1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn chương trong nước chậm thua hải ngoại ....30 năm

Chủ đề trong 'Văn học' bởi baconcua, 01/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Margareta

    Margareta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/01/2002
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    0
    Cái Kiều ấy, chị thấy có thằng bé gì nó post bên Thăng Long rồi đấy, em gái Grass chiu khó sang bên đó đoc hay bưng về đây.
  2. grass

    grass Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/12/2001
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    0
    Cái thằng bé ấy dỗi xoá mất rồi chị mới phải đi hỏi, em Mar chả biết gì cứ thích nói leo

    Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

    www.troixanh.allreal.net
  3. Margareta

    Margareta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/01/2002
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    0
    Thêm cái Tâm sự Mỵ châu này nữa nhá.
    Lạc
    Phạm Hải Anh
    - Các hồn hãy xếp hàng thứ tự, đừng chen lấn, xô đẩy.
    Hồn đeo băng đỏ đứng cạnh thựng cháo nghi ngút khói nhắc luôn miệng :
    - Mỗi hồn đúng một muôi thôi đấy ! Ðưa tem phiếu đây. Cái hồn này, vừa nãy lĩnh cháo rồi, bây giờ lộn lại đây làm gì, định ăn gian hả ? Cháo lú đấy chứ béo bổ gì mà ăn nhiều.
    Hồn bị mắng là ăn gian đứng ngớ ngẩn, hỏi đường ra. Hồn đeo băng đỏ vung tay ra xa :
    - Ðấy, đường đầu thai lối kia kìa. Ði một đoạn rẽ phải, lên dốc rồi rẽ trái qua cái đường hầm trơn trơn. Cẩn thận không là lộn kiếp đấy!
    Hồn kia cám ơn rối rít, sắm nắm đi. Ðến sáng hồn mò về, khổ sở :
    - Bác làm ơn chỉ lại giúp. Tôi tìm mãi không thấy cửa.
    Hồn đeo băng đỏ giơ cả hai tay lên trời than :
    - Chắc lại ăn cháo quá liều rồi ! Trên ấy kêu gào hơn ngày trời nay, tưởng hồn đã ra lâu rồi, ai ngờ vẫn lú lẫn ở đây. Thế có chết người ta không !
    Hồn đeo băng đỏ áp tải hồn lạc đường ra tận cánh cửa đen hình tam giác giữa có chữ " Lối ra " xếp dọc màu hồng, tống cho một đạp.
    *
    * *
    ...Con bé chào đời lúc bảy giờ ba chín phút sáng, sau cơn đau đẻ kéo dài hai bảy tiếng của sản phụ. Nó chui tuột ra mau lẹ, bất ngờ như có ai đẩy, mắt mở thô lố, không khóc. Bà đỡ nhận xét con bé này có bộ mặt ngơ ngác bẩm sinh.
    *
    * *
    Phản đối lại bà đỡ, hoặc giả vì tình mẫu tử vốn mù quáng, mẹ đặt cho con bé - tức là tôi - một cái tên thật sáng suốt : Tâm Minh. Bố thực tế hơn, ngậm ngùi công nhận tôi có gien của bố, cùng nòi Lạc. Cụ tổ Lạc Long Quân, con cháu Lạc Long Ðầu Gối. Bạn bố, lần đầu gặp đã nhận ngay ra tôi trong đám trẻ con tan trường lố nhố. Dễ lắm, ông bác vui vẻ giải thích, cứ tìm đứa nào mặt mũi ngẩn ngơ nhất. Cũng ông bạn quý này đã đúc kết ra rằng bố tôi có tật mãn tính, đến nhà ai chơi, lâu mau gì cứ phải đi tiểu trước khi ra về. Bố cười trừ, riêng hai bố con biết với nhau đấy là giải pháp tình thế, khi thay vì cửa ra, ông luôn luôn tông nhầm vào nhà vệ sinh. Tình yêu của bố mẹ bắt đầu trong rạp chiếu phim, khi mẹ bỏ quên bà ngoại sờ soạng giữa hai hàng ghế, ân cần dắt tay chàng thanh niên bốn mắt đến tận chỗ ngồi. Cảm động vì người hướng đạo nhiệt tình, bố để mẹ dắt đi luôn từ độ ấy. Một lần say rượu, bố khề khà tâm sự :
    - Con có biết lần lạc lối trầm trọng nhất trong đời bố là gì không ?... Là cái hôm trong rạp chiếu phim ấy đấy. Sau lần đó, mấy cái lạc đường tẹp nhẹp có sá gì. Nhưng mà... - bố gục gặc cái đầu - thực ra thì bố lạc từ lâu rồi con gái ạ. Con có biết thế nào là nhầm thế kỷ không ? Cái thời của bố, lẽ ra nó phải khác. Hà hà, ****** ấy, nhẽ ra ...
