Tuyết tùng ơi! TUYẾT TÙNG ƠI Gaup www.tathy.com/thanglong Buổi chiều trước khi rời Cairo để ra sân bay đi Beirut, để giết thời gian anh ngồi trên chiếc bàn gỗ nhỏ và nghe nhạc từ một chiếc cassette. Tình cờ có một bài hát hay hay, anh tua lại bài này cả tiếng đồng hồ sau đó và vẫn còn lẩm nhẩm hát khi trên đường ra sân bay, qua những khu phố Cairo buổi chiều mùa đông đông đúc và chật hẹp. Lời bài hát phảng phất trên cao đâu đó như không phải phát ra từ trong cổ anh, phảng phất như mùi hương liệu lẫn mùi cát cố hữu của thành phố nhiều ngàn năm tuổi này. Bài hát thế này: ?oAnh muốn gọi ngàn sao từ trời cao cùng xuống Anh muốn sống một ngày chẳng bao giờ ngưng Anh muốn thay đổi thế giới chỉ vì em Muốn ôm em thật chặt trong mưa Muốn hôn môi em cười, muốn chia sẻ nỗi đau Chỉ cần nhìn em anh biết ngay cái gì đẹp nhất Trong thế giới giả dối em là sự thật Em ơi, mỗi lần em chạm vào anh Anh thành anh hùng ?ochân đất? Dù em có ở nơi đâu Có anh giữ em an lành Sẽ dâng hiến em tất cả Nào có gì cao hơn anh?? *** Có quá nhiều thứ trên đời này cao hơn anh, như cô là một. Hôm đó khi cô đi qua cái cửa kính xoay bước vào trong sảnh toà nhà của trường thì anh đang đứng bên một người bạn chung. Người này nhanh nhẹn giới thiệu anh và cô với nhau. Cô phải cao hơn anh đến 7 phân chứ chẳng ít. Những câu xã giao đã được trao đổi, anh hỏi lại cô: ?oBạn nói bạn từ đâu đến?? Cô nói ?oLibăng!?, rồi cười, ?ođúng rồi, khủng bố!? Anh chẳng nghe thấy gì cả, chỉ thấy cô cười, mắt và miệng đều cười. Anh về nhà hôm đó trong đầu chỉ nhớ lúc cô cười. Ba hôm sau anh viết thư cho cô: ?oNếu không phiền bạn hay ai khác, tôi muốn mời bạn ăn tối.? Cô trả lời ngay: ?oTôi xin cảm ơn, nhưng tôi sợ sẽ phiền người khác.? Hai người thỉnh thoảng lại gặp nhau trong sảnh. Cô kém anh nửa tuổi nhưng lại học trước anh một năm. Các bạn thì thầm cô là người giỏi nhất. Anh cũng không còn để ý đến cô nữa, chỉ thấy hơi xao xuyến khi thỉnh thoảng nghĩ đến cách cô cười. Có cái gì đó trong mắt cô vừa thông hiểu vừa đằm thắm và hiểu biết. Việc ăn uống không được như ý, anh sụt cân rất nhanh. Việc học hành thì đè nặng trên vai, anh chẳng mấy khi nghĩ về cô nữa. Phải đến hai tháng sau có một đêm thứ Năm trong quán bar của trường khi cô và anh đang ngồi trên chiếc đivăng dài thì cô nói, giọng ngập ngừng: ?oLần nào vào New York thăm chị tôi ở đó tôi cũng kể về bạn, rằng có một bạn Việt Nam rất hay ở trường. Tuần trước chị tôi vừa mắng đùa là lần sau còn kể đi kể lại thì chị tôi cắt lưỡi. Buồn cười không?? Đêm đó về anh không thể ngủ được. Lúc đó anh nghĩ anh đã bắt đầu iêu cô. Nếu như đó là tình yêu thì đó là tình yêu chậm và buồn nhất mà anh đã từng biết đến. Mỗi ngày qua, ngoài việc học trong đầu anh chỉ còn nghĩ về cô. Nụ cười của cô, tính hài hước, cách cô chấp nhận nửa chiếc bánh mỳ ăn trưa anh đưa ra mời, hay bàn tay cô vẫy chào lúc anh đi ngang qua tất cả bỗng trở nên ngập tràn ý nghĩa. Tuy thế, anh chẳng bao giờ dám nói gì với cô cả. Một phần tại từ cô luôn toát ra mùi hương thơm của trầm. Anh thì đến từ đất nước của những người ngậm ngải tìm trầm biết giá trị của nó nhưng chẳng bao giờ dám dùng vì phải thông qua nó mà đánh đổi cuộc sống lấy miếng cơm, còn cô dòng giống người Phượng Hoàng, thuỷ tổ của thương nhân quốc tế, lớn lên với mùi hương này. Trang sức của tổ tiên cô có thể đo bằng máu của tổ tiên anh. Anh luôn sợ phải vượt qua làn ranh vô hình đấy. Anh cứ nuôi cái tình yêu mạnh mẽ nhưng bị