1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vai trò của vua Quang Trung trong lịch sử Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hateMU, 20/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. langkhachvn

    langkhachvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2003
    Bài viết:
    286
    Đã được thích:
    0
    Trước nay vẫn thắc mắc về số phận các dũng tướng nhà Tây Sơn sau khi Quang Trung chết. Bởi vẫn các tướng ấy, dưới trướng Quang Trung thì quân công hiển hách, đánh đâu thắng đấy, uy vũ ngút trời, vậy mà chỉ sau có ít năm vua Quang Trung chết, hầu như chẳng ai lập được công nghiệp nào. Nhà Tây Sơn bị diệt và số phận các tướng thì phần lớn không ai rõ.
    Bạn có thể cho biết nguồn tư liệu về Đô đốc Dũng mà bạn nêu ở đây lấy ở đâu không?
  2. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Tôi sẽ post tiếp các danh tướng trong thất hổ tướng nhưng nói sơ qua về chiến lược đánh giặc giữ nước của Ngài.
    Với những tổn thất lớn lao do ý đồ "giết sạch, phá sạch, xóa sạch" của các Vua triều Nguyễn; tất cả những gì gọi là của Ngụy triều Tây Sơn đều bị thủ tiêu hoặc phá hủy .
    Cho nên những gì còn lại để chúng ta tìm hiểu về người anh hùng đất Tây Sơn thật ít ỏi, chỉ qua một số tài liệu, một số truyền thuyết và ngay chính qua con người , cuộc đời và những chiến công "long trời lỡ đất " của vị tướng tài ba trăm trận trăm thắng quét sạch bọn giặc ngoại xâm Mãn Thanh , thống nhất đất nước.
    I. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải, có chí lớn bao trùm thiên hạ.
    Ba anh em ở vùng đất Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, vốn người làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên, Trấn Nghệ An. Giữa thế kỷ 17, quân nhà Nguyễn có lần vượt sông Gianh bắt dân vùng Nghệ An vào khai hoang ở Đàng Trong.
    Tổ tiên 4 đời anh em Nguyễn Huệ là một trong những nạn nhân đó, qua mấy đời đến Nguyễn Huệ gia đình đã khá giả, sung túc , ba anh em đều được ăn học, hiểu biết hơn người được học với thầy giáo Hiến là danh nhân đương thời.
    Quan đại thần Nội hữu Trương Văn Hạnh, vì chống lại quyền thần Trương Phúc Loan, dâng biểu hạch tội kẻ gian thần nên bị hãm hại . Thầy Giáo Hiến, là bạn thân của quan Nội Hữu, sợ bị vạ lây nên lánh vào Bình Định đã hơn 10 năm, lấy nghề gõ đầu trẻ trong một thôn ấp bên cạnh đất Tây Sơn làm vui .
    Nhận thấy ba anh em nhà Tây sơn tướng mạo đặc biệt, tính khí khác người, thông minh học giỏị. Ông đem lòng yêu mến, hết lòng dạy dỗ cả văn lẩn võ . Từ văn thư, kinh sách đến cả binh pháp, binh thư, đồ trận và võ thuật cổ truyền các môn đầy đủ những tinh hoa truyền thống cao quý, bất khuất của dân tộc Việt Nam .
    Trong 3 người chỉ có Nguyễn Huệ là hơn cả, tiếng nói sang sảng tựa chuông, cặp mắt sáng tựa chớp, thông minh, nhanh nhẹn, học chỉ một lần đã hiểu ngay .Thầy Giáo Hiến vốn là người có nhiều tâm huyết đối với vận mệnh quốc gia , dân tộc, tiếc mình gối mỏi, chân chùn, chỉ mong gắng sức vun bồi , hun đúc cho 3 anh em Tây Sơn chí cả vì dân giúp nước.
    " Nghĩa kỳ dựng tại Tây Sơn .
    Tận trung cứu quốc rữa hờn cho dân .
    Sau nầy rực rỡ đai cân .
    Phải dùng Đức trị mười phân vẹn mười
    Nhớ câu thu phục lòng người . . . . . . . ".
    (Lời Thầy Giáo Hiến khuyên Nguyễn Huệ trước lúc khởi nghĩa. Tây Sơn Tiềm long lục, Nguyễn bá Huân, 1978.)
    II. Một ý chí thống nhất đất nước cao cả.
    Trong chiếu lên ngôi, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã nêu rõ :
    ". . . . họ tự gây dựng bờ cõi riêng mình, kỷ cương trời đất một phen đổ nát không dựng lên được, chưa có thời nào quá quắt như thời nầy. Thêm nữa, những năm gần đây Nam Bắc đánh nhau, dân sa vào chốn lầm than . . . ."
