1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Tuân

Chủ đề trong 'Văn học' bởi blackwhite85, 15/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. blackwhite85

    blackwhite85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2007
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Tuân

    ------CHÉN TRÀ TRONG SƯƠNG SỚM------

    Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kểcả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ "m cũng dậy từ lúccòn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đènđể xuống. Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêmmàu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
    La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh,cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lòđất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất dòn, rấtđều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao chùm lấy ánh sáng yếu ớtcủa một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờnhư làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chốngnạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻnghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắnghiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉcó một người thức.
    Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõphần đêm và phần ngày, ông cụ "m có cả phong thái một triết nhânngồi rình bước đi của thời gian.
    Ðêm đông dài không cùng. Nó mênh mông và tựhết rất chậm chạp.
    Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đãgửi vào nơi yên lăng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục đượcvới tối tăm. Từ ngoài phía ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dộivào những tiếng bước chân người nặng nề. Cuộc đời hồi tỉnh lạidần dần.
    Cụ "m phẩy phành phạch quạt mo theo một nhịpnhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tẩu lép bép nổ, nghe rất vuitai. Và làm vui cho cả mắt nữa, tàn lửa không có trật tự, không bịbó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không gian những nét lửa ngangdọc, cong quèo ngoằng ngoèo. Những lúc có cháu nhỏ ngồi với mình,cụ "m thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích không.
    Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, cónhững tia lửa xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc giao độngcàng nâng cao thêm những ngọn lửa xang nhấp nho. Hòn lửa rất ngonlành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổichẩy.
    Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ramột tiếng khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết mộtđời khoảng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm ấptrong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ "m vuốt lại hai máitóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thămhỏi cái hấp hối của lũ vô tri vô giác. Cụ "m bỏ thêm một vài hònthan hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không nổ lép bép như than tầu;nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã lâu, có tiếng thở dài củakhối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người tanghĩ đến nó.
    Cụ "m cũng thở đánh phù một cái, như khingười ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều giây phú mong chờ.
    Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khaytrà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhành, khoan thai, cụ "m nhắc cả đĩadầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấmcon chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấmmàu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quảsung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấmkia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ "m thử mãi da lòng tay mìnhvào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trênđất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấmđộc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.
    Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắtcụ "m rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không.Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông giàđã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm mai.
    Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trútmạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.
    Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêmmột ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức nhưcụ "m bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. ấm nướcsôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấyrồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lênlò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Nhưthế lúc nào người ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng đẻpha một ấm trà ngon.
    Nhưng có mấy khi cụ "m uống trà tầu một cáchtàn nhẫn như vậy. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi.Nhưng hai chén đó đã được cụ săn sóc đến nhiều quá.
    Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cáithú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ "mđã để vào đấy bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nênlễ nghi, nếu trong ấm trà pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chútmùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.
    Cụ "m sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp,uống trà rất tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:
    - Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệuTây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ramà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộđồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thúuống trà tầu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhânđạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã,cùng một thanh khí, mới có thể cùng ngồi bên một ấm trà. Những lúcấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làmlấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cảthành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan Ðốc, tôi đãđược cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầutrà cụ Ðố, trước khi củ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển.Nhiều người đã ghen tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắtlượt học trò hầu trà, cho anh em ai nấy đều được chút vinh dự gầngũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thày. Quan Ðốc mỉmcười: "Thày giã ơn các anh. Thày nói thì các anh đừng giận:các anh không pha trà cho hợp ý thày được đâu. Ðể thời giờ ấymà học. Anh Ðam - (trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụÐốc mới đổi tên đi cho) - anh Ðam pha trà khéo thì thày để chogiữ việc hàu thày, chứ có phải thày yêu anh Ðam hơn hay là ghétcác anh hơn đâu". Bây giờ mỗi buổi trà sớ, ngồi uống mộtmình, tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào dậy, cụcũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật rền, thật trong. Cụ hay ngâmmấy câu này:
    Bán dạ tam bôi tửu.
    Bình minh sổ chản trà.
    Mỗi nhật ừ... ừ... đều được ... y... như thử.
    Lương y bất đảo gia.
    Một buổi sớm, thấy rõ lòng thày là vui vẻ, tôiđã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:
    Mai sớm một tuần trà.
    Canh khuya dăm chén rượu.
    Mỗi ngày mỗi được thế,
    Thày thuốc xa nhà ta.
    Cụ Ðốc tạm cho là được.
    Sớm nay, cụ "m cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâmthơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thầnkhí kỳ diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bêntrong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cáinặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trờiđất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và ngườixưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh.
    Thường hay vấn mình để sửa mình vào những giờuống trà tầu, cụ "m thường nghĩ đến câu nghìn xưa của thày TăngTứ: "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân".
    Trong nhà cụ "m, người ta đã ồn ào thức dậy.Cụ "m cũng bắt đầu ho. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thởkhông dám ho, sợ làm đục mất cái phút bình lặng huyền bí của lúcđêm và ngày giao nhau.
    Người con trưởng dón dén lại thỉnh an cha giàvà mon men ngồi ghé vào thành chiếc sập cũ. Chàng đỡ lấy quạt,nhắc hỏa lò ra một chỗ rộng, quạt mạnh cho hế tàn than.
    - Thày uống xong rồi. Con uống thì pha mà uống.Trà còn đợm hương lắm.
    Câu nói này là thừa. Vì sớm nào hai cha con ông"m chẳng dậy sớm để uống trà, cha bao giờ cũng uống trước hai chénvà người con cả uống sau nhiều lắm đến ba chén là cùng. Sớm nay,cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày, cụ "m lại bắt ngườitrưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài "Trà Ca" củaLư Ðồng. Giọng bình văn tốt quá. Ðiệu cổ phong trúc trắc thế màcon cụ "m lại còn ngâm gối hạc bắt đoạn cuối một câu trên xuốngluôn đầu câu dưới, hơi ngâm trong và dài. Trông hai tra con uốngnước mà y như là một đôi thày trò vào một giờ học ôn buổi sớmmai. Chuyện vãn mãi về trà tầu, ông cụ "m lại mang luông cả tập"Vũ Trung Tùy Bút", giảng những đoạn công phu của tác giả -ông Quốc Tử Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ - chiêm nghiệm và xưng tụngvề trà tầu. Rồi cụ "m liền than tiếc đến cái mùa thu đã đi mấtrồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.
    - Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơmlành bằng cái thư nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi.Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn íttuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi thuyền thúng vớt nhữnggiọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trongđời một người học trò được thày học yêu như con.
    Trong gia đình cụ "m, hồi gần đây đã lập lạicá phong tục uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ "m đã cất hẳnbộ đồ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được bày nó ra hằng ngàynữa.
    Nhưng trời kể cũng còn hậu đãi người hàn nho,thế nào năm nay cụ "m lại được mùa cả hai vụ.
    - Này cả, con lên tỉnh mua trữa lấy ít trà LýTú Uyên. Năm nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Thủy tiên nhà,năm nay gọt những một lắp đấy. Thày mua chung với cụ Kép xóm dưới! Ðộ mai kia thì giò hoa tách hết màng. Củ nào hoa kép thì đem ủ trà.
    - Thưa thày, con tuởng trà cứ để nguyên hươngcủa nó mà uống. Con thấy ông ngoại nhà không bao giờ cho ướp tràmới, bấy cứ là với hoa thơm nào. Ông ngoại con bảo chỉ nên ướp,là lúc trà đã đi hương hoặc gần phát du.
    Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánhtrong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc.
    Ðạo mạo trong vành khăn nhiễu quấn dố, cụ "m đã chống gậy ra đi.
    Cụ quay trở lại dặn người con trưởng đang híhoáy lau bộ khay trà:
    - Thày vào trong cụ Ðiều để rồi cùng sang làng bên thăm một con bệnh già. Con bệnh này, tốn nhiều sâm lắm. Ðếntối thày mới về, vì thày phải sao tẩm thuốc sống ở bên ấy cho tiện ./.