kiềm chế đấy bằng những phút thoáng gặp cô. Cảm giác về cô dần dần trở thành một phần quen thuộc và to lớn trong cuộc sống của anh. Cô trở thành chỗ dựa tinh thần ở gần duy nhất mà anh có. Một ngày đến lớp không gặp cô là một ngày thất bại. Một ngày anh và cô ngồi cạnh nhau lúc ăn trưa và trao đổi những câu đùa ngắn ngủi là một ngày trọng đại. Những ngày như thế khi đêm về anh ngừng học bài sớm hơn thường lệ nửa giờ và đi ngủ sớm để tự thưởng cho mình một chốc lát nghĩ về cô. Tình yêu đấy mãi về sau này cũng chưa bao giờ có hơi hướng của thể xác. Anh yêu cô như lần đầu tiên, mà cũng có thể đó là lần đầu tiên anh thật sự yêu ai. Anh tìm thật nhiều sách viết về Libăng quê cô, về cuộc nội chiến, về Beirut và những người dân ở đó, các nhà thơ Libăng, những chiến binh vùng thung lũng Beqaa, các món ăn và đồ uống mà anh nghĩ cô quen thuộc. Anh bắt đầu đi tìm hình bóng cây tuyết tùng trên những lá cờ thế giới. Anh vẫn loáng thoáng nghe xung quanh những câu chuyện về một ngưòi đàn ông khác, một người đã từng đi từ nơi xa đến thăm cô và gặp gỡ các bạn bè cùng học của cô. Anh chẳng hề ghen với người nọ, anh mong cô hạnh phúc và người kia may mắn. Anh biết tình yêu này của anh sẽ chẳng đi đến đâu, giữa hai người có quá nhiều điều khác biệt và chênh lệch. Cô thông minh và cần một người giỏi hơn cô, có thể nâng đỡ được cô. Anh thì lại chẳng nâng đỡ được ngay cả chính mình. Sinh nhật cô tháng Hai anh mua tặng cô hai quyển sách, Sophie?Ts World vì trong đó có Libăng quê cô và một cô bé mang tên Tri Thức; Nỗi buồn chiến tranh vì trong đó có quê anh và nhiều người thân khác và một lời nhắn thầm rằng anh không chỉ là một chiến binh máu lạnh, anh cũng biết yêu thương khi gặp người đáng yêu thương. Có một buổi chiều anh và cô đi ra hiệu sách gần trường để chọn mua album ảnh. ở chỗ giá sách du lịch họ chọn ra những quyển sách viết về đất nước của mỗi người và cho nhau xem những bức ảnh. Những ông già râu dài đánh cờ bên Hồ Hoàn Kiếm được đặt bên cạnh những cô gái Libăng tóc đen xoăn mắt huyền đang hái nho ở Byblios. Cô chỉ vào một phố nhỏ Beirut và nói nhà cô ở trên phố đó. Đêm đó về anh lập một thư mục ảnh trên mạng chỉ toàn ảnh khu phố nhà cô mà anh đã tìm được trên internet rồi gửi cho cô. Đêm sau ở New York đọc thư cô anh cười thật tươi nghe cô kể là cô đã đi tìm anh khắp nơi chỉ để cảm ơn anh về món quà đặc biệt đấy. Tháng Năm đến và sắp đến lúc mỗi người đi một nơi. Anh cảm thấy cần phải nói gì đó với cô trước khi chia tay không biết ngày nào gặp lại. Anh nghĩ về cô từng giây từng phút và tiếc nuối một người không giống bất kỳ ai anh đã từng gặp, một tình yêu mà nếu thành hình chắc sẽ làm anh hạnh phúc nhiều. Anh biết anh có trách nhiệm phải đi những con đường mà anh không thể mang cô theo được. Mà chắc gì cô đã chịu đi theo anh? Họ hẹn nhau cùng ăn một bữa cơm chia tay đêm trước ngày anh lên đường về Hà Nội. *** Tôi lên máy bay khoảng 7h tối ở Cairo lúc đó tháng Hai đang bắt đầu vào mùa bão cát. Chiếc Boeing 727 đậu ở một góc xa của sân bay, hành khách lần lượt trèo lên cầu thang máy bay, vừa đi vừa nghiêng người để tránh cát bay vào mặt. Beirut chỉ cách Cairo khoảng một giờ bay nhưng lại sau Cairo một múi giờ. Chúng tôi bay qua sa mạc Sinai tối sẫm, rồi qua những trang trại Israel lấm tấm ánh đèn trước khi vòng ra ngoài Địa Trung Hải để hạ cánh xuống Beirut. Khi bắt đầu nhìn thấy thành phố rực rỡ đèn đêm bên dưới cũng là lúc cửa sổ máy bay thấy lất