    Mắt kính bố mờ như thể sương phủ, khoé mép giật giật. Trong một hộp sắt rỉ sét chìm lấp nơi đáy tủ, có lần tôi tìm thấy vài tấm hình bố thời trẻ. Dắt xe đứng bên đường Cổ Ngư lúc ấy còn nhiều bụi rậm hoang vu. Âu phục trắng chải chuốt, mũ phớt. Lại tấm ảnh chụp cùng bạn bè, tóc chải mượt, rẽ ngôi gọn ghẽ, những gương mặt khôi ngô sáng trưng. Chẳng hiểu sao ngần ấy năm sống trên đời, tôi chưa từng gặp một người đàn ông mang khuôn mặt sáng láng như thế. Như thể họ đã chui tuốt vào trong ảnh, giấu mình xa lắc ở cái thời bí hiểm ấy, cái thời mà cuối cùng bố cũng chẳng biết miêu tả ra sao, ngoài hai chữ " lẽ ra " lơ lửng. Dư âm của nó hiện thân thành cái mũ phớt ao ước của tất cả các ông già miền Bắc Việt Nam. Ngày Tết, tôi thường cảm động chứng kiến cuộc gặp gỡ của những chiếc mũ phớt tại nhà. Những cái mũ phớt nói chuyện với nhau đệm bằng thứ tiếng Pháp của nửa thế kỷ trước. Bản thân ngôi nhà chúng tôi ở cũng hùa theo không khí cổ điển này. Mặc dù lở lói và phình ra quái gở với những cái ban công cơi nới, nó vẫn giữ màu vôi vàng nguyên thuỷ, cửa sổ sơn xanh, trần rất cao. Nó đứng như một người đàn bà nhan sắc tàn tạ cưu mang trong ***g ngực mệt mỏi của mình người tình mũ phớt nói tiếng Pháp, xúm xít bu quanh dưới chân là những phở, cháo, mì, trứng vịt lộn, xôi xéo, trà chén... vui vẻ và nhếch nhác. Tôi thích phía dưới hơn, những tiếng ì xèo bất tận vẳng ra từ các hàng quán vỉa hè, thường đệm rất giòn bởi Ð., L., C. và một số âm quen thuộc khác, nghe có vẻ sinh động thành thực. Năm lớp vỡ lòng - bây giờ người ta gọi là lớp mầm, chồi gì đó nghe nhiều triển vọng hơn - lần đầu tiên từ trường về, tôi ngồi quay mặt vào tường, lẩm bẩm bài học đầu tiên. Bố mẹ rón rén đến đằng sau, hồi hộp rình đón thiên hướng đầu đời của con gái. Không phải thơ, cũng không phải bài hát, tôi đang tập nói " đ.m. mày ". Ba roi quắn mông và lời đe doạ kiên quyết của bố " Ðây là lần đầu, cũng là lần cuối cùng nghe không ! " làm thui chột mầm non, lẽ ra, triệt để đi theo con đường này, tôi có thể thành một cái gì đó nhiều màu sắc hơn bây giờ. Ba tuổi, tôi nỉ non đọc Kiều. Năm mười chín, tôi bắt đầu đeo kính lục sách thư viện đọc thơ Ðường giữa những cụ già lục tuần. Thay vì tiếng Pháp, tôi đi học tiếng Nga, rồi lại bỏ tiếng của cái nước không còn là anh em này, xoay sang học tiếng Anh, sau đó là tiếng Nhật. Cái lưỡi của tôi giả thiết sinh ra là để phát lên những âm thời thượng thanh lịch mà tụi hay chửi bậy không hiểu là gì. Năm hai bảy tuổi, tôi bị một cơn đau bụng cấp tính. Tất cả các từ " đ.m." không nói được ra trong suốt gần ba chục năm kết tủa trong khoang bụng, vón thành cục nặng nề, một phần khác lên men chua như axit, gây viêm loét. Cuối cùng cũng có thể hiểu được làm sao dân trí thức lịch sự hay bị đau dạ dày như thế.