    Trong xã hội nông nghiệp, không ai khác hơn những người nông dân cùng khổ, qua các thảm họa nặng nề chồng chất lên đôi vai gầy, đã chính là những người đứng lên phê phán cuộc nội chiến bẩn thỉu, cốt nhục tương tàn . Nguyễn Huệ, người lãnh tụ nông dân kiệt xuất, một kẻ áo vải không một tấc đất nhanh chóng trở thành một vị anh hùng dân tộc thống nhất đất nước, tập hợp sức mạnh cả nước đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ yên bờ cõi, xây dựng cuộc sống ấm no cho muôn dân .
    III. Một thiên tài quân sự chưa nếm mùi thất bại.
    Quang Trung Nguyễn Huệ đã là một con người trí lược cả trong quân sự và chính trị :
    Cách dùng người :
    Khi dùng người, đặt việc ông đã biết tiên liệu mọi việc một cách tài tình, nhạy bén.
    Nghiêm chỉnh áp dụng quân lịnh, nhanh chóng ổn định trật tự và dân tình :
    " . . . những người Nam Hà nầy ( quân Nguyễn Huệ ) đã áp dụng án lệnh thật nghiêm , mới thấy tố cáo chẳng cần xét xử lôi thôi họ đã chém đầu bọn trộm cướp hay tất cả kẻ nào bị tố cáo là trộm cướp . Người người đều hài lòng sự xử phạt như vậy và không khỏi thán phục sự liêm khiết của quân Tây Sơn . . . . . . .( Thư của Giáo sỉ Le Roy ( Nam Định ) viết cho Blaudin ở Paris vào ngày 11/ 07/ 1786)
    Một lối hành binh vũ bão
    Tuy xuất thân chỉ là kẻ áo vải, ở nơi thôn dã, Nguyễn Huệ đã tỏ rõ tài năng kiệt xuất của một vị tướng lĩnh bách chiến bách thắng, chưa nếm lấy một lần thất bại qua hơn 20 năm vào Nam ra Bắc.
    Mỗi thời đại, mỗi vị anh hùng có một cách đánh sáng tạo khác nhau:
    Lý Thường Kiệt với "Tiên phát chế nhân", chủ động tấn công phủ đầu, đập tan mọi âm mưu của đối phương từ trong trứng nước. Cách này hơi giống chiến lược của Bush ra tay răn đe trước.
    Trần Hưng Đạo dùng kế "Thanh Dã", lừa địch vào sâu rồi bỏ vườn không nhà trống, sau đó phản công tiêu diệt. Cách đánh này được Nguyên Soái Nga Kutuzov áp dụng khi đánh bại đội quân Napoleon ở Moscow.
    Lê Lợi dùng kế lâu dài, đánh từ nhỏ đến lớn. "Dĩ nhu thắng cương", xây dựng lực lượng lâu dài. Ban đầu là đánh du kích rồi sau đó thành lập quân đội chủ lực với mục tiêu "Quý hồ tinh bất quý hồ đa".
    Quang Trung Nguyễn Huệ với một khả năng tổ chức và tài chỉ huy hiếm có đã tạo được một đoàn quân áo vải qua từng giai đoạn phát triển, dù lớn hay nhỏ, luôn luôn có một khí thế tiến công dũng mãnh, táo bạo. " Vũ bão và bất ngờ " đã là một tính chất độc đáo trong lối dùng binh của người anh hùng đất Tây sơn Nguyễn Huệ. Cách đánh này cũng là cách đánh trận hiện đại dùng lực lượng tinh nhuệ "Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị". Một cách hiện đại trong cách dùng binh thần tốc của ông mà phương tây sau này mới dùng là hiệp đồng các binh chủng Pháo, Tăng, Bộ Binh. Quang Trung đã dùng cách dùng thần công bắn trước trong trận Ngọc Hồi, Đống Đa rồi sau đó cho bộ binh dùng khiêng tre làm mộc cùng với voi chiến với thần công hoặc Hoả Hầu trên lưng voi như là xe tăng xung trận. Về vũ khí chống "tăng" được thấy ở điểm: theo sự mô tả của giáo sĩ Jean de Jésus, quân Tây Sơn đã dùng loại vũ khí Hoả Hầu là một cái lao gồm hai phần: Một cây sào dài nơi đầu gắn thêm một cây gậy gỗ có gài sắt tua tủa và tẩm nhựa. Khi xung trận đầu lao tẩm nhựa có gài đuốc đốt cháy rồi đâm hoặc phóng vào quân địch, khiến địch quân bị gai móc vào áo quần, thành lũy bị đốt cháy. Phép phóng lao Hoả hầu do đội Hỏa hầu cảm tử xung trận đã khiến dàn voi trận (có thể có vài con của quân Lê Chiêu Thống ở Nghệ An nhưng không chuyên như quân Quang Trung) và ngựa của địch bị khắc chế.
