1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Uống cà phê ở Cần Thơ.

Chủ đề trong 'Cần Thơ' bởi ngthhuan, 22/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    3/Pha trà
    Có trong tay loại trà ngon mà không biết cách pha cho đúng cũng phí ấm trà.Muốn có ấm trà ngon, chỉ cần chế biến trong 7 phút nhưng không học thì cả đời cũng không làm được.
    Cách pha trà tuy mất thời gian nhưng lại rất quan trọng. Trà sư Lục Vũ, người Trung Hoa đời Ðường (được phong làm thánh trà với tác phẩm Trà Kinh) đã tôn lửa là "trà sư" gọi nước là "trà hữu". Trà muốn được thật ngon phải đúng lửa, đúng nước... Cũng thể như người ta vậy, muốn thành quân tử phải có thầy hay bạn tốt.
    Còn vua Tống Huy Tông trong Ðại quan trà luận có phân loại nước rất rõ ràng: "Sơn thuỷ thượng, giang thuỷ trung, tĩnh thuỷ hạ". Tức là nước pha trà ngon nhất là nước đầu nguồn suối, nhì là nước sông và thứ ba là nước giếng khơi. Còn người Hà Nội do địa thế không gần nguồn suối mà thuộc hạ lưu sông nên thường pha trà bằng nước giếng khơi hay bằng nước mưa. Mưa được khoảng 10 phút (khi đã hết bụi bẩn trong không gian), người ta mang bàn ra giữa sân gạch, lấy chậu sành to để lên trên bàn (hay trên nóc nhà ngói) hứng nước mưa, cất đi để dành. Tột bực có cụ Nguyễn Tuân với cách hứng nước sương trên lá sen buổi sớm.
    4/Thưởng trà
    Cách uống trà liên quan chặt chẽ tới nếp sống của các vị thiền sư, phù hợp nguyên tắc luôn tỉnh thức và quan sát của môn phái Thiền Minh sát Vipassana. Bằng cách ngắm hoa hoặc thanh tịnh nơi trà thất, họ thanh tịnh nhãn căn; khi lắng nghe tiếng nước sôi trong ấm đồng, họ thanh tịnh nhĩ căn; khi nhấm nháp từng ngụm trà nhỏ từ chén trà thơm tho, họ thanh tịnh khẩu vị và thiệt căn; khi tiếp xúc với những trà cụ trong sự tĩnh giác, họ thanh tịnh được xúc giác và thân căn; khi thâm tâm và lục căn thanh tịnh, họ thoát khỏi mọi ràng buộc của phiền muộn và tâm hồn trở nên thanh thản. Có lẽ đó chính là nghệ thuật thưởng thức trà giàu ý nghĩa nhất mà con người có thể có được.
    (st)
  2. Cara77

    Cara77 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2003
    Bài viết:
    1.686
    Đã được thích:
    0
    he he, bây giờ không còn là đi uống cafe ở CT mà thành uống trà đạo ở CT mất tiu lun... hôm nay pha 4 gói trà Lipton mời bọn bạn, bọn nó ham uống cafe chẳng thèm đoái hoài tới nên để lăn lóc trong tủ lạnh, từ tối tới h mình cong đuôi uống thấy pà kố ...
  3. Cara77

    Cara77 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2003
    Bài viết:
    1.686
    Đã được thích:
    0
    he he, bây giờ không còn là đi uống cafe ở CT mà thành uống trà đạo ở CT mất tiu lun... hôm nay pha 4 gói trà Lipton mời bọn bạn, bọn nó ham uống cafe chẳng thèm đoái hoài tới nên để lăn lóc trong tủ lạnh, từ tối tới h mình cong đuôi uống thấy pà kố ...
  4. TuongTuKhach

    TuongTuKhach Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/05/2003
    Bài viết:
    827
    Đã được thích:
    0
    Bác FBK quả nhiên nội công thâm hậu à nghe Đấy mới chỉ là trà đạo của Trung Quốc và có Việt Nam chút ít, vậy còn trà đạo Nhật Bản thì sao đây hở bác, Nhật nổi tiếng về trà đạo dữ lắm mà, chẳng biết cái quán why not này nó theo phong cách nào đây nhỉ, nhưng tui thích phong cách Trung Quốc hơn
    Sao cái phần "thưởng trà" bác viết ít thế, tui chỉ khoái cái này thôi, còn mấy cái kia để người ta làm...Bác nói tiếp về cái không gian và thời gian thưởng thức đi nhé, cả con người nữa, như thế mới thú vị, tui đang chờ nghe cao kiến của bác đấy
  5. TuongTuKhach

    TuongTuKhach Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/05/2003
    Bài viết:
    827
    Đã được thích:
    0
    Bác FBK quả nhiên nội công thâm hậu à nghe Đấy mới chỉ là trà đạo của Trung Quốc và có Việt Nam chút ít, vậy còn trà đạo Nhật Bản thì sao đây hở bác, Nhật nổi tiếng về trà đạo dữ lắm mà, chẳng biết cái quán why not này nó theo phong cách nào đây nhỉ, nhưng tui thích phong cách Trung Quốc hơn
    Sao cái phần "thưởng trà" bác viết ít thế, tui chỉ khoái cái này thôi, còn mấy cái kia để người ta làm...Bác nói tiếp về cái không gian và thời gian thưởng thức đi nhé, cả con người nữa, như thế mới thú vị, tui đang chờ nghe cao kiến của bác đấy
  6. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    Tớ đính chính lại rằng tư liệu về trà là do tó copy được và cũng đã có cre*** ở fía dưới.Công ước Bern đã ra đời nên tớ sợ lắm, bạn đừng hiểu nhầm đây là kinh nghệim mà tớ có được sau 1 thời gian thưởng thức trà........Tớ cũng chỉ có 4 5 năm kinh nghiệm uống trà thôi à......nên còn học tập ở bạn nhiều.....Ớ SG tớ có một wán trà ruột, nhưng bây giờ tớ kg dám ghé lại đó vì nó gắn với 1 kỷ niệm buồn mà tớ laị muốn wên đi càng nhanh càng tốt....Đang tìm wán khác để uống đây.....Còn đi Cthơ thì tớ chưa biết bao giờ có thể......nhưng khi nào ghé tớ sẽ hú cậu mà.Lúc nào lên SG thì hú tớ, tớ rảnh sẽ dẫn cậu đi uống trà.......
    ==================
    THÚ UỐNG TRÀ TRÊN THẾ GIỚI
    Khi lá chè sớm nhất chuyển vào châu Âu, người ta đều nghi ngờ có chất độc. Năm 1664, Công ty Đông Ấn Độ tiến cống trà cho vua nước Anh. Phụ nữ quý tộc đua nhau bắt chước nhà vua thử uống trà, nhưng họ lại sợ trong chè có chất độc, vậy là sau khi uống trà, họ lại uống rượu Brandy để khử độc. Khi trà và cà phê chuyển vào Thụy Điển, vẫn có người lo rằng uống những thứ đó vào sẽ bị ngộ độc. Nhà vua muốn biết rõ sự thật bèn ra lệnh cho 2 anh em sinh đôi bị xử tử hình: hai người phai thay nhau, một người uống trà mỗi ngày, một người uống cà phê mỗi ngày, thì được miễn án tử hình. Hai anh em vui mừng đồng ý. Rất nhiều năm sau họ vẫn bình yên vô sự, người uống trà sống đến 83 tuổi.
