co.uk/RUSzoshchenko.htm
    www.pfoo.com/~arezvani/zoshchenko.html
    http://it.stlawu.edu/~rkreuzer/ltrn101/zoshchen.htm
    www.usc.edu/dept/las/sll/eng/ess/zooper142.htm
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 12:11 ngày 28/08/2004
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ái Duy ​
    Vòng vèo thật giả​
    Khi những ngón tay thoăn thoắt đếm tiền của con bé giúp việc ở cửa hàng khựng lại nửa chừng, linh tính chẳng lành khiến tim Thanh thót lên một cái. Chị cố giữ vẻ điềm nhiên nhìn nó rút tờ giấy bạc một trăm ngàn ra khỏi xấp, nhanh nhảu đến hỏi ý cô chủ của mình. Chủ tiệm là người quen biết lâu năm của chị, cô ta cầm lấy nó và chỉ liếc qua rồi cười tươi như hoa, nhỏ nhẹ: "Chị đổi cho em tờ bạc này". "Sao vậy?", Thanh lúng túng thật sự. "Tiền giả", cô ta đáp gọn lỏn, ánh nhìn đầy ngụ ý.
    "Trời đất !" - Thanh là người biết chế ngự cảm xúc của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể như thế này thì cần phải tỏ ra cảm thán nhiều hơn nữa. Tiền giả, cô chỉ nghe nói nghe đồn chứ chưa cầm phải bao giờ! Cô sửng sốt đón tờ giấy bạc đó lên săm soi. Nó quả là nhẹ, mỏng hơn bình thường một chút nhưng cái vẻ nhàu nhò dơ bẩn như đã từng truân chuyên lưu lạc qua nhiều đời đã đánh lừa cái cảm giác ban đầu về một sự giả tạo. Rồi Thanh ngượng ngùng đưa nó lên cao soi về hướng sáng theo cái cách mà người ta hay bày - không có cái hình chìm hình nổi nào hiện ra cả, chỉ toàn là những đường lằn và những vết xếp ngang dọc cẩu thả.
    "Xin lỗi, chị không biết, không nhớ ai đã đưa cho chị tờ này", Thanh lúng túng vét túi, số tiền còn lại không đủ để bù vào chỗ đó. "Chị cứ để hôm khác lấy hàng rồi đưa cho em cũng được", cô chủ hàng lại đon đả, tay chuyển kiện hàng đã đóng gói xong đưa ra cho chị. "Ừ, cho chị thiếu vậy, chị chỉ mang đúng chừng đó tiền để lấy hàng". Thanh chào đi ra, lưng cổ nhột nhạt ngứa ngáy. Chị cố đi chậm rãi, dắt xe thật từ tốn và nhẹ nhàng nổ máy vô số lướt đi. Chắc mấy con bé ấy đang hả hê vì ngăn chặn được một âm mưu phát tán tiền giả. Chắc nó nghĩ đã bắt quả tang được một con mẹ lừa đảo. Chắc nó nghĩ, ai mà ngờ được chỗ quen biết hiền lành như vậy lại đi tráo trở nhau. Thanh khổ sở đưa tay sờ lên mặt mình, may mà nó chỉ nóng lên chứ không tái xanh, nếu không thì trông mình cũng giống thế thật.
    Đường phố tấp nập xe cộ khiến Thanh tĩnh trí lại ngay. Bao nhiêu là người vèo vèo lướt qua mắt cô. Ai là người trong số đó đã đưa cho cô đồng bạc quái quỷ này nhỉ? Vào lúc nào mà nó lại chui vào cái ngân sách eo hẹp của cô?
    Thanh chỉ có một sạp hàng bán tạp hóa nhỏ ngoài chợ, một mình cô phải cáng đáng đủ thứ từ việc ngồi bán cho tới chạy hàng giao hàng, thu tiền các đầu mối. Doanh thu mỗi ngày của sạp hàng vào lúc ế ẩm có khi chỉ đôi ba trăm, có nghĩa là tần số xuất hiện của những tờ bạc 100 ngàn như thế là không nhiều. Thanh căng óc suy nghĩ. Nó nằm trong số tiền cô thu được trong năm ngày trở lại đây mà thôi. Khách mua hàng cô đều nhớ mặt, chỉ qua lần thứ hai là thành quen. Chợ nhỏ nên hầu như mọi người đều biết nhau.
    Hay là của bà Năm Ù chuyên mua rồi bán lại cho người ta trả góp? Bà này thuộc loại có số trong giới võ lâm, chị em bán hàng ít ai mà bán quá giá cho bà được tới 200 đồng lẻ. Chắt bóp ki bo mãi mà bà ta cũng sắm được cho mình một cái nhà hai tầng ngay mặt đường. Mỗi cái đức ông chồng là tậu hoài mà cũng trật vuột. Năm lần bảy lượt bà ta cũng kiếm được người về nâng khăn sửa túi, nhưng chỉ thoáng qua vèo một cái là mất dạng, lại thấy bà lủi thủi nặng nề đi về một mình. Thiên hạ ác miệng, dè bỉu cái thân thể đồ sộ một mét bảy, nặng gần tạ của bà phải được đóng thùng xuất khẩu. Mỗi ngày, bà gom không dưới trăm đầu hụi chết, tiền bạc qua tay rồi phát tán đi lung tung biết đâu mà lần. Cách đây hai hôm, bà ghé hàng Thanh lấy thùng xà bông, trả hơn ba trăm ngàn tiền gối đầu cũ, chắc chắn là phải có loại giấy bạc 100 ngàn trong đó. Nhưng cái cách đếm tiền của bà chắc khó mà qua mặt lắm bởi từng tờ một đều được rút ra thận trọng, lật qua lật lại cả hai mặt và được dí tận mắt xem xét. Trừ đàn ông ra, chứ còn tiền vô tay bà thì làm sao mà nhầm lẫn được nhỉ?
    Hay là của thằng cha rảnh miệng đi chiếc Attila màu mận? Dám lắm, lần nào ra mua hàng cũng tán tỉnh cọ quẹt từ đầu chợ tới cuối chợ, từ chị bán mắm cà tới bà bán bánh chuối. Hôm đó, hắn hỏi mua lố dao cạo râu, lựa chọn mãi trong cái bóp mới móc ra tờ bạc 100 ngàn đưa cho Thanh, còn đưa đãi là vì anh ghé hàng em đầu tiên lấy hên mau mắn ngọt ngào nên không có tiền lẻ, em thối cho anh đi chợ mua thức ăn, hôm nay bà xã anh đi làm cả ngày bỏ anh bơ vơ... Nhạt phèo! Làm như Thanh không biết bà xã của chả là ai. Quanh năm suốt tháng chị ta tất tả đi đánh ghen, săn tìm hang ổ tình địch. Nhưng tình địch của chị lại được thay đổi xoành xoạch, chưa kịp nhớ mặt thì đã lỗi thời thì làm sao mà tìm ra nơi ẩn náu? Hừm, thứ người lừa tình được thì lừa tiền được. Nhưng sao khi đó mình cũng mê muội mà nhận tờ giấy bạc tội nợ này từ tay chả? Ồ mà chắc không phải đâu, có đời nào mình thèm ngó thẳng vào mặt chả để có thể lơ là quên nhìn tờ giấy bạc?
    Thôi chết, chắc rơi trúng vào cái ngày chủ nhật toàn thành phố cúp điện, gặp trời mưa dầm cả chợ tối om om. Thế nào kẻ gian cũng nhân cơ hội mà hành sự. Hôm đó, sạp hải sản khô bị rinh mất một rổ mực, sạp áo quần bị tuột mất mấy cái áo pull chỉ còn trơ móc áo, hàng bánh tráng bị mất nguyên một chồng... Mình đã cười mấy bà mấy chị mất cảnh giác. Phải rồi, hôm đó có một con bé trên cả tuyệt vời với đôi chân dài và nửa cái bụng trắng nõn phơi cả rún ra ghé mua hàng mình. Ai cũng trầm trồ khen nó đẹp còn hơn cả người mẫu. Nó độ chừng mười tám đôi mươi là cùng, đôi gò má non tơ mịn màng còn cả lông măng, cả cái giọng nói cũng ngây thơ ngọt lịm len lỏi vào tận tâm can người nghe. Nó hỏi mua chai xịt phòng giá ba mươi hai ngàn, không trả giá, còn nhẹ nhàng khen chị bán rẻ rồi rút ra một cái ví căng phồng lấy tiền đưa cho Thanh. Thanh còn nhớ cái cảm giác thán phục của mình khi đó, người đâu mà vừa trẻ đẹp vừa sang trọng, chắc hẳn Việt kiều về nước. Ấy thế mà khi nó vừa quay lưng đi đã có mấy chị bạn hàng chạy sồng sộc tới, tranh nhau kể. Con đó là ca-ve lừng lẫy, Tây ta xếp hàng dài gục đổ như rạ, nó là ổ ?osi-đa?, là ma cà rồng hút máu người... Thanh nghe mà cứ như bị ai tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt. Cô cứ quen mang trong đầu ấn tượng cổ lỗ sĩ về những người đàn bà làm nghề bán thân phải trầy trụa nhếch nhác và tô trát son phấn với mùi nước hoa rẻ tiền nồng nặc. Hừ, vậy nó cũng là nghi can số một trong cái vụ án tiền giả này. Chứ còn sao nữa? Những người trao tiền vô tay nó đa phần không quang minh chính đại, tội vạ gì mà họ không lập lờ đánh tráo trong cái mối quan hệ như vậy?
    Nhưng mà, chị hoài công lục lọi những khuôn mặt người như thế để làm gì nhỉ? Giả dụ như biết đích xác ai đã đưa tờ bạc giả thì chị có dám tìm người ta căn vặn để đổi trả khi mà đã qua mấy ngày rồi không? Thanh lùng bùng quá. Cả đời chị thua thiệt cũng vì nhút nhát và rụt rè, ít khi nào dám tra hỏi cặn kẽ ai điều gì đừng nói là lừa người khác. 100 ngàn bỗng chốc hóa tờ giấy lộn, lẽ nào Thanh phải lãnh lấy hậu quả này?
    Lẽ ra Thanh đã có một buổi chiều cuối tuần vui vẻ với bạn bè trong quán cà phê hay trong một buổi dã ngoại nào đó vừa với mức sinh hoạt phí ít ỏi của mình. Hoặc cô có thể mua cuốn sách mà mình ao ước, một cái áo khoác nhẹ cho mùa đông, một hộp thuốc bổ... chỉ với số tiền đó. Nhưng thôi, không có cũng được. Vấn đề ở chỗ, chẳng lẽ mình là một nạn nhân ngoan ngoãn buông tay quy hàng của trò tráo đổi thật giả này? Biết trách ai đây hở trời? Thanh dừng lại, cô lôi tờ giấy bạc đó ra ngắm nghía, thật ra với thị lực 6/10 như cô thì không thể nhận ra nó khác chỗ nào nếu chỉ cầm lên tay và nhìn lướt qua. Nhưng chắc gì nó là tiền giả như lời con bé ấy nói? May lỡ chỉ là một sự nhầm lẫn chủ quan của nó hay là lỗi kỹ thuật của máy in thì sao? Có thể lắm, ban nãy vì mình bối rối quá nên mới tin lời nó, chứ cái gì cũ mà lại chẳng mòn bớt đi nói gì cái hình in trên giấy? Thôi chắc đúng rồi, cái con bé ấy tệ thật, thế này mà nó dám bảo là tiền giả báo hại mình tiếc của nãy giờ.