    Đồng thời với việc tổ chức và chỉ huy trong quân đội, Nguyễn Huệ còn biết kết hợp những nhân sĩ đương thời như La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Trần văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm và những tướng lĩnh tài giỏi như Đặng Tiến Đông (Đô đốc Long), Phan Văn Lân (kỳ binh phía Ngọc Hồi phối hợp sau đó hội quân trong Đống Đa có thể vùng Ngã Tư Sở bây giờ???) là những người đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
    Năm 1788 khi hành quân thần tốc tiêu diệt quân xâm lược Mãn Thanh, Quang Trung Nguyễn Huệ có một chỗ dựa rất tin cậy và vững chắc, đó là đô đốc Đặng Xuân Bảo, Tái Tam Điệp. Chia quân làm 5 đạo, quyết chí đại phá quân Mãn Thanh. Bằng một trận sấm sét vây kín kinh thành Thăng Long và một trong những đại quân lớn đó được Nguyễn Huệ giao phó cho đô đốc Bảo chỉ huy. Theo kế hoạch của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, đạo quân do đô đốc Bảo chỉ huy đã tiến quân thần tốc qua Sơn Minh (thuộc Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây). Toàn bộ đại binh xuất phát được chia ra 3 đạo khác nhau: đô đốc Bảo ở giữa, Quang Trung Nguyễn Huệ ở mạn đông bên phải, đô đốc Long (hay là Đô Đốc Mưu) ở mạn đông bên trái. Mờ sáng mùng 5 Tết, đại binh áp sát đồn Ngọc Hồi nhưng có gió bắc, quân Thanh dưới sự chỉ huy của thái thú Điền châu Sầm Nghi Đống dùng ống phun khối lửa và nổ súng bắn ra khiến cho đất trời mù mịt. Chúng hy vọng sẽ làm cho quân Tây Sơn rối loạn. Chẳng dè một lát sau trời trở gió nam, khói lửa của giặc lại gây hại cho chúng. Quân của đô đốc Bảo cầm khiên xông thẳng lên phía trước, những người cầm giáo mác theo sau cũng ào ạt xông lên mà đánh.
    Trước sức tấn công mãnh liệt như cơn đại hồng thủy của quân Tây Sơn, quân Thanh chống đỡ không nổi nên bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau, thây giặc chất đầy đống, máu giặc chảy thành suối. Quân Thanh đại bại, tướng Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử.
    Chiến thắng Đống Đa - Ngọc Hồi mang một ý nghĩa hết sức quan trọng, trong đó có sự cống hiến to lớn của đại đô đốc Đặng Xuân Bảo. Ông đã chứng tỏ khả năng chỉ huy trận mạc xuất sắc, xứng đáng với niềm tin của vua Quang Trung Nguyễn Huệ và đông đảo nhân dân, nghĩa sĩ Tây Sơn đương thời.
    (http://www.cahcm.vnnews.com/ds150203/dsnd15020303.htm
    Các tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng...và đặc biệt là Bùi Thị Xuân, vị tướng nữ đầu tiên trong lịch sử, tài năng và quả cảm không kém một tướng nam nào .. . . .Tất cả đã giúp Quang Trung Nguyễn Huệ làm nên những sáng tạo tài tình, độc đáo trong chiến tranh nhân dân Việt Nam để trang bị cho người chiến sĩ áo vải dưới ngọn cờ đào.
    Chưa đầy 40 ngày, kể từ lúc xuất phát đại quân tại Phú Xuân ( ngày 22 tháng 11 năm 1788 ) và chỉ sau 55 ngày đêm tiến công, đoàn quân chân đất đã quét sạch hơn 200 ngàn quân giặc ra khỏi bờ cõi, lập nên những chiến công hiển hách ở Gián Khân, Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa tạo nên những đòn đánh như sấm sét vang rền trên đất Thăng Long.
    Dưới ngọn cờ đào uy dũng, hàng hàng lớp lớp nghĩa quân như triều dâng thác đổ, thần tốc đập tan mọi âm mưu bán nước cầu vinh và xâm lược, bạo ngược của lũ thù trong giặc ngoài . Ngọn lửa Đống Đa, Xuân Kỷ Dậu 1789, như bão táp tràn tới hỏa thiêu bọn giặc Mãn Thanh như câu
    "Mà nay áo vải cờ đào,
    Giúp dân dựng nước xiết bao công trình"
    Một khía cạnh tình cảm lãn mạn của Quang Trung khi thắng trận Kỷ Dậu đã đưa cành đào Thăng Long vào Nam cho Ngọc Hân để báo tin thắng trận.