    Lịch sử uống trà của người Nga đã có hơn 300 năm. Năm 1638 trà được đưa từ Mông Cổ vào nước Nga. Lúc đó, đại sứ Nga Slakốp được lệnh đến Mông Cổ bái kiến Kha Hãn, và mang theo da báo quý hiếm làm vật lễ cống. Kha Hãn nhận lễ vật và tặng lại Sa Hoàng 200 gói trà Trung Quốc. Khi đó, sứ thần Nga còn chưa biết gì về trà, chần chừ không muốn nhận, sau được khuyên giải mới miễn cưỡng nhận. Ông mang trà về Matxcơva, Sa Hoàng sai người hầu pha trà mời các cận thần uống thử, thật bất ngờ, mọi người đều nhất trí cho rằng uống trà xong trong miệng có mùi thơm lạ. Từ đó, người Nga bắt đầu uống trà. ?oTrà Trung Quốc? mới xuất hiện trong thơ Puxkin, xuất hiện trong vũ kịch ?oCái kẹp hạt dẻ? (Cassenoisette) của Traikopski. Người Nga cho rằng trà có công hiệu thức tỉnh thần kinh, làm vui lòng, giải sầu, sau giờ làm việc, uống một ly trà có thể loại trừ mệt mỏi, khôi phục thần kinh và thể lực. Loại trà họ thường uống nhất là ?oTrà đen?. Loại trà này trải qua mấy công đoạn gia công, nước chè pha ra có mùi thơm đặc biệt. Có người lúc uống trà trong miệng họ ngậm một cục đường, cũng có người thích cho đường vào nước trà, lại có người còn cho thêm một chút sữa bò, mật ong hoặc nước quả, hương thơm của hoa cỏ? Phương pháp uống trà Đông Tây kết hợp này, có mùi vị rất đặc biệt.
    Người Anh bất cứ làm việc gì cũng đều phải uống trà, vừa uống trà vừa bàn bạc công việc. Phòng trà của người Anh, mô phỏng theo phòng trà Trung Quốc, tập quán của phòng trà là tập quán của phòng trà Trung Quốc. Với người Anh một ly trà ngon là một thứ cần thiết lúc cảm thấy lạnh, gặp phải khó khăn, sau khi đi đường dài, sau khi trượt tuyết trượt băng, sau khi bị kích thích mạnh. Thời gian uống trà của người Anh, thường được gọi là ?ogiờ trà?, là buổi sáng ngủ dậy uống một ly trà, 11 giờ vừa uống trà vừa làm việc vừa nói chuyện, giờ trưa đương nhiên phải uống một ly, 1 ?" 4 giờ chiều cho dù công việc chưa làm xong cũng phải dừng lại uống một ly trà. Cứ như vậy, người Anh một ngày uống 6 ?" 7 tuần trà, trở thành ?oTrà cơm hàng ngày?, bởi vậy có thể coi người Anh là quán quân uống trà trên thế giới.
    Tập quán uống trà của người Mỹ và người Anh như nhau, họ thích uống Hồng trà cho thêm sữa và đường. Có không ít phụ nữ Hà Lan, thích khi pha trà cho thêm hoa hồng hoặc lá đào; còn tín đồ theo đạo Cơ đốc ở Mỹ lại thích vớt lá chè đã nấu chín ra, tẩm với sữa, muối ăn. Ngày nay, nhịp sống của nước Mỹ ngày càng nhanh, họ không muốn dùng phương thức thưởng thức trà chậm chạp, mất thời gian nữa. Vậy là loại ?otrà tan nhanh? ra đời. Loại trà này được chế ra gồm nước trà, nước chanh và đường, khi uống chỉ cần cho nước sôi vào là được, rất tiện lợi. Đặc điểm của nó là, khi uống trà không có bã, lại bảo đảm vị trà.
    ?oTrà đạo? của người Nhật nổi tiếng thế giới, nó cũng là một phương thức chiêu đãi khách, tu tâm dưỡng thần, chuyện trò giao tế, ?oTrà đạo? ở Nhật đã có lịch sử hơn 500 năm. Nghe nói, cố hương của ?oTrà đạo? Nhật Bản là ở Trung Quốc. Hơn 800 năm trước, có một tăng ni Nhật Bản tên là Trà Tây đến Trung Quốc lưu học. Khi học xong mang theo hạt chè về Nhật. Về sau, Trà Tây viết quyển sách ?oPhẩm trà dưỡng sinh ký?, thói quen uống trà bắt đầu lan truyền ra, và kết hợp với Thiền Tông Phật giáo, lấy tu thân dưỡng tâm làm gốc mà phát triển dần lên. Người Nhật muốn thông qua Trà đạo để nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần, từ đó tìm ra đáp án đúng đắn cho cuộc sống. Người tham gia ?oTrà đạo? gọi là ?oTrà nhân?. Cửa ra vào của mỗi phòng trà đều thấp. Trà nhân bước vào cần phải cúi đầu, cong lưng. Bố trí trong phòng cũng khác hẳn nơi khác, bốn mùa xuân hạ thu đông đều có cách bố trí khác nhau. Trong phòng trà, không được nói chuyện ồn ào, không nói chuyện thế tục. Khi cử hành trà đạo, khách chủ ngồi vào chiếu, do trà sư chủ trì nghi thức theo một trình tự pha trà nhất định. Trước hết dùng ?othìa trà? cho vào chén trà, sau khi dùng nước sôi pha trà, lần lượt đưa cho khách thưởng thức. Pha trà, dâng trà, cho thêm nước, thưởng thức trà? đều có quy tắc nhất định. Có 2 hình thức uống trà: một loại là một chén trà mời toàn thể những người tham gia luân lưu nhâm nhi thưởng thức, mỗi người một ngụm; còn một loại là mỗi người một chén. Nghi thức trà đạo thường tiến hành trong một gian phòng nhỏ, gọi là ?ophòng trà?. Giữa phòng trà đặt một lò than, ấm trà và các dụng cụ pha trà. Khi uống trà còn có thêm các loại điểm tâm, cho khách điều hòa khẩu vị.
    Nhân dân các nơi trên thế giới, phần lớn đều thích uống trà, bất cứ lá trà xanh, đậm nhạt, hồng, đen đều dùng lá chè pha ra để uống. Nhưng người nông dân ở miền tây nước Áo thì lại ăn trà thật sự, họ ăn trà chứ không phải uống trà. Tập quán của họ là dùng một loại lá chè non thượng hạng, cho thêm vào thực phẩm làm món gia vị để pha thành trà, sau đó lọc hết nước ra, chỉ ăn lá chè. Cách ăn chè này rất đặc biệt.
    Một số nước ở Bắc Phi như Ma ?" rốc, Tuy ?" ni ?" di và An ?" giê ?" ri, là thị trường tiêu thụ chè xanh quan trọng của thế giới. Người dân Bắc Phi phần nhiều theo đạo Hồi, theo quy định của đạo Hồi, tìn đồ không được uống rượu, nhưng có thế uống trà, cho nên họ lấy trà thay cho rượu.
    Khẩu vị uống trà của người Bắc Phi khác với người châu Âu, khi uống trà họ thường cho vài ba lá bạc hà tươi vào ấm trà, cho thêm đường phèn. Chè xanh, bạc hà và đường phèn đều là đặc tính thanh nhiệt, khi họ uống trà thì ăn bánh bao và trái ô ?" liu. Ngày tết đãi khách thường mời khách 3 ly trà, khách phải uống hết, mới gọi là hợp lễ nghi.