    *
    * *
    Bố bảo lạc mà xem bản đồ hay hỏi đường chỉ là chữa bệnh tại ngọn. Cần phải định hướng chiến lược, đời bố lạc đủ rồi, Tâm Minh phải khác. Bố sắm la bàn, mua sách phong thuỷ về nghiên cứu. Xoay bàn thờ đón hướng Phúc đức, cửa chính Thiên y, giường nằm Sinh khí. Cái bếp đặt ở phía Bắc, thuỷ hoả tương khắc không tốt cho sự nghiệp, phải chuyển dịch sang hướng Nam. Hướng Ðông là Chấn, tượng trưng cho giao thiệp, thông tin thì phải đặt điện thoại. Ðông bắc là Thổ, quét vôi vàng, tượng trưng cho kiến thức nên kê tủ sách... Mọi vật trong nhà đảo lộn, lẽ ra đi nấu cơm thì đâm sầm vào toalét, vào bàn làm việc thì bước lên giường. Triệu chứng lạc có phần trầm trọng hơn nhưng cần hi sinh tiểu tiết cho đại cục thì mới khá được. Bố chú ý đặc biệt đến hướng Bắc - sự nghiệp, mua gương to về treo, sơn tường màu lam cho đúng chất Khảm Thuỷ. Mẹ thì chỉ chăm chăm vào hướng Tây Nam - tình duyên cho con gái. Sách phong thuỷ viết có cô muộn chồng, theo lời thầy địa lý mua vật cát tường là một bức tượng đàn ông đặt vào chỗ ấy. Ngay hai tuần sau cô gặp tiếng sét ái tình, thiêng nhất là tượng đồng đen nên chàng đến từ lục địa đen, trong bóng tối phải cười mới thấy. Cô này yêu nên đen trắng kể gì, nhưng mẹ rút kinh nghiệm. Tượng Á châu ngoài chợ toàn Lã Vọng già lụ khụ, thằng cu ôm cá chép, ông Thọ đầu nổi u, ông Phúc Lộc bụng phệ, Trương Phi mắt trợn, mặt như nhọ chảo, được ngài Quan Công mặt mũi uy nghi thì râu dài tới rốn. Mẹ đành chọn tượng Tây, chàng Apollo trắng tinh điển trai. Kể ra để Tâm Minh da vàng mũi tẹt, mắt cận ngơ ngơ đứng cạnh Apollo thì không được cân xứng cho lắm, nhưng thế thì mới cần đến phong thuỷ.
    *
    * *
    Hiệu nghiệm ! Hai tuần sau cuộc cách mạng Phong thuỷ của bố, tôi nhận việc làm mới : hướng dẫn viên du lịch cho Tây. Tôi dắt khách đi sâu vào phố giăng chi chít bàn cờ, Văn Miếu với Chùa Một Cột lúc ẩn lúc hiện, loanh quanh một quãng rồi lại thấy. Tây khen Hà Nội di tích rậm rịt như rừng, đâu cũng gặp. Tôi thường tránh lối đi qua cầu Thê Húc. Chỗ đó có người đàn ông ăn mặc tồi tàn, ngồi xệp bên vỉa hè bán mấy con rùa mu bằng bìa đen, dán trên lõi cuộn chỉ gỗ. Kéo dây, cuộn chỉ lăn, con rùa bò tới lui, đầu gục gặc. Rùa giấy bán cho trẻ con ta năm trăm, một nghìn một con, nhưng Tây động tới là phải trả bằng đô. Tây sẵn tiền lại khù khờ, ai thấy mỏ tiền lộ thiên như thế mà không bốc thử vài đồng có hoạ là ngu. Tôi không biết chân lý ấy nên dại dột ngăn mấy vị khách đang sốt sắng rút ví. Người đàn ông bán rùa chỉ thẳng tay vào mặt tôi :
    - Ðồ theo đít Tây ! Không để người ta kiếm cơm nuôi con, mày là cái giống gì hả ?
    Tôi lùi lũi đi, họng đắng ngắt. Con lương tâm bắt đầu cắn, mỗi miếng đau nhói lại hỏi : " Sao lại cướp cơm ? Sao lại cướp cơm ? ". Tôi dỗ nó im đi, lén quay lại mua mấy con rùa giấy giá cho Tây. Những con rùa đen rất lâu sau còn bò lổm ngổm trong cơn mộng mị. Biển cuồn cuộn dâng sóng, thần Kim Quy nổi lên quát : " Kẻ phản bội ở ngay sau lưng bệ hạ đó ! ". An Dương Vương quay lại, rút gươm chém đứt đầu Mỵ Châu. Máu vô tội kết ngọc trai đáy biển. Rùa đen này chắc là hậu duệ của rùa thần. Con cháu An Dương Vương bán rùa kiếm cơm cạnh hồ Gươm đã điểm mặt tôi, biến thân lạc loài của Mỵ Châu. Bi kịch thời nay chỉ tủn mủn được cỡ đó. Nước mắt tôi trong đêm không kết ngọc ngà gì cả. Không đáng một đồng xu, nó chỉ trong veo và rất mặn.