    Trên đường về, Thanh tạt vào sạp báo quen lấy một tạp chí thời trang, giá mười ba ngàn. Tờ giấy bạc 100 ngàn đang bắt đầu cựa quậy trong túi Thanh, cô đã đưa tay chạm vào nó. Có thêm một người khách bước vô mua báo đứng cạnh cô. Chỉ có vậy mà Thanh chột dạ, cô rút tờ 20 ngàn ra trả, quay đi mà lòng tràn ngập thất vọng và tiếc nuối. Sao mình lại không dám chống trả cái sự phi lý mà bỗng dưng rơi trúng vào đầu mình?
    Không thể ném tờ bạc này vào chỗ người lạ được. Nếu phát hiện ra nó thực sự là thứ giả người ta sẽ lập tức nghi ngờ chị là kẻ gian và lắm điều phiền toái dẫn theo ngay. Họ có thể làm ầm lên, có thể sỉ nhục chị, có thể áp giải chị tới nhà chức trách. Ở chỗ quen thì khác, người ta có thể châm chước vì nhân thân của chị tốt không tiền án tiền sự, chị có thể chống chế và rút lui an toàn mà còn nhận được sự thông cảm của họ.
    Thanh đi chậm lại trước một nhà thuốc tây, mấy năm trước chị là thân chủ ruột của nó. Người đàn ông chủ tiệm này là một lang băm thứ thiệt mà có lần chị suýt thiệt mạng vì bị sốc với thứ thuốc kháng sinh mà ông ta dứt khoát là cần thiết đối với chứng bệnh của chị. Lần ấy, chị bỏ qua vì nghĩ mình cũng có lỗi, nhưng sau nghe quá nhiều chuyện không hay về tài thăm khám cho thuốc của ông ta thì chị thôi hẳn không ghé lại tiệm thuốc của ông ta nữa. "A, chào người đẹp. Anh cứ tưởng em du lịch xuất cảnh đâu mất rồi, sao lại gặp nhau đây?". Thanh cười gượng "Cho em lọ vitamine E". "Có ngay, E thiên nhiên đây em ạ, đẹp da chống lão hóa. Chỉ có năm mươi hai ngàn uống một tháng". Thanh cắn răng rút tờ 100 ra, "Vâng, em gửi tiền". Gã cười cười vỗ nhẹ lên bàn tay Thanh, "Trông em xanh xao quá, coi chừng mất ngủ thiếu máu, phải lấy thêm thuốc uống bổ sung đó nghe!". Thanh cố mỉm cười, mắt không rời nhìn theo tay gã đang giữ tờ giấy bạc của cô. Gã nhìn nó, rõ ràng là có nhìn nó trong hai giây rồi ném tọt nó vô cái ngăn kéo đầy ắp những tờ giấy bạc đủ loại, nhoay nhoáy đếm tiền thối. Một cảm giác tội lỗi nhói lên trong Thanh nhưng cô kịp thời giữ nó lại. "Cám ơn anh, chào anh ạ!" - Rồi cô thong thả quay đi.
    Thế là xong, Thanh đã cất được cái gánh nặng chình chịch u ám từ sáng tới giờ. Cô cảm thấy lòng mình trống rỗng không vui không buồn, không ân hận áy náy cũng chẳng hoan hỉ thắng lợi. Tờ bạc phiền toái đó đã đổi chủ. Nếu đúng là giả, người ta sẽ lại phát hiện ra nó, và cũng như Thanh, họ sẽ mau chóng tìm cách tống khứ nó đi càng sớm càng tốt. Chỉ có điều Thanh biết chắc chắn, nó vẫn sẽ lưu hành ngang nhiên với cái giá trị mà nó đang mang trên mình, bất kể mọi sự nghi ngờ giả thật. Trừ phi một kẻ lơ mơ nào đó mang nó đi nộp vào Ngân hàng Nhà nước, khi đó thân phận nó sẽ bị bại lộ, và khổ chủ cuối cùng này mới là người ôm mối hận tiền mà không biết than thở chia sẻ cùng ai.
    Thanh về nhà. Cô sà vào bếp kể cho mẹ và lũ em nghe là mình vừa bị dính một tờ 100 ngàn tiền giả. Mọi người tròn mắt ngạc nhiên và giận dữ xúm nhau hỏi han, hối thúc cô lấy ra cho họ xem. Thanh thủng thẳng, "Xài lại rồi!". Ai nấy ồ ra cười, xôn xao, tranh nhau bình luận. "Thì phải vậy thôi, chẳng lẽ lại bỏ đi!". "Thôi chết, từ giờ phải cẩn thận hơn mới được". Thanh không nói gì thêm, lẳng lặng bỏ lên phòng mình.
    Tối hôm sau đi chơi với người yêu Thanh ngại ngần không muốn nói ra, dù từ trước tới nay anh là người duy nhất cô chẳng hề giấu giếm điều gì. Mãi, khi anh gửi cho cô ba tờ giấy bạc một trăm ngàn nhờ mua giùm mấy ký mực khô để gửi về quê làm quà cho gia đình, Thanh mới đắn đo dặn dò anh, từ nay nhận mấy tờ giấy bạc lớn phải lưu ý nhìn cho kỹ để khỏi bị lừa, rằng tiền giả thì giấy mỏng hơn, hình nhòe hơn, không có hình chìm, không có sớ giấy, vân vân và vân vân. Bắt gặp vẻ dò hỏi giễu cợt trong mắt anh, Thanh chữa thẹn bằng cách vờ trịnh trọng cầm ngay mấy tờ bạc anh đưa soi lên bóng đèn. Chứ còn sao nữa, thật giả lẫn lộn sờ sờ bên cạnh ai mà biết được!
    Nguồn: Thanh niên
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Chu Thu Hằng​
    Chủ nhật tươi hồng​

    Thật sung sướng khi vào một ngày chủ nhật đẹp trời nọ, bạn ăn no, đi hội chợ thời trang với một người bạn gái.
    Bạn trở về nhà, trải đầy đồ mới mua ra giường mà sung sướng thiếp đi một giấc. Sau đó bạn trở dậy, uống một ly nước lạnh để giữ eo, mặc áo mới, đến phòng làm việc, bật máy vi tính, chọn phông chữ mình yêu thích (hôm nay bạn mới yêu thích phông chữ này, nhưng nếu dùng nó để soạn thảo văn bản công việc thì cả văn phòng của bạn sẽ nháo nhác lên vì không ai đọc được).
    Ngoài trời đang mưa, hình như hơi lạnh, mà bạn càng cảm thấy chiếc áo mình mới mua bằng chất liệu len mỏng thật hợp thời trang, và bạn thoải mái gõ một văn bản gì đó mới.Con người sung sướng hạnh phúc đó là tôi. Và bây giờ tôi đang ngồi gõ lạch xạch ở máy tính của mình vào một chiều chủ nhật mưa.
    Đèn trong văn phòng sáng choang, máy lạnh kêu rì rì nho nhỏ, và các anh chàng đồng nghiệp cũng đua nhau gõ lạch xạch ở các ngăn máy của mình. Tôi ngả người trên ghế, kéo bàn phím để trên đùi, và tự hỏi rằng tại sao tự nãy giờ không có ai để ý đến cái áo mới của tôi, một cái áo thật đẹp, màu be pha với vài đường viền màu xanh da trời kiểu thể thao.
    Tôi đã chọn một chiếc buộc tóc cùng chất liệu, màu trắng, cũng phệt thêm vài chấm màu xanh da trời và trông tôi thật nhí nhảnh, trẻ trung. Vậy mà các anh chàng ế muộn ngồi xung quanh thì vẫn cắm đầu vào máy ai nấy đều giương kính cận lên mà chăm chú gõ gõ. Tôi cũng đành gõ theo vài dòng vớ vẩn mặc dù ban đầu ý định là đến văn phòng làm việc nghiêm túc, có thể là viết một bài cảm tưởng về cuốn truyện vừa đọc tối qua, một cuốn truyện nửa thiếu nhi, nửa người lớn.
    Truyện dịch đọc rất ngô nghê nhưng có những chi tiết khiến tôi say mê đọc hết ba tập, tức là đến tận 2g30 sáng nay mới đi ngủ. Chẳng hạn, em bé bảy tuổi trong truyện không muốn ăn xúp và em ấy nói: ?oKhông, ăn xúp chán chết đi được?. Ông bố của em bèn nhắc nhở: ?oCon không được nói như thế, như thế không lịch sự, con phải nói: ?oKhông, cảm ơn mẹ, con không muốn ăn xúp?. Con không muốn trở thành người lịch sự ư??. Và đáp lại, em bé nói: ?oKhông, con chẳng muốn làm người lịch sự, con muốn trở thành người giống như bố?.
    Đêm qua đọc đến đấy thì tôi cười mất mấy phút mới có thể đọc tiếp, và vừa đọc vừa cố hình dung ra em bé bảy tuổi mắt xanh, tai bẩn, thích nuôi chó và ăn kẹo trứng chim ấy trông có xinh không nhỉ? Còn bà mẹ của em bé thì được tả là rất đẹp, béo mập, nấu ăn ngon với hai bàn tay to ấm áp.
    Còn ông bố, chẳng có chữ nào tả ông bố hết. Làm người đọc phải thắc mắc không hiểu ông bố tốt bụng (mua tặng sinh nhật con một chú chó nhỏ) ấy trông ra sao? Theo ước lệ của một nền văn học nào đấy thì ông bố ấy sẽ có gương mặt chữ điền, râu quai nón để mỗi khi bế em bé lên lại cọ cọ cái cằm đầy râu vào bụng mềm mại của em, và hai bàn tay cũng to và đầy vết chai của một người làm nhiều việc vất vả.
    Trong khi tôi đọc cuốn truyện ấy, Dũng góp thêm sự thú vị bằng những tin nhắn nói rằng anh vừa đi nhậu về, đang đói meo mà chẳng có gì ăn. Tôi bèn nhắn lại một cách rất kịch rằng anh cần dậy ăn cái gì đó đi, giá mà lúc này em ở cạnh anh, em sẽ nấu mì và chần một quả trứng gà cho anh. Đương nhiên, Dũng nhắn lại là anh rất thích thế. Hệ quả tiếp theo là một câu tôi cũng lường trước được, một câu rất hoan hỉ vì tôi đã bật đèn xanh nói rằng: Bây giờ anh ước gì mình có vợ rồi nhỉ để được vợ chăm sóc, quan tâm.