    Người Ai Cập rất hiếu khách, họ thường dùng thức ăn ngọt đãi khách, để chứng tỏ tình hữu nghị ngọt như mật. Bạn đến làm khách ở Ai Cập, có thể được uống trà ngọt của chủ mời khách, uống loại trà này sảng khoái vô kể. Thì ra, chủ nhân thịnh tình đã pha sẵn trà trước khi khách đến và cho thêm đường vào rồi.
    Ngày nay, cư dân ở hơn 100 quốc gia và khu vực thích uống trà. Thú vui uống trà còn rất nhiều, ngoài những câu chuyện vừa kể ở trên, còn có trà liếm ở Ấn Độ, trà hít của Brazil, trà nhấm của người Djibouti (nước Cộng hòa Đông Bắc châu Phi), trà lắc đầu của Bun ?" ga ?" ri?
  7. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    Tớ đính chính lại rằng tư liệu về trà là do tó copy được và cũng đã có cre*** ở fía dưới.Công ước Bern đã ra đời nên tớ sợ lắm, bạn đừng hiểu nhầm đây là kinh nghệim mà tớ có được sau 1 thời gian thưởng thức trà........Tớ cũng chỉ có 4 5 năm kinh nghiệm uống trà thôi à......nên còn học tập ở bạn nhiều.....Ớ SG tớ có một wán trà ruột, nhưng bây giờ tớ kg dám ghé lại đó vì nó gắn với 1 kỷ niệm buồn mà tớ laị muốn wên đi càng nhanh càng tốt....Đang tìm wán khác để uống đây.....Còn đi Cthơ thì tớ chưa biết bao giờ có thể......nhưng khi nào ghé tớ sẽ hú cậu mà.Lúc nào lên SG thì hú tớ, tớ rảnh sẽ dẫn cậu đi uống trà.......
    ==================
    THÚ UỐNG TRÀ TRÊN THẾ GIỚI
    Khi lá chè sớm nhất chuyển vào châu Âu, người ta đều nghi ngờ có chất độc. Năm 1664, Công ty Đông Ấn Độ tiến cống trà cho vua nước Anh. Phụ nữ quý tộc đua nhau bắt chước nhà vua thử uống trà, nhưng họ lại sợ trong chè có chất độc, vậy là sau khi uống trà, họ lại uống rượu Brandy để khử độc. Khi trà và cà phê chuyển vào Thụy Điển, vẫn có người lo rằng uống những thứ đó vào sẽ bị ngộ độc. Nhà vua muốn biết rõ sự thật bèn ra lệnh cho 2 anh em sinh đôi bị xử tử hình: hai người phai thay nhau, một người uống trà mỗi ngày, một người uống cà phê mỗi ngày, thì được miễn án tử hình. Hai anh em vui mừng đồng ý. Rất nhiều năm sau họ vẫn bình yên vô sự, người uống trà sống đến 83 tuổi.
    Lịch sử uống trà của người Nga đã có hơn 300 năm. Năm 1638 trà được đưa từ Mông Cổ vào nước Nga. Lúc đó, đại sứ Nga Slakốp được lệnh đến Mông Cổ bái kiến Kha Hãn, và mang theo da báo quý hiếm làm vật lễ cống. Kha Hãn nhận lễ vật và tặng lại Sa Hoàng 200 gói trà Trung Quốc. Khi đó, sứ thần Nga còn chưa biết gì về trà, chần chừ không muốn nhận, sau được khuyên giải mới miễn cưỡng nhận. Ông mang trà về Matxcơva, Sa Hoàng sai người hầu pha trà mời các cận thần uống thử, thật bất ngờ, mọi người đều nhất trí cho rằng uống trà xong trong miệng có mùi thơm lạ. Từ đó, người Nga bắt đầu uống trà. ?oTrà Trung Quốc? mới xuất hiện trong thơ Puxkin, xuất hiện trong vũ kịch ?oCái kẹp hạt dẻ? (Cassenoisette) của Traikopski. Người Nga cho rằng trà có công hiệu thức tỉnh thần kinh, làm vui lòng, giải sầu, sau giờ làm việc, uống một ly trà có thể loại trừ mệt mỏi, khôi phục thần kinh và thể lực. Loại trà họ thường uống nhất là ?oTrà đen?. Loại trà này trải qua mấy công đoạn gia công, nước chè pha ra có mùi thơm đặc biệt. Có người lúc uống trà trong miệng họ ngậm một cục đường, cũng có người thích cho đường vào nước trà, lại có người còn cho thêm một chút sữa bò, mật ong hoặc nước quả, hương thơm của hoa cỏ? Phương pháp uống trà Đông Tây kết hợp này, có mùi vị rất đặc biệt.
    Người Anh bất cứ làm việc gì cũng đều phải uống trà, vừa uống trà vừa bàn bạc công việc. Phòng trà của người Anh, mô phỏng theo phòng trà Trung Quốc, tập quán của phòng trà là tập quán của phòng trà Trung Quốc. Với người Anh một ly trà ngon là một thứ cần thiết lúc cảm thấy lạnh, gặp phải khó khăn, sau khi đi đường dài, sau khi trượt tuyết trượt băng, sau khi bị kích thích mạnh. Thời gian uống trà của người Anh, thường được gọi là ?ogiờ trà?, là buổi sáng ngủ dậy uống một ly trà, 11 giờ vừa uống trà vừa làm việc vừa nói chuyện, giờ trưa đương nhiên phải uống một ly, 1 ?" 4 giờ chiều cho dù công việc chưa làm xong cũng phải dừng lại uống một ly trà. Cứ như vậy, người Anh một ngày uống 6 ?" 7 tuần trà, trở thành ?oTrà cơm hàng ngày?, bởi vậy có thể coi người Anh là quán quân uống trà trên thế giới.
    Tập quán uống trà của người Mỹ và người Anh như nhau, họ thích uống Hồng trà cho thêm sữa và đường. Có không ít phụ nữ Hà Lan, thích khi pha trà cho thêm hoa hồng hoặc lá đào; còn tín đồ theo đạo Cơ đốc ở Mỹ lại thích vớt lá chè đã nấu chín ra, tẩm với sữa, muối ăn. Ngày nay, nhịp sống của nước Mỹ ngày càng nhanh, họ không muốn dùng phương thức thưởng thức trà chậm chạp, mất thời gian nữa. Vậy là loại ?otrà tan nhanh? ra đời. Loại trà này được chế ra gồm nước trà, nước chanh và đường, khi uống chỉ cần cho nước sôi vào là được, rất tiện lợi. Đặc điểm của nó là, khi uống trà không có bã, lại bảo đảm vị trà.