    Từ một lãnh tụ nông dân kiệt xuất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã trở thành một vị anh hùng dân tộc vĩ đại , một danh tướng trăm trận trăm thắng, một thiên tài quân sự xuất sắc. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp vẽ vang của phong trào Tây Sơn đã là một bản anh hùng ca bi tráng, oanh liệt của dân tộc, vang vọng đến ngàn đời sau, đánh dấu một giai đoạn hiển hách của toàn dân Đại Việt .
    Source tài liệu:
    1. Ðại Nam chính biên liệt truyện-Nguyễn Phương dịch
    2. Hoàng Lê Nhất Thống Chí-Ngô Tất Tố dịch
    3. Ðại Nam Nhất Thống Chí-Nguyễn Tạo dịch
    4. Tây Sơn lương tướng truyện-Nguyễn Trọng Trì
    5. Tây Sơn văn thần truyện-Nguyễn Bá Huân
    6. Nguyễn triều long hưng sự tích-Trần Văn Tuân
    7. Việt Nam Văn Hiến Sử-Lý Văn Hùng
    Được binhminhlaky sửa chữa / chuyển vào 20:21 ngày 25/11/2003
  3. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Sau khi Nguyễn Huệ chết, các tướng đấu đá lẫn nhau, triều đình mất đi cái khí thế "cách mạng" ban đầu, trở thành 1 triều đại như bao triều đại khác. Một số tướng giỏi như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng vẫn còn và tiếp tục đánh quân Nguyễn Ánh, tuy nhiên quân lính không còn hăng hái liều chết như xưa nữa, chủ mạnh thì làm theo lệnh, chủ thất cơ thì trốn. Lần lượt các hạm đội của Nguyễn Nhạc và Quang Toản bị đánh tan, mở đường cho quân Nguyễn Ánh tự do tung hoành mặt biển. Tuy trên bộ Tây Sơn có ưu thế, nhưng quân Nguyễn Ánh được tự do đánh vào sau lưng. Sau khi Phú Xuân thất thủ, đại quân của Trần Quang Diệu ở Quy Nhơn còn hàng chục vạn nhưng cuối cùng trốn sạch khi phải lặn lội sang Lào!
  4. cuc_culao

    cuc_culao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    189
    Đã được thích:
    6
    Hình như có một số tài liệu cho rằng tướng Ngô Văn Sở không bị dìm chết như trong "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" mà sau này ông đã đầu hàng nhà Nguyễn và trở thành một đại thần của Nguyễn Ánh. Không hiểu quan điểm nào đúng?
  5. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Tướng thứ 2 trong thất hổ đại tướng quân
    Trần Quang Diệu quê quán ở Ân Tín, huyện Hoài Ân.
    Họ Trần Quang có hai nhánh: Một nhánh ở Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Một nhánh ở Tư Sơn, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Hai nhánh trước đây thường gặp nhau trong dịp chạp giỗ mả tổ ở Ân Tín. Khu mả của họ Trần Quang ở Ân Tín rộng lớn. Trong đó có ngôi mả tổ con tấm bia lớn đề "Trần Gia Tổ Sơn". Những ngôi mộ khác có cái xây vôi, có cái đắp vòng to lớn.
    Gia đình Trần Quang Diệu giàu có nhưng song thân mất sớm nên thân tự lập thân.
    Lúc nhỏ, Trần học văn học võ nhiều thầy. Lớn lên, một hôm vào dãy núi Kim Sơn trong huyện Hoài Ân săn bắn, tình cờ thấy một ông lão nằm giỡn cùng một con cọp tàu cau to lớn. Hổ trông thấy Trần liền nhảy đến vồ. Trần lanh lẹ tránh khỏi. Hổ tiếp tục tấn công thì ông lão liền hét:
    - Hổ dại nhé!
    Hổ liền ngoan ngoãn trở lại cùng ông lão.
    Ông lão gọi Trần đến gần hỏi:
    - Ngươi là ai? Chẳng biết nơi này là ổ cọp sao mà dám đưa thân đến?
    Trần thành thật kể hết gia cảnh và thân phận. Đoạn cúi lạy ông lão xin nhận mình làm đệ tử. Ông lão đáp:
    - Âu cũng là duyên.
    Rồi bảo Trần về lo thu xếp việc nhà, xong trở lên.