    Tới đây cần phải chú thích thêm là Dũng chưa có vợ, trông khá đàn ông và không hiểu sao lại rất lãng mạn. Cái chuyện lãng mạn và đọc nhiều sách có vẻ là không ăn nhập gì với vị trí trưởng phòng kinh doanh của một công ty dược nước ngoài của anh. Quay lại thời điểm lúc tôi đang đọc cuốn truyện, tin nhắn của Dũng làm tôi cười ha ha và bắt đầu thử ghép bộ mặt của anh với hình ảnh ông bố trong truyện.
    Cũng có vẻ là khá hợp, nếu tưởng tượng bảy tám năm nữa anh là bố của một nhóc bảy tuổi, mắt đen, mặt mũi hơi lem luốc và phệ phệ giống anh y xì đúc. Có thể lúc ấy em bé của anh sẽ nói: ?oKhông, con không muốn làm bác sĩ, con muốn làm nghề đi nhậu giống bố?.
    Còn bà mẹ, tôi cố vắt óc thêm cũng chẳng thể ghép nổi gương mặt tôi vào đấy. Tôi không có hai bàn tay to lại thêm chuyện mỗi khi leo lên bàn cân trước cửa siêu thị thì nó lại ré lên: ?oKhông đùa nữa. Cho cả chân kia lên đi!?. Tức là trọng lượng của tôi, sau rất nhiều nỗ lực uống Appeton Weighgain cũng chỉ same same 2/3 trọng lượng của một người bình thường thôi, nên thật khó tưởng tượng là tôi sẽ là một bà mẹ to béo và ấm áp đứng trong bếp, nấu ăn xì xụp cho bố con Dũng nói chuyện với nhau.
    Cho nên sau đấy tôi nhắn tiếp: ?oEm sẽ không lấy chồng, đến 30 tuổi có một đứa con với người mình yêu rồi sống cuộc đời độc lập, tự do, hạnh phúc. Thế là ok?. Rồi tắt điện thoại để chấm dứt cái kiểu chat chit qua điện thoại thế này. Tốn tiền ra phết đấy, bạn cứ nghĩ nhắn tin thì tiết kiệm hơn một cú điện thoại ư. Và vào ngày đẹp trời cuối tháng khi bạn cầm bill điện thoại, bạn mới ngất xỉu khi nhận ra rằng trung bình mỗi ngày bạn đã nhắn tới ba, bốn chục tin nhắn thì đã muộn rồi.
    Câu chuyện về em bé bảy tuổi cuối cùng kết thúc chẳng thế nào cả hoặc có thể người ta muốn dịch tiếp tập bốn nhưng còn thăm dò xem lượng phát hành ba tập trước thế nào, nên cuối tập ba cũng chẳng đề còn nữa hay hết. Tôi đi ngủ lúc 2g30, mặc váy hai dây mỏng, đắp chăn, mặt bôi kem dưỡng da, xịt một ít nước hoa yêu thích thơm thơm dễ chịu và nghĩ xem mai mình có thể nướng tới mấy giờ để rồi đi hội chợ thời trang với một cô bạn gái.
    Trời đã tạnh, nắng rực lên làm những ô cửa kính phía sau lưng tôi sáng bừng. Những anh chàng đồng nghiệp đeo mắt kính đã thôi gõ lạch xạch và túm tụm lại với một trò chơi gì đó mới load trên net xuống. Một chàng đi về phía bàn tôi để lấy tài liệu, nhưng hình như vẫn không hề nhận ra tôi, nữ đồng nghiệp tươi trẻ và son rỗi có một chiếc áo mới. Tôi cũng chả tha thiết thu hút anh chàng lúc nào trông cũng như đang đeo mặt nạ đen này, tiếp tục gõ tiếp.
    Sếp phó đi qua, cười rất tươi với tôi (chú thích là với ai cũng thế, bất kể bạn mặc áo mới hay áo cũ). Hôm nay chủ nhật, sếp cũng ăn mặc casual, quần kaki và áo pull trông trẻ trung và phong độ hơn mọi ngày. Trông sếp thật ra cũng hợp để vào vai một ông bố ấm áp, tốt bụng, nhưng nếu như vào thời điểm tôi có thể trở thành một bà mẹ to béo và ấm áp thì lúc ấy chắc sếp đã già lắm rồi, không còn sức để tung em bé bảy tuổi lên đâu, cho nên tôi loại hình ảnh sếp ra khỏi đầu ngay khi cái cửa đóng rầm sau lưng sếp.
    Nắng bắt đầu hắt vào ô cửa làm màn hình hơi lóa, tôi phải xoay lại màn hình và ngồi quay mặt lại, vừa làm vừa nhìn thấy bóng mình trên vách ngăn bằng kính, trông nồng nàn kiểu trẻ con, mắt môi rạng rỡ.
    Lúc sáng đi mua sắm tôi đã đứng ngắm nghía rất lâu một bộ quần áo dành cho em bé ba tuổi, màu hồng rực rỡ. Trong khu Diamond Plaza, người ta thật khéo bày biện khu bán hàng đồ chơi, quần áo trẻ em. Cứ bước lên tầng ba là thấy hồng rực lên nào là Barbie, Elle, Kokorno trông thật bắt mắt. Mấy người bạn đi cùng hay nhại cái giọng Hà Nội đặc sệt của tôi khi bước vào khu này: ?oÔi, hồng dã man!?. Tôi thích màu hồng, nhưng cái lý do để tôi dừng lại ở bộ quần áo ngộ nghĩnh bắt mắt ấy là một câu nói xa xưa của anh cũng trong một lần đi Diamond: ?oBé nhà anh mặc mấy bộ đồ hồng, đỏ này đẹp lắm!?.
    Sáng nay, tiền thưởng sáu tháng đầu năm nóng rẫy trong túi, tôi đã nghĩ đến chuyện đưa cho anh bộ đồ này với một cái giọng thảo mai: ?oEm mua cho bé nhà anh!?. Không biết lúc ấy mặt anh sẽ thế nào nhỉ? Tái đi vì bị mỉa mai, sượng sùng hay tối sầm vì một nỗi bất lực nào đó trong ngực. Chẳng biết, chẳng cần biết. Cái tôi cần là hình ảnh một con bé con ba tuổi, bụ bẫm, trắng trẻo, lon ton trong bộ đồ màu hồng cả ngày ở bên anh, nhắc anh nghĩ rằng tôi vẫn có mặt trong cuộc sống của anh.
    Đến đây, lại phải xuống dòng, chú thích về anh. Anh khác Dũng, anh đã có vợ, có một em bé ba tuổi. Thôi khỏi phải tưởng tượng trông anh trong vai trò một ông bố như thế nào vì anh đã ở vị trí đó ba năm rồi. Ông bố này trông cũng ấm áp, tốt bụng (với một cái bụng hơi phệ vì uống bia nhiều), gương mặt hơi khắc khổ với quai hàm bạnh, những đường gân nổi tím mờ dưới đuôi mắt và một nụ cười rạng rỡ như trẻ con trong những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi. Ngoài những cái đó ra anh không có gì để so sánh với Dũng.
    Nhưng anh lại làm cho tôi có cái ý tưởng là không thể lập gia đình. Ừ, lập gia đình làm gì nhỉ? Vì yêu, người ta lấy nhau, rồi người ta có em bé. Nhưng rồi những ông bố, bà mẹ ấm áp kia sẽ phản ứng thế nào nếu em bé mắt đen, mặc váy hồng của mình nói: ?oKhông, con không muốn làm người lịch sự. Con muốn làm người ?ongoại tình?, giống bố?.
    Mưa rầm rập, trời mới khoảng sáu giờ mà đã tối sầm. Những anh chàng đồng nghiệp đã biến mất từ lúc nào, có thêm vài nữ đồng nghiệp chăm chỉ khác xách giỏ bước vào. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn thấy tòa nhà Diamond bằng kính màu xanh, ngay cả trong mưa cũng đẹp long lanh. Một nữ đồng nghiệp tóc xoăn mướt mát nhe hàm răng đeo niềng chỉnh lấp lánh tới vỗ vai hỏi về chiếc áo mới mua. Nhưng niềm vui về chiếc áo mới của tôi có lẽ đã trôi đi theo những suy nghĩ về anh mất rồi. Cho nên đành đáp lại câu chuyện hào hứng về chủ đề shopping của cô bạn đồng nghiệp một cách nhạt nhẽo. Và đến lúc này thì thật sự tôi chẳng biết gõ gì thêm vào văn bản này nữa, cho dù xung quanh các nữ đồng nghiệp bắt đầu công cuộc ******** làm tội cái bàn phím.
    Nhưng tại sao lại phải băn khoăn về những em bé mắt đen đáng yêu nhưng nghịch như quỉ và có mùi hoi hoi nhỉ? Trong khi cuộc sống tự do vẫn thật thoải mái, khi vào một ngày chủ nhật tươi hồng người ta vẫn có thể nướng tới chín giờ sáng, tỉnh dậy, đi mua sắm, ăn no căng bụng và sau đó ngồi chơi game hay làm công việc mình rất say mê. Thỉnh thoảng chiếc điện thoại di động đời mới ngân nga khe khẽ, báo hiệu một tin nhắn thú vị của những anh chàng độc thân.
    Và bạn ngừng tay gõ bàn phím, đọc tin nhắn, mỉm cười thú vị, nhắn lại một cách dí dỏm mà biết rằng càng lún sâu vào những cuộc chat chit qua message kiểu này tình cảm càng mơ hồ và bill tính tiền điện thoại càng tăng.
    Rồi cả đám đồng nghiệp độc thân rỗi rãi nhưng đam mê công việc và cô đơn (không thì tự nguyện đến văn phòng vào chủ nhật làm gì?) sẽ kéo nhau đi ăn gà rán KFC, đi lượn lờ mua sắm trong những gian hàng sáng choang lộng lẫy, sau đó đến tiết mục cafe nghỉ mệt ở một quán vỉa hè giá cao để ngắm nghía người ta mặc đồ hiệu, đi xe xịn diễu qua lại.
    Một ngày chủ nhật tươi hồng kết thúc vào tối muộn, với hai cái cẳng mỏi dừ, giấc ngủ say và nỗi lo cho tuần làm việc bận rộn điên rồ sẽ phải đối mặt sau tám tiếng nữa. Tất cả những thứ đó sẽ không còn nếu một trong những mối quan hệ mơ hồ của bạn bỗng nhận được tín hiệu đèn xanh và lao vù vù tới. Rồi thì thêm một ông chồng, một em bé mắt đen... Và... bạn có uống nước lạnh để giữ eo thì vòng hai của bạn cũng sẽ xổ ra không kịp giữ, bạn sẽ trở thành một bà mẹ mập mạp với hai bàn tay to ấm áp. Và bạn sẽ làm gì nếu vào một ngày chủ nhật tươi hồng, em bé mắt đen của bạn nói: ?oKhông, con không muốn làm người lịch sự. Con muốn làm người ?ongoại tình?, giống bố?.