    ?oTrà đạo? của người Nhật nổi tiếng thế giới, nó cũng là một phương thức chiêu đãi khách, tu tâm dưỡng thần, chuyện trò giao tế, ?oTrà đạo? ở Nhật đã có lịch sử hơn 500 năm. Nghe nói, cố hương của ?oTrà đạo? Nhật Bản là ở Trung Quốc. Hơn 800 năm trước, có một tăng ni Nhật Bản tên là Trà Tây đến Trung Quốc lưu học. Khi học xong mang theo hạt chè về Nhật. Về sau, Trà Tây viết quyển sách ?oPhẩm trà dưỡng sinh ký?, thói quen uống trà bắt đầu lan truyền ra, và kết hợp với Thiền Tông Phật giáo, lấy tu thân dưỡng tâm làm gốc mà phát triển dần lên. Người Nhật muốn thông qua Trà đạo để nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần, từ đó tìm ra đáp án đúng đắn cho cuộc sống. Người tham gia ?oTrà đạo? gọi là ?oTrà nhân?. Cửa ra vào của mỗi phòng trà đều thấp. Trà nhân bước vào cần phải cúi đầu, cong lưng. Bố trí trong phòng cũng khác hẳn nơi khác, bốn mùa xuân hạ thu đông đều có cách bố trí khác nhau. Trong phòng trà, không được nói chuyện ồn ào, không nói chuyện thế tục. Khi cử hành trà đạo, khách chủ ngồi vào chiếu, do trà sư chủ trì nghi thức theo một trình tự pha trà nhất định. Trước hết dùng ?othìa trà? cho vào chén trà, sau khi dùng nước sôi pha trà, lần lượt đưa cho khách thưởng thức. Pha trà, dâng trà, cho thêm nước, thưởng thức trà? đều có quy tắc nhất định. Có 2 hình thức uống trà: một loại là một chén trà mời toàn thể những người tham gia luân lưu nhâm nhi thưởng thức, mỗi người một ngụm; còn một loại là mỗi người một chén. Nghi thức trà đạo thường tiến hành trong một gian phòng nhỏ, gọi là ?ophòng trà?. Giữa phòng trà đặt một lò than, ấm trà và các dụng cụ pha trà. Khi uống trà còn có thêm các loại điểm tâm, cho khách điều hòa khẩu vị.
    Nhân dân các nơi trên thế giới, phần lớn đều thích uống trà, bất cứ lá trà xanh, đậm nhạt, hồng, đen đều dùng lá chè pha ra để uống. Nhưng người nông dân ở miền tây nước Áo thì lại ăn trà thật sự, họ ăn trà chứ không phải uống trà. Tập quán của họ là dùng một loại lá chè non thượng hạng, cho thêm vào thực phẩm làm món gia vị để pha thành trà, sau đó lọc hết nước ra, chỉ ăn lá chè. Cách ăn chè này rất đặc biệt.
    Một số nước ở Bắc Phi như Ma ?" rốc, Tuy ?" ni ?" di và An ?" giê ?" ri, là thị trường tiêu thụ chè xanh quan trọng của thế giới. Người dân Bắc Phi phần nhiều theo đạo Hồi, theo quy định của đạo Hồi, tìn đồ không được uống rượu, nhưng có thế uống trà, cho nên họ lấy trà thay cho rượu.
    Khẩu vị uống trà của người Bắc Phi khác với người châu Âu, khi uống trà họ thường cho vài ba lá bạc hà tươi vào ấm trà, cho thêm đường phèn. Chè xanh, bạc hà và đường phèn đều là đặc tính thanh nhiệt, khi họ uống trà thì ăn bánh bao và trái ô ?" liu. Ngày tết đãi khách thường mời khách 3 ly trà, khách phải uống hết, mới gọi là hợp lễ nghi.
    Người Ai Cập rất hiếu khách, họ thường dùng thức ăn ngọt đãi khách, để chứng tỏ tình hữu nghị ngọt như mật. Bạn đến làm khách ở Ai Cập, có thể được uống trà ngọt của chủ mời khách, uống loại trà này sảng khoái vô kể. Thì ra, chủ nhân thịnh tình đã pha sẵn trà trước khi khách đến và cho thêm đường vào rồi.
    Ngày nay, cư dân ở hơn 100 quốc gia và khu vực thích uống trà. Thú vui uống trà còn rất nhiều, ngoài những câu chuyện vừa kể ở trên, còn có trà liếm ở Ấn Độ, trà hít của Brazil, trà nhấm của người Djibouti (nước Cộng hòa Đông Bắc châu Phi), trà lắc đầu của Bun ?" ga ?" ri?
  8. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    TRÀ TRONG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
    Toàn thế giới có 40 nước trồng trà và kho dữ liệu trà của Trung Quốc đã khiến người ta cho rằng đó là quê hương của cây trà. Nhưng các tư liệu cổ và những kết quả nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học nước ngoài cùng Hiệp hội Chè Việt Nam đã chỉ ra rằng trà không xuất xứ từ Trung Hoa (không thấy cây trà thiên nhiên hay cây trà hoang ở châu thổ sông Hoàng Hà). Quê hương của cây trà ở tận phương Nam. Mặc dù người Trung Hoa đã biết đến trà từ đời Chu nhưng mãi đến thời kỳ nhà Tùy, cây trà mới từ phương Nam (Nam Chiểu xưa) và Việt Nam (Nam Việt xưa) nhập vào Trung Quốc. Ðến đất Trung Hoa, trà được chăm sóc tinh vi và sau nhiều năm tháng, trà được đưa lên hàng nghệ thuật.
    Thứ nữa, theo tài liệu khảo cứu của Uỷ ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ . Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn-Nghĩa Lộ-Yên Bái), trên độ cao 1,000 met so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40,000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.
    Như vậy, có thể nói Việt Nam chính là một trong những chiếc nôi cổ nhất của cây chè thế giới. Ngay từ thế kỷ XVIII, Phạm Ðình Hồ đã viết về uống trà từ trước đó hàng nghìn năm. Nguyễn Tuân có tùy bút về trà, Thạch Lam viết về trà xanh, Cao Bá Quát chê người uống trà ướp hương. Ca dao thì nói:
    "Làm trai biết đánh tổ tôm,
    uống trà mạn hảo xem nôm Thuý Kiều... "
    Chàng trai xưa còn tự hào:
    "Anh đây hay tửu hay tăm,
    hay nước trà đặc hay nằm ngủ trưa..."
    Trà là cái thú của người lịch lãm, trong đó trà mạn (thứ tốt là trà mạn hảo) mà trước thường quen gọi là trà Tàu là thứ trà quý nhất.
    Trà có nhiều loại. Người nông thôn trồng mấy gốc trà bởi có thú ra vườn tuốt mấy nắm lá, hãm một nồi to, ăn khoai luộc, hút thuốc lào... Sang hơn có trà ``mật vịt`` (trà xanh pha đặc như mật con vịt). Trà hạt là nụ trà phơi khô, ủ vào tích có hoa cúc chi hoặc mấy lát gừng cho ấm giọng. Xoàng là trà bồm, lá già, tận dụng khi đốn đau cây trà .để chờ lứa trà búp mới mùa xuân. Trà bánh còn ``xoàng`` hơn nữa, giống như một thời có loại chè ba hào hoặc nói vui "chín hào ba" (chín hào ba gói), nước vàng vàng mà không hương không vị. Người Nghệ An, Hà Tĩnh có tục mời nhau uống chè tươi, chè xanh vì họ coi trọng tình làng nghĩa xóm. Mùa hè nóng, đi làm đồng về, thứ quý nhất là bát chè xanh đặc pha chút đường. Trà mạn xưa cũng là trà lá già, sau ướp sen thành trà mạn sen là thứ quý. Thời bao cấp, trà loại hai đã là quý. Tết mới được phân phối mỗi gia đình một gói, trà loại một đã là mừng lắm, đó là Thanh Hương, Thanh Tâm, gói 50 gram.
    Hai loại trà ngon nhất Việt Nam là trà Thái Nguyên và Trà tuyết Suối Giàng bởi do đặc điểm vùng tiểu khí hậu, trà trồng ở nơi ấy có tỷ lệ đường, caffein nhiều hơn và tỷ lệ tananh (chất chát) ít hơn so với trà trồng ở các tỉnh khác.