    *
    * *
    Tôi đi cùng ông khách vào bệnh viện Trung ương. Vết thương ngã xe đạp chảy máu đầu gối lẽ ra chẳng cần vào viện, nhưng ngọc thể Tây chẳng biết thế nào. Tôi dắt ông ta qua hành lang la liệt bệnh nhân ta nằm ngồi ngắc ngoải, xin gặp bác sĩ. " Tây à ? ", bác sĩ trực vẻ nghiêm trọng : " Ðưa ông ta vào phòng chờ đặc biệt ". Phòng chờ đặc biệt có một cái giường ga trải hình như vốn màu trắng đã ngả sang vàng khè, nó đặc biệt có lẽ vì là phòng duy nhất trống trong cả bệnh viện chật ninh ních bệnh nhân. Ông ta rón rén ngồi lên mép giường chờ đợi. Chốc chốc lại có bóng áo trắng ló đầu vào : " Tây à ? Bị làm sao ? ". Ông ta sốt sắng tụt quần dài, trình vết thương. Áo trắng xem xong lắc lắc đầu bỏ đi, chữa cho Tây, động vào quan hệ quốc tế chứ chả đùa, ngã thì chờ bác sĩ trưởng khoa Ngoại. Lại một áo trắng khác, lại tụt quần. Cởi ra mặc vào suốt buổi sáng, ông ta rút kinh nghiệm cởi luôn. Tôi ngồi nghiêng bẽn lẽn không dám nhìn hai bắp đùi rất Tây. Bác sĩ trưởng khoa Ngoại đầu giờ chiều mới tới. Vết thương đó tự cầm máu, đen bẩn bẩn. Bác sĩ nhìn qua phán " Tây thì phải hỏi Viện Trưởng, tôi không đủ thẩm quyền ". Viện trưởng đang họp chuyên môn, sau đó thì bận đi ăn cưới. Thế này phải làm giấy chuyển viện, vào bệnh viện quốc tế. Tôi nghĩ đến một ngày trời nữa ngồi chứng kiến ông ta tụt quần chờ bác sĩ, sợ tái mặt. Cuối cùng thì bác sĩ trưởng động lòng, gọi y tá đến rửa vết thương, băng lại. Tôi ra nhà thuốc, y đơn bác sĩ kê, mua về chừng hơn nửa cân kháng sinh vân vân đủ loại, chả biết gì về thuốc, tôi ngờ rằng chỗ kháng sinh này đủ chữa nhiễm trùng cho cả đàn bò. Ông ta mời tôi ăn tối để cám ơn cả ngày vất vả. Nhà hàng 93 Phùng Hưng, nằm cạnh đường ray xe lửa. Bàn ăn trải khăn đỏ, dương cầm thánh thót. Nửa tiếng một lần, xe lửa rầm rầm chạy qua nghiến đứt nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc Chopin, Bach. Ông ta đăm đăm nhìn tôi, mỉm cười bảo em giống như Hà Nội. Là sao ? Cổ điển, phức tạp, và quyến rũ. Là như sáng nay mưa bụi phun bạc dọc con đường Cửa Bắc những ngôi biệt thự Pháp điêu tàn dưới tán cây xanh nhú lộc. Có một người đàn bà đèo con bằng xe đạp đi ngang, đầu đứa bé chụp cái túi ni lông hồng tránh mưa, gió thổi phồng như bong bóng, nó cười. Là một góc Viễn Ðông Bác Cổ trầm mặc giữa phố xá còi xe inh ỏi. Là áo dài trắng mong manh nghiêng mình bên đoá loa kèn. Là những công sự bê tông thỉnh thoảng trồi lên giữa vườn hoa. Là cái bệnh viện khủng khiếp và mắt em lo âu... Ông ta còn nói nhiều nữa tôi không nhớ hết. Chỉ nhớ lúc nói thế trông ông ta hơi giống Apollo, da trắng như thế, tóc quăn như thế, riêng cái mũi to hơn hẳn. Hơn tháng sau buổi tối ấy, tôi nhận được thư ông ta từ Paris, bảo rằng muốn trở lại để mang Hà Nội đi cùng.
