1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vai trò của vua Quang Trung trong lịch sử Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hateMU, 20/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. corbetti

    corbetti Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/11/2003
    Bài viết:
    941
    Đã được thích:
    1
  2. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
  3. cocsku

    cocsku Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/11/2003
    Bài viết:
    117
    Đã được thích:
    0
    Không ai có thể phủ nhận được nnhững võ công hiển hách ccủa Vua Quang Trung. Chính nhưng võ công hiển hách này đã làm mờ đi những yếu điểm của con người nổi tiếng này. Nhiều người đã đặt câu hỏi về những chiến công vẻ vang nhưng thiếu tính "bền vững" của ông. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Ánh bị đánh cho đại bại đến 3 lần ở nam bộ lại vẫn gượng dậy được.
    Tài năng của Nguyễn Huệ là không thể chối cãi được, nhưng thế chưa đủ để ông trở thành một bậc đế vương thật sự. Chính vì thế phong trào Tây sơn mặc dù đã chiếm lĩnh được toàn quốc nhưng vẫn không vượt qua được hạn chế của một phong trào nông dân khởi nghĩa. Lãnh tụ của nó, cho dù là một cá nnhân rất xuất sắc, đã không thể chế hoá được những gì mà mình gây dựng nên. Chính vì vậy, sự vững mạnh của phong trào hoàn toàn phụ thuộc vào cá nhân người lãnh đạo. Rõ ràng khi Nguyễn Huệ mất đi, lập tức sự đoàn kết, tinh thần chiến đấu của những thành viên nhanh chóng biến mất.
    Nói cách khác, phong trào tây sơn đã không có một thể chế vững mạnh để duy trì sự tồn tại của nó khi người đứng đầu của nó không còn nữa. Đấy là điểm yếu cơ bản dẫn đến sự sụp đổ quá nhanh chóng của phong trào khi ngay sau khi Nguyễn Huệ chết. Đấy cũng là hạn chế cơ bản của các phong trào nông dân nói chung. Và Nguyễn Huệ dù là một lãnh tụ kiệt xuất nhưng đã không vượt được qua hạn chế này.
    Các bạn có thể nói rằng Nguyễn Huệ chết đột ngột và quá sớm ư! Nếu như ông sống lâu hơn, khi ông đã già yếu, không còn đuợc sự dũng mãnh của tuổi trẻ, liệu rằng các tướng sỹ dưới quyền ông có còn đoàn kết quy phục như ban đầu không.
    Theo tôi, khi nói về Tây sơn, ta nên dùng từ Phong trào hơn là dùng từ Triều đại cho dù người lãnh tụ phong trào này đã có lúc xưng danh Hoàng đế.
  4. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0