    Không chỉ là thứ đồ uống thơm ngon, trà còn là một loại dược thảo rất tốt. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra trong lá chè có chứa 20% tananh có tác dụng sát khuẩn mạnh, một lượng lớn caffêin, hợp chất thơm, tinh dầu cùng một số loại vitamin... Hai công dụng lớn nhất của lá chè là làm tăng tuần hoàn máu, tăng cường chức năng hoạt động của thận và giúp tế bào AND tái tạo, giảm bớt các đột biến gen có thể dẫn đến ung thư, chữa bệnh sâu răng, kích thích hệ thần kinh trung ương giúp cho tinh thần sảng khoái. Caffein trong trà giúp cho lợi niệu, dễ tiêu hóa, chữa chứng xơ vữa động mạch, loại trừ chất độc trong cơ thể, lưu thông khí huyết. Dân gian Việt Nam và Trung Quốc còn lưu truyền vô vàn cách chữa bệnh bằng chè. Người xưa có thơ rằng:
    Bán dạ tam bôi tửu
    Bình minh sổ trản trà
    Mỗi nhật cứ như thử
    Lương y bất đáo gia
    (Mai sớm một tuần trà
    Canh khuya dăm chén rượu
    Mỗi ngày được như thế
    Thầy thuốc xa nhà ta)
    Nhưng có lẽ trà quan trọng và nổi tiếng hơn chính vì ở nhiều nước, việc uống trà đã trở thành nét đẹp truyền thống văn hóa, tiêu biểu là Văn hóa Thiền. Nét đẹp nhất của văn hóa Thiền tông là thế giới thuần khiết, thanh tịnh, tao nhã và êm dịu.
    Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội bởi vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao.
    HÀ NỘI TRÀ XƯA
    Xuất phát từ nông thôn nhưng chính người Hà Nội mới có công gìn giữ và đưa văn hoá uống trà Việt Nam lên bậc những nét văn hoá đẹp nhất của người Việt.
    Sử sách ghi lại, hình thức uống trà khởi nguồn từ các chùa chiền, tức gắn liền đạo Phật của người Việt, nó được gọi là Thiền trà. Các nhà sư thường uống trà và tụng kinh thay cơm sáng hay những lúc chiều tà, đó là những thời khắc đời sống trần tục đang bủa vây tứ phía, trà giúp người ta tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục và để xua đi cảm giác cô độc. Hiện nay, ngôi chùa duy nhất còn tiến hành nghi lễ Thiền trà định kỳ là chùa Văn Trì (Từ Liêm) - Hà Nội.
    Sau đó, trà nhanh chóng được ưa chuộng trong đời sống cung đình như là một bằng chứng của sự giàu sang quyền quý để phân biệt đẳng cấp với bậc thứ dân trong xã hội phong kiến. Trà khô là thứ phải đổi từ Trung Hoa về, rất đắt và hiếm.
    Trà chinh phục tầng lớp trung lưu, phần lớn là giới nho sỹ. Tương truyền Bích Câu Quán là nơi đầu tiên mà các học trò theo học ở Văn miếu thường uống trà, họp bàn văn chương.
    Trước năm 1945, các hãng trà lớn ở Hà Nội rất giàu như Chính Thái, Ninh Thái, Phú Xuân, Phú Thái buôn và chế biến trà bán khắp Ðông Dương. Trà ngon đựng trong chai thuỷ tinh, lọ sứ, hộp thiếc khoảng một lạng, ngoài còn có giấy bạc, giấy bóng kính. Sêu tết, đồ mừng, quà tặng phải có thứ quà đó. Tầng lớp sỹ phu, giàu có, trí thức, nhà nho có thói quen uống trà cầu kỳ. Dùng xong người nhà cất bao bì ấy đi, có những hàng rong đi mua lại, chỉ mấy cái chai chè. đã đổi được chai mới. Ðó là phát tích của một nghề mới, nghề chè chai lông vịt.
    Ngược lên xa nữa là thú uống trà Tàu đầy vẻ cao sang của nhà quan cách, đã thành nghệ thuật cầu kỳ. Bao giờ cũng phải đủ than hoa, hoả lò, cấp thiêu (siêu đồng), ấm gấn, chén tống chén quân, khay chạm khảm... có cả đầy tớ chuyên đun nước và hầu trà. Mỗi sáng sớm, trước khi làm việc, dùng một tuần trà cho sảng khoái tinh thần là một nghi thức bất thành văn trong lối sống nhiều nhà nho Hà Thành tự lúc nào.
    Ở thế kỷ XVIII, Phạm Ðình Hồ đã tả lại trong "Vũ trung tuỳ bút": Các nhà quý tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một cái ấm chén, phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Thường có nhiều người qua chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan ấy đến chục khác để mua chuốc lấy chè ngon. Lúc ngồi rỗi, pha chè uống với nhau, lại đánh cuộc xem chè. đầu xuân năm nay sớm hay muộn, giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ thì tra thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên mà mua cho được chè ngon để bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn để mua cho được hiệu chè Chính sơn, gửi tàu buôn để đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực". Song cái thú vị của uống trà theo Phạm Ðình Hồ là ở chỗ "cái tinh nó sạch sẽ, cái hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu nàng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, ấy người xưa ưa chuộng chè là vì vậy."
    Theo thời gian, lớp nhà nho quan lại ấy mất dần đi, trà cũng được pha loãng ra. Thú uống trà giản dị hơn. Uống kiểu bình dân cần gọn nhẹ, nhanh và xuề xòa gọi là cách uống trà tạp.
    Ðến năm 1945, do chiến tranh và những biến động lịch sử, thú uống trà của người Hà Nội dù vẫn duy trì nhưng chỉ ở số ít những người khán giả và có học thức. Qua những thời kỳ loạn lạc, thú uống trà thanh tao của người Hà Nội vẫn tích tụ âm thầm để giai đoạn sau đó, trà lại ``trở về`` nhờ hàng loạt những cửa hàng vừa bán chè khô vừa là quán trà thơm ngon nổi tiếng: Hàng Cô Dầu ở chợ Ðồng Xuân, quán Nghệ sỹ ở Ðinh Tiên Hoàng, quán Thăng Long ở Hàng Gai, quán Dương Phi ở Cầu Gỗ, quán Bạch Ngọc sau đền Bà Kiệu...
    Hà Nội cũng chính là nơi xuất phát của cách uống trà ướp hương hoa. Các loại hoa để ướp trà cũng phải là thứ hoa quý, thanh tao như hoa ngâu, hoa sói, hoa sen, hoa nhài, hoa cúc... Ðặc biệt, thứ trà ướp hương sen là thứ trà rất quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu. Mỗi cân trà mạn ngon ướp từ 100-1200 bông sen Tây Hồ và phải là thứ sen chưa bóc cánh đượm hương nhất. Trà sen loại đặc biệt giá lúc nào cũng ở mức 2-3 chỉ vàng một cân. ở Hà Nội hiện còn khoảng 30 gia đình làm loại trà này.