phất những giọt nước mưa. Đã sáu tháng rồi tôi mới lại được nhìn thấy mưa. Nhìn thành phố với ánh đèn nhoà đi sau làn mưa tôi cảm giác như mắt tôi cũng rơm rớm nước. Tôi đã đọc và nghĩ quá nhiều về thành phố và đất nước này, tôi đã mong được đến đây biết bao nhiêu. Đến đêm nay, sau nhiều vất vả, cuối cùng thì mơ ước cháy bỏng của một năm trước đó cũng thành hiện thực. Tôi tự nhủ là mình may mắn. Tôi chỉ mang theo một vali nhỏ và một hộp carton đựng báo Việt Nam của sứ quán gửi cho một nhóm người Việt Nam làm công nhân ở Beirut. Sân bay Beirut đẹp và rất hiện đại, không có vẻ gì của một đất nước vừa thoát khỏi nội chiến được vài năm. Làm thủ tục xong tôi ra khỏi sân bay, ngay lập tức được chào mừng bởi bầu không khí ẩm ướt sau mưa rất giống mưa mùa hè Hà Nội. Một người bạn đi cùng máy bay sang Beirut họp với trường Đại Học Mỹ ở Beirut (AUB) cho tôi đi nhờ về cổng trường này, nằm trên phố Bliss trong khu Hamra là khu trung tâm của Beirut. Ngay đối diện cổng là một khách sạn nhỏ. Tôi thuê một phòng trên tầng 3 trông ra đường. Phòng có hai giường, bài trí đơn giản, giá khoảng 30 đôla Mỹ. Tắm rửa xong tôi đi xuống đường. Phố Bliss là Tràng Tiền của Beirut có nhiều cửa hàng ở bên đối diện với khuôn viên của AUB. Beirut đẹp đẽ và sạch sẽ hơn tôi nghĩ với các con phố chạy dọc ngang trên sườn đồi thoai thoải, với các cửa hàng đầy ắp hàng hoá châu Âu. Phố đêm mà vẫn chật người, chủ yếu là thanh niên đi vòng vèo qua lại. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy mật độ các cô gái xinh xắn cao như ở đây, cứ 30s lại phải quay đầu ngoái lại mà nhìn. Trước đây khi học ở Mỹ, tôi có quen một người bạn Libăng. Cô bạn này lúc đấy đã về Beirut và dạy kinh tế ở AUB. Trong thời gian tôi làm việc ở Cairo 6 tháng trước đó, chúng tôi vẫn email qua lại nhưng có phần gượng ép có lẽ do việc tôi đến Cairo gây liên tưởng đến cái sự tôi theo đuổi cô. Việc tôi đến Beirut, lại vào thời gian vài ngày trước sinh nhật cô bạn, thật sự là một việc tình cờ. Sau 6 tháng ở Cairo visa làm việc của tôi đã hết hạn tôi cần phải ra ngoài Ai Cập để lấy visa mới. Tôi không có ý định đi về tận Việt Nam để xin visa nên quyết định sẽ nhân cơ hội đó đi chơi lòng vòng một nước trong vùng. Biết rằng việc tôi sang Beirut có thể làm cô bạn của tôi không thoải mái, tôi có ý định đi Yemen hay Israel nhưng đến phút cuối chỉ có Libăng là tiện nhất. Thật là may cho tôi thích mà không dám nhận là thích từ đầu. Lang thang trên phố lúc đó tôi thật chẳng biết mình đang ở Beirut làm gì. Tôi cũng không dám chắc là tôi có muốn gặp người bạn kia hay không, mà dù có gặp thì cũng để làm gì? Giới hạn giữa yêu thương lãng mạn và theo đuổi hư hỏng ở chỗ nào tôi cũng không biết nốt. Tôi chỉ thấy hài lòng là tôi đang ở một nơi mới, nhiều lịch sử, đẹp và vui. Ngoài ra tôi chẳng nghĩ ngợi nhiều về một tuần sắp tới. Sau khi ăn một chiếc bánh cuộn nhân fromage dê với thịt bò là đặc sản của Libăng và uống một cốc càphê nóng bỏng, tôi đi vòng qua góc phố đến một quán càphê internet để kiểm tra email. Quán đầy chật thanh niên đang chat say sưa, trai và gái đều ăn mặc rất đẹp. Khi vào xem thư tôi thấy thư đầu tiên là của cô bạn Libăng viết về vụ ném bom của Israel xuống một trạm điện ở vùng núi cách Beirut khoảng 40km. Tôi viết thư lại ngay cho cô, thảo luận vớ vẩn về tình hình thời sự và chính trị, chủ yếu để trêu cô là chính. ***