    Tháng tư năm Kỷ Tị (1799), Nguyễn Phúc Ánh lại kéo quân ra đánh Quy Nhơn, tướng Lê Văn Thanh cố thủ chờ cứu viện.
    Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng từ Phú Xuân kéo binh vào. Đến Quảng Nghĩa thì bị Tống Viết Phước chận đánh. Dũng thua to, nhờ có Quang Diệu cứu ứng. Thành Quy Nhơn chờ viện binh không được, nên Lê Văn Thanh mở cửa thành đầu hàng. Nguyễn Phúc Ánh đem chém tất cả hàng tướng và đổi tên thành Quy Nhơn ra thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đồng trấn thủ. Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng lui về giữ Quảng Nam.
    Nhân vụ dèm pha và thư của Cảnh Thịnh gởi vào cho Võ Văn Dũng, bảo giết Diệu. Dũng đưa thư cho Diệu xem, xem xong Diệu nổi giận:
    - Chúng ta đã đem hết lòng hết sức ra phò vua. Vua đã không nghĩ đến công lao thì chớ, còn đem lời siểm nịnh, hết phen này đến phen khác, sẵn tay giết chết chúng ta? Tình thế không thể kéo dài mãi mãi. Tôn huynh hãy ở lại đây ngừa giặc, tôi về kinh.
    Trần Quang Diệu về đóng binh ở phía Nam sông Hương. Cảnh Thịnh cho ra vời. Diệu không phụng mệnh. Nhà vua sợ hãi, phải nhờ đến nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bùi nữ tướng đến gặp chồng. Vợ chồng bàn với nhau:
    - Mối họa trong triều chỉ có bọn gian thần gây nên. Tận diệt bọn ấy thì mối giềng lập lại không đến nỗi khó.
    Trần Quang Diệu xin vua bắt bọn gian thần trị tội.
    Trần Văn Kỷ đổ tội cho Trần Viết Kiết và Hồ Công Diệu, rồi trốn mất. Nhà vua sai bắt Diệu và Kiết đem nạp cho Quang Diệu, Quang Diệu mới chịu vào triều làm lễ cẩn, rồi lãnh đại binh vào Nam.
    Tháng giêng năm canh Thân (1800), Trần Quang Diệu vào Quảng Nam, hợp vào Võ Văn Dũng cùng vào Quy Nhơn, nhưng đến Bình Đê, cũng bị quân Tống Viết Phước cản lại. Quang Diệu bèn sai người ra Trà Khúc lấy binh của Nguyễn Văn Giáp và hợp sức với Trấn thủ Quảng Nghĩa là Nguyễn Văn Lộc, tìm cách phá đường vào Quy Nhơn.
    Nguyễn Văn Lộc biết rõ địa thế nơi ranh giới Quảng Nghĩa, Bình Định, bèn đề nghị chia quân ra làm ba đạo:
    - Một đạo đi ngả đèo Bến Đá.
    - Một đạo theo đường hẻm phía Tây núi Sa Lung.
    - Một đạo theo nẻo tắt xuyên qua núi Cung Quăng.
    Ba đạo đồng lần lượt nổi trống, đánh chiêng và la ó, làm cho địch kiếp sợ, hoang mang, không biết phải chống đỡ ngả nào, rồi ba mặt giáp công chắc chắn địch phải thua.
    Trần Quang Diệu y kế, nên qua khỏi đèo Bến Đá thẳng đến thành Quy Nhơn.
    Võ Tánh đem quân ra đánh. Đã từng bại tướng nơi Diên Khánh, nên vừa xáp trận, Quang Diệu đã rượt Võ Tánh chạy dài, vào thành đóng cửa cố thủ. Trần Quang Diệu một mặt cho bao vây công kích, một mặt phân công cho Võ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại.
    Quân nhà Nguyễn đã có tên, lại có đạn ở trên thành bắn xuống, quân Tây Sơn không thể đến gần chân thành. Trần Quang Diệu cho đắp trường lũy xung quanh thành, vây khốn. Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh ra cứu viện. Song bị quân Tây Sơn ngăn cản, nên phải dừng quân và phải lui về Gia Định. Rồi ba tháng sau lại kéo quân ra đánh lại. Tuy lần này thủy quân chiếm được cửa biển Thị Nại, song cũng không thể tiến quân giải cứu thành Bình Định, bèn kéo đại binh ra đánh Phú Xuân.
    Trần Quang Diệu sau khi đánh bật Nguyễn Văn Thành và Huỳnh Đức ra khỏi Quy Nhơn, bèn ráo riết công thành.
    Quân mệt mỏi, tên đạn cạn, lương thực thiếu, Võ Tánh liệu không tử thủ được nữa, bèn viết thư ra cho Trần Quang Diệu, yêu cầu lúc vào thành đừng sát hại quân dân vô tội. Rồi tự vận cùng với Ngô Tùng Châu.
    Trần Quang Diệu vào thành, ban lời khuyến dụ, rồi cho thu hài cốt hai vị trung thần của nhà Nguyễn chôn cất theo lễ.
    Mặt Bắc, Nguyễn Phúc Ánh chiếm được Phú Xuân, sai Lê Văn Diệt, Lê Chất vào cứu Quy Nhơn, bị Nguyễn Văn Lộc đánh bại, phải dừng quân ở Thạch Tân và cửa biển Thị Nại. Thành Quy Nhơn vẫn yên ổn. Thế quân hai bên ghìm nhau.
    Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh làm chủ hoàn toàn đất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các tướng:
    - Binh mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lượng ở Bắc thành không còn mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến đánh thì Bắc thành không thể trì thủ được lâu. Ta phải đem quân về cứu, kẻo Bắc thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi kéo đại binh ra Bắc, Nguyễn Quang đem quân đóng ở Dương An. Nguyễn Văn tướng quân về đóng ở Kỳ Sơn, để chia bớt lực lượng của quân Nguyễn. Không nên đóng quân trong thành mà bị địch bao vây.
    Sắp đặt xong, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đem 3.000 quân và 80 thớt voi theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802). Đường đi khó khăn, lội suối vượt đèo, phần lam sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn như Hà Công Thái, Nguyễn Đình Ba? đột kích. Đoàn tùy tùng Trần tướng quân hao hụt dần dần. Khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn. Đoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt. Tướng sĩ hầu hết bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị phù thũng hai chân sưng vù, đi đứng khó khăn.