  9. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    TRÀ TRONG LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
    Toàn thế giới có 40 nước trồng trà và kho dữ liệu trà của Trung Quốc đã khiến người ta cho rằng đó là quê hương của cây trà. Nhưng các tư liệu cổ và những kết quả nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học nước ngoài cùng Hiệp hội Chè Việt Nam đã chỉ ra rằng trà không xuất xứ từ Trung Hoa (không thấy cây trà thiên nhiên hay cây trà hoang ở châu thổ sông Hoàng Hà). Quê hương của cây trà ở tận phương Nam. Mặc dù người Trung Hoa đã biết đến trà từ đời Chu nhưng mãi đến thời kỳ nhà Tùy, cây trà mới từ phương Nam (Nam Chiểu xưa) và Việt Nam (Nam Việt xưa) nhập vào Trung Quốc. Ðến đất Trung Hoa, trà được chăm sóc tinh vi và sau nhiều năm tháng, trà được đưa lên hàng nghệ thuật.
    Thứ nữa, theo tài liệu khảo cứu của Uỷ ban Khoa học Xã hội thì người ta đã tìm thấy dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ . Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè có từ thời kỳ đồ đá Sơn Vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn-Nghĩa Lộ-Yên Bái), trên độ cao 1,000 met so với mặt biển, có một vùng chè hoang khoảng 40,000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể.
    Như vậy, có thể nói Việt Nam chính là một trong những chiếc nôi cổ nhất của cây chè thế giới. Ngay từ thế kỷ XVIII, Phạm Ðình Hồ đã viết về uống trà từ trước đó hàng nghìn năm. Nguyễn Tuân có tùy bút về trà, Thạch Lam viết về trà xanh, Cao Bá Quát chê người uống trà ướp hương. Ca dao thì nói:
    "Làm trai biết đánh tổ tôm,
    uống trà mạn hảo xem nôm Thuý Kiều... "
    Chàng trai xưa còn tự hào:
    "Anh đây hay tửu hay tăm,
    hay nước trà đặc hay nằm ngủ trưa..."
    Trà là cái thú của người lịch lãm, trong đó trà mạn (thứ tốt là trà mạn hảo) mà trước thường quen gọi là trà Tàu là thứ trà quý nhất.
    Trà có nhiều loại. Người nông thôn trồng mấy gốc trà bởi có thú ra vườn tuốt mấy nắm lá, hãm một nồi to, ăn khoai luộc, hút thuốc lào... Sang hơn có trà ``mật vịt`` (trà xanh pha đặc như mật con vịt). Trà hạt là nụ trà phơi khô, ủ vào tích có hoa cúc chi hoặc mấy lát gừng cho ấm giọng. Xoàng là trà bồm, lá già, tận dụng khi đốn đau cây trà .để chờ lứa trà búp mới mùa xuân. Trà bánh còn ``xoàng`` hơn nữa, giống như một thời có loại chè ba hào hoặc nói vui "chín hào ba" (chín hào ba gói), nước vàng vàng mà không hương không vị. Người Nghệ An, Hà Tĩnh có tục mời nhau uống chè tươi, chè xanh vì họ coi trọng tình làng nghĩa xóm. Mùa hè nóng, đi làm đồng về, thứ quý nhất là bát chè xanh đặc pha chút đường. Trà mạn xưa cũng là trà lá già, sau ướp sen thành trà mạn sen là thứ quý. Thời bao cấp, trà loại hai đã là quý. Tết mới được phân phối mỗi gia đình một gói, trà loại một đã là mừng lắm, đó là Thanh Hương, Thanh Tâm, gói 50 gram.
    Hai loại trà ngon nhất Việt Nam là trà Thái Nguyên và Trà tuyết Suối Giàng bởi do đặc điểm vùng tiểu khí hậu, trà trồng ở nơi ấy có tỷ lệ đường, caffein nhiều hơn và tỷ lệ tananh (chất chát) ít hơn so với trà trồng ở các tỉnh khác.
    Không chỉ là thứ đồ uống thơm ngon, trà còn là một loại dược thảo rất tốt. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra trong lá chè có chứa 20% tananh có tác dụng sát khuẩn mạnh, một lượng lớn caffêin, hợp chất thơm, tinh dầu cùng một số loại vitamin... Hai công dụng lớn nhất của lá chè là làm tăng tuần hoàn máu, tăng cường chức năng hoạt động của thận và giúp tế bào AND tái tạo, giảm bớt các đột biến gen có thể dẫn đến ung thư, chữa bệnh sâu răng, kích thích hệ thần kinh trung ương giúp cho tinh thần sảng khoái. Caffein trong trà giúp cho lợi niệu, dễ tiêu hóa, chữa chứng xơ vữa động mạch, loại trừ chất độc trong cơ thể, lưu thông khí huyết. Dân gian Việt Nam và Trung Quốc còn lưu truyền vô vàn cách chữa bệnh bằng chè. Người xưa có thơ rằng:
    Bán dạ tam bôi tửu
    Bình minh sổ trản trà
    Mỗi nhật cứ như thử
    Lương y bất đáo gia
    (Mai sớm một tuần trà
    Canh khuya dăm chén rượu
    Mỗi ngày được như thế
    Thầy thuốc xa nhà ta)
    Nhưng có lẽ trà quan trọng và nổi tiếng hơn chính vì ở nhiều nước, việc uống trà đã trở thành nét đẹp truyền thống văn hóa, tiêu biểu là Văn hóa Thiền. Nét đẹp nhất của văn hóa Thiền tông là thế giới thuần khiết, thanh tịnh, tao nhã và êm dịu.
    Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội bởi vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao.
    HÀ NỘI TRÀ XƯA
    Xuất phát từ nông thôn nhưng chính người Hà Nội mới có công gìn giữ và đưa văn hoá uống trà Việt Nam lên bậc những nét văn hoá đẹp nhất của người Việt.
    Sử sách ghi lại, hình thức uống trà khởi nguồn từ các chùa chiền, tức gắn liền đạo Phật của người Việt, nó được gọi là Thiền trà. Các nhà sư thường uống trà và tụng kinh thay cơm sáng hay những lúc chiều tà, đó là những thời khắc đời sống trần tục đang bủa vây tứ phía, trà giúp người ta tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục và để xua đi cảm giác cô độc. Hiện nay, ngôi chùa duy nhất còn tiến hành nghi lễ Thiền trà định kỳ là chùa Văn Trì (Từ Liêm) - Hà Nội.
    Sau đó, trà nhanh chóng được ưa chuộng trong đời sống cung đình như là một bằng chứng của sự giàu sang quyền quý để phân biệt đẳng cấp với bậc thứ dân trong xã hội phong kiến. Trà khô là thứ phải đổi từ Trung Hoa về, rất đắt và hiếm.
    Trà chinh phục tầng lớp trung lưu, phần lớn là giới nho sỹ. Tương truyền Bích Câu Quán là nơi đầu tiên mà các học trò theo học ở Văn miếu thường uống trà, họp bàn văn chương.
    Trước năm 1945, các hãng trà lớn ở Hà Nội rất giàu như Chính Thái, Ninh Thái, Phú Xuân, Phú Thái buôn và chế biến trà bán khắp Ðông Dương. Trà ngon đựng trong chai thuỷ tinh, lọ sứ, hộp thiếc khoảng một lạng, ngoài còn có giấy bạc, giấy bóng kính. Sêu tết, đồ mừng, quà tặng phải có thứ quà đó. Tầng lớp sỹ phu, giàu có, trí thức, nhà nho có thói quen uống trà cầu kỳ. Dùng xong người nhà cất bao bì ấy đi, có những hàng rong đi mua lại, chỉ mấy cái chai chè. đã đổi được chai mới. Ðó là phát tích của một nghề mới, nghề chè chai lông vịt.