    Trần về giao nhà cửa ruộng nương cho người em thúc bá và dặn:
    - Ta đi chuyến này, mau thì năm năm, lâu thì mười năm mới về. Ở nhà lo làm ăn tử tế. Đừng tìm hiểu ta đi đâu và đi có việc gì.
    Lên Kim Sơn, Trần được lão nhân đưa về nhà nuôi dạy.
    Lão nhân là ai?
    Lão họ Diệp tên Đình Tòng, người thôn Vĩnh Thạnh, huyện Tuy Viễn (nay là Tây Sơn), lúc thiếu niên gặp được dị nhân truyền dạy võ nghệ, học tập tinh thông, tánh tình phóng khoáng.
    Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), có tên tri huyện Tuy Viễn, gian ác tham ô, làm nhiều điều gian ác với dân địa phương, nên cụ phẫn nộ đến huyện đường ra tay giết tên tri huyện. Nhờ võ công cao cường, cụ thoát khỏi vòng vây của lính huyện đường. Bị truy nã, cụ đem vợ con theo đường núi ra Kim Sơn ẩn náu. Trên 20 năm trời không ai biết được tung tích. Vợ con không chịu nổi sơn lam kiếm khí, lần lượt qua đời, chỉ còn mình cụ sống với hùm beo.
    Gặp được họ Trần, cụ vô cùng hoan hỉ.
    Hai thầy trò sống trong ba gian nhà tranh rộng rãi, sạch sẽ, có đủ đồ cần dùng cho một tiểu gia đình, lại có đủ bộ năm món vũ khí: đao, kiếm, côn, thương, cung, mỗi thứ một cặp. Thứ nào cũng được lau chùi bóng loáng. Họ Trần chuyên học môn sử dụng đại đao. Thầy hết lòng dạy, trò cố sức học. Khi tập luyện một mình. Khi cùng thầy song đấu. Lúc tập nơi đất bằng, lúc tập trên núi đá. Học tập cách đánh trên ngựa, cách đánh dưới thuyền. Không có ngựa phải dùng ngựa đẽo cây. Không có thuyền thì dùng gỗ tròn thả xuống suối.
    Những lúc không tập luyện thì thầy trò trồng rau trỉa bắp, đậu, trên rẫy hoặc đi săn bắn thú rừng. Hai thầy trò sống một đời sống thanh thản, ung dung tự tại.
    Nhưng có một điều làm cho họ Trần áy náy là con hổ của thầy hễ thấy bóng Trần là bỏ chạy nơi khác. Biết ý, nên khi thấy bóng hổ ở bên cạnh thầy thì Trần cũng khéo léo tránh mặt. Ban đầu còn thắc mắc, sau thành thói quen.
    Thấm thoát năm năm đã qua!
    Một hôm lão nhân trao thanh đại đao mà mình thường dùng cho Trần và bảo:
    - Đây là thanh Huỳnh Long bảo đao, sản xuất từ đời Trần. Ta tặng con làm kỷ niệm.
    Đoạn sai Trần thu tất cả các món vũ khí đem chôn nơi một cái hố sau nhà. Rồi bảo:
    - Thầy đã gần trăm tuổi rồi. Bấy lâu cần phải sống vì đao pháp của thầy chưa có người kế tập. Nay thầy đã truyền thụ tất cả cho con rồi thì thầy chết được vui vẻ. Sau khi chôn cất thầy xong, con không nên quyến luyến nơi này. Con nên kịp xuống núi, đem sở học làm sở hành để khỏi phí cuộc đời anh tuấn. Và nếu có dịp đi ngang qua Vĩnh Thạnh thì con ghé thăm họ Diệp có còn ai chăng? Nếu còn thì con sẽ cho biết qua tin tức của thầy, nhưng đó không phải là điều cần thiết.
    Nói xong, nằm xuống, lấy tay vỗ nhẹ lên đỉnh đầu mà tắt thở.
    Buồn thương khôn tả.
    Trần trở về nhà. Cửa nhà yên vui. Hai hôm sau, Trần cắp đao băng núi đến Vĩnh Thạnh. Dòng họ Diệp chịu không nổi sự hà khắc, khuấy nhiễu của quan lại địa phương, nên đã phân tán đi lập nghiệp nơi xa (hiện nay còn cháu ba đời của cụ là ông Diệp Đình Chi, thời Pháp thuộc làm trợ giáo tại Đà Lạt, thời kháng chiến chống Pháp về sống ở quê hương Vĩnh Thạnh, cho đến 1945 trở lại Đà Lạt, nay đã qua đời).
    Nghe tin Nguyễn Nhạc mở sòng bạc lớn ở Kiên Mỹ, Trần nghĩ bụng:
    - Anh hùng lúc chưa gặp thời cũng như lỡ vận thường gởi mình vào nơi yên hoa, tửu bảo và kẻ có chí lớn thường dùng sòng bạc làm nơi kén bạn hiền.