    Quân họ Trần kéo xuống Hương Sơn. Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Đức Định dẫn mang binh đến tập kích. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch. Trần Quang Diệu cùng Võ Văn Dũng và các bộ tướng đều bị bắt.
    Ở Diễn Châu, Bùi nữ tướng nghe tin liền đem nữ binh đi giải cứu.
    Đến Giáp Sơn thì giải cứu được, song đến Thanh Chương thì hai vợ chồng Trần tướng công bị bắt giải về Nghệ An.
    Tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802) Trần Quang Diệu chịu thọ hình lột da. Trần tướng quân trước sau vẫn giữ vững bản sắc anh hùng, đi đứng hiên ngang, thái độ khẳng khái. Cực hình lột gia là một cách hành hạ tội nhân vô cùng đau đớn, khổ sở trong cái chết đến từ từ. Không một tiếng kêu rên, một lời than thở, tướng công Trần Quang Diệu can đảm nhận chịu cực hình cho đến hơi thở cuối cùng.
    Nói thêm về cái chết của nữ tướng Bùi Thị Xuân và tướng Trần Quang Diệu. Chợt Trần Quang Diệu được tin quân Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ, Trấn Ninh, Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất Thuận Hóa thì thất kinh, bàn cùng các tướng.
    - Binh mã đã bị hao ở Trấn Ninh và Nhật Lệ quá nhiều, lực lượng ở Bắc Thành không còn mấy. Nếu Nguyễn Phúc Ánh kéo quân đến đánh thì Bắc Thành không thể trì thủ được lâu. Ta phải đem quân về cứu, kẻo Bắc Thành thất thủ nữa thì Quy Nhơn có giữ vững cũng không ích gì. Vậy nên bỏ thành Quy Nhơn. Võ tướng quân cùng tôi đem đại binh ra Bắc. Nguyễn Quang tướng quân đem binh đóng ở Dương An, Nguyễn Văn tướng quân về đóng ở Kỳ Sơn, để chia bớt lực lượng của quân Nguyễn. Không nên đóng quân trong thành mà bị địch bao vây.
    Sắp đặt xong, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng cùng các bộ tướng đem 3.000 quân, 80 thớt voi, theo đường thượng đạo sang Lào để ra Nghệ An, vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).
    Sau khi quân Tây Sơn bị đại bại ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, thì đất Thuận Hóa từ Hải Vân Sơn đến Linh Giang hoàn toàn thuộc về nhà Nguyễn.
    Ngày 2 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh xưng đế, đặt niên hiệu là Gia Long.
    Lên Ngôi vua rồi, Gia Long sai Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tĩnh đem phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh đã phong cho Tây Sơn, sang nạp cho Thiên Triều và xin cho mình làm An Nam Quốc Vương thay thế Tây Sơn.
    Liền đó Nguyễn Phúc Ánh kéo đại binh đi đánh Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lãnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lãnh bộ binh, đi trước.
    Tháng 6, quân bộ qua sông Linh Giang, tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống, rồi cùng đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thuận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
    Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã đến Quy Hợp. Ðường đi khó khăn, hết đèo lại dốc, phần lam sơn chướng khí, phần rắn độc thú dữ, phần bị bọn thổ ty theo nhà Nguyễn như Hà Công Thái, Nguyễn Ðình Ba... đột kích, đoàn tùy tùng Trần Quang Diệu bị hao hụt dần dần. Khi đến Nghệ An thì mười phần chỉ còn ba bốn. Ðoàn tượng binh chỉ còn mươi thớt! Tướng sĩ hầu hết đều bị sốt rét rừng. Trần Quang Diệu bị phù thủng, đi đứng khó khăn.
    Trần Quang Diệu kéo quân xuống Hương Sơn. Tướng nhà Nguyễn là Võ Doãn Văn, Lê Ðức Ðịnh dẫn Man binh đến đánh bất thình lình. Trở tay không kịp, quân sĩ bị giết sạch! Trần Quang Diệu cùng các bộ tướng Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Ðiềm, Nguyễn Văn Miên, Võ Văn Dũng đều bị bắt.
    Ở Diễn Châu, Bùi nữ tướng hay tin, liền đem nữ binh đi giải cứu.
    Ðến Giáp sơn thì giải cứu được. Chạy đến sông Thành Chương thì bị quân nhà Nguyễn chận đánh. Quân Tây Sơn liều chết lăn xả vào chém giết quân Nguyễn. Bùi nữ tướng và đoàn nữ binh xông vào đâu thì binh Nguyễn rã đến đó. Nhưng quân Nguyễn quá đông, quân Tây Sơn dần dần bị yếu thế. Các tùy tướng lớp bị chết, lớp bị bắt trở lại. Chỉ có Bùi nữ tướng, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng thoát khỏi. Song Trần Quang Diệu kiệt sức đi không nỗi nữa. Nữ tướng phải lo bảo vệ chồng, không rảnh tay chống cự cùng binh tướng nhà Nguyễn, nên cả hai vợ chồng đều bị sa cơ. Một mình Võ Văn Dũng thoát được. Nhưng chạy ra đến Nông Cống (Thanh Hóa), bị bọn Lê Văn Pháp, Phạm Ngọc Thụy kéo dân địa phương ra bao vây. Một mình không chống nổi đám đông. Võ bị bắt trở lại.
    Trần Quang Diệu, Bùi nữ tướng, Võ Văn Dũng đều bị đóng cũi giải về Nghệ An nạp cho Nguyễn Phúc Ánh. Dọc đường Võ Văn Dũng phá cũi thoát thân, Bùi nữ tướng không nỡ bỏ chồng, đành ở lại để cùng chết.
  5. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
  6. Ica