    Ngược lên xa nữa là thú uống trà Tàu đầy vẻ cao sang của nhà quan cách, đã thành nghệ thuật cầu kỳ. Bao giờ cũng phải đủ than hoa, hoả lò, cấp thiêu (siêu đồng), ấm gấn, chén tống chén quân, khay chạm khảm... có cả đầy tớ chuyên đun nước và hầu trà. Mỗi sáng sớm, trước khi làm việc, dùng một tuần trà cho sảng khoái tinh thần là một nghi thức bất thành văn trong lối sống nhiều nhà nho Hà Thành tự lúc nào.
    Ở thế kỷ XVIII, Phạm Ðình Hồ đã tả lại trong "Vũ trung tuỳ bút": Các nhà quý tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một cái ấm chén, phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Thường có nhiều người qua chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan ấy đến chục khác để mua chuốc lấy chè ngon. Lúc ngồi rỗi, pha chè uống với nhau, lại đánh cuộc xem chè. đầu xuân năm nay sớm hay muộn, giá chè năm nay cao hay hạ. Kẻ thì tra thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên mà mua cho được chè ngon để bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn để mua cho được hiệu chè Chính sơn, gửi tàu buôn để đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực". Song cái thú vị của uống trà theo Phạm Ðình Hồ là ở chỗ "cái tinh nó sạch sẽ, cái hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu nàng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, ấy người xưa ưa chuộng chè là vì vậy."
    Theo thời gian, lớp nhà nho quan lại ấy mất dần đi, trà cũng được pha loãng ra. Thú uống trà giản dị hơn. Uống kiểu bình dân cần gọn nhẹ, nhanh và xuề xòa gọi là cách uống trà tạp.
    Ðến năm 1945, do chiến tranh và những biến động lịch sử, thú uống trà của người Hà Nội dù vẫn duy trì nhưng chỉ ở số ít những người khán giả và có học thức. Qua những thời kỳ loạn lạc, thú uống trà thanh tao của người Hà Nội vẫn tích tụ âm thầm để giai đoạn sau đó, trà lại ``trở về`` nhờ hàng loạt những cửa hàng vừa bán chè khô vừa là quán trà thơm ngon nổi tiếng: Hàng Cô Dầu ở chợ Ðồng Xuân, quán Nghệ sỹ ở Ðinh Tiên Hoàng, quán Thăng Long ở Hàng Gai, quán Dương Phi ở Cầu Gỗ, quán Bạch Ngọc sau đền Bà Kiệu...
    Hà Nội cũng chính là nơi xuất phát của cách uống trà ướp hương hoa. Các loại hoa để ướp trà cũng phải là thứ hoa quý, thanh tao như hoa ngâu, hoa sói, hoa sen, hoa nhài, hoa cúc... Ðặc biệt, thứ trà ướp hương sen là thứ trà rất quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu. Mỗi cân trà mạn ngon ướp từ 100-1200 bông sen Tây Hồ và phải là thứ sen chưa bóc cánh đượm hương nhất. Trà sen loại đặc biệt giá lúc nào cũng ở mức 2-3 chỉ vàng một cân. ở Hà Nội hiện còn khoảng 30 gia đình làm loại trà này.
  10. FBK

    FBK Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/05/2003
    Bài viết:
    1.269
    Đã được thích:
    0
    HƯƠNG VỊ TRÀ
    Khi khách đến chơi thì chủ nhà dù có bận đến mấy cũng dừng việc, rửa tay sạch sẽ, mặc quần áo tề chỉnh, rồi súc ấm, tráng chén pha trà mời khách. Người bình dân uống kiểu bình dân, quan lại, quý tộc có tiệc trà kiểu quý tộc. Tất cả đều thể hiện sự trân trọng, lòng hiếu khách. Bên ấm trà nóng, biết bao điều được đề cập, được thổ lộ, từ những việc hệ trọng đến những lời trao đổi bình dị nhất.
    Ở vùng Suối Gìàng (Văn Chấn ?"Nghĩa Lộ trên độ cao nghìn mét so với mặt biển, đến nay vẫn còn 40.000 cây chè dại mọc thành rừng, trong đó có 3 cây chè cổ thụ lớn nhất; 1 cây trong đó 3 người ôm không xuể, chiều cao từ 6-8m; rừng chè dại ở Lạng Sơn lại có những cây chè cao đến 18m. Người Việt Nam hiện nay uống trà xanh sơ chế bằng phương pháp thủ công thường gọi là ?otrà mộc? hoặc ?trà sao suốt?, ?trà móc câu? (cánh trà sao quăn hình móc câu). Người ta sao trà bằng chảo gang, trà bán ngoài chợ bán buôn có khi sao cả bằng tôn lá. Những thứ trà ngon thường được gọi chung là chè ?Thái Nguyên? là miền đất trồng trà tiêu thụ trong nước nổi tiếng, nhưng thực ra trà bán trên thị trường hiện nay có rất nhiều nguồn gốc như trà Tân Cương, trà Mạn Hà Giang, trà Vị Xuyên (Hà Giang), trà Lục Yên Bái, trà Suối Gìàng?
    Dù bắt nguồn từ đâu, uống trà đã trở thành một phong tục và thói quen với mọi người Việt Nam. Khi đến chơi nhà, khách không thể từ chối một ly trà nóng khi thân chủ trân trọng dâng mời bằng hai tay. Mời trà đã là một ứng xử văn hóa biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Uống trà cũng lại là một cách ứng xử văn hóa. Uống từng ngụm nhỏ để cảm thức hết dư vị của trà, uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu một lời tâm sự, để bàn chuyện gia đình xã hội, chuyện thế thái nhân tình. Mời trà và dùng trà cũng là một biểu hiện sự tri kỷ, sự kết giao,lòng mong muốn hòa hợp. Những khía cạnh của văn hóa ứng xử Việt Nam rất phong phú, người ta có thể uống trà một cách im lặng, và nhiều khi im lặng là ?onói ?o rồi. Người ta có thể xét đoán tâm lý người d0ối thoại khi dùng trà. khi trà đã trở thành một cái thú thì người ta không thể quên nó vì trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, sự tỉnh táo, sự tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác.
    Để pha trà,phải chọn lựa ấm, chén thích hợp với từng loại tiệc trà. Theo cách uống cầu kỳ cổ xưa, thường 1 bộ đồ trà có 4 cái chén quân và 1 cái chén tống để chuyên trà hoặc gạn trà. Nước pha trà lựa thứ nước mưa trong hoặc thứ sương đọng trên lá sen trên mặt hồ, người ta đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sáng. Phương ngôn còn lưu truyền những lời dạy về cách dùng trà hợp lý như ?otrà dư, tửu hậu? ?otửu sáng, trà trưa? ?orượu ngâm nga, trà liền tay?. Khi nước gần sôi, nhúm một ít trà bỏ vào trong hộp bỏ vào ấm chuyên, đổ nước sôi vào mau, đổ đầy cho nước tràn ra chiếc bát đựng ấm chuyên, làm nóng cả bề ngoài chiếc ấm. Đấy là một cách để giữ vị trà và cũng là để giữ cho ấm trà nóng đều. Sau đó chắt nước từ ấm chuyên ra chén tống.Sau đó chủ nhà mới từ từ gạn sang sang chén hạt mít sao cho chủ và khách chỉ có được hai chén lưng lưng mà thôi.Nhiều gia đình ở Hà Nội thích uống trà ướp sen, nhài. Đặc biệt trà sen là một thứ trà để tiếp khách quý hoặc làm quà biếu. Trà sen tựa thứ trà mạn Hà Giang, ướp với hoa sen chưa bóc cánh với độ hương cao nhất. Nhưng lại có những người sành trà suốt đời chỉ uống trà mộc nghĩa là trà không ướp hương. Họ bảo:
    ?oChè ngon xin chớ ướp hoa
    ướp hoa, chân vị khác xa mất rồi?