    http://rongbay.com/ <- nhấp chuột là có
  2. blackwhite85

    blackwhite85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/06/2007
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0

    --------------------------CON SƯ TỬ MỘT NĂM QUÍ SỬU----------------------
    Họ là bốn người hình thù kỳ quái, ngồi bên một chậu tiết đánh đứng đỏ như son, trong một căn nhà lá ở Ô Đống Mác, một buổi sớm tết Trung nguyên.
    Cái làng chơi sư tử giấy rằm tháng tám ở đất Bắc vào đời hai vua Thành Thái và Duy Tân vốn đã quen với bốn cái tên ngộ nghĩnh của bốn vị tay chơi này. ấy là Ngồ Béo, Vạng Sài Goòng, Trưởng Lỡ và Sường Sáu Ngón.
    Nhân vào kỳ tết rằm tháng Bảy, Ngồ Béo cho họp mấy bạn đồng chí lại để dự định việc làm đầu sư tử và tổ chức đám rước vào ngày Trung Thu chỉ còn trong có một tháng nữa thôi.
    Ngồ Béo là người không có học, tính ngỗ ngược, lực khỏe lắm và đã từng ghi tên tuổi mình vào xã hội hỗn loạn thời ấy bằng một huyền sử đem về từ một cái bãi lau sậy lịch sử đất Hưng Yên. ấy là người đồng thời nói thế và cũng chưa từng thấy Ngồ Béo cải chính một lần nào. Trong cái đời Ngồ Béo, nhất sinh, kẻ thất phu ấy chỉ lấy việc múa sư tử làm một điều khoái hoạt nhất. Đời sống của Ngồ Béo, cả một năm hình như chỉ có một ngày rằm tháng tám là đáng kể. Y đã nói rằng "Nếu đức Thánh Tản Viên có hạ sơn mà cho em một cuốn sách ước thì em chỉ ước rằng đời em ngày nào cũng được là một ngày tết Trung Thu. Tết Trung Thu, hợp thành đảng đi múa sư tử, đánh trống trận, bật hồng, cướp cỗ và đớp bánh nướng, thú lắm các chú ạ".
    Ngồ Béo có một người vợ chuyên làm nghề bán thịt ở cửa ô. Thấy người đàn bà đồ tể ấy, chọc tiết lợn, cạo lông lợn và những lúc liếc lưỡi dao bầu vào cán cân sắt tiếng nghe rít rít mau mau như tiếng mảnh vỏ chai cạo ống giang, nhiều nhà hàng xóm lấy làm rờn rợn ở trong lòng mình, ở đằng sau gáy mình. Họ phỏng đoán trước đến những cuộc xô xát giữa vợ chồng Ngồ Béo. Có một lần, người chồng bạo thiên nghịch địa ấy, một buổi say rượu, đã muốn đem vợ ra để làm sinh vật tế cờ. Ngồ Béo bắt luôn con dao bầu sáng nhoáng của người vợ lăng loàn đang cầm ở tay vừa tuột xuống vì bàn tay nhầy nhụa những mỡ. Vợ Ngồ Béo tránh miếng đoản đao, thuận tay vớ được chai rượu, ghè mạnh đít chai vào thành giường cho mất hẳn cái cù lao ở trôn chai đi. Đường chai vỡ, lởm chởm những răng cưa sắc muột. Vợ Ngồ Béo cầm lăm lăm cái khí giới bằng thủy tinh mà chuôi là một cái cổ chai, thử thách chồng: "Mày tài giỏi thì cứ vào đây với bà". Cuộc đổ máu ấy không xẩy tới và sẽ không bao giờ xẩy đến nữa vì hai vợ chồng Ngồ Béo đã biết nhau là xứng đáng kết làm đôi bạn. Vợ chồng phục lẫn nhau đã đành mà ngay đến các "chú nó" cũng thường ca ngợi đến cái đức tính gan đởm của vợ Ngồ Béo.
    Cái chậu tiết hãm kia là của vợ Ngồ Béo để lại cho chồng trước khi đội mẹt thịt nhà ta góp với cái nhầy nhờn của buổi chợ sớm tại cửa ô. Nàng đã bảo chồng:
    - Hôm nay là ngày Tết, buổi chiều ai chả phải cúng và đón các cụ ở "dưới ấy" lên. Vậy nhà nên mời các chú ấy ăn uống vào buổi sáng. Tôi hãm tiết rồi đấy. Nhà mượn chú Trưởng Lỡ giúp cho một tay. Tôi phải đi bán thịt chợ Tết, chứ nếu được rỗi mà ở nhà thì phải biết, gái này mà đánh tiết canh thì cứ xâu lại mà treo.
    Buổi sớm ấy, có bốn kẻ thất phu ngồi uống rượu với tiết canh ở cửa ô Đống Mác. Máu đông món nhắm có màu sắc một chậu huyết ăn thề. Gợi đến việc múa sư tử năm nay, Ngồ Béo nhắc lại chuyện năm trước và trách luôn Sường Sáu Ngón:
    - Chú hỏng. Năm nay không cho chú chặn hậu nữa. Chặn hậu thế nào mà năm ngoái chú để cho bọn Bạch Mai nó cướp mất đầu sư tử, và để cho chú Trưởng Lỡ bị ba nhát xẻng chém vào trán.
    Trưởng Lỡ xoạc miệng ra để nói to, làm răn rúm lại ba cái sẹo bóng phía trên lông mày.
    - Mấy vết thương của em dạo ấy cũng chả có gì là đáng kể. Chơi dao thì phải có lúc đứt tay chứ. Có cái đáng phàn nàn là chúng ta đã đánh mất một cái đầu sư tử rất quý. Khởi thủy là tự tay anh Ba tôi làm ra nó. Đến đời chú tôi múa là được bốn năm. Tôi kế nghiệp vào, vừa vặn cộng lại được là chín năm. Giá năm ngoái không bị kẻ kia cướp qua tay, năm nay ta làm một cái lễ thập chu niên cho con sư tử của bọn mình thì vẻ vang biết mấy.