    *
    * *
    ...Tôi dắt đám du khách đến đền Cổ Loa. Ba bức tường đất lè tè bao bọc quanh đền là thành quách năm xưa chống Triệu Ðà, An Dương Vương khó nhọc mãi mới xây được. Giặc ngày ấy hẳn rất lùn, hoặc giả thời gian đã bào mòn tất cả. Tôi tin ở sức mạnh thời gian hơn. Ngoài sân đền là giếng Ngọc. Chàng Trọng Thuỷ thất tình nhảy xuống đây trầm mình. Ai tìm được ngọc trai biển Ðông đem tới giếng này rửa, lấy tình chàng Trọng Thuỷ tẩy sạch oan khiên cho Mỵ Châu, ngọc sẽ sáng lạ lùng. Khách bấm máy ảnh tanh tách. Nắng chiều viền vàng thành giếng Ngọc. Không có tượng Trọng Thuỷ, ở hậu cung chỉ có tượng Mỵ Châu cụt đầu, trùm tấm vải đỏ. Trong ánh ngày nhập nhoạng, màu vải đỏ sẫm rờn rợn buồn. Mỵ Châu là cô gái Việt đầu tiên lấy chồng ngoại quốc, không đến nỗi bị gả bán cho Ðài Loan kiếm tiền nuôi cha mẹ nhưng cũng chỉ là món hàng mua hoà hiếu mà thôi. Nếu cứ an phận như một món hàng, Mỵ Châu chắc chẳng đến nỗi bị cha chém đứt đầu. Yêu đương vào đâm rắc rối, chuyện đời xưa hơi đâu lo cho mệt, tôi vòng ra sân sau một mình. Ở đó có khóm hoa mạt lỵ. Hoa mạt lỵ màu tím mỏng manh, khi kết hạt cho một thứ phấn trắng mịn, thơm man mát. Những cô gái nhà nghèo ngày xưa lén lấy phấn hoa ấy bôi mặt, da sẽ đẹp lạ lùng. Chiều lặng lẽ. Mạt lỵ tỏa hương dìu dịu. Ngồi đây không thấy hết được ba vòng thành cổ, ao Mắt Rồng, hồ Ấn, giếng Ngọc. Chỉ có những thân mạt lỵ xanh mảnh vươn lên níu vào áo. Lâu lắm rồi, có một người con trai đứng ở chỗ này. Người con trai xiết hạt mạt lỵ, lấy phấn xoa nhè nhẹ lên má tôi, trơn, mịn, mát. Chỗ này, tôi khép mắt lại thấy màu tím mạt lỵ dâng lên dâng lên, khi đó quên cả Mỵ Châu quên cả Trọng Thuỷ, chỉ có... Nhưng mà ở góc Tây Nam mẹ đã đặt tượng Apollo. Apollo không biết thứ phấn mạt lỵ của nhà nghèo. Chàng tặng hàng mỹ phẩm made in Paris - London - New York. Apollo mua tặng bố mũ phớt dạ Pháp, cà vạt lụa Italia, lại hứa bảo lãnh em trai Minh Tú sang Pháp học. Người con trai ấy đến nhà, gặp lúc Apollo thận trọng đeo giúp tôi đôi hoa tai ngọc trai, đã lặng lẽ bỏ về. Ngọc trai biển Ðịa Trung Hải không cần rửa nước giếng Ngọc cũng được giá lắm rồi.
    *
    * *
    Ngày tôi theo chồng đặt chân tới Paris, tuyết bay trắng trời như lông ngỗng. Mỵ Châu ơi !...?
    Amsterdam 31/07/02
    Phạm Hải Anh
  4. bo-doi

    bo-doi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/10/2002
    Bài viết:
    136
    Đã được thích:
    0
    Không lườm nhau nào, chị xương.
    Em Grass nói cái gì Kiều làm chị tò mò, chong mắt tìm đọc thử cơ mà lượn mấy site ko thấy. Có cái ở dưới cũng tạm.
    văn đàn bà chúng mình, kể đọc 1,2 lần còn lạ, đọc nhiều thấy rốt cục trầm bổng đậm nhạt thì vẫn chỉ đi vòng quanh cái cối xay thóc.
    ---
    Tôi, anh, nàng và Đức Phật
    (Phạm Hải Anh)
    Chúng tôi ngủ chung giường. Tôi, anh và nàng. Tôi nằm giữa. Sinh hoạt như thế bất tiện, nhưng hình như nàng không lấy làm phiền. Nàng lặng lẽ biến đi mỗi lần tôi và anh âu yếm nhau. Đi đâu tôi không rõ, chỉ biết nửa đêm tôi tỉnh giấc, quờ tay sang là thấy nàng ở chỗ quen thuộc.;Tôi gặp nàng lần đầu vào ngày Cá tháng tư ẩm ướt. Nàng xuất hiện ở đoạn im lặng sau lời tỏ tình của anh. Gần đến nỗi tà áo nàng vờn sang tôi, nhẹ như cái quệt cánh của một con chim lạ, như tiếng thở dài. Nàng hiện diện cho riêng tôi trong bộ trang phục cổ xưa, cầu kỳ, có đính những viên đá đỏ thắm như máu. Anh không hay biết tôi đang nhìn nàng.Tôi bấm chặt ngón cái vào ngón trỏ để trừ tà. Kể ra nhổ nước bọt chín lần từ phải qua trái sẽ hiệu nghiệm hỏn, nhưng sợ anh cho rằng tôi hóa khùng nên tôi chỉ lẩm nhẩm niệm Phật. Sau này anh bo chưa gặp ai nghe tỏ tình mà niệm Phật rối rít như tôi, hay là tôi muốn diệt dục. Tôi không kể với anh về nàng. Cứ để anh nghĩ về bất kỳ điều gì khác, trừ nàng. Tôi biết nàng quyến rũ như thế nào.