    Và để tránh gặp phải nỗi khủng hoảng ấy, tôi đọc lại một lần nữa tin nhắn còn lưu trong điện thoại: ?oEm sẽ không lấy chồng, đến 30 tuổi có một đứa con với người mình yêu rồi sống cuộc đời độc lập, tự do, hạnh phúc. Thế là ok? cho cả đám đồng nghiệp nghe khi cả đám ngồi trong cafe máy lạnh (trời vẫn mưa, không thể ngồi ngoài vỉa hè được) ngắm các em gái da tẩy trắng, môi tẩy hồng, tóc vàng ruộm mặc áo yếm dựng xe trước cửa. Đương nhiên là mọi người đều đồng tình. Chỉ có một người thắc mắc về chuyện liệu có nên cho người mình yêu biết mình có con hay không, nhỡ khi em bé trái nắng trở trời... Nhưng ý kiến đó nhanh chóng bị vùi đi bởi các ý kiến khác cho rằng cứ dự trữ nhiều tiền là ổn hết, tiền lo viện phí, tiền đóng bảo hiểm... Và từ chuyện tiền thì quay trở lại chuyện dự án đang làm, buổi họp ngày mai...
    Tôi về nhà lúc 11g25. Chú thích thêm là tôi sống một mình, trong một căn hộ nhỏ nhưng đẹp ở khu trung tâm. Điện thoại ở nhà có lời nhắn của anh: ?oEm, anh điện thoại nhưng thấy báo số máy bị khóa. Không thấy em ở nhà. Anh khỏe, mọi chuyện đều ổn. Mong em cũng vậy? (Anh không biết là tôi đã đổi số điện thoại cầm tay mới). 12g Dũng nhắn tin: ?oEm ngủ chưa? Sao cả ngày không nhắn cho anh? Lâu rồi anh mới có cảm giác chờ đợi thế này! Hôm nay em vui không??.
    Tôi trả lời: ?oHôm nay là một chủ nhật tươi hồng anh ạ?. Và nằm co quắp với một cái chăn mỏng mà trong lòng thì trống rỗng và lạnh ngắt như biết rằng sáng mai tỉnh dậy chợt gặp gió mùa đông bắc về.

  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Mộng Giác​
    Sinh năm 1940 tại Bình Ðịnh Tốt nghiệp đại học Sư Phạm Huế. Hiện làm chủ bút tạp chí Văn Học tại hoa Kỳ
    Tác phẩm đã xuất bản :

    Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung ( tiểu luận Văm Mới SG 1972)
    Bão Rớt (truyện ngắn Trí Ðăng SG 1973)
    Tiếng Chim Vườn Cũ (Trí Ðăng 1973)
    Qua Cầu Gió Bay (truyện dài Văn Mới SG 1974)
    Ðường Một Chiều (truyện dài Nam Giao SG 1974)
    Ngựa Nãn Chân Bon (truyện ngắn Người Việt 1983)
    Xuôi Dòng (truyện ngắn Văn Nghệ 1987)
    Mùa Biển Ðộng (trường thiên tiểu thuyết Văn Nghệ 1984-1989)
    Sông Côn Mùa Lũ (trường thiên tiểu thuyết An Tiêm 1991)

    NGỰA NẢN CHÂN BON ​


    Gió vi vu làm nền cho lời ca thánh: ...?Nhờ công ơn lân tuất của Chúa ta, Đấng đã từ cao cho ''Mặt trời mọc'' đến thăm viếng. Và soi sáng cho những ai còn ngồi trong u tối và trong bóng chết, để dắt chúng ta trên con đường an lạc. Lạy Chúa xin cho các linh hồn được yên nghỉ muôn đời và được hưởng ánh sáng nghìn thu. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết sẽ được sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời?.
    Vị linh mục đọc kinh Lạy Cha... và rảy nước thánh lên chiếc quan tài đóng vội bằng gỗ ván thuyền. Vợ người quá cố khóc thảm thiết, và lúc bấy giờ lời cầu nguyện lại làm nền cho tiếng khóc. ?Lạy Chúa, xin thương người quá cố này là tôi tớ Chúa. Xin đừng theo việc làm mà phán xét họ, họ vốn một lòng một ý với Chúa. Lại nữa, khi còn sống họ đã ở cùng đoàn thể các tín hữu, với một lòng tin tưởng thành thực. Xin vì lòng nhân từ Chúa, cho linh hồn Giu-se họp đoàn thể cùng các Thiên Thần Chúa trên trời. Nhờ Chúa Ki Tô, Chúa chúng con. Amen?. Quả phụ nín khóc. Dường như một lúc nào đó, tạm quên đau khổ nàng lắng nghe lời ca thánh, và bất chợt nhận thấy lời nguyện chung gần gũi với nỗi lo lắng và niềm mơ ước riêng tư. Hoặc niềm đau xót đã đến chót vót, khiến nàng bàng hoàng ngơ ngác, như người đã lên đến ngọn đỉnh trời, lo âu nhìn vực thẳm quanh mình, không biết làm gì nữa giữa chốn mây khói bàng bạc và gió thổi. Vị linh mục tiến thêm một bước để làm dấu thánh giá trên quan tài... ?Lạy Chúa xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên muôn đời, và được hưởng ánh sáng nghìn thu. Xin cho linh hồn Giu-se được nghỉ yên. Amen. Mong cho linh hồn này và linh hồn mọi tín hữu, nhờ lòng lân tuất Chúa được nghỉ ngơi bằng an. Amen?.
    Đã đến giờ hạ huyệt. Từng nắm cát rơi rào rào trên tấm ván thiên, lâu lâu có lẫn tiếng sỏi rơi khô. Góa phụ lại nức nở khóc. Chẳng mấy chốc bên bãi đáp phi cơ trực thăng lập chon von trên sườn núi có thêm một ngôi mộ. Những người đưa tang lần lượt xuống núi, lòng nặng trĩu đẩy bước chân mau.
    Chờ cho góa phụ về xong, vị linh mục mới cởi áo lễ và mời mấy người bạn thân về lán mình uống trà. Họ vui vẻ nhận lời, mỗi người có lý do hoàn toàn khác nhau. Viên trung úy từng học ban triết ở đại học Văn Khoa trước khi bị động viên muốn bàn với linh mục vài vấn đề thuộc tín lý đạo Thiên Chúa liên quan tới cái chết và sự phục sinh. Ông nhà giáo muốn có dịp đưa ra nhận xét về ý nghĩa tang lễ. Cụ cán sự công chánh hồi hưu muốn quên một ám ảnh khó chịu và muốn thưởng thức trở lại vị trà thơm Đài Loan sau mấy tuần uống trà HCR nhạt thếch.
    Họ cùng vui vẻ xuống núi. Trong khi vị linh mục lui cui xuống bếp nấu nước sôi, ba người bạn cởi áo ngoài ngồi chờ trên những chiếc ghế làm bằng thân dừa cắt từng đoạn ngắn. Trời hôm ấy hơi bức, nên họ ăn mặc hết sức ?thoải mái?. Người nào cũng vận quần đùi. Cụ cán sự công chánh mặc chiếc áo thun tay cánh mầu xanh dương, trước ngực vẽ hai đứa trẻ cầm vợt vũ cầu với hàng chữ ?Joanna is my childday friend?. Lúc được tàu khoan dầu vớt, cụ bỏ quên áo nhà binh rách lưng dưới ghe nên một thủy thủ Tây Đức phải nhín bớt phần quà Noel gửi cho con trai giúp cụ đỡ rét. Ông nhà giáo có lẽ cũng gặp cảnh huống tương tự, nên mặc cái áo polo trắng có in hình một cô gái Hawai tóc đen dài quấn lơ là tấm khăn vải hoa thật sặc sỡ. Cô gái đứng cười lẳng lơ dưới gốc dừa, trong khi ông giáo phải cười ngượng nghịu mỗi lần có ai nhìn chăm chú vào ngực mình.
    Viên trung úy thì giữ được cái áo treillis cho đến tận cầu tàu đảo tị nạn, nhưng luật lệ ở đây không cho phép mặc đồ nhà binh, nên anh phải cởi áo nộp cho cơ quan quản lý trị an và xin một áo may-dô có vẽ chiếc trực thăng trên hàng chữ đỏ viết vội Ku Ku Camp. Vị linh mục đem nước sôi nấu trong lon pâté hộp lên. Ông cũng mặc quần đùi, khoác thêm cái áo sơ-mi trắng cũ. Ngồi chờ nước trà quanh cái bàn gỗ ép xiêu vẹo, cả bốn trở thành những người bình thường. Khó lòng đoán được quá khứ, nếu chỉ nhìn mái tóc dài và cách ăn mặc của họ.
    Viên trung úy ghiền cà phê không tha thiết mấy với chuyện uống trà, dù là trà Đài Loan thượng hảo hạng... nên không chịu kiên nhẫn chờ. Vị linh mục vừa ngồi xuống, anh đã vồ vập hỏi:
    ?oLúc giảng kinh trên thánh đường, Cha có nghe chị ấy kể lể những gì không??
    Cụ cán sự công chánh ngăn lại:
    ?oChầm chậm đã nào! Trà chưa đượm đâu. Vội gì!?
    Linh mục do dự chưa biết phải theo phái già hay phái trẻ. Ông quay về phía nhà giáo, bắt gặp ánh nhìn khuyến khích. Linh mục cười rồi đáp:
    ?oCó chứ!?
    Anh trung úy liền hỏi:
    ?oCha có bực mình không??
    ?oKhông.?
    Ông giáo tò mò hỏi:
    ?oChị ấy nói gì thế??
    Linh mục đáp thay cho anh trung úy:
    ?oLúc ấy tôi đang hát: ?Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết cũng sẽ sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời? - ?Góa phụ?, xin lỗi, phải nói cho đúng hơn là ?chị ấy? vật vã bên quan tài kêu khóc ?Em đã cầu nguyện liên tiếp bao nhiêu ngày mà Chúa có cho anh sống được đâu! Làm sao sống lại đây, anh ơi là anh!? Họ chỉ mới yêu nhau, và trốn cha mẹ dắt nhau sang đây trước khi làm lễ cưới. Chị ấy chưa nhận phép bí tích, chưa hiểu ý nghĩa sự sống lại.?
    Ông nhà giáo quên cả tính e dè cố hữu, chen vào hỏi:
    ?oỞ chỗ riêng tư xin hỏi thật Cha: Cha có tin ở sự sống lại không??
    Câu hỏi bất ngờ gây thích thú cho mọi người, kể cả vị linh mục.
    Ông chậm rãi đáp, giọng tâm sự:
    ?oTôi cũng xin thật thà đáp các bạn rằng đức tin đến với tôi không theo đường thẳng, lúc vào chủng viện tôi không đặt câu hỏi ấy. Tôi còn nhỏ tuổi, vào chủng viện hay không, có nghĩa đơn giản là vâng lời bố mẹ hay cưỡng lại. Tôi là một đứa con ngoan. Sau nhiều năm học giáo lý, tôi dần dần hiểu tầm quan trọng của câu hỏi, nhưng câu trả lời còn mập mờ. Nếu tôi tiếp tục ở lại chủng viện, có lẽ lý do chính là tôi sợ làm điều khác thường, điều gây ra tranh luận hoặc tệ hơn nữa là gây tai tiếng. Cuối cùng tôi xác quyết rằng có. Các bạn thấy đấy, nếu không khẳng định với tất cả niềm tin, tôi đã trở thành một người tu xuất rồi.?