    Sường Sáu Ngón muốn cho anh em đừng lôi mình ra mà trách móc nữa, bèn kiếm một câu chuyện làm quà với Ngồ Béo.
    - Các anh đều biết lão Sập Vầy làm tài phú ở hiệu Đông Hưng Viên đấy chứ. Chú ấy muốn anh em mình năm nay lại lên múa ở hiệu chú. Hôm nọ gặp em trong ngõ Sầm Công, chú có bảo đã để dành riêng một quầy thịt lợn rừng sấy Quý Châu để làm riêng mấy cân bánh nướng treo giải sư tử cho anh em mình.
    - ừ thì múa. Bánh nướng Đông Hưng Viên ngon có thể quên nguy hiểm được đấy. Năm nay anh lại cất công từ dưới này lên tận Hàng Buồm một chuyến nữa. Chả phải vì tham mấy miếng bánh, nhưng chính là để cho những đám khác chúng nó biết rằng đây mình bất chấp đến cả chúng nó vì chúng cứ tưởng rằng giang sơn nào là của riêng anh hùng ấy. Để rồi năm nay ta thử xem cái bọn thằng Thiềm Thừ Sắt ở ô Quan Chưởng có còn giữ độc quyền nữa thôi. Nó thường bảo phố Hàng Buồm là riêng của nó, đứa nào dám đem sư tử lên đến "giang sơn" nó mà múa thì nó cho một nhát xẻng và một manh chiếu bó xác.
    - Sập Vầy lúc ấy thích anh lắm. Lão bảo anh múa hay lắm. Đến ngay bọn tùy tướng quân Cờ Đen đóng ở tỉnh Đoài, ngày xưa múa cũng chỉ hay đến thế thôi. Lão còn khen anh về cả cái tài ăn bánh nướng nữa. Mỗi cân bánh chỉ ăn có bốn miếng. Vừa múa vừa ăn. Đứng công kênh trên vai bốn năm người nối lên nhau làm cái thang đã chênh vênh rồi mà anh chỉ múa đầu sư tử đỡ có một tay, còn một tay thì thò từ trong mồm sư tử ra giật bánh giải mỗi cái vừa một miếng ngồm ngoàm.
    Ngồ Béo cười khì khì một hồi, xong rồi bèn nhìn ra phía cửa mà kêu:
    - Quái, sao cái tên Lương Con bây giờ chưa thấy mò tới nhỉ. Anh đã nhắc đi nhắc lại đến ba bốn lượt để hắn nhớ ngày mà xuống rồi kia mà.
    - Lương Con nào? - Vạng Sài Goòng hỏi.
    - à, một đàn em. Con một ông Đồ! Thế mới thú chứ. Có chú Vạng đây chưa biết đến hắn đấy nhỉ. Để anh kể chuyện cho mà nghe. Nguyên ông cụ đẻ ra chú Lương Con là một người đi thi mãi mà không đỗ. Ông bèn theo lũ cháu sang Hà Nội ở luôn ở Hàng Bạc với những người làng làm nghề vàng bạc. Chín phần mười những người Hàng Bạc là thuộc về phường Châu Khê tỉnh Hải Dương cả đấy chứ. Ông ta bây giờ ngồi viết chữ cho những người thợ chạm khắc vào vàng bạc và gần ngày Tết thì mang chậu mực và cây mực ra đình Hai Ông Tướng Hàng Bạc mà viết câu đối thuê. Một ông bố hiền lành như thế mà lại đẻ phải một ông con chỉ thích múa gậy và nhẩy đá bì cát. Lương Con hay xuống đây học võ, thụ nghiệp cụ Cử Miên, tập chuyên lắm nhé. Có y làm đàn em, năm nay làm đầu sư tử cũng đỡ được một khoản giấy bản. Y có khoe rằng Cụ Đồ Châu Khê có những mấy chục chồng sách nho tấn vào mấy cái níp sơn đỏ cứ chắc cứng lại. Chỗ ấy mà đem ra dùng thì có bồi đến một chục cái đầu sư tử đại mới hết được giấy bản... Năm nay có bồi, ta cho bồi độ mười lăm lượt giấy. Khí nặng một tí nhưng tha hồ cho xẻng cuốc chém xuống.
    Gần tàn tiệc, Lương Con mới tới. Để trả lời một câu hỏi bằng mắt xếch của Ngồ Béo, chàng buồn rầu nói rất khẽ:
    - Ngày mai mới có dịp đưa xuống được. Em rình cả đêm hôm qua, cả sớm nay mà vẫn không cậy được mấy cái níp sách.
    Ngày mai, đúng hẹn, Lương Con đưa xuống nhà Ngồ Béo có đến hai bồ con sách chữ Nho.
    Đã sẵn cái cốt gỗ đầu sư tử mượn từ đâu và đưa về từ bao giờ, bọn Ngồ Béo xoay trần ra bắt đầu bồi đầu sư tử để kịp chơi rằm tháng sau.
    Họ tháo sách, để riêng ruột sách ra một tập và bìa phết cậy ra một tập. Họ bỏ bìa cậy ngâm vào những nồi nước và sau khi bìa đã sũng nước thì đem bỏ vào cối mà giã như giã giò. Những nắm bột giấy lẫn chất cậy nâu nâu ấy, họ dùng để đắp mũi, đắp gò má và mi mắt và sừng sư tử.
    Người ta gỡ những tờ giấy bản ruột sách, căng phẳng ra và đắp lên cốt gỗ một lượt lại một lượt. Dưới sức thấm tẩm của lần hồ vữa, những chữ son, những chấm son chấm câu đã hết cả tươi thắm và xạm mãi mầu xuống. Hôm cái đầu sư tử thành hình đắp bồi thì cái mùi thơm của những cuốn sách chữ Nho của Ông Đồ Châu Khê đã là một cái mùi ung ủng như mùi gỗ ngâm nước bùn. Tháng bảy hay mưa dầm, khí trời lại nồm, mùi ung ủng ấy càng bốc mãi.