Libăng là một đất nước hào nhoáng và những người dân thường cũng vậy. Như Việt Nam, đất nước này trước đây là thuộc địa của Pháp. Người Libăng có gốc từ người Phoenix, những thương nhân viễn dương đầu tiên của thế giới, truyền thống bán mua từ cổ xưa đến giờ vẫn còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tính cách của người Libăng hiện đại, họ ưa mua bán và thích mời mọc khách bằng cả lời nói và vẻ bề ngoài là lượt. Trước nội chiến năm 1975, Libăng được coi là Thụy Sỹ của Trung Đông do có đặc điểm địa hình và kinh tế tương đối giống với nước kia, kinh tế Libăng cũng dựa trên nền tảng ngân hàng và kinh doanh tiền của các quốc gia Hồi giáo trong nội địa. Dân Libăng có khoảng 3 triệu người nhưng người Libăng sống ở nước ngoài có khoảng 25 triệu, làm ăn buôn bán đều khá thành đạt. Có lẽ nhờ vào những nguồn vốn và kinh nghiệm của người Libăng ở nước ngoài mà tiến trình tái thiết Libăng đã diễn ra hết sức nhanh chóng. Nội chiến giữa các phe Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo chỉ thật sự chấm dứt vào năm 1995 thế mà chỉ bốn năm sau thành phố Beirut bị tàn phá nặng nề đã lấy lại được vẻ phong lưu như trong những bức ảnh cũ hồi trung thế kỷ. Bốn năm sau chiến tranh, Libăng vẫn còn bị coi là một nước thế giới thứ 3 và sào huyệt của khủng bố Hồi giáo. Libăng chính là quê hương của nhóm Hezballah (Vinh Danh Chúa) là một nhóm vũ trang Hồi giáo sinh ra từ lò lửa nội chiến và nhanh chóng phát triển thành một tổ chức quân dân chính với chân rết trong mọi mặt đời sống Libăng. Hezballah có cả trường đại học, ngân hàng, bệnh viện riêng và có vai trò như một chính phủ bán chính thức chuyên trách lãnh đạo thanh niên sinh viên học sinh đấu tranh đòi Israel phải rút quân ra khỏi miền nam Libăng bị chiếm đóng từ năm 1978. Israel đã đưa quân vào khu vực này để hạn chế hoạt động của tổ chức giải phóng nhân dân Palestine (PLO) khi đó đóng bản doanh ở Beirut. Beirut thời những năm 40-70 là chốn ăn chơi của mọi sắc dân Trung Đông, lính tráng và sĩ quan PLO hội họp ở những chốn nhảy múa ăn uống nhiều hơn là tại doanh trại của họ. Một chi tiết lịch sử mà ít người biết đến là vào năm 1982 lúc đỉnh cao của cuộc chiến tại đây giữa các phe phái nội địa và ngoại thuộc (PLO, Israel, vv) đã có một đoàn quân sự của Việt Nam sang Beirut với ý định trợ giúp chiến thuật chiến tranh du kích cho PLO nhưng sau việc bất thành do kỷ luật của các nhóm quân này quá lỏng lẻo, tình trạng thay đổi chỉ huy và phương thức chiến đấu diễn ra từng ngày. Tôi đã đọc tất cả những điều trên trong hơn một năm trước khi đến Beirut. Đất nước nhỏ bé này đối với tôi vừa thân quen vừa lạ lẫm. Nhưng dù sao trong tư tưởng tôi cũng đã quen nghĩ về Libăng trong một tương quan đối kháng giữa các bên phân biệt qua sắc tộc và nhánh tôn giáo. Tôi ngồi trước màn hình máy tính trong góc khuất và tối vừa viết thư vừa ngắm nhìn những người Libăng trẻ tuổi xung quanh. Vẻ thanh bình làm tôi ngạc nhiên, mùi càphê bùi và ngậy quyện với mùi thơm nhẹ của khói thuốc lá, mùi nước hoa, mùi nhựa còn thơm mùi dầu của những chiếc máy vi tính mới để quanh phòng trang trí nền nã, những cô gái trẻ ăn mặc chải chuốt, uống rượu mùi đỏ sóng sánh trong những chiếc ly mạ vàng đế thấp, những chàng trai tóc bóng mượt mặc veste đen, sơ mi đen, râu đen tỉa gọn gàng, đi giầy đen đeo khuyên tai bạc ?" trong ánh đèn vàng dịu chia căn phòng thành những khoảng sáng tối bất chợt xung quanh tôi là vẻ nhàn nhã và đầy đủ, sự đầy đủ sung túc không phải chỉ của những người nông dân đủ ăn hay