    Tôi rủ anh đi chùa. Tôi khấn nếu anh có duyên với tôi, xin cho chúng tôi được sống bên nhau đến răng long đầu bạc. Sau nhiều năm lễ bái, lời cầu xin của tôi cũng rành mạch hỏn. Lần đầu đi chùa, tôi thành kính lẩm nhẩm thế này : 'Nam mô A Di Đà Phật. Con cầu xin Người cho con được... được... Được gì chắc Đức Phật linh thiêng cũng đoán biết rồi.' Năm đó tôi mười sáu tuổi. Tôi ngượng phi thú nhận ngay cả với Đức Phật ước mỏ đầu đời của mình. Bây giờ tôi diễn đạt những điều mình muốn rất trỏn tru: xứng đôi vừa lứa, thăng quan tiến chức, điều lành thì đến, điều dữ thì đi... Bao giờ cũng là những cụm từ song đối tề chỉnh, nhỡ Đức Phật lỏ đãng bỏ qua một vế thì còn có vế kia nhắc nhở. Nhưng nàng đã xen vào. Nàng, một mình, làm những vế đối nhỏ của tôi khập khiễng.
    Từ độ gặp nàng tôi đâm nghiện bói. Bói Kiều, bói bài, bói Khổng Minh, bói Dịch, xem tử vi, xóc thẻ, coi chỉ tay... Bàn tay tôi đường tâm đạo rối nhằng nhịt, đường công danh dài nhưng ngày càng chúc xuống. Sách bói Tiền định phán rằng :'Số này khắc cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái. Lớn tuổi thích lên núi ở. Kiếp trước kiêu ngạo nên kiếp này hay bị đau tim và lục phủ ngũ tạng. Số không li dị, cháy nhà, ở tù, phá sản. Số lấy chồng giàu sang. Lấy chồng trước chỉ là trả quả báo, lấy chồng sau mới đứng số...'. Càng xem tưỏng lai càng mù mờ hỗn độn. Tuyệt không một lời tiên tri nào nhắc tới nàng. Thế nhưng nàng vẫn tiếp tục hiện diện, mỗi lần một khác, như thể nàng có hàng ngàn khuôn mặt, nhưng dù sao tôi vẫn nhận ra nàng. Một lần tôi bảo tôi thích bộ trang phục đầu tiên với những viên đá đỏ, tại sao nàng không bao giờ mặc lại. Nàng nhún vai, mỉm cười. Hôm đó nàng mặc chiếc áo đen rộng, trông giống nữ tu khắc khổ, riêng đôi môi lại bôi son quá đậm, chói rực nhức mắt như một cánh hoa thuốc phiện. Tôi biết mình không có một chút ảnh hưởng nhỏ nào tới nàng. Nàng ăn mặc như nàng thích, đến đi tùy hứng, bất chấp tôi sợ hãi, khó chịu hay hoan hỉ. Nàng khoanh tay nhìn tôi dán bùa trước cửa, đặt dao sắt dưới gối, đốt vàng mã, phóng sinh lưỏn cua ốc, rắc gạo muối tống tiễn. Cho đến khi thấy nàng trầm tĩnh đứng ngay dưới tòa Tam Bo chùa Hưỏng, tôi đâm ngờ ngợ rằng tôi chẳng có gì phải sợ nàng. Tôi xoay ra cúng kiếng, biết đâu nàng sẽ là phúc thần đem lại may mắn. Chân giò, gà luộc, cá chép rán vàng, giò chả bánh mì, nước mắm hạt tiêu , cả bia lon lẫn coca không thiếu thức gì. Hết lễ mặn rồi lễ chay. Hoa hồng đỏ, xôi gấc, hoa sen trắng, oản trắng, cốm xanh, xoài xanh, chuối vàng, bánh gai đen... lễ đủ năm màu ứng với ngũ hành. Cả anh và tôi đều đẫy ra vì thụ lộc thường xuyên, ngoài ra chẳng có gì thay đổi. Thực ra cũng có một biến cố lớn trong đời tôi vào cao trào cúng kiếng đó. Anh cưới tôi, nhưng tôi đồ rằng may mắn ấy chẳng do nàng mang lại. Nàng đến thăm tôi đêm tân hôn, khi anh đang hăm hở xắn tay bẻ khóa động đào. Nàng đứng sau anh, gưỏng mặt khuất trong bóng tối, chỉ thấy nếp áo buông chùng, trắng muốt dịu dàng. Tôi với tay hất