    Thấy nét mặt viên trung úy có thoáng ngờ vực, linh mục hỏi:
    ?oCòn anh, anh tin không??
    Trung úy đáp ngay:
    ?oCha đừng phiền. Tôi không tin. Hình như Feuerbach hay Marx có nói rằng tôn giáo luôn luôn mang tính chất của nữ tính. Tôi không nhớ rõ ai nói vì sau mấy năm, mớ kiến thức triết học ít ỏi đã rỉ sét cả rồi. Nhưng câu nói trên thì nhất định đúng.?
    Vị linh mục mỉm cười bao dung, lắc đầu chầm chậm:
    ?oRắc rối đấy. Không tin có sự sống lại thì sẽ không trả lời được nhiều câu hỏi hóc búa mà thiết thân: ?Từ đâu ta đến đây? Sống để làm gì? Chết rồi sẽ về đâu? Ý nghĩa của bao nhiêu bất công đau khổ trên quãng đời ngắn ngủi?...?
    Viên trung úy không chờ thêm được, cắt lời vị linh mục:
    ?oNhững câu hỏi vô ích! Tại sao phải hỏi vậy? Chính cách đặt câu hỏi như thế là dấu hiệu của nữ tính hoặc của tuổi già. Người Pháp có một cách phân biệt tuổi già và tuổi trẻ, sức-mạnh-tự-tin và sự-yếu-đuối-chịu-đựng thật hay. Gặp một bức tường chắn lối đi, tuổi trẻ xem đó là một ?Obstacle à franchir?, tuổi già lại xem như một ?Surface à étudier?. Không nên trở lại những điều đã rồi như ?từ đâu ta tới đây?? Đau khổ ư? Bất công ư? Hãy gắng thu xếp ngay trong đời này chứ đừng nhờ vả hoặc hứa hẹn lần hồi. Còn cái chết? Tôi đoán được ý Cha: Chỉ có Thiên Chúa ban sự sống nên cũng chỉ có Thiên Chúa mới quyết định sự chết và cho sống lại. Không. Không. Chính con người dựng tượng Chúa thì con người có thể quyết định được cái chết. Điều quan trọng là dám hay không? Tôi cho rằng những người thực sự tin ở mình là những kẻ dám tự vẫn. Không chọn được lúc và nơi sinh ra, thì ít nhất cũng dám chọn cho mình lúc và nơi chết đi!
    Không khí tranh luận có vẻ căng thẳng. Cụ cán sự hồi hưu vội nói:
    ?oTuổi trẻ thì lúc nào cũng thế, nhưng kinh nghiệm do lớp già chúng tôi thu thập được bằng cuộc đời thăng trầm, không phải đáng vất cả đâu. Chúng tôi đã từng u đầu vì nhiều bức tường cao, nhiều lần vì hăng tiết vịt, rồi mới cẩn thận ?nghiên cứu? nó. Tôi dịch étudier thành chữ ?nghiên cứu?, có đúng không nhỉ??
    Nhà giáo cười lớn rồi bảo:
    ?oCụ dịch hay lắm. Thâm lắm! Cụ mỉa mai khéo quá! Nhưng ta uống trà đi chứ. Nguội mất!?
    Linh mục chủ nhà nhớ lại phận sự của mình, cười xuề xòa rồi mời:
    ?oCác bạn uống trà đã. Mời cụ, mời anh. Trung úy uống trà đi. Chuyện đâu còn đó. Tôi xin trả lời trung úy về chuyện tự vẫn, sau khi ta thanh toán xong ?ấm? trà này. Xin cụ đừng cười. Tôi vẫn thường khoe với các giáo hữu cái rề-sô tự tạo và cái ?ấm Thiết Quan Âm? đặc biệt HCR này.?
    *
    Rán thu xếp mọi sự trong đời này? Ai lại không muốn thế. Tôi cũng mong ước như trung úy. Và tôi tin rằng những con người dùng đồ đá thời tiền sử cũng khao khát ?thu xếp? gọn gàng cuộc đời mình với các phương tiện thô sơ. Chúng ta không biết họ có tìm được cách nào không, nhưng những di tích khảo cổ tìm thấy chứng tỏ họ chỉ tìm được một nền văn hóa tạm phù hợp với đời sống thực tế, còn những điều khó khăn, họ cũng hẹn lần hồi hay nhờ vả đến thần linh. Từ bấy đến nay biết bao thế hệ đã sống cuộc đời của họ trên quả đất này, và theo chỗ tôi biết, loài người vẫn chưa thu xếp xong. Triết lý, thần học thường nhắc đến chữ ĐẠO. Con đường của nó luôn mời gọi sự khai phá, mời gọi khởi hành. Cho nên những cuộc tranh luận về sự sống và phục sinh khó lòng đi cho đến một kết luận được mọi người công nhận. Con đường ?ođạo? để cất chân bước và sống trọn với niềm thao thức chân thành, chứ không phải cho kẻ đứng bên lề ?nghiên cứu? lạnh lẽo. Tôi dài dòng như vậy để giải thích vì sao thay vì dùng lý luận, tôi lại kể một câu chuyện để trả lời trung úy. Không. Tôi giới hạn trong vấn đề nhỏ thôi. Vấn đề tự vẫn để xác lập sự cao cả tự tín của con người. Tôi cũng xin nói thêm rằng câu chuyện này tuy có thực nhưng vẫn giống với chuyện tiểu thuyết. Nó không vraie, mà vraisemblable. Tôi xin dịch là ?odường như có thực?, được không cụ? Tôi nhấn mạnh hai tiếng ?dường như? vì những điều người vợ nói với tôi, các bản thảo, sách vở người chết để lại, quang cảnh căn phòng trên gác xép lúc tôi đến, cùng những tìm hiểu của tôi sau này qua sách báo ở thư viện đều là những chứng liệu mờ ảo, có thể như thực theo nhận định và khả năng tổng hợp yếu kém của tôi, nhưng chưa chắc đúng là sự thực nếu chính người chết hồi sinh và đứng ra kể lại cách ?thu xếp? của mình. Tiện hơn hết các bạn xem đây như một thứ dụ ngôn. Hồi ấy tôi vừa được đổi về giáo xứ X. Công việc của một Cha xứ mới đến giáo xứ lần đầu bề bộn như thế nào, các bạn tưởng tượng được rồi. Tòa giám mục địa phận cho phép vị Cha xứ tiền nhiệm ở lại giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi một thời gian, nhưng thú thật, vị ấy đi rồi, tôi cảm thấy bối rối. Giáo dân chiếm một nửa dân số ở vùng này, và vì ở sát một căn cứ Mỹ, nên thành phần dân chúng hết sức phức tạp. Gần giống như một đống rác vậy.
    Nhưng là rác Mỹ còn nhiều thứ phế thải đáng giá, nên ruồi nhặng tứ phương dồn về đây. Gái điếm, ma cô, trộm cắp, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ. Tòa giám mục phải đổi vị Cha xứ tiền niệm về địa phận khác vì Cha ?cứng? quá, muốn mọi người phải sống đúng theo tinh thần Phúc âm, kể cả các quan chức nên va chạm nặng với chính quyền địa phương. Nhà cửa dựng vội quanh khu quân sự Mỹ thì luộm thuộm, sặc sỡ một cách lõa lồ với đủ thứ bảng hiệu tiếng Mỹ như Steak house, Laundry shop, Bar, Car washing, Room for rent. Các bạn đừng cười, có cả bảng quảng cáo ?Beautiful roommate for you? nữa. Theo lời khuyên của Cha tiền nhiệm, tôi bắt đầu tổ chức lại các hội đoàn và bình thường hóa các sinh hoạt phụng vụ. Những giáo dân đến tiếp xúc với tôi, đúng như trung úy nói, hầu hết là đàn bà. Gái điếm bị lính Mỹ bỏ ngang đến cầu cứu Chúa. Mà gái điếm ế khách toan hoàn lương cũng có. Không thiếu những bà mẹ lo lắng thấy con sa vào cám dỗ, hoặc những người vợ xanh xao mất chồng. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi đang tập hát cho ca đoàn nhà thờ thì một người đàn bà ốm yếu, mặt hốc hác, mắt thâm quầng hớt hải đến tìm. Tôi nghĩ thầm: ?Lại thêm một bà mẹ mất con nữa đây?. Người đàn bà vừa gặp tôi đã quì xuống van lơn trong nước mắt:
    ?oCon van Cha! Xin Cha đến ngay cho! Nhà con đang hấp hối. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con!?
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tôi vội đi ngay. Căn nhà ván ọp ẹp nghèo nàn nhưng không thuộc vào loại ?ăn xổi ở thì? như những Laundry shop, Bar, Room for rent vây quanh. Thoạt nhìn tôi đã đoán chủ nhà thuộc loại công chức nghèo lỗi thời, quyết giữ nếp nên kiên nhẫn đi ngược gió. Loại nhà hạng tiểu công chức ở phố huyện như các bạn thường thấy: Một cửa lớn và hai cửa sổ lá sách không lắp kính, phía trước có hàng rào gỗ thấp ngăn con nít ra đường, bàn ghế gỗ loại chắc và rẻ ở phòng khách, cái tủ chè đựng vài cái ly, bộ chén tách, hộp trà, đôi lọ thuốc cấp cứu gia dụng... Chỉ nội việc giữ nguyên gian phòng khách cổ lỗ bám bụi truyền thống chứ không sửa thành Room for rent cũng đủ chứng tỏ ?khuynh hướng bảo thủ? của chủ nhà. Tôi có thiện cảm ngay. Tôi chỉ hơi ngờ ngợ khi nhìn quanh không tìm thấy bàn thờ Chúa.
    Người đàn bà dẫn tôi qua một cửa ngăn có treo tấm màn cửa đã hoen ố cũ kỹ. Gian sau tối om và ẩm mốc. Ngay sau cửa ngăn có một cầu thang bằng gỗ dẫn lên gác xép. Người đàn bà thấy tôi dọ dẫm bước, liền nói:
    ?oXin lỗi Cha. Để con đi thắp đèn.?
    Tôi quen dần với bóng tối nên đáp:
    ?oKhỏi cần. Cha đã thấy rõ các bậc cấp rồi.?
    Người đàn bà đi sau vẫn chưa yên tâm, run run nhắc:
    ?oCha vịn vào thanh gỗ kẻo ngã.?
    Tôi leo thang chầm chậm, tò mò đưa mắt nhìn xuống phòng sau. Ngoài hai chiếc giường con hẹp màn gối bừa bãi, gian giữa chứa toàn sách là sách. Không có tủ kệ gì cả. Một miếng ván kê lên hai viên gạch, thế rồi trên đó chồng chất so le hết lớp sách này đến lớp sách khác, cao quá tầm người. Tôi khựng lại. Nếu người đàn bà không đẩy lưng tôi giục giã, giọng pha lẫn sợ sệt:
    ?oXin Cha nhanh cho. Nhà con nằm trên đó.?