    Liền tìm đến gặp Nguyễn Nhạc, nhất kiến như cựu. Từ ấy hai bên thường qua lại với nhau.
  6. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    Quang Trung Nguyễn Huệ với một khả năng tổ chức và tài chỉ huy hiếm có đã tạo được một đoàn quân áo vải qua từng giai đoạn phát triển, dù lớn hay nhỏ, luôn luôn có một khí thế tiến công dũng mãnh, táo bạo. " Vũ bão và bất ngờ " đã là một tính chất độc đáo trong lối dùng binh của người anh hùng đất Tây sơn Nguyễn Huệ. Cách đánh này cũng là cách đánh trận hiện đại dùng lực lượng tinh nhuệ "Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị". Một cách hiện đại trong cách dùng binh thần tốc của ông mà phương tây sau này mới dùng là hiệp đồng các binh chủng Pháo, Tăng, Bộ Binh. Quang Trung đã dùng cách dùng thần công bắn trước trong trận Ngọc Hồi, Đống Đa rồi sau đó cho bộ binh dùng khiêng tre làm mộc cùng với voi chiến như là xe tăng xung trận. Về vũ khí chống "tăng" được thấy ở điểm: theo sự mô tả của giáo sĩ Jean de Jésus, quân Tây Sơn đã dùng loại vũ khí Hoả Hầu là một cái lao gồm hai phần: Một cây sào dài nơi đầu gắn thêm một cây gậy gỗ có gài sắt tua tủa và tẩm nhựa. Khi xung trận đầu lao tẩm nhựa có gài đuốc đốt cháy rồi đâm hoặc phóng vào quân địch, khiến địch quân bị gai móc vào áo quần, thành lũy bị đốt cháy. Phép phóng lao Hoả hầu do đội Hỏa hầu cảm tử xung trận đã khiến dàn voi trận và ngựa của địch bị khắc chế.
    Đồng thời với việc tổ chức và chỉ huy trong quân đội, Nguyễn Huệ còn biết kết hợp những nhân sĩ đương thời như La sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Trần văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm và những tướng lĩnh tài giỏi như Đặng Tiến Đông (Đô đốc Mưu), Phan Văn Lân là những người đã làm nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
    Sorry! bạn có vài điểm sai.
    1. Hoả Hổ chứ không phải Hoả Hầu. Hoả Hổ là thứ vũ khí làm bằng một loại chất cháy, gắn ở cán ngọn lao có móc hoặc làm thành khối cầu, khi sử dụng đốt rồi ném vào địch, chất cháy này bám chặt vào địch mà cháy, dùng nước cũng không thể dập tắt (gần giống vũ khí napan thời hiện đại). Có hai loại Hoả Hổ, loại trên cạn dùng cho bộ binh mang theo như một loại hoả lực cá nhân, loại trên thuyền dùng cho hải thuyền, phóng thành dàn, Nguyễn Huệ đã dùng loại này đốt chiến thhuyền của Bồ Đào Nha vào giúp Nguyễn Ánh trong trân hải chiến ở Thị Nại.
    2. Đô Đốc Đặng Tiến Đông là người đã đánh trận Đống Đa, còn gọi là ĐÔ Đốc Long không phải Mưu, Đo đốc Lân không đánh trận Đống Đa mà chỉ huy đạo voi chiến xung kích trong trận Ngọc Hồi.
    3. Quân Thanh không có voi, đạo kỵ binh Hoàng Kỳ nổi tiếng đóng ở đồn Ngọc Hồi vừa xung trận gặp đội voi chiến của Tây Sơn là đứt ngay lập tức.
    Thêm một chi tiết về chiến dịch đại phá quân Thanh:
    Điểm đặc sắc nhất trong chiến dịch đại phá quân Thanh xuân Kỷ Dậu là lần đầu tiên có một đạo quân phá vỡ cái quy luật "tập trung- hành quân- đối trận-triển khai thế trận" của quân đội các nước phương đông và cả phương tây nói chung. Chia quân thành năm đạo, tạo thành một vòng vây lớn trên toàn mặt trận, hợp đồng giữa các cánh trên một không gian lớn, rút ngắn thời gian giữa tán khai và hội quân, biến thời gian thành lực lượng. Phối hợp chính xác giữa chính và kỳ.