chao đèn ngủ, ánh sáng đột ngột hắt lên khuôn mặt anh say dại, buông thả đờ đẫn. Nàng đã biến mất. Vẳng đến rất gần một tiếng cười cố nén, điệu cười trẻ con, tinh nghịch, trong vắt. Hình như tôi đã cười như thế một ngày xưa. Tiếng cười ấy vĩnh viễn rời bỏ tôi vào khonh khắc anh bực bội đẩy tôi ra. Lúc đó, tôi không hiểu vì sao anh có thể phật ý đến thế chỉ vì một tiếng cười pha lê. Tôi không giải thích với anh về nàng. Sau này, tôi không ngừng hối tiếc về điều đó.Có anh rồi tôi ngừng coi bói toán lẫn lễ bái. Tối tối tôi xăng xái dọn cỏm và uể oải đi rửa bát. Hai việc đó tôi làm một mình, còn lại là ăn chung, xem tivi chung, ngủ chung. Hiện tại của tôi ở đấy, tưỏng lai hình như cũng đấy, tôi còn quấy rầy thần phật làm gì. Nhưng có một điều tôi không thể chia sẻ với anh, là nàng. Thực ra tôi đã thử, nhưng không thành công. Đó là một buổi tối tẻ ngắt. Tôi bắt gặp nàng đang lặng lẽ quan sát tôi rửa bát. Cái xoong nhầy nhụa mỡ. Mùi xà phòng không át được mùi nước mắm và thịt quá lửa khen khét. Nàng ăn mặc như thể sắp đi dạ hội. Vai trần hở hang, một bông huệ trắng giắt hờ hững ở vành tai. Có vẻ gì trong cái nhìn của nàng làm tôi không sao chịu đựng nổi. Nàng cần gì ở tôi, người đàn bà trong bộ quần áo mặc nhà nhàu nhĩ và chồng chén bát bẩn này? Tôi chộp chiếc đũa ăn phóng về phía nàng. Nàng không tránh, cũng không bỏ đi. Cả bó đũa nối nhau đập vào tường, rớt tung tóe. Anh ngừng coi sách, ngó tôi. Đã bao lâu rồi anh không nhìn nữa mỗi lần tôi loay hoay với chén bát. Tôi tuyệt vọng chỉ thẳng vào nàng. Hãy để anh nhìn thấy nàng đi. Bí mật của tôi. Nỗi sợ hãi của tôi. Nàng lộng lẫy dường kia. Cứ để anh bị nàng quyến rũ. Thì ít ra tôi cũng được chung với anh nỗi khao khát là nàng. Anh nhìn tôi quái dị. Nhìn nàng. Nhưng không thấy gì cả. Bức tường trước mặt chúng tôi trắng toát. Tôi nghe tiếng nàng thở dài.
    Tôi từ bỏ ý định chứng minh sự tồn tại của nàng. Tôi biết anh chỉ tin những gì anh tận mắt nhìn thấy. Anh vẫn bực bội nhắc rằng tôi đã niệm phật khi nghe anh tỏ tình, lại còn soi đèn vào mặt anh rồi cười khinh khích trong lần chăn gối đầu tiên. 'Anh không tin em', anh bảo , ' nhưng dù sao vẫn muốn có em'. Và chúng tôi đưa nhau ra biển. Đó là vào cuối đợt nghỉ hè. Bãi biển vắng ngắt, chỉ còn anh với tôi. Buổi chiều. Thủy triều rút ra xa. Những con còng nhỏ chạy trên mặt cát tìm nhau. Tôi thấy nàng. Nàng đứng ngược gió, chiếc váy màu xanh phồng lên như một cánh buồm. Nàng hướng mặt ra biển, không nhìn tôi. Phía đó, mặt trời vàng đang từ từ chạm vào chân sóng. Những con còng màu lửa ngoi lên mỗi lúc một nhiều. Anh tìm tay tôi những ngón tay đan nhau như thể lâu lắm mới gặp lại. Chúng tôi lặng lẽ ngắm cuộc hôn phối nồng nàn của triệu triệu con còng lửa, thảm còng màu da cam phủ kín dần bãi cát, lan mênh mông. Bãi biển vàng cháy, rì rầm hoan lạc trong ngày hội còng lửa. Gió ***g lộng tạt vào tôi vị muối mặn mòi. Tít ngoài xa, biển dịu dàng xanh. Tôi, anh và nàng, lần đầu tiên chúng tôi nhìn chung một hướng.