    Cách uống trà xanh của người Việt Nam giống người Hán ở ba điểm: không pha đường, uống nóng, kiêng dầu mỡ. Mỗi gia đình có bộ ấm chén pha trà bằng sứ Hải Dương, sứ Trung Quốc, gốm Bát Tràng. Rất ít người còn giữ được bộ sứ Giang Tây hoặc bộ đồ trà cổ với ấm, chén hạt mít bằng gốm màu gan gà. Vòi ấm thẳng thí nước không đọng, mặt đĩa phẳng thì chén không nghiêng, lòng ấm siêu lòi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi; dùng siêu đất pha trà ngon hơn dùng siêu bằng đồng?
    Trà là sự giao hòa với thiên nhiên, sự ứng xử hợp lý với thời gian, sự tiếp cận đầy nhân tính với không gian, môi trường và con người. Ở Việt Nam luôn tồn tại một nền văn hóa chè thanh lịch và tỏa hương, người Việt Nam trả nghĩa một cách giản dị,khiêm tốn. Qua ứng xử với trà, người dân Việt coi trà là người bạn thủy chung thân thiết.
    NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH KHI UỐNG TRÀ
    Không nên uống trà ngay sau khi ăn cơm vì khi đến dạ dày, chất tanin trong trà sẽ làm cho protein trong thức ăn trở nên cứng. Hơn nữa, nước chè cũng ức chế sự hấp thụ chất sắt. Vì vậy, nếu muốn uống trà, bạn hãy đợi nửa giờ sau bữa ăn.
    Ngoài ra, khi uống trà cũng cần chú ý:
    - Không nên uống trà lạnh: Điều này không chỉ làm mất tác dụng giải nhiệt, hạ đờm của nước chè mà còn gây nguy cơ bị lạnh, kéo đờm. Trái lại, nước chè nóng sẽ giúp tinh thần sảng khoái, tai thính, mắt tinh.
    - Không nên uống nước chè đặc thường xuyên: Uống nước chè đặc tuy có rất nhiều cái lợi nhưng nếu uống thường xuyên thì kết quả lại ngược lại. Nguyên nhân là do trong nước chè đặc có tương đối nhiều chất nhu, ảnh hưởng xấu tới tiêu hoá (làm loãng dịch vị; khiến niêm mạc dạ dày co lại; làm chất protein trở nên rắn và lắng xuống). Ngoài ra, chất nhu còn có thể làm giảm khả năng hấp thụ sắt và vitaminh B1 của cơ thể. Nếu kéo dài sẽ sinh bệnh thiếu máu do thiếu sắt và thiếu vitamin B1.
    - Những người bị bệnh cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, viêm gan, viêm thận? nếu uống nước chè đặc vào lúc đói có thể làm cho bệnh nặng hơn. Người đang cho con bú mà uống nước chè đặc thì sữa cũng ít đi.
    GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRONG VIỆC THƯỞNG THỨC TRÀ
    Việc pha trà cho đúng điệu cũng là cả một nghệ thuật, cần có bộ ấm chén trà đặc biệt, biết cách chọn nước để đun sôi và biết cách để hâm trà.
    * Bộ ấm chén trà mà những người sành điệu thường dùng là loại bằng đất nung màu "gan gà" của Trung Quốc, đó là loại bình độc ẩm, trắng. Ngày nay, trong việc tiếp khách ta không dùng loại bình ấy được mà phải dùng những bình trà tương đối lớn làm bằng sứ của Nhật Bổn. Trung Quốc, Pháp... có thể rót ra được 4 đến 6 tách. Theo những người sành điệu, mặc dầu dùng loại bình nào đi nữa, muốn pha trà được ngon thì ta phải theo đúng những nguyên tắc sau đây:
    * Không bao giờ súc bình trà bằng nước lạnh. Nếu muốn cho sạch sẽ đẹp mắt thì chỉ chùi sạch mặt ngoài. Bên trong bình trà, sau khi bỏ bã chỉ tráng lại bằng nước sôi.
    * Không bao giờ kỳ cọ bên trong bình trà làm mất lớp cáu màu nâu do các chất trong những nước hãm trà tích tụ lại dần qua thời gian. Lớp cáu này càng dày thì pha trà càng ngon. Có người cho rằng nếu lớp cáu này càng dày, khi không có trà, chỉ cần đổ ít nước sôi vào để một chốc rót ra uống giống như là uống trà hòa tan (instant tea).
    * Nước dùng đun sôi để pha trà phải là nước tinh khiết, không có bất kỳ mùi lạ nào, không được chứa nhiều muối khoáng. Kinh nghiệm cho thấy màu nước chè hãm và tính chất của chè thay đổi theo hàm lượng muối khoáng trong nước dùng pha trà:
    - Nước có chứa muối sắt thì màu nước hãm trà sẽ bị đen do có sự kết hợp giữa tanin và sắt.
    - Nước có nhiều muối kali hoặc oxyt magnê thì màu nước hãm trà nhạt đi...
    Cho nên muốn pha trà được ngon, người ta thường dùng nước mưa hoặc nước giếng. Nước giếng cũng có "giếng ngon" hoặc "giếng dở" tùy theo nước đã lọc kỹ qua cát hay không và có chứa muối khoáng ít hay nhiều. Nước dùng để pha trà phải được đun thật sôi, nước reo trong ấm thật lâu, phải đổ bớt chút nước ở vòi ấm trước khi chế vào bình trà để tránh mùi khói vướng lại ở đầu vòi ấm.
    * Hãm trà: Trước khi bỏ chè vào bình trà, phải tráng bình bằng nước sôi, bỏ chè vào bình xong thì chế nước sôi khoảng một phần bình, lắc lắc bình cho nước thấm ướt mặt ngoài của trà rồi rót ra chén. Nước này gọi là nước rửa trà, dùng để tráng sạch các chén rồi bỏ đi. Sau đó chế nước sôi vào đầy bình để hãm. Khi thấy nước trà có màu và hương đậm đà đúng khẩu vị thì rót ra. Tuần trà thứ nhất chỉ rót ra một nửa hoặc 2/3 bình rồi chêm thêm nước sôi để hãm lần 2... và cứ thế mà tiếp tục pha.
    Trong việc tiếp nước, dùng theo phép lịch sự thì người cao niên hoặc có địa vị nhất được rót sau cùng... vì nước càng rót sau càng đậm đà hương vị.
    Uống trà phải hớp từng ngụm nhỏ, chép miệng nuốt từ từ để lưỡi nhận ra hương vị độc đáo của trà...
    Mùa lạnh đã trở về với Đà Lạt. Buổi sáng, ngồi trong thư phòng ấm cúng, nhìn ánh lửa hồng từ lò sưởi chiếu ra đang lung linh nhảy múa trên những cành mai anh đào vừa nở hoa mơn mởn, bên tách trà hương thơm ngát, hơi nước màu lam với sương mù bàng bạc đang bao phủ núi đồi bên ngoài khung cửa sổ... lúc đó thấy việc uống trà đạt được khoái cảm tột độ và tách trà có giá trị hẳn lên. Nếu uống trà ướp sen hoặc ướp sói với đường phèn thì lại càng tuyệt diệu

Chia sẻ trang này