  7. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Chưa kịp sửa lại hết tất cả vì lấy thông tin cũ của sách xuất bản trước năm 1975. Với lại thông tin trên này có xem từ mạng http://www.salongcuong.org/bd/bdv/qtr.html hinh nhu khong phai trong nước. Cám ơn bạn. Tên Đô Đốc Mưu (Đô Đốc Long) còn có trong trang web http://www.thanhtung.com/truyenlichsu/quangtrung/hoi4.html
    Hoàng Đế Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch ( 30 tháng chạp ) thì hành quân đi. Nhà Vua quyết định ngày Mồng Bảy Tết sẽ vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Vua Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ: "Trước hết, ta hãy ăn tết cho thoả thuê, rồi ta sẽ ra Thăng Long vào ngày Mồng Bảy - tiếp tục vui xuân. Các khanh hãy nhớ lấy lời ta!"
    Vua Quang Trung truyền lệnh:
    - "Đại tư mã Sở, Nội hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thuỷ quân vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé sông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phương Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.
    Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tướng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên qua huyện Chương Đức (nay là Chương mỹ ) tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì; đánh quân Điều Châu; Bảo thì thống xuất quân thượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả...".
    Năm cánh quân được lệnh truyền của Hoàng Đế, đều thu xếp, chuẩn bị thật chu đáo, chờ đến hôm 30 tháng chạp đều xuất phát lên đường...
    Sách cũ dùng tên Đô Đốc Mưu có thể đúng hơn là Đô Đốc Long vì Long có Đô Đốc Ðặng Văn Long và đô đốc Ðặng Tiến Ðông. Hai tướng có thể trùng tên nhưng trong chiến dịch thì tên phải phân biệt, có thể Đô Đốc Đặng Tiến Đông là Đô Đốc Mưu.
    Nhà phê bình sử học Lại Nguyên Ân có bài nói chuyện về cuốn sách Đối Thoại Sử Học của Bùi Thiết về tướng Đặng Tiến Đông. "Hiện nay ở Hà Nội có một phố tên là Đặng Tiến Đông. Vốn ông này là Đặng Tiến Giản. Ông Đặng Tiến Giản này là quan của nhà Lê-Trịnh, bỏ Lê-Trịnh theo Tây Sơn, được Tây Sơn cử làm tướng đánh nhau với quân Trịnh năm 1788. Nhưng người ta không đọc ra là Giản mà lại đọc là Đông, và cái công đánh Trịnh trở thành cái công đánh Thanh. (Bởi vì năm 1788 quân Thanh chưa vào). Do đó chuyện ấy là chuyện sai. Hiện nay chúng tôi đã chứng minh rằng ông này là Đặng Tiến Giản và chỉ đánh nhau với quân Trịnh chứ không đánh nhau với quân Thanh. Chúng tôi đề nghị với các cơ quan quản lý nhà nước phải sửa lại phố Đặng Tiến Đông bằng phố Đô Đốc Long, chính cái công đánh trận Đống Đa mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 là của Đô Đốc Long. Đô Đốc Long là ai thì hiện nay chúng tôi đang có nhiều giả thiết, chỉ biết ông là Đặng Văn Long, một trong những người theo Tây Sơn từ đầu, đấy là người ở Bình Định. Đó là vấn đề thứ hai mà chúng tôi nêu ra."
    Được binhminhlaky sửa chữa / chuyển vào 20:17 ngày 25/11/2003
  8. kemetmoi

    kemetmoi Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/09/2003
    Bài viết:
    648
    Đã được thích:
    393
    To Binhminhlaky:
    Về vấn đề Đô đốc Long và Đô Đốc Đặng Tiến Đông, theo cuốn "Thiên tài quân sự -Quang Trung" NXB Huế 1990 và cuốn "Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung" đô đốc Đ TĐ vốn thuộc dòng dõi thế gia họ Đặng đất bắc,cha anh đều làm quan trong triều nhà trịnh, ông là quan nhà Trịnh, là tướng ở Phú Xuân, nhưng do bướng bỉnh, không chấp hành lệnh cấm quân cầu an của chủ tướng Hoàng Đình Thể (thực ra là kế phản gián của TS cho người giả làm thấy bói lừa thể) nên bị hạ ngục, sau khi chiếm được PX, NH lập tức thả ông ra và trao cho viên tướng chỉ là phó quan TRịnh chức đô đốc, theo ông cầm quân đánh trịnh, sau đó được thăng lên đại đô đốc, ngang với Ngô Văn Sở, Trần Quang Diệu (nhà TS có đô đốc và đại đô đốc) cao hơn Phan Văn Lân. Ông dược đánh giá là người cẩn thận, quả đoán, có nhiều mưu lược, hiểu lẽ tiến thoái, thông hiểu xứ bắc. Trước khi mất QT có sai ông đi sứ nhà Thanh để cầu hôn công chúa và lấy đó làm bàn đạp để mưu lấy lại Lưỡng Quảng(còn chiếu chỉ của Hoàng đế Quang Trung để lại ở nhà thờ họ của ông mà người nhà ông còn giữ được, có dịp tôi sẽ post lên).