    Có lẽ tôi đã dừng lại để ngắm khung cảnh lạ mắt bất ngờ ấy rồi.
    Lên khỏi thang gác, tôi còn gặp bất ngờ khác lớn hơn. Gác xép thoáng khí hơn tầng trệt, cũng chồng chất toàn sách. Ánh sáng chiều tà dọi từ cửa sổ phía tây nhuộm vàng mọi thứ, kể cả người đàn ông đang nằm ngửa trên sàn gác. Quanh ông, sách vở, giấy tờ vất lung tung. Người vợ không dám lên khỏi cầu thang, ló đầu sợ sệt hỏi:
    ?oThưa Cha, nhà con còn sống không??
    Tôi vội bước đến chỗ người chồng nằm. Người đàn ông đã già, khoảng trên dưới sáu mươi. Hai mắt trợn. Lưỡi thè ra, nước miếng còn đóng bọt hai bên mép. Đũng quần ướt. Tôi đâm hồ nghi. Chăm chú nhìn kỹ chỗ cổ áo, tôi thấy có vết bầm tím xây xát quanh cái cổ xanh xao. Tôi vội ngước lên trần nhà, hy vọng mình đoán sai. Nhưng không. Một đoạn dây thừng còn treo lơ lửng, khẽ lay động khi có gió thổi. Tôi thất vọng, hơi giận khi quay lại nói với người vợ:
    ?oÔng ấy thắt cổ tự vẫn mà!?
    Người vợ đã lên khỏi cầu thang, đứng nép vào vách ván. Đoán được tâm trạng của tôi, bà ta phân bua:
    ?oNhưng nhà con chưa chết. Hơn nữa, lúc còn sống...?
    Người vợ ngập ngừng, rồi dừng lại. Có lẽ bà chợt thấy câu nói của mình có mâu thuẫn vô lý. Tôi cúi xuống đưa tay sờ lên chỗ trái tim người chồng. Không cảm thấy gì cả. Sờ lên tay chân. Còn mềm nhưng bắt đầu lạnh. Khuôn mặt khắc khổ bất động, cái nhìn trợn trừng mờ đục, vừa giận dữ vừa chới với. Tôi quay lại nói dứt khoát:
    ?oÔng nhà chết rồi!?
    Người vợ bật khóc nức nở, rồi sụp xuống quì bên cạnh tôi. Giọng bà hối hả thống thiết:
    ?oCon van Cha. Cha hiểu giùm con. Không phải con lừa dối Cha. Lúc con lật bật cắt dây đem nhà con xuống, nhà con vẫn còn thở. Nhà con có lầm bầm gì đó, con nghe hình như nhà con muốn xưng tội. Trước đây đôi lần nhà con cũng có ý đó. Thế nào nhà con cũng viết trên bản thảo. Xin Cha tin con. Con van Cha. Xin Cha làm phép giải tội cho nhà con. Con van Cha! Con lạy Cha!?
    Nói xong, người vợ khóc lớn hơn. Tình cảnh tôi thật khó xử. Rõ ràng người đàn ông này đã tự ý quyết định cái chết của mình, đã cướp
    đoạt quyền năng Thiên Chúa, đã ?dám chọn cho mình lúc chết và nơi chết? như trung úy vừa bảo. Còn cái ý định muốn xưng tội từng viết đâu đó trên tờ bản thảo nào đó nằm lây lất khắp gác xép, thì đáng ngờ lắm. Làm sao cho khỏi đi ngược với tín lý? Nếu không có những chồng sách và khung cảnh ?ngược gió? đầy khắc kỷ vừa gây thiện cảm cho tôi, có lẽ tôi đã từ chối dứt khoát từ lúc đầu. Tôi mới về một giáo xứ lạ và phức tạp, các bạn hiểu cho, tôi cần giữ một số nguyên tắc. Tôi do dự chưa biết phải làm thế nào; chỉ vì chất khắc kỷ ấy đã thuyết phục tôi. Cuối cùng khuôn mặt xanh xao thống khổ và đôi mắt van lơn của người vợ khiến tôi nhượng bộ. Tôi hỏi tên thánh của người chồng. Người vợ mừng rỡ cho biết tên Bao-ti-xi-a. Tôi làm phép giải tội. Nhưng làm xong, tôi lại sợ đã làm điều trái với Phúc âm. Hy vọng còn lại của tôi là sẽ tìm được ý muốn xưng tội của người chết giữa đống bản thảo. Tôi đã đoán không lầm. Người chết là một nhà văn, một nhà tư tưởng từng xuất bản nhiều sách và đăng nhiều bài tiểu luận trên tạp chí.
    Việc đầu tiên của tôi là hỏi cặn kẽ về nguyên do cái chết. Người vợ được thỏa nguyện nên lấy lại đủ bình tĩnh để nghe và đáp. Cho đến chiều hôm trước, người chồng chưa tỏ điều gì khác thường. Mái tôn rỉ sét, mưa dột vào gian giữa tầng dưới, nên người vợ thấy chồng cặm cụi xếp dọn lại đống sách cũ, không lấy làm ngạc nhiên. Ông xuýt xoa tiếc rẻ những cuốn bị thấm nước hoặc bị mối đục, rồi bê hết những cuốn sách quí có đóng bìa da gáy in chữ vàng lên gác. Cẩn thận hơn, ông đem chiếc ghế đẩu theo để làm giá. Những hành động đó bình thường, hoàn toàn bình thường. Người chồng thức khuya, vật vã khổ sở với đống bản thảo. Chuyện đó cũng bình thường nốt. Điều bất thường duy nhất là buổi sáng, người chồng cứ thắc thỏm chờ đợi cái gì, lâu lâu nhắc người vợ sao đã trưa chưa đi chợ. Người vợ hẹn chiều. Người chồng ậm ừ khó chịu, rồi im lặng... Lúc 2 giờ, người chồng dặn vợ nếu đi chợ nhớ mua cho ông bánh thuốc lào loại 888. Dù thức ăn còn đủ đến sáng hôm sau, người vợ bắt buộc phải ra chợ huyện. Lúc trở về, ông đã thắt cổ tự vẫn rồi. Tôi thắc mắc:
    ?oTại sao chồng sách quí lại đổ vương vãi thế kia??
    Người vợ có vẻ lo âu, ngập ngừng nhìn xác chồng một lúc như ngại người chết nghe thấy, rồi mới đáp nhỏ:
    ?oNhà con không dùng cái ghế đẩu. Nhà con xếp chồng sách cho cao, leo đứng trên đó để...?
    Bà liếc nhìn đoạn dây thừng đong đưa, mặt xám xanh, không nói tiếp được. Tôi hiểu. Thật khéo chọn cách chết. Đúng là ?cái chết chín chắn hàm súc? của một nhà tư tưởng suốt đời nhọc nhằn với đống sách vở. Tôi đưa mắt nhìn chiều đổ của đống sách quí. Đúng lắm. Sách đổ theo một chiều, cái chiều người chồng đã lấy đà ẩy ngã chồng sách kê sau khi đưa cổ vào thòng lọng. Tôi tò mò muốn xem những cuốn sách được lựa chọn làm chân đế cho cái chết tự nguyện. Các bạn đoán thử xem những cuốn gì!
    Biết vị linh mục muốn áp dụng kỹ xảo của những tay kể chuyện nhà nghề, ưa chọn chỗ hấp dẫn nhất làm phút giải lao, ba người kiên nhẫn chờ nhà tu chầm chậm uống hết ca nước trà. Viên trung úy mất kiên nhẫn trước tiên, nên hỏi vội:
    ?oÔng ta là nhà tư tưởng ư? Cha cho biết tên được không??
    Linh mục đáp:
    ?oRất tiếc, như đã nói từ đầu, tôi muốn giữ nguyên cái chất vraisemblable của câu chuyện. Những cuốn sách quí tôi tìm thấy ngay dưới chân xác chết là bộ Tứ Thư bằng chữ Hán, Kinh Viên Giác và Lăng Nghiêm do Viện Phật Học Nam Việt xuất bản, bản Đạo Đức Kinh xuất bản tại Hồng Kông, Nam Hoa Kinh do Nhượng Tống dịch, bản dịch kinh Coran bằng tiếng Pháp, bộ Tư Bản Luận của Karl Marx, bộ Luận Về Lịch Sử của Toynbee, cuốn sách mỏng: Bài học lịch sử của Ariel & Will Durant, cuối cùng, dĩ nhiên phải có bộ kinh Cựu và Tân Ước. Trung úy thấy đấy, một người đã bỏ cả đời đọc đi đọc lại bao nhiêu cuốn kinh sách để gắng trả lời các câu hỏi bức thiết ?Ta từ đâu đến? Sống làm gì? Chết về đâu? v.v...?, để gắng ?thu xếp?. Ông ấy tìm được gì chưa? Lúc đó tôi cũng hỏi như vậy. Tôi quay lục tìm đống bản thảo bừa bộn. Đọc kỹ các tựa đề và số thứ tự ghi ở góc trên mỗi xấp bản thảo, tôi mới khám phá ra nhiều điều thú vị khác. Không. Các bạn yên tâm. Lần này tôi không bắt các bạn làm thầy bói nữa đâu. Hóa ra đống bản thảo chỉ có vẻ bừa bộn bề ngoài. Đọc kỹ, tôi thấy tác giả đã xếp riêng từng khóm, mỗi khóm luận về cũng một loại đề tài. Kỹ lưỡng hơn, trong mỗi loại có xếp thứ tự các bài viết theo thời gian. Bài viết xưa nhất viết năm 1940 về phong trào đấu tranh của thợ mỏ Cẩm Phả. Bài mới nhất ?viết? một ngày trước khi tự vẫn, xếp vào loại siêu hình học, chỉ đơn giản là một trang giấy học trò với một dấu hỏi và một dấu than lớn nét run run bằng mực viết nỉ. Tôi đã đoán như thế này, không biết các bạn có đồng ý không. Nhà văn đã chuẩn bị kỹ cho cái chết của mình, chuẩn bị trong sáng suốt và tự chủ. Từ nhiều hôm trước, ông đã lục và đọc lại tất cả những bài mình viết từ gần 40 năm nay, đọc thật kỹ rồi mới phân loại, ghi số. Thu hoạch kết quả suy nghiệm bao nhiêu năm, ông mới ?viết? bản thảo sau chót. Một dấu hỏi, và một dấu than. Ông quyết định tìm cái chết. Ban đầu ông định tìm cái ghế đẩu, và muốn vợ con bạn bè còn ở lại khỏi hiểu lầm, ông xếp chồng sách quí và xấp bản thảo ngay ngắn bên cạnh cái ghế. Nhưng tới lúc leo lên ghế để thắt thòng lọng, nhà văn chợt tìm ra một chân lý. Những chuẩn bị cẩn thận vừa làm có ý nghĩa gì trước cái chết? Sách quí ư? Nó có giúp ông hiểu gì thêm về cuộc đời? Những điều ông suy luận ư? Nó ?thu xếp? được gì cho ông và cho đồng loại? Ông tự thấy lẩm cẩm. Ông nhấc cái ghế đẩu đặt vào góc phòng, quyết định dùng chồng sách thay vào. Còn bản thảo, làm gì bây giờ? Đây mới thực là máu thịt, là mồ hôi nước mắt của đời ông! Ông muốn vất tung tóe cho xứng với dấu than trong bản thảo cuối. Nhưng niềm kiêu hãnh tuyệt vọng của người cầm bút ngăn ông lại. Ông vẫn vất chúng đi, từ trên chồng sách quí. Nhưng vất theo từng xấp, từng loại! Những bài báo và sách của nhà văn về sau tôi tìm đọc ở Thư Viện Quốc Gia xác nhận dự đoán của tôi. Nhà văn đã gặp bế tắc về tư tưởng. Ông hăm hở mở đường, nhưng về già thì gặp tuyệt lộ. Điều đáng yêu (hoặc đáng thương tùy theo lượng bao dung của từng người) là đến phút chót, ông ấy vẫn hy vọng cách chết của mình mang một message, một thứ sứ điệp nào đó.?