của những tay nhà giầu thành phố mới nổi hay chơi trội mà là sự dư thừa đã biết kiềm chế ép mình vào những khuôn khổ thẩm mỹ giản đơn . Viết thư cho cô bạn xong, tôi quay sang viết thư cho những người bạn khác ở Việt nam và ở Mỹ. Câu chào ?oXin chào từ Beirut? mà tôi dùng làm tiêu đề của tất cả các thư đêm đó là một câu nửa mang tính tuyên ngôn, nửa là lời tuyên bố thành công và chiến thắng. Khoảng gần nửa đêm tôi ra về. ở quầy trả tiền có một cô gái Libăng hỏi khẽ bằng tiếng Anh ?oCậu là người Nhật Bản à??. Tôi cũng trả lời thì thầm ?oKhông, người Việt Nam.? Mắt cô gái sáng bừng lên, rồi cô gấp gáp nói, ?oCậu là người Việt Nam đầu tiên tôi gặp đấy,? rồi cô chìa tay ra, ?otên tôi là Yizmina! tôi học ngành kinh tế chính trị ở AUB? Tôi bắt tay cô, tự giới thiệu mình, rồi chúng tôi trao đổi mấy câu trò chuyện. Khi biết tôi còn ở Beirut một tuần nữa, cô hẹn sẽ gặp tôi ngày hôm sau ở quán café internet này để dẫn tôi đi chơi. Tôi bước ra đường lúc đó đã khuya, trời rất lạnh. Kéo cao cổ áo khoác lên, tôi đứng lại chỗ góc đường chỉ héo hắt chút ánh sáng đèn, xa phía trước mặt là biển đêm tối đen có tiếng sóng vỗ dồn dập vào kè đá, xung quanh không một bóng người, ở đây độ ẩm cao nên hơi lạnh cũng giống Hà Nội. Phía bên trái tôi là đèn sáng vui tươi của Rue Bliss có khách sạn tôi ở, phía bên phải tôi men theo lối rẽ tối là đoạn đầu Rue Kennedy, phố nhà cô bạn quen khi trước. ở phía trái là cuộc sống tôi tuy đơn độc một mình nhưng nối dài một dải, quần áo và vali đều đã đi nhiều nơi với tôi; ở bên phải trong ấm cúng gia đình cách đó chừng 100m là một người bạn tôi rất quý mến. Tôi cầm một đồng xu trong tay, tung lên bắt lấy một vài lần rồi thật thảnh thơi tôi quay ngang đi nhanh về phía trái con đường.
*** Tên tôi là Yizmina nhưng các bạn thân của tôi thì gọi tôi là Yizi mầu mỡ, chắc hẳn nhìn tôi mọi người đều đoán được tại sao. Từ bé tôi đã sống với ông bà ngoại và các cậu tôi ở vùng thung lũng Beqaa. Gia đình tôi gồm nhiều người luôn mang súng, các cậu tôi thường đuổi gà trong vườn bằng đạn thật. Thời ông ngoại tôi còn trẻ thì ông cũng đuổi người Thổ Nhĩ Kỳ bằng đạn thật. Cha mẹ tôi ly dị nhau trong thời nội chiến, cha tôi giờ đang làm kinh doanh ở Đức còn mẹ tôi thì đã lâu không liên lạc nên tôi chẳng biết bà ở đâu. Tôi ở ký túc xá trong Beirut và đi học tất cả các ngày trong tuần ở đại học Mỹ, cứ hai tuần thì tôi lại ra đón xe buýt ở trạm Cola để về nhà với ông bà ngoại. Mỗi khi về nhà bao giờ tôi cũng phải mang thêm nhiều insulin để đề phòng bị ép ăn những món ăn có đường ở nhà. Bệnh béo phì làm tôi khốn đốn. Tôi có nhiều bạn nhưng chỉ có một người bạn thân là Natalie. Natalie, 18 tuổi, là người Libăng sinh ra ở Pháp nhưng đã trở về đây sống cùng cha mẹ từ khi nội chiến kết thúc. Cô ấy nói tiếng Arập rất kém nên chúng tôi thường trò chuyện bằng tiếng Pháp chỉ đôi khi mới xen vào một vài từ tiếng Arập. Natalie năm tới mới vào đại học, trường đại học Pháp St. Joseph ở Beirut. Chúng tôi đều là người thiên chúa giáo nhưng lại hay đi chơi với các bạn Hồi giáo. Người yêu của tôi ngày trước cũng là một người Hồi Giáo, bây giờ anh ấy đang ở Mỹ đi học hay buôn bán gì đó. Chúng tôi thường chỉ liên hệ qua thư điện tử vài ngày một lần. Natalie và tôi đều là những người quan tâm đến chính trị. Tôi là người theo phái dân chủ tự do còn Natalie là đảng viên đảng cộng sản Libăng. Các bạn của chúng tôi có cả những người bảo thủ và những người cấp tiến, có cả