    Phan Đăng LOng là người đi theo ba anh em Ts từ ngày khởi nghiệp, nhưng là người Hoa, khi ba anh em chia đóng ba nơi, khi các đaị tướng như lân, sở, diệu xuân đều theo NH, long ở lại theo Nguyễn Nhạc nên không thể có trong trận Đống Đa, hơn nữa không có bất kỳ câu chuyện nào dù là truyền miệng nói về tài năng của ngưồi này,
    Chỉ huy cánh quân đánh Đống Đa là một nhiệm vụ quan trọng, hành quân dài ngày ở xứ bắc, độc lập tác chiến lại là muũi kỳ binh quyết định thắng lợi của cả chiến dịch, theo tôi thì Quang Trung đã giao cho một viên tướng có tài và rất đáng tin cậy như đô đốc Đông.
    Khi đang đàm phán ở Bắc Kinh, chợt nghe tin QT qua đời ông đã đau đớn ngất xỉu trước sân chầu và sau đó làm bài thơ cso hai câu cuối:
    "TRỜI ĐỂ CHÚA TA THÊM CHỤC TUỔI
    ANH HÙNG ĐƯỜNG TÔNG HẾT KHOE TÀI"
  9. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Bài viết của Kemetmoi có thể xem ở các source chứng minh dưới đây không hề có tướng Tây Sơn nào tên là Phan Đăng Long. Đại Đô Đốc Đặng Tiến Đông tên là Đô Đốc Mưu có thể có tranh cãi là ông có tham gia vào trận Đống Đa.
    Học trò của thầy giáo Trương Văn Hiến hầu hết trở thành tướng lĩnh hàng đầu của nhà Tây Sơn. Ngoài ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, còn có thể kể:
    - Võ Văn Dũng quê Phú Lạc, Tây Sơn, Bình Định - Đại đô đốc triều Quang Trung, một trong tứ trụ triều đình thời Cảnh Thịnh.
    - Đặng Văn Long quê Nhơn Mỹ, An Nhơn, Bình Định - Đại đô đốc, có công đánh giặc Thanh.
    - Phan Văn Lân quê Nhơn Hưng, An Nhơn, Bình Định - Đô đốc, có công đánh giặc Thanh.
    - Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh ở Bình Sơn, Quảng Ngãi, làm quan triều Tây Sơn, tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký.
    - Huỳnh Văn Thuận ở Mộ Đức, Quảng Ngãi - Tướng Tây Sơn đã tham chước hai bộ Binh Ngô tôn pháp và Hưng Đạo binh pháp, soạn ra bộ Binh pháp Tây Sơn.
    - Trương Văn Đa, sinh tại An Thái, Nhơn Phúc, Bình Định, (là con trai và cũng là học trò Trương Văn Hiến, con rể Nguyễn Nhạc) ?" Tướng Tây Sơn, có công đánh quân Xiêm, làm trấn thủ Gia Định rất được lòng dân, sau là thầy dạy thái tử Bảo.
    Đối với Trương Văn Hiến, An Thái là quê hương thứ hai, nơi ông thực hiện hoài bão cứu đời giúp nước. Với công lao đào tạo nên những anh hùng tiêu biểu của triều đại Tây Sơn, Trương Văn Hiến được nhân dân yêu mến như một người Bình Định thật sự, một người đã làm rạng danh quê hương Bình Định bằng cách khai sáng cho một thế hệ về đạo làm người giữa thời ly loạn ?" học trò và con cái ông đã vâng theo tiếng gọi của lịch sử, làm tướng tiên phong trong đội quân của nhân dân, đập đổ ách thống trị thối nát, giữ cho quốc thái dân an. Sứ mệnh của ông là một Người Thầy, và ông đã thực hiện sứ mệnh đó một cách toàn tâm toàn ý.
    Source: Hoàng Lê Nhất Thống Chí và web www.geocities.com/Colosseum/Midfield/6821/tayson.htm
    http://www.nhanvan.com/magazines/vanhoc/188/doithoaisuhoc_tachidaitruong.htm
    Được binhminhlaky sửa chữa / chuyển vào 21:35 ngày 25/11/2003
  10. trieudong

    trieudong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/08/2003
    Bài viết:
    89
    Đã được thích:
    0
    http://www.doitynan.com/suviet.htm
    Hi, vào đây, có tu liệu về QT

Chia sẻ trang này