    Cụ cán sự hồi hưu hỏi:
    ?oRồi Cha có tìm được bản thảo ghi ý muốn xưng tội không??
    Vị linh mục đáp, thật trầm tĩnh:
    ?oCó, tôi tìm ra ngay.?
    Đoán biết ba người bạn chờ đợi, linh mục tiếp:
    ?oTôi tìm ở dấu than của bản thảo cuối cùng.?
    *
    Điều dễ đoán là ngay sau khi vị linh mục dứt lời, viên trung úy giành nói trước:
    ?oXin Cha đừng buồn. Tôi xin nói ngay là tôi không đồng ý với cách suy luận của cha. Cha vừa nói hành động cuối cùng của nhà văn đó đáng yêu hoặc đáng thương tùy theo lượng người. Nếu tôi không lầm, cha cho là đáng thương chứ gì? Tôi cho thật đáng yêu! Đáng kính! Cha đã lầm lẫn ở một số điểm quan trọng thuộc phương pháp suy luận. Tuy cha có cẩn thận không dám xác định câu chuyện vừa kể là có thật, là vraie, mà chỉ vraisemblable, dường như có thật. Còn xa với ?dường như có thật? lắm lắm! Cha quan sát khung cảnh gác xép để tưởng tượng ra diễn tiến cái chết, rồi dùng các bản thảo đọc vội lẫn sách báo do người chết viết để kiểm chứng. Phương pháp ấy không thể tái tạo sự thật được. Này nhé, những gì chúng ta cảm thấy, nghĩ ra phần lớn đều mông lung, phức tạp. Khi định được ý, ta đã loại bỏ không thương tiếc một số yếu tố không phù hợp với lý trí, hoặc ước lệ xã hội. Rồi từ lúc định ý cho đến lúc viết thành chữ, ta lại phải đơn giản hóa, hệ thống hóa để người khác hiểu được. Chữ viết là một thứ đồ nguội, tệ hơn nữa, một thứ đồ hộp có chỉ dẫn tỉ mỉ cách pha chế cho tiện lợi đối với kẻ phàm tục lười biếng.
    Cái nóng hôi hổi đang bốc hơi, cái còn chảy máu không thể diễn ngay thành chữ. Cho nên đọc những gì người ta viết để tìm hiểu họ là điều đáng ngờ. Nếu vạn bất đắc dĩ không có cách nào khác thì chỉ nên tin những gì họ viết vào ba thời điểm sau đây: Thứ nhất là những tác phẩm thời niên thiếu, lúc họ chưa nổi danh nên chưa tự uốn nắn bản ngã vì cái hào quang giả tạo. Tôi tin những gì Marx viết lúc còn trẻ giá trị gấp mấy trăm lần bộ Tư Bản Luận. Thứ nhì là những gì họ viết lúc về già. Khổng Tử thú nhận đến 70 tuổi mới hiểu đôi chút về lẽ Dịch. Có lẽ lúc ấy, ?Ngài? nhớ lại cái thời cắm cúi san định Thi, Thư, Lễ, Nhạc, sẽ không khỏi đỏ mặt vì lẩm cẩm quá. Thứ ba là những gì họ nói họ viết lúc rong chơi. Rong chơi thì khỏi cần làm dáng làm bộ với ai nữa, có nói điều gì cũng khỏi sợ đồ đệ chộp lấy ghi thành kinh lưu cho hậu thế. Con người thật của Khổng Khưu chỉ hiện ra khi ông ao ước thấp lè tè, ao ước được tắm một phát ở sông Nghi, hóng mát ở đền Vũ Vu, rồi dang tay hát nghêu ngao mà về. Ngoài ba thời điểm đó ra, những gì một người viết đều có tính cách bất thấu quang, đều opaque. Nhưng thôi cứ tạm nhận như ý cha, là ông ấy tuyệt vọng trước khi tự vẫn đi. Con người ở cảnh tuyệt lộ đã đáng thương chưa? Thưa cha, chưa. Ngược lại, ngay trong trường hợp bế tắc, tuyệt vọng, cái chết tự ý vẫn hết sức cao cả. Bắt chước cha, tôi xin kể một câu chuyện có thực.?
    Vị linh mục bẻ lại:
    ?oCó thực theo tiêu chuẩn gì? Theo những điều anh nghe, hay theo lời đồn đại??
  9. pegasys

    pegasys Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/09/2004
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Trung úy đáp:
    ?oTheo những điều tôi thấy. Cha yên tâm, tôi cố gắng hạn chế các suy luận chủ quan, để chỉ còn những dữ kiện thô, chưa trau chuốt. Hồi ấy vòng phòng thủ cuối cùng ở Xuân Lộc đã vỡ, Sài Gòn ở trong tình cảnh tuyệt vọng hoảng loạn. Ông Thiệu từ chức giao ghế cho cụ giáo già sau khi hứa sẽ ở lại với ?anh em binh sĩ? chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng. Không biết cụ giáo có chống gậy lên Tân Sơn Nhất tiễn gia đình người bạn chiến đấu hay không; có lẽ cụ mệt quá, chán cho nhân tình thế thái không hợp lẽ Quốc Văn Giáo Khoa Thư quá, nên cụ vội trao ghế cho Big Minh. Ông Minh vơ đầu này đầu kia vẫn không đủ người lập nội các, định gọi điện thoại mời ai thì đã nghe chị sen anh tài xế người đó đáp là ông chủ đã xách va-li lên Tân Sơn Nhất rồi. Kẹt nhất là Bộ Quốc Phòng. Giao cho ông tiến sĩ luật cái bộ súng đạn, Big Minh không yên tâm chút nào. Chất nổ, xe tăng, máy bay đâu có chịu học luật! Nhìn quanh chỉ toàn các tướng về vườn lâu nay chuyên mở tiệm nhảy đầm, nuôi gà, làm thầu khoán. May còn có ?anh cả Trường Sơn? dòng dõi hoàng tộc để giao khoán cái Tổng Tham Mưu. Anh cả lên ti-vi chửi bọn chuột nhắt hèn nhát không lo đánh đấm mà chỉ lo trốn, rồi ngay hôm sau, chính anh cả cũng làm chuột nhắt. Ở các bến tàu, sân bay, thiên hạ chen chúc nhau, nếu cần dày xéo chém giết nhau để tìm một chỗ ra đi. Lính rã ngũ vất quần áo súng đạn đầy hai lề xa lộ, chỉ mặc độc cái quần đùi thất thểu qui cố hương. Cướp bóc lan tràn khắp phố phường. Cái cảnh chợ chiều ấy, các bạn đã chứng kiến tận mắt, tôi khỏi cần phải dài dòng. Tôi chỉ nhắc sơ lược để lưu ý các bạn rằng hồi ấy chúng ta hoang mang cùng cực, không có lấy một chút gì để tin tưởng nữa. Cùng thất trận, nhưng chúng ta khác xa với tình cảnh dân tộc Đức và Nhật năm 1944, 1945. Họ còn được niềm kiêu hãnh. Các sĩ quan Nhật mổ bụng tự vẫn với lương tâm bình yên và một niềm tự hào ngút ngàn. Chúng ta hồi đó có gì? Không có gì cả. Ngoài lòng trung thực ra, chúng ta không có gì làm vốn để dám lên ti-vi chửi bới ?lũ chuột nhắt?, mà cũng không đê tiện đến nỗi chửi xong vội vã cuốn gói ra đi. Không biết các bạn thế nào, thú thực hồi ấy, tôi dùng dằng bất quyết. Ra đi thì không muốn. Ở lại thì e ngại. Cuối cùng phải tìm đủ lý luận để trấn an mình. Nào là mình chỉ là hạng sĩ quan nhép ngồi bàn giấy, không tội tình gì phải lo sợ. Nào là thà làm cái xác chết bón cho cây Việt Nam hơn là làm kẻ tha hương lơ láo! Đất nước thống nhất rồi, Nam Bắc một nhà, bây giờ ta có dịp ?nối vòng tay lớn?. Một ông bạn thi sĩ của tôi làm ngay bài thơ tả khoái cảm lúc ngồi xe lửa hạng nhất có couchette đi du lịch từ Sài Gòn đến tận ?Mục Nam Quan?, đến mỗi ga vẫy tay chào những người anh em thân ái, đùa với em bé, hàn huyên với cụ già, tay bắt mặt mừng với đôi mắt rướm lệ. Chung chung thì bọn chúng ta đều lãng mạn như vậy cả. Hoặc bỏ ra đi, hoặc ở lại với cái ?mộng thanh bình?. Không như Nhật năm 1945, rất ít người nghĩ đến chuyện tử tiết! Tử tiết để làm gì? Cho ai? Cho những ông tướng chiến đấu đến đồng đô la cuối cùng à? Hay cho cụ giáo? Cho ông Minh? Phải có một niềm tin sắt đá vào cái gì đó, hoặc một niềm kiêu hãnh cao cả nào đó, người ta mới tử tiết được chứ! Cho nên tôi hết sức kinh ngạc khi nghe tin một số tướng tá ở Vùng 4 đã tự vẫn chết, sau khi căn dặn cấp dưới chuẩn bị kỹ thủ tục ?bàn giao? theo lệnh tân Tổng Thống. Người dễ dãi vô tư tiếc rẻ giùm họ. Việc gì tự làm khổ thân thế! Sao không khôn ngoan như anh cả Trường Sơn? Người ưu tư thì hoang mang. Nhưng bao nhiêu chuyện đổi đời dồn dập đến sau 30 tháng Tư 75 khiến thiên hạ không còn tâm trí đâu nghĩ đến họ nữa. Lâu lâu nhớ lại, họ thấy thương, và phục, một cách mơ hồ thuần cảm tính.