một người Trốtkit hay làm thơ và viết lời bài hát. Hàng tuần chúng tôi đều đi biểu tình, tuần trước thì biểu tình trước đại sứ quán Mỹ và văn phòng thường trú của CNN để phản đối CNN đưa tin sai lệch về thanh niên Libăng cực đoan. Cứ đến kỳ nghỉ học đầu mùa xuân hay cuối hè chúng tôi lại đi ô tô đến khu vực giáp ranh với vùng tạm chiếm ở miền Nam để biểu tình chống Israel. Lần trước có đến 2000 người cùng tham gia với chúng tôi, có cả các giáo sư trẻ ở trường tôi cùng đi. Chúng tôi cắm trại cách ranh giới ngăn bằng dây thép gai khoảng 50m rồi ném đá vào quân lính Israel đứng gác. Ném chán rồi chúng tôi lại bật nhạc lên nhảy múa sau đó lại ném. Đến 10h đêm mới về đến Beirut tôi và các bạn lại kiếm chút gì ăn rồi đi đến một sàn nhảy ở ngoại ô Beirut và ở đó đến sáng mới về ký túc xá để ngủ. Tôi ngủ cả ngày hôm đó luôn. Đêm nay tôi không ngủ được nên đi ra café internet ngoài cổng trường để viết thư cho người yêu của tôi ở Mỹ. Tôi không tin nhiều lắm là anh ấy sẽ trở về Beirut. Đã mấy người Libăng chúng tôi đi ra rồi lại quay về đâu? Quán café này là chỗ tụ tập bạn bè của chúng tôi, những người phục vụ đều quen tôi cả. Tôi có chỗ riêng của mình có thể nhìn thấy cửa ra vào để biết được ngay khi Natalie đến tìm tôi. Mỗi khi Natalie đến tìm, thể nào cũng có một vụ bạo động ở đâu đó, chúng tôi lại cùng đi và đôi khi phải đóng vai y tá cấp cứu cho những người bị cảnh sát quật dùi cui vào người. ở phía bên trái tôi trong góc khuất có một người Viễn Đông đang ngồi viết email. Từ nãy đến giờ anh ta đã gọi hai ly càphê và hút thuốc liên hồi. Tôi cũng hút thuốc nhưng không ?ophê? như thế. Người này trông như người Trung Quốc nhưng cũng có thể là người Nhật Bản. Biết đâu anh ta là người Nhật Bản đến đây để tham gia vào vụ biểu tình của chúng tôi sẽ diễn ra vào ngày kia? Tôi ít khi thấy người Viễn Đông ở trong nội đô Beirut, mà có thấy thì thường họ chỉ làm việc vặt trong gia đình hay quán ăn Trung Quốc, chứ không có ai dùng internet bao giờ. Cách đây khá lâu, chắc phải từ hồi những năm 70 có một nhóm cánh tả vũ trang Nhật Bản tự xưng là Hồng Quân đã đánh bom ở sân bay Jerusalem làm chết nhiều người. Chính quyền Israel đã bắt họ lại và giam giữ trong nhiều năm từ lúc họ mới hơn 20 cho đến nay đã hơn 40 tuổi. Khi Israel trả tự do cho họ, họ đã xin tị nạn tại Libăng vì sợ rằng Nhật Bản sẽ xử họ lần nữa nếu họ trở về nhà. Người ta đã đồng ý cho họ ở lại nếu như Nhật Bản không gây sức ép với chính phủ Libăng phải đưa họ về Nhật. Quốc hội Libăng đã chấp thuận là sẽ gửi cả năm người Nhật kia về. Bọn sinh viên chúng tôi cho rằng họ làm vậy vì mục đích kinh tế mà không nghĩ đến việc những người Nhật này lúc trước đã sẵn sàng hy sinh để thay mặt chúng tôi chống lại người Israel. Tổng hội sinh viên đã kêu gọi tổ chức biểu tình thật to vào ngày kia để chống Israel và phản đối chính phủ Libăng gửi những người bạn Hồng quân Nhật bản về nước. Tôi và Natalie đã thông báo tin này cho nhiều người, chúng tôi sẽ tập trung tại một sân bóng đá rồi diễu hành đến Toà án Binh cách đó 1km. Có vẻ như phần lớn thành viên cốt cán của các nhóm chính trị sinh viên đều sẽ tham gia. Tôi rất tò mò về người Trung Quốc hay Nhật Bản đang ngồi kia, có lẽ tôi sẽ ra chào và làm quen với anh ta. Biết đâu anh ta cũng lại là một thành viên của Hồng Quân bên Nhật Bản được phái sang để biểu tình cùng chúng tôi. Rất có thể là thế vì tóc anh ta cắt rất ngắn?mà tóc ngắn thì ở đâu cũng là dấu hiệu phản kháng. Phần lớn các bạn nam của tôi đều để tóc ngắn?..