    Đấy là cái kết quả mười năm đèn sách của Ông Đồ Châu Khê. Bao nhiêu công phu của Ông Đồ Châu Khê ngồi gẫy lưng chấm câu cho mấy bộ Kinh giờ chỉ còn là thế. Trong cái đầu sư tử giấy, có cả một bộ Kinh Thi, một bộ Kinh Thư, một Kinh Lễ, một Kinh Dịch, thêm một tập thơ của Ông Đồ những lúc than thân, những lúc than thời. Cái thời của Ông Đồ Châu Khê đã hết từ năm ngoái kia rồi, nghĩa là năm Nhâm Tý, Nhà nước mở một khoa thi cuối cùng cho người theo chữ Hán. Năm Nhâm Tý khoa thi cuối cùng, Ông Đồ Châu Khê cũng lại bay. Và năm nay là năm Quý Sửu, Ông Đồ ấy vẫn chỉ là một Ông Đồ ngồi ăn ốc trông giăng ở một cái gác tẩu mã phố Hàng Bạc, với một ông bạn già cũng lỗi giờ sinh như mình.
    Đêm rằm tháng tám ấy, trước khi vào tiệc rượu thưởng giăng - có rượu cất hương sen Hồ Tây, có ốc gác mồ hóng bếp, có xôi vừng nén - Ông Đồ Châu Khê pha một ấm chè hạt, nước sôi đun bằng những mấu vầu chẻ lạt bẻ khuôn vàng còn thừa lại, tàn than trắng xốp như bông. Để thi vị hóa cảnh mình thanh bạch, Ông Đồ gọi chè hột là chè tùng viên - hột tùng! ắ và cái than hoa loài tre kia là than bạch tuyết. Ông nhìn trăng và tự nhủ rằng đem than bạch tuyết mà nấu chè tùng viên thì còn gì thơm ngon bằng. Phường Châu Khê, người Hàng Bạc, xưa nay vốn lại có tiếng là pha chè hạt rất ngon.
    Ngoài đường phố có tiếng ồn ào của những đám rước sư tử diễu qua và tiếng trống, thanh la vọng mãi vào cái gác sâu này.
    Ông Đồ Châu Khê, vẫn chưa biết là Lương Con, con mình đã rút mất mấy phần ruột sách quý của mình, bèn chỉ mấy cái sách sơn son cũ màu, nói với người bạn già bằng một giọng cảm khái:
    - Chữ Nho bây giờ hết thời rồi. Sách thánh hiền bây giờ chỉ còn là đám giấy loại. Mỗi vụ Trung Thu, bọn làm đầu sư tử phá hại không biết bao nhiêu là sách của cổ nhân. Một cái hồi loạn Văn Thân, bọn ta đã bị cái nạn ấy rồi. Bao nhiêu sách giấy bản là đem ra làm áo giáp hết... Bác không tin lời tôi nói thì hôm nào thử lấy một mũi mác đâm xem có thể thấu qua được một cuốn Tính Lý này không. Hết làm áo giáp trấn thủ đỡ mũi nhọn đánh nhau lại đến làm cốt bồi đầu sư tử múa chơi, cái công tiền nhân đeo một cái bồ "Kính tích tự chỉ" sau lưng những lúc lượm giấy rơi ngoài đường, nghĩ mà lại tiếc quá bác ạ.
    May mà tôi còn giữ lại được hết cả ở trong kia.
    Cụ tự đắc, nhấp chén cười khà.
    Cũng một đêm rằm ấy, vào cùng một cái giờ cảm khái của Ông Đồ Châu Khê, ở phố Hàng Buồm, có một đám múa sư tử to quá, đang đòi ăn giải thưởng.
    Nhiều tay anh chị quen, búi tóc giấu trong một vuông nhiễu xanh trông như đức Thánh Quan, cũng nghỉ một buổi xe cao su con bọ ngựa; phụ vào đám rước Ngồ Béo để trợ lực lúc động dụng.
    ở trước con sư tử do Ngồ Béo múa rất dịu dàng, Lương Con đánh côn, múa ngọc để dứ con thú càng quay cuồng nhiều. Trông Lương Con không ai ngờ đấy lại là con một ông Đồ. ở trán chàng có một cái sỉ mẩu gắn kính, ở ngực chàng có một cái thần hồng bằng nhiễu điều, ở bắp chân chàng có một đôi xà cạp vằn hổ rất ăn với đôi giày Tầu điểm một quả bông hỏa diệm sơn. Lương Con thỉnh thoảng lại cho bật hồng, ngậm một ngụm dầu tây phun vào búi giẻ cháy nơi đầu que sắt. Lửa bùng lên, soi sáng con sư tử, soi rõ vào mặt Lương Con mồ hôi chảy ròng ròng. Chàng hét, chàng lộn. Tiếng trống và thanh la lúc thưa lúc mau làm cho mọi người đều say với cái đầu sư tử râu bạc phơ phơ. Nhưng mọi người đều lấm lét nhìn nhau khi hai cái xe bò kia đã đun từ cuối đám rước lên đến gần chỗ múa. Một xe bò toàn chiếu cói. Một xe bò toàn xẻng bóng nhoáng. Và đuốc nứa. Và đuốc giẻ tẩm dầu.
    Nhiều người nghĩ trước đến lúc hai đám du côn cướp đầu sư tử của nhau và chém nhau bằng xẻng và liệm tử thi nhau bằng chiếu, nhiều người tự hỏi xem có nên bỏ dở cuộc vui mà về ngay bây giờ hay không.
    http://rongbay.com/ <- nhấp chuột là có
  3. caydan_chapi16