    Ica Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/03/2001
    Bài viết:
    1.783
    Đã được thích:
    0
    Đoạn đối đáp giữa Nguyễn Ánh với Bùi Thị Xuân từ tài liệu nào ra thế? Bạn cho tớ biết được không? Cám ơn nhiều!

    POUR LA PATRIE, LES SCIENCES ET LA GLOIRE!
  7. binhminhlaky

    binhminhlaky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Sách chính là của tác giả Quách Tấn tên sách là "Nhà Tây Sơn" trang cuối của mục sự trả thù của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn.
    Sách tham khảo là 1. Ðại Nam Nhất Thống Chí-Nguyễn Tạo dịch, 2. Tây Sơn lương tướng truyện-Nguyễn Trọng Trì, 3. Tây Sơn văn thần truyện-Nguyễn Bá Huân
  8. Ica

    Ica Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/03/2001
    Bài viết:
    1.783
    Đã được thích:
    0
    Đây là topic thảo luận về lịch sử, bạn nên chú trọng sử dụng tài liệu sử học chứ không nên tham khảo cả sách văn học tưởng tượng.
    Đoạn đối thoại kia vô lý lè lè, đọc là biết ngay nhà văn bịa ra!

    POUR LA PATRIE, LES SCIENCES ET LA GLOIRE!
  9. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Thực ra quyển Nhà Tây Sơn của Quách Tấn không phải là sách Văn Học tưởng tượng.Tác phẩm này đã được viết với phương châm ghi chép lại các sự kiện lịch sử chính xác theo sự phản ánh của nhân dân địa phương, cụ thể là theo lời truyền của các bậc trưởng thượng từng sống thời Tây Sơn ở đất Tây Sơn, và chính xác theo các tư liệu lịch sử đáng tin cậy gồm 12 bộ sử ký về Tây Sơn được nhân dân bảo tồn qua sự trả thù ghê gớm của triều đình nhà Nguyễn nhưng nó cũng chẳng phải là một tác phẩm mang tính chất chính sử



    Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt


    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời
  10. dntrinh

    dntrinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/08/2003
    Bài viết:
    40
    Đã được thích:
    0
    Càc bàc xem site nà?y chưa nhì?
    http://www.humnet.ucla.edu/humnet/ealc/faculty/dutton/TSsite.html

Chia sẻ trang này