à, anh ta ra về rồi, để tôi ra đón đường và chào anh ta. ***
*** Cái sự ?othảnh thơi? của anh lúc anh buông tay ra khỏi những thứ những điều anh mong muốn và quan tâm nhất không phải là một sự thảnh thơi đáng tin cậy, bởi lẽ hậu quả của nó ngay trong lòng anh mà chính anh cũng cảm thấy được thường là sự nuối tiếc và dằn vặt đến mãi lâu sau. ý thức quá cao của anh về con người xã hội trách nhiệm, tức con người dám hy sinh, ít nhất là trong mắt mọi người, dẫn đến việc anh luôn là người đầu tiên bỏ cuộc những lúc có sự đấu tranh quyền lợi, dù rằng sự đấu tranh này đôi khi chỉ là hình thức, hay tưởng tượng, hay kể cả là ảo giác. Những điều anh càng yêu quý, anh càng đánh giá cao, anh càng mong muốn nhiều thì anh lại càng ?othảnh thơi? mà quay lưng lại với chúng. Nhưng cũng là con người bằng xương thịt biết trông ngóng sự ấm áp, sự dịu dàng, sự tiện nghi dù là tinh thần hay vật chất, anh hay ngoảnh mặt lại hy vọng những thứ tốt đẹp kia tự đến với anh nhờ một may mắn bất thường nào đó. Thi thoảng thì thần may mắn cũng mỉm cười, khi đó thường anh đã chẳng còn quan tâm đến phần thưởng nữa. Nhưng khi không có sự may mắn nào xảy ra, anh lại là người đầu tiên quay lại săn đuổi điều cũ cho kỳ được, với một nỗ lực đáng ngạc nhiên, vượt xa ra khỏi những hạn chế của hoàn cảnh và nội lực. Chính những cuộc săn này giúp anh khám phá thêm nhiều điều mới, về bản thân anh và về thế giới, nhưng cái sự tiền hậu bất nhất của anh lại làm người xem ngơ ngẩn lạ kỳ. Sự ?othảnh thơi? anh nghĩ đến khi ở góc phố tối giữa Beirut đêm đó anh chọn đi về bên trái, tức là quay về với những thứ thân quen và ổn định, hoặc giả có không ổn định thì cũng quen thuộc trong thế chênh vênh, chính là biểu hiện của chính nó vào những lúc này hay lúc khác, là hệ quả trực tiếp của sự kiềm chế hoàn toàn không cần thiết những tình cảm anh dành cho cô khi cả hai còn có cơ hội ở cạnh nhau. Tuy anh không đòi hỏi tình yêu từ cô, hay ghen với người bạn trai kia của cô, hay theo đuổi cô nhưng anh lại kiên quyết đòi cô phải biết và hiểu cái sự hy sinh đấy, mà theo anh là vì điều tốt cho cả hai người. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đó, khi cả hai người đều cần sự dịu dàng mà người kia có thể mang lại, chỉ đơn giản là để làm giảm đi những áp lực to lớn hàng ngày mà cuộc sống và học hành trút lên vai họ chứ chẳng phải để cho tương lai tươi sáng hơn thêm, thì anh lại thu mình lại và tách mình ra, tuy là thảnh thơi đấy nhưng vô hình chung lại tự tạo ra cho anh những áp lực mới, mà nặng nề nhất là áp lực phải duy trì sự thảnh thơi và bình thản bề ngoài. Sự dịu dàng qua lại, sự giao hoà và kết hợp của hai tâm hồn có lẽ chẳng mấy đồng điệu nhưng chí ít cũng quý mến nhau đã có thể là một bình rượu ngon mà hai người có thể cùng chia sẻ để uống cho say, chỉ cho lúc này và ngày hôm nay thôi, rồi ngày mai nếu vui thì sắm thêm bình rượu mới. Thế mà anh lại ích kỷ giữ cái bình lại cho riêng mình với lý do rượu ngon nhưng mà say thì chẳng tốt cho ai, và để chứng minh rằng mình công tâm, anh dang tay đập vỡ cái bình làm đổ tung mấy ly rượu ngọt ít ỏi, để đến lúc này anh lại phải quỳ xuống đất mà vun vén những mảnh vỡ. Để làm gì và để cho ai? Hai người hẹn nhau lúc 6h chiều hôm đó sẽ cùng đi bộ vào phố đi ăn. Từ sáng trời đã mưa nặng hạt, anh nhìn trời mưa không dứt lo đến thắt ruột là mọi việc sẽ không được như ý. Lúc 5h30 mưa bỗng