    caydan_chapi16 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2006
    Bài viết:
    1.147
    Đã được thích:
    0
    Chịu khó post tiếp cho mọi người đọc nhé!
  4. bluesky85

    bluesky85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Ủng hộ bằng tác phẩm truyện ngắn kinh điển của cụ.
    CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
    Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao :
    - Này, thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận đuợc sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao ! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không ?
    Thầy thơ lại xin phép đọc công văn.
    - Dạ, bẩm chính y đó. Dạ, bẩm có chuyện chi vậy ?
    - Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi, cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không ? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không ?
    - Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà !
    - Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi ?
    - Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc.
    - Chuyện triều đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. Thôi, thầy lui về mà trông nom việc dưới trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho có mặt ở cửa trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy bắt đầu lấy thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai lính. Chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kiểng đánh mõ, thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ có cho mấy thằng thập nó đánh bạc nghe !
    Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương. Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
    Nơi góc án thư vàng đã nhợt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vợi lần mực dầu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản đóng dấu son ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một con bấc. Ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người ngồi đấy.
    Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ. (*)
    Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc; tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
    Ông Trời nhiều khi hay chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt.
    Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại. " Có lẽ lão bát này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu ".
    Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà công văn chiều hôm qua đã báo trước cho ngục quan biết rõ tên tuổi, làng xóm và tội hình. Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù. Gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ mồ hôi tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước quang dầu bóng loáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì lại sỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao, đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí :
    - Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.
    Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phía trước. Một tên lính áp giải đùa một câu :
    - Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sõi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
    Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.
    Cánh cửa đề lao mở rộng.
    Sáu người né mình tiến vào như một bọn thợ nề thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
    Trái với phong tục nhận tù mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ, đều nhắc lại :
    - Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
    Mấy tên lính, khi nói chữ "để tâm" có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra. Ngục quan ung dung :
    - Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời.
    Bọn lính rãn cả ra, nhìn nhau mà không hiểu. Sáu tên tử tù có ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
    Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù. Mỗi lúc dâng rượu, với thức nhắm, người thơ lại lễ phép nói : " Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây, lạnh lắm ".
    Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu và ăn thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn :
    - Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài giữ kín cho. Sợ đến tai lính tráng họ biết, thì phiền lụy riêng cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất. (**)
    Ông đã trả lời quản ngục :
    - Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
    Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm, khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu : " Xin lĩnh ý ". Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa; duy chỉ có y là không đặt chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa : năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
    Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. " Hay là hắn muốn dò đến những điều bí mật của ta ? ". " Không, không phải thế, vì bao nhiêu điều quan trọng, ta đã khai bên ty Niết cả rồi. Ta đã nhận cả. Lời cung ta ký rồi. Còn có gì nữa mà dò cho thêm bận ".
    Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục, không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Quản ngục chỉ mong mỏi một ngày rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết lại, thì y sẽ nhờ ông viết, ông viết cho...cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là y mãn nguyện.
    Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời nữa.
    Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình Bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí ông vào kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi.
    Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói : " Dạ xin ngài cứ yên tâm, đã có tôi " Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
    Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười : " Về bảo chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ ".
    Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián.
    Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa.
    Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo :
    - Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không ? ...Tôi bảo thực đấy : thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
    Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
    Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
    Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào : " Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ".
    ( Trích Vang bóng một thời )
    Nguyễn Tuân
    (*) kiểm duyệt thời pháp thuộc bỏ mất bảy dòng chưa tỉm ra được.
    (**) kiểm duyệt thời pháp thuộc bỏ mất sáu dòng chưa tỉm ra được.
  5. ha.anh

    ha.anh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/02/2007
    Bài viết:
    1.094
    Đã được thích:
    0
    post tiếp đi bạn
    tự nhiên thèm đọc tuỳ ký , hì