    Nếu không tận mắt chứng kiến một cái chết tương tự, có lẽ tôi cũng giống như bao nhiêu người khác. Hôm ấy là ngày 2 tháng Năm 75, ba anh em tôi, một đứa Hải Quân lái tầu tuần duyên ở Nha Trang, một đứa phi công AD6, một đứa Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn I, may mắn đoàn tụ ở Sài Gòn trước ngày 30 tháng Tư, sáng hôm ấy mở cả caisse Champagne (Champagne dân hôi của khuân từ kho lương thực Mỹ ở quân cảng về bán rẻ rề ở chợ Tân Định, mỗi chai 300$), cắt nguyên một cái đùi jambon (cũng nhãn hiệu Mỹ cùng xuất xứ) ra nhậu mừng hòa bình và đoàn viên. Chúng tôi hân hoan, ?hồ hởi? chờ đợi một ông anh tập kết ra Bắc năm 1954 sắp về. Thằng em Hải Quân định về Cần Thơ mua vườn, đào ao nuôi cá. Thằng lái AD6 muốn lên cao nguyên khai hoang, hai vợ chồng sẽ sắm đôi ngựa để chiều chiều thắng yên phi trên đồi cao nhìn xuống cảnh thung lũng như những lúc nhìn từ buồng lái AD6. Thật khôi hài mà cũng thật cảm động! Nhậu xong, chúng tôi dứt khoát với quá khứ bằng cách đem hết đồ nhà binh, thẻ bài, mũ mãng cân đai ra hỏa thiêu. Mẹ chúng tôi cười chảy cả nước mắt. Thôi, thế là từ nay hết thắc thỏm lo âu mỗi khi nghe tin chiến sự! Qua được bao năm bom đạn mà lũ con trai còn trở về đầy đủ, chẳng những thế, không đứa nào bị thương tật, còn phước nào lớn hơn! Chúng tôi đèo nhau trên hai chiếc Honda đi xem phố xá. Cờ đỏ, khẩu hiệu vải đỏ, bảng cơ quan nhà nước màu đỏ. Ở đâu cũng đỏ ối. Ở đâu cũng chói lòa. Chúng tôi ra đường Lê Lợi. Người chật như nêm. Xe hơi, xe Honda phun khói mù mịt, chờ thật lâu ở các ngã tư mới nhích được một bánh. Người đi bộ thì xúm quanh các toán bộ đội, xe tăng. Thấy đi xe bất tiện quá, chúng tôi gửi xe đi bộ. Mệt, khát, tôi đề nghị vào Givral tìm cái gì để uống. Hai đứa em đồng ý ngay, nhưng trong tiệm kem cũng chật cứng. Các bạn nhớ, dân Sài Gòn hồi đó vung tiền qua cửa sổ vì những cuộc nhậu nhẹt lu bù. Sợ chẳng mấy chốc tiền cũ không xài nữa, hoặc nghe nói cách mạng chủ trương sống tiết kiệm khắc khổ, không ăn bây giờ về sau lại tiếc. Tìm không ra ghế, chúng tôi qua công viên trước Quốc Hội đứng đợi. Hai pho tượng Thủy Quân Lục Chiến vẫn chỉ súng vào cái nhà hát vắng đào kép. Tôi đang trỏ lên ngọn cây trước Quốc Hội bảo các em:
    ?oNếu những cây này biết nói và viết, thì chắc chúng đã trở thành những nhà viết sử tài ba.?
    Thì một người đàn ông khoảng 40 tuổi mặc áo mưa mầu xanh đậm loại Không Quân đến gần chúng tôi. Cậu lái AD6 tưởng gặp một xếp lớn cùng binh chủng, sửa lại thế đứng để chờ chào theo thói quen quân kỷ.
    Nhưng không! Người đàn ông không quen biết gì với chúng tôi cả. Qua khỏi ghế đá chúng tôi ngồi, ông ta tiến đến chỗ bục đặt tượng, ngước nhìn hai anh Thủy Quân Lục Chiến một lúc. Thằng em Hải Quân của tôi khôi hài:
    ?oChắc là một người anh em vừa từ Bắc vào!?
    Tôi hỏi:
    ?oSao biết??
    ?oTrời bức người đông thế này mà mặc áo mưa là một sự lạ. Loại áo nhà binh này, dân Sài Gòn đang giấu hoặc đốt đi không ai dám mặc. Chỉ có ?người anh em? vừa mua được chiếc áo tốt mới dám mang đi khoe phố mà thôi!?
    Chúng tôi cười, phục đứa em thông minh. Người đàn ông khác thường trở thành mục tiêu quan sát của chúng tôi. Ông ta đứng nhìn hai pho tượng khá lâu, rồi nhìn quanh như có ý chờ đợi ai. Nét mặt ông khắc khổ, lo lắng. Tôi đoán ông đi lạc, không biết đường về cơ quan. Nếu không có lòng tự ái của kẻ thua trận, có lẽ tôi đã tiến tới gần chỉ dẫn giùm lối về cho người anh em rồi. Làm thế thì còn mặt mũi nào! Mới hai ngày đã sợ sệt quò lụy với kẻ chiến thắng đến thế sao! Hai đứa em tôi cũng nghĩ như vậy, nên cả ba chúng tôi vẫn ngồi nguyên chỗ cũ.
    Người đàn ông nhìn quanh quất một lúc, rồi đứng nghiêm, nhìn thẳng về phía Quốc Hội. Ông ta mở cái gói giấy từ đầu vẫn kẹp ở nách bên phải ra. Hình như tay ông hơi run. Chúng tôi càng tò mò hơn. Đang cúi xuống mở nút dây buộc, đột nhiên ông ngước lên nhìn thẳng về phía chúng tôi. Ánh nhìn đầy thảng thốt ngờ vực. Tôi sợ ông ta khó chịu vì chúng tôi tò mò, nên nhìn tránh đi nơi khác. Hai em tôi cũng vậy. Lúc tôi quay lại, đã thấy ông ta đội cái mũ két sĩ quan lên đầu và đang cởi hàng nút cái áo mưa. Lạ thật! Ông ta điên chăng? Vài người dạo phố bắt đầu tò mò thắc mắc như chúng tôi. Người đàn ông cởi áo mưa thật nhanh, và khi ông ta vất chiếc áo mưa xuống, chúng tôi đều sững sờ:
    Ông ta mặc nguyên bộ lễ phục của sĩ quan chuyên nghiệp đào tạo từ trường sĩ quan cảnh sát, với quân hàm trung tá vàng chói. Không để cho chúng tôi ngạc nhiên lâu hơn, ông đứng thẳng người, mắt nhìn thẳng về hướng Quốc Hội, và rút súng lục từ quần ra tự bắn vào đầu. Tiếng súng nổ nhỏ thôi, nhưng ba anh em chúng tôi đều bàng hoàng sợ hãi. Tôi bật đứng dậy. Viên trung tá ngã ngửa ra, nằm thẳng, đầu hướng về phía Quốc Hội. Thân ông oằn lên một chút, rồi nằm trở lại thế ngửa, hai chân dãn ra. Hình ảnh cuối cùng tôi thấy được là hai chân người hấp hối cố gắng... cố gắng hết sức để khép lại cho đúng thế nghiêm.
    Người hai bên phố ùn ùn kéo đến. Chúng tôi sợ rắc rối nên chạy qua phía Givral, cố tìm cho được một chỗ để vừa giải khát cho đỡ hồi hộp vừa quan sát tiếp chuyện sắp tới. Khách đã bỏ đi nhiều nên cả ba chúng tôi tìm được chỗ ngồi. Nhưng có ai dọn kem cho chúng tôi đâu. Bên kia cửa kính hiệu kem sang trọng có máy lạnh, chúng tôi chỉ thấy toàn lưng với lưng. Có tiếng xe cứu hỏa hú còi. Đám đông sợ hãi chạy dạt xa hai pho tượng. Nhờ thế, tôi mới thấy xác viên trung tá đã được phủ bằng một tấm vải trắng. Tấm vải hơi ngắn, nên chỉ phủ được thân người và cái đầu.
    Đôi chân người chết khép chặt, mũi giầy thẳng lên bầu trời đúng theo thế nghiêm. Về sau tôi được biết tấm vải là cái khăn phủ bàn của hiệu kem Givral.?
    Ông giáo nghe đến đó, cảm động kêu lên:
    ?oThật là oái oăm! Tại sao có sự trùng hợp kỳ lạ vậy??
    Vị linh mục hỏi:
    ?oÔng nói gì thế? Cái gì trùng hợp??
    Ông giáo ngồi chờ cho bớt xúc động rồi đáp:
    ?oPhải. Đúng là một sự trùng hợp oái oăm! Cha thử tưởng tượng xem.
    Trên tấm khăn trải bàn hiệu Givral ấy, đã dính bao nhiêu nước mồm nước dãi của bọn đào kép từng gấu ó nhau trong cái nhà hát lớn. Đứa này tố đứa kia buôn thuốc phiện. Đứa kia tố đứa nọ buôn lịch cởi truồng. Đứa ngụy hòa, đứa thân Cộng. Đứa bảo không có đàn ông làm sao có đàn bà. Đứa bảo không có đàn bà làm sao có đàn ông. Đứa đòi quyền đái ngoài đường. Đứa đòi thừa nhận con hoang. Tấm khăn bàn ô nhục ấy phủ được khuôn mặt và thân thể người chết, nhưng có phủ được đôi chân nghiêm chỉnh đâu. Viên trung tá tự vẫn trước Quốc Hội vì còn nghĩ khi kéo qua Givral giải lao, chúng chỉ làm bẩn được tấm khăn liệm nhỏ xíu. Chúng không lấy thúng úp voi được!?
    Anh trung úy không ngờ câu chuyện kể của mình có ý nghĩa lớn lao như vậy, đỏ mặt vì sung sướng lẫn ngượng ngùng. Anh thêm tự tin khi nói tiếp:
    ?oCâu chuyện của tôi chỉ có vậy, thưa cha. Chỉ là một số những ghi nhận còn thô, xù xì không trau chuốt. Tôi không dám nhận cách suy diễn lý thú của bạn nhà giáo, vì nó tượng trưng quá. Tôi chỉ nghĩ đơn giản thế này: Dù ở trong hoàn cảnh tuyệt vọng, hành động tự sát của ông trung tá vẫn xác định trọn vẹn được ý nghĩa cuộc đời mình. Cha từng hỏi: Sống để làm gì? Vâng! Tôi ?thu xếp? câu hỏi đó lại, thành câu trả lời này: Không thể chấp nhận được cuộc sống không có ý nghĩa! Một tên đánh thuê có lẽ sống của tên đánh thuê. Kẻ phiêu lưu tìm ý nghĩa trong tư tưởng chủ não: Điều quan trọng không phải ở chỗ vì sao ta bỏ đi, mà ở chỗ cái mới ta sẽ tìm thấy. Cái chết của viên trung tá khiến tôi liên tưởng đến cái chết của Mishima, tác giả Kim Các Tự. Dường như (xin Cha nhớ cho đây là lần đầu tôi dám nói một điều ?dường như có thật?), dường như trung tá muốn nhắn với bạn bè và kẻ thù của ông rằng: Tuy thất bại, ông vẫn phải được kính nể như một địch thủ nghiêm chỉnh. Một cách ?thu xếp? cuộc đời trọn vẹn đấy chứ, thưa cha!?

Chia sẻ trang này