tạnh, vài phút sau thì mặt trời ló ra và nước bắt đầu khô. Lúc 6h hai người đã đi cạnh nhau về phía phố chính Nassau, cô cao gầy đi cạnh anh?thấp gầy. Chẳng có nhiều thứ đáng nói về bữa ăn hôm đấy, cô vẫn tự tin, duyên dáng và hài hước, chỉ có anh là căng thẳng với những ý nghĩ mà chỉ mình anh có. Lúc trả tiền, hai người giằng co nhau quyết liệt, anh cuối cùng cũng thắng nhưng một chút nước mắt cũng đã nhân cơ hội đó mà chảy ra. ở đầu đường Nassau là phố chính của thành phố đại học nơi họ sống có một vườn hoa nhỏ với những chiếc ghế băng bằng sắt sơn xanh. Lúc ăn xong họ cùng đi bộ ra đó. Cô ngồi ăn kem còn anh thì đứng trước mặt. Anh bắt đầu nói. Anh tuyên bố với cô về những tình cảm giống tình yêu mà anh dành cho cô, những tình cảm mà trước đó anh tự hứa sẽ không công bố. Việc tuyên bố những thứ không cần tuyên bố tự thân nó vẫn còn tính không tuyên bố nhưng lại đòi hỏi phải có những lời giải thích thêm đi kèm. Anh kể với cô về Việt Nam, về gia đình và bạn bè, những điều mà trước đó anh chưa kể. Anh kể về cây xương rồng ở nhà anh ra hoa đỏ mỗi mùa hè, những quả sấu chua quặn lưỡi, anh đạp xe đi học cấp ba mùa đông rồi từ trong lớp nhìn ra sương sớm mặt hồ ngoài cửa sổ, những hạt bụi phấn hoa, những đám mây trắng tháng Tư ở Hà Nội, những đôi giày cũ đã há mõm, những quyển sách mất bìa, cái khoá cặp hỏng, cái bánh chưng mốc, những người bạn đã xa không bao giờ còn gặp lại và những ngọn lửa bị thời gian dập tắt, những ước mơ đi xa bay cao. Anh cứ nói mãi như thế, chỉ đứng mà nói và thỉnh thoảng bước đi vài bước. Cô lắng nghe chăm chú, lúc cười lúc nhăn trán. Cả tiếng sau khi anh dừng lại, cô bắt đầu kể chuyện về cô. Cô kể về người đàn ông kia, người mà cô còn chưa chắc chắn, cô không hiểu cuộc sống với người đó khi cô quay về Beirut sẽ như thế nào. Thôi thì cuộc đời xoay chuyển thế nào thì ta xoay theo như thế, mong là sẽ được vui. Cuối cùng cô nói khẽ: ?oWahed itneen tillatta arba, khamsa sitta sabba?Ta, ashareen!? () Nghe cô nói vậy, sự ?othảnh thơi? của anh tan biến như băng tháng Sáu. Anh thấy cảm giác đau dội ở ngực và chẳng biết phải nói gì nữa. Đã quá muộn rồi. Họ cùng đi bộ về nhà cô. ở trước cổng anh tháo cái balo đang đeo sau lưng xuống và lục lọi hồi lâu lấy ra món quà anh đã mua cho cô từ trước. Cô cũng tháo balô đeo sau lưng xuống và lục lọi hồi lâu lấy ra món quà cô đã mua cho anh từ trước. Lúc chia tay, họ ôm lấy nhau, anh thoáng ngửi thấy mùi trầm hương trên tóc cô, anh hít vội một hơi thật sâu và khẽ rùng mình. Họ đứng như thế một lúc lâu rồi anh đẩy vai cô ra. Cô bảo: ?oMình chắc sẽ còn gặp nhau, chắc sẽ ở một hội nghị nào đó. Bây giờ thì đi nhé, đi đi, đừng ngoảnh đầu lại mà đi.? Anh thảnh thơi quay ngang và nhanh nhẹn bước đi sang phía trái con đường. Chỉ vài tiếng nữa thôi là anh sẽ ra sân bay lên đường về nhà với món ăn của mẹ và tiếng Việt, bạn bè và caphê pha đặc uống ngoài vườn. Đến cuối đường trước khi rẽ anh quay đầu nhìn lại, trên bệ cổng trong bóng tối sẫm xao động của cây lá, cô vẫn đang ngồi nhìn theo anh. () ?oĐáng ra phải nói với tôi những điều này sớm hơn thì bạn đã chẳng phải ngồi một mình mà chịu những đau khổ tình yêu? --Tiếng Arập, dịch từ tiếng Anh trong.. nguyên văn..))
sorry n hiện tại máy chủ báo topic này có từ gì gì ý vi fạm nội quy chờ tí, chiều tớ đi học về đọc roài tớ coi lại nha. còn bi giờ đành làm mọi người mất hứng chút, tớ lock cái này vô đã. mai cuối tuần nên chiều nay ol được chờ xíu nhá