  6. theunforgiven711

    theunforgiven711 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/08/2005
    Bài viết:
    2.526
    Đã được thích:
    0
    Post "Sông Đà" với "Chiếc lư đồng mắt cua" đi bạn, tự nhiên muốn đọc lại mấy cái này
  7. bluesky85

    bluesky85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    Hơ hơ, bác đợi tí nhá, tớ post luôn "Người lái đò trên sông Đà" và "Bữa rượu máu". Gì chứ Nguyễn Tuân thì lắm thứ để đọc.
  8. bluesky85

    bluesky85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/03/2003
    Bài viết:
    376
    Đã được thích:
    0
    -BỮA RƯỢU MÁU-
    Nguyễn Tuân
    Phía Tây thành Bắc, trên một nền đất rộng đổ sát vào chân thành cho lần gạch ngoài thành được thêm vững chãi, lũ cây chuối mật tha hồ mặc sức mà mọc. Nó um tùm, tàu lá rộng và không bị gió đánh rách, che kín bóng mặt trời. Trên áng cỏ bốn mùa ẩm ướt, loài nấm dại sinh nở bừa bộn. Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm không có vết chân người. Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng thân chuối cao vút và tầu lá chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa Ngâu, vườn chuối dầm dề một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu.
    Vườn chuối phía Tây góc thành sớm nay quang đãng khác mọi ngày. Trên mặt cỏ ngổn ngang những tàu lá, cuống còn tuôn rỉ ra những dòng nhựa thẫm màu. Không khí làm se nhựa chuối lại, kết nên thành những khối keo quyện chặt lấy búi cỏ gà.
    Cùng một buổi chiều ấy, mấy người vợ lính cơ đứng trong luống bãi dâu trồng ở dưới chân thành sát ngay với bờ rào, được nghe tiếng người hát trên ngọn thành, ở trên đầu họ, đúng ngay chỗ vườn chuối im lìm của mọi ngày.
    Tiếng người trên mặt ngọn thành cũ hát rằng:
    Trời nổi cơn lốc
    Cảnh càng u sầu
    Tiếng loa vừa dậy
    Hồi chiêng mớm mau
    Ta hoa thanh quất
    Cỏ xanh đổi mầu
    Sống không thù nhau
    Chết không oán nhau
    Thừa chịu lệnh cả
    Dám nghĩ thế nào
    Hãy ngồi cho vững
    Cho ngọt nhát dao
    Hỡi hồn!
    Hỡi quỷ không đầu!
    Người ở trên mặt thành hát đến đâu thì tiếng những thân cây chuối đổ xuống mặt đất tường thành lại kêu roạt roạt đến đấy. Bọn người đàn bà hái dâu ngừng tay bứt lá, nghiêng đầu lắng kỹ. Cái bài hát năm mươi tư chữ nghe như bài sai của thầy phù thủy, đã hát đi hát lại đến mấy lần. Cứ xong mỗi câu thì lại có tiếng roạt. Chỉ có cây chuối bị chặt mạnh, mình lìa hẳn gốc, đổ vật xuống mặt đất thì mới kêu roạt roạt như vậy thôi. Nhưng mà ai chặt chuối? Không phải hẳn là cấm địa, nhưng góc thành sau kho lúa kia cũng là một miếng đất không ai dám vượt phép quan vào đấy mà hát mà phá vườn.
    Những người vợ lính cơ, quen sống trong không khí loạn lìa, chiều nay và đêm nay bàn tán không ngớt miệng về cái tiếng hát trên vườn chuối mặt tường thành. Chồng họ cũng lấy làm lạ và tự nhủ ngày mai vào trại sẽ hỏi chuyện cho rõ.
    Buổi sớm hôm sau, bọn vợ lính cơ, thêm được ít người tò mò nữa kéo đến vườn dâu ngoài thành, vẫn nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt thành với những câu hát rõ mồn một:
    Ta hoa thanh quất
    Cỏ xanh đổi màu
    Sống không thù nhau
    Chết không oán nhau...
    Bọn vợ lính mang chuyện đó về nhà, thì những người lính cơ đều ra vẻ cảm động sợ hãi và cắt nghĩa:
    - Ông Bát Lê sắp làm việc đấy.
    - Làm việc gì!
    - Ông Lớn sắp đem mười mấy người ra chém. Tiếng người hát trên mặt thành là tiếng ông Bát Lê đang tập múa thanh quất ở vườn chuối đấy.
    - Múa thanh quất? ở vườn chuối? Sao lại hát thế? Ông Bát Lê chém người đã nổi tiếng, còn phải tập với tành gì nữa?
    - U mày không hiểu. Lâu nay ông Bát Lê không phải khai đao vì Ông Lớn thấy già yếu muốn cho nghỉ tay. Mỗi lần có án trảm, ông Bát chỉ phải ra pháp trường cho có mặt thôi. Còn công việc thì đã có người khác đỡ tay. Nhưng vẫn cứ được tiền thưởng. Đã đến gần một năm nay, ông Bát không cầm đến thanh quất. Không hiểu tại sao lần này Ông Lớn lại cho gọi ông Bát ra cho kỳ được và xem chừng như ngài săn sóc đến cái vụ xử trảm này nhiều lắm.
    Lui vào tư thất, và nhác thấy lão Lê đang co tay úp lên mang tai nhìn vào vàng son lộng lẫy nhà riêng mình, quan Tổng đốc sung chức Đổng lý Quân vụ liền quở:
    - ít bữa nay, chú đi đâu? Ta cho thằng Cửu nó sang gọi mấy lần đều thấy đóng cửa.
    - Bẩm lạy Ông Lớn, ít lâu nay con về nhà quê. Giá như ngày trước, có khi nào con dám đi xa. Sớm tối lúc nào con cũng phải ở trong nội thành, phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây, Ông Lớn thương phận già nua cho con được nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Được tin Ông Lớn cho đòi, con vội vã vào hầu, xin Ông Lớn tha tội. Con chờ lệnh Ông Lớn truyền xuống.
    - Thôi, cho đứng dậy.
    Quan Đổng lý Quân vụ ngả mình trên ghế bành vàng son, hất hàm hỏi tên đầy tớ già bát phẩm đang thu bé mãi người bên chiếc cột:
    - Liệu bây giờ chém còn mát tay không?
    - Dạ.
    - Dạ sao? Chú có biết ta sắp cho xuống cái lệnh chi không?
    - Dạ.
    - Có mười hai tên tử tù sắp đem hành hình. Quan Công sứ muốn được xem tận mặt cái bọn chịu án trảm đó. Ngươi chém sao cho gọn thì chém, hễ chém một đầu đến hai nhát thì không những ta truất tiền thưởng mà ngươi còn bị quở nữa. Chém cho thực ngọt.
    - Dạ.
    - Tiền thưởng này chính quan Công sứ lấy ở quỹ mật mà thưởng cho chú đó. Ta muốn giữ phần cho chú nên ta cho gọi vào mà lĩnh lấy việc này, gọi là kiếm thêm chút bổng mà dưỡng cái tuổi già. Chú phải biết khi nhận lấy mười hai tên tử tù là chú phải làm việc cho đầy đủ phận sự. Chớ để phiền đến ta. Ta đã trót khoe khoang cái tài chém "treo ngành" của chú với quan Công sứ. Chú nghĩ thế nào?
    - Dạ bẩm Ông Lớn đã thương đến phận tôi tớ, chúng con xin hết sức ra công chó ngựa. Nhưng bây giờ con già yếu lắm, không biết có còn làm được việc như hồi xưa nữa không. Vả chăng gần một năm nay, không cầm đến mã tấu, e có điều hơi lạc mất đường đao.
    - Ta đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Chú còn đủ thời giờ để tập lại lối chém "treo ngành". Nếu cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền lại cho một người nào được thì một lần cuối cùng này nữa, chú cũng nên cho một vị quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém người sắc tay của một người đầy tớ hầu cận ta là như thế nào.
    - Dạ, bẩm Ông Lớn...
    - Chú đừng nhiều lời. Đây này, ta cho chú mượn thanh quất của ta mà làm việc. Sẵn có vườn chuối ở sau kho lúa, cho phép chú lên đó mà tập. Có ai ngăn, cứ đưa cái tín bài này ra cho họ nom rõ.
    Quan Đổng lý Quân vụ rút khỏi ống bút trên bàn một lá thẻ đỏ, viết mấy chữ thảo vào mặt thẻ sơn trắng, trao cho Bát Lê.
    Thế là từ hôm ấy, Bát Lê lĩnh thanh quất của quan Tổng đốc leo lên tường thành, xông xáo trong vườn chuối, hết sức tự do, hết sức tàn nhẫn, chém ngang thân loài thực vật, trước khi chém vào cổ mười hai tử tù đang nằm đợi ngày cuối cùng.
    Vườn chuối trên mặt thành mọc không có hàng lối nhất định. Ông Bát phẩm Lê phải chọn lựa mãi mới được mấy dãy chuối mọc theo hàng lối thẳng. Y xoạc cẳng, lấy bước chân đo những quãng trống từ một gốc chuối này đến gốc chuối khác. Tiến lên, lùi xuống, đo ngang, đo dọc, tự cho là tàm tạm được, y bèn nhẹ nhàng phát hết những tầu lá chuối rườm rà. Đấy là cái khu dọn dẹp sẵn để nhận lấy sự thí nghiệm sau cùng của một đường đao bị bỏ quên đã lâu ngày.
    Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ càng kia, Bát Lê đã múa dao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, Bát Lê nhảy nhót trong vườn chuối, đưa lưỡi gươm qua bên phải, múa lưỡi gươm qua phía trái, thanh gươm hai lưỡi đã gọn gàng, nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu sương đêm. Mảnh khăn vuông vải trắng bịt tóc Bát Lê đã đẫm ướt, và nhựa chuối chát thấm vào đấy, gặp ánh nắng sớm, đã xuống màu dần dần.
    Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc, nhảy nhót như một kẻ điên cuồng. Cứ mỗi một cây chuối gẫy gục xuống cỏ đánh roạt một cái thì Bát Lê lại cất tiếng hát:
    Sống không thù nhau.
    Chết không oán nhau.
    Cây chuối đổ chấm câu cho từng câu hát, và vẳng từ trên mặt thành xuống mặt một bãi dâu chân thành.
    Tập như thế cho thuần tay hết một buổi sớm và một buổi chiều. Bát Lê sớm ngày hôm sau lại trở lại vườn chuối đã rầu cả lá, đã khô cả vết thương. Y hồi hộp chống gươm xuống mặt đất ẩm ngổn ngang sự tàn phá, như một võ sinh sắp trổ tài ở võ đài với sự phân vân lo ngại của phút biểu diễn. Rồi Bát Lê trịnh trọng tiến vào cái khu vườn chuối đã dọn từ hôm trước để nhận lấy lưỡi gươm thí nghiệm cuối cùng của một cuộc tập chém. Y đứng vào giữa hai dãy chuối, tay phải cầm ngang thanh quất.
    Y lùi lại ba bước, lấy hơi thở cho đều, vừa hát to câu: "Tiếng loa vừa dậy" vừa tiến mạnh lên, thuận tay chém vào cây chuối đầu tiên dãy bên phải. Đà gươm mạnh từ cao soải xuống theo một chiều chếch, tưởng gặp đến gỗ cứng cũng lướt qua. Thế mà thanh quất chỉ ngập vào chiều sâu thân cây độ chín phần mười. Lưỡi thanh quất bị ngừng ở cái cữ ấy, rồi lại được lấy ra khỏi thân cây chảy mủ. Vừa giật lưỡi thanh quất khỏi thân cây đang từ từ lả gục xuống, vừa hát một câu nữa: "Hồi chiêng mớm mau" Bát Lê lại tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng đầu dãy bên trái, Bát Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống một nhát thứ hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân hình người qùy chịu tội. Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê đã hát hết mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối. Bát Lê quay mình lại, ngắm các công trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị chém vẫn còn dính vào phần gốc bởi một lần bẹ dập nát.
    Bát Lê mỉm cười, gỡ cái khăn trùm trên đầu, lau lưỡi gươm vào đấy, vuông vải lại đẫm thêm chất nhựa xám.
    Thế là xong một cuộc tập chém lối "treo ngành". Và Bát Lê cũng vui vẻ trong lòng đợi ngày nhận tù. Đi từ bề cao nền cỏ xuống chân thành, qua những bậc cấp thúc vào lòng đất, Bát Lê chốc chốc lại dừng bước và ưỡn mình về phía sau, ngắm cánh tay khẳng kheo mình đang lăm lăm cầm lưỡi gươm.
    Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý Quân vụ một buổi chiều thu quyết đã đổi màu. Mọi khi, ở đấy chỉ có bê bò được thả lỏng khom cổ ngốn áng cỏ tươi, bên cạnh một tốp lính hiền lành, tay cầm lưỡi liềm cắt cỏ về cho ngựa quan ăn. Bây giờ ở đấy, người ta dựng lên một nhà rạp có tàn, có quạt, có cờ ngũ hành. Trước nhà rạp người ta đã chôn sẵn mười hai cọc tre bị vồ gỗ đóng mạnh xuống toét cả đầu. Đánh đai lấy khu nhà rạp rộng độ một mẫu, mấy trăm lính mặc áo dấu có nẹp đã tề chỉnh tuốt gươm trần đứng thị uy.
    Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất lại sáng hơn nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái rợ. Những bức tranh mây chó màu thẫm hạ thấp xuống thêm và đè sát xuống pháp trường oi gắt.
    Mọi người chờ đợi một cái gì.
    Từ phía nhà ngục, mười hai con người chậm chạp tiến tới giữa hai tốp lính áp giải. Bãi cỏ im lìm. Tiếng gông bọn tù dây va vào nhau theo một nhịp bước rụt rè, nghe rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu liệu khiến bước đi cho cỗ đòn đám.
    Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn chỗ cọc tre. Trong giây lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Tử tù bị trói giật cánh khuỷu, quỳ gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân lúc qùy phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như thế, tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi dao thả mạnh xuống cái cổ căng thẳng. Tử tù lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người họ. Trông xa, họ có cái dáng cứng thản nhiên của những tượng đá tạc hình người phỗng Chiêm Thành qùy trước sân thờ các đình chùa nhà Lý.
    Tiếng nhạc bát âm thổi bài Lưu thủy trường gần mãi lại. Rồi trong một giây phút mọi người lắng rõ tiếng sênh tiền. Ai nấy nín thở. Trông ra cờ quạt kín cả nền trời và lính tráng kín cả mặt cỏ. Bụi cát bay mù như lúc có cuộc hành quân. Quan Công sứ mặc đồ binh phục trắng có ngù kim tuyến đi sóng hàng cùng quan Tổng đốc. Hai quan đầu tỉnh, một người đi ghệt, một người đi ủng, đều gò bước đi cho nó ăn nhập với cái long trọng của pháp trường. Những tên lính tỉnh gầy ốm che sát vào người hai Ông Lớn mọi thứ tàn vàng tán tía lọng xanh.
    Trăm họ dân đen bị bức đi xem chém không dám phạm thượng cúi gầm mặt xuống đất, nhìn cánh cỏ may chọc thủng vải ống quần.
    Trong nhà rạp các quan an vị. Thầy thông ngôn người Nam kỳ đứng khoanh tay đằng sau quan đầu tỉnh Lưu trú Pháp. Quan Tổng đốc nói trước:
    - Những người sắp bị hành hình kia là dư đảng giặc Bãi Sậy. Bản chức rất mong rằng đấy là những kẻ phiến loạn cuối cùng. Và nhờ hồng phúc của Quan lớn, cuộc trị an ở xứ này sớm định.
    Bát Lê cầm gươm tiến đến trước nhà rạp, vòng tay thu lưỡi gươm lại, vái một vái, cúi mặt đứng im. Quan Tổng đốc nhớm mình khỏi mặt ghế bành:
    - Xin phép Quan lớn cho ty chức được trình với Quan lớn một tên đầy tớ trung thành. Hắn là tay đao phủ tại pháp trường hôm nay.
    - Có phải cái người mà Quan lớn nói là có tài chém đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy đó không?
    - Dạ. Mà hôm nay hắn hạ thủ trong một hơi những mười hai cái đầu. Bây giờ để xin ra lệnh khai đao.
    Quan Công sứ gật. Viên giám trảm và Bát Lê cùng lùi ra ngoài rất mau.
    Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Dứt mỗi hồi chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li!
    Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp các quan chỉ nghe thấy cái âm lơ lớ rờn rợn. Viên Công sứ Pháp chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì đầu những tội nhân bị quỳ kia chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun lên kêu phì phì, cao vọt lên nền trời chiều. Mà trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống.
    Bát Lê làm việc xong, không nghỉ, chạy tuốt vào đứng trước nhà rạp. Bấy giờ viên Công sứ mới nhìn kỹ cái thằng cầm gươm, mặc áo dài trắng, một dải dây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng hắn không có một giọt máu phun nào vấy được vào, Lưu trú quan Pháp liền gật gù hỏi quan Tổng đốc để nhớ lấy tên họ một người đao phủ có lối chém treo ngành rất ngọt. Lưu trú quan Pháp thưởng cho Bát Lê ba cọc bạc đồng bà đầm xòe.
    Lúc quan Lưu trú đầu tỉnh gần cầm mũ cáo về tòa Sứ, quan Đổng lý Quân vụ còn ân cần buộc thầy thông ngôn Nam kỳ dịch cho bằng được:
    - Bẩm Quan lớn, chém treo ngành như thế này là phải lựa vào những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Gặp phải những lúc nhộn nhạo quá, án chém nhiều, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ tù xếp hàng, nối đuôi, qùy hướng về một chiều. Đại để nó cũng như là cái lối thanh tre cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta róc mắt mía.
    Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai đầu lâu còn dính vào da cổ người chết qùy, sân pháp trường sắp giải tán bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi, và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ hiến và thì thào.
    ... Bấy giờ vào khoảng giữa giờ Thân.
    Rút từ tập truyện ngắn Vang bóng một thời,
    Nxb. Mai Lĩnh, Hà Nội, 1940

Chia sẻ trang này