    Đêm, anh âu yếm tìm tôi. Mùi nước gì khai quẩn trong gió làm tôi khó chịu. Tôi bảo anh chờ chút em ra nhà vệ sinh dội nước. Khi tôi trở vào, anh nằm quay lưng, nguội lạnh. Lần này không phải lỗi ở nàng. Tôi nằm thao thức nghe biển, hình dung từng đợt sóng nối nhau đập mãi vào bờ cát tối sẫm. Những con còng lửa trốn đi đâu? Có thể ngày mai khi chiều buông chúng sẽ trở về hoan hội. Nhưng tôi và anh đã đi rồi, về nỏi tôi sẽ ngày ngày nấu cỏm rửa bát một mình. Bên tôi, anh ngáy đều đều. Những con còng lửa có chết đuối trong giấc mỏ của anh? Tôi trở mình, xoay lưng lại phía anh. Trong bóng tối, nàng đã ở bên tôi từ lúc nào. Bàn tay nàng êm ái thấm khô từng giọt nước mắt trên má tôi, dịu dàng, kiên nhẫn như thể nàng đến đây chỉ để làm việc đó. Sau cùng tôi thiếp đi trên vầng ngực để trần của nàng. Tôi khát. Trong mỏ tôi uống uống dòng sữa tinh khiết ngọt ngào từ bầu vú nàng căng mọng. Ngọn triều màu da cam xôn xao ùa về, tung bổng tôi lên. Tôi và nàng phiêu du trên đỉnh sóng. Đêm ấy, tôi không còn của anh. Tôi thuộc về nàng.
    Nhưng nàng chẳng thuộc về tôi. Không bao giờ. Tôi xé bỏ lá bùa dán trước cửa, vứt con dao sắt đặt dưới gối. Tôi biết nàng chẳng đếm xỉa đến điều đó nhưng vẫn cứ làm. Tôi nghĩ ra hàng ngàn mẹo vặt vãnh để giữ chân nàng. Nàng nhìn tôi loay hoay bày tỏ, bình thản như trước kia từng nhìn tôi cố tình xua đuổi nàng. Tôi biết nàng chẳng cần gì ở tôi. Nàng đến, đi, ban phát sự hiện diện của mình như hoa phi nở rồi tàn, như ngày sáng lại tối, bất chấp tôi muốn hay không. Tôi lại đi coi bói. Ông thầy thở dài, đưa cho tôi xem quẻ thẻ: '...Lại mang lấy một chữ tình, khư khư mình buộc lấy mình vào trong.Vậy nên những chốn thong dong, đi không yên ổn ở không vững vàng. Ma đưa lối, quỉ dẫn đường, dấn thân vào chốn đoạn trường mà đi'. Tôi toát mồ hôi, lên chùa thỉnh kinh, mõ, sắm tràng hạt. Tôi học tứ diệu đế để diệt bát khổ, đọc kinh Nhật tụng, kinh Pháp hoa, kinh A Di Đà... Những giấc mỏ của tôi hỗn độn cả anh, nàng và đôi khi Đức Phật. Nàng vẫn đến bên tôi, rất gần, nhưng tôi chẳng bao giờ còn chạm được đến nàng. Anh mua cho tôi một pho tượng Phật Di Lặc bụng phệ, miệng cười hồ hởi. Anh bo đằng nào cũng cúng, mình cúng ông này vui hỏn. Tôi thấy sao cũng được. Tôi thành kính đốt hưỏng, ngắm khói trầm dâng lên. Tôi, anh, nàng, Đức Phật. Chúng tôi những bốn người. Sao tôi vẫn phải tựa vào khói hương hư ảo? .
    Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường ... (à mà kẻ thù buộc ta ôm cây súng!)
  5. grass

    grass Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/12/2001
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    0
    Tìm thêm được cái này, đọc vài cái của chị Hải Anh này thấy cối xay thật, hi hi, nhưng vẫn thấy cái Kiều kia hay hơn đám này. Hay con cá không tìm lại được thì to? Cái con cá ấy tên là Tri Âm, em bộ đội ạ
    Nguyên Xuân
    Phạm Hải Anh
    _ Mình cố gắng nhịn đến sáng mai được không ?
    Ông đeo kính hỏi, mắt thất thần nhìn gương mặt méo mó đẫm mồ hôi của vợ. Bà đỡ gắt :
    _ Đau đẻ còn chờ sáng giăng. Đàn ông đàn ang mò vào đây làm gì ?
    Ông đeo kính cum cúp đi. Đứng ngoài hành lang, chốc chốc thót người nghe tiếng rên la từ trong phòng đẻ vọng ra. Khi tia nắng đầu ngày chọc xiên qua lớp mây đông thì có tiếng trẻ con oe lên. Ông đeo kính nhảy chồm sung sướng:
    _ Nhịn được rồi ! Ra rồi !
    Con bé được đặt tên là Nguyên Xuân. Bố mẹ đã đồng loã dành cho nó một ngày sinh đặc biệt : mùng một tháng một. Phía trước nó là một năm mới tinh khôi với nguyên vẹn mùa xuân.
    Ở nhà thì Nguyên Xuân được gọi là Nhịn, có lẽ để vinh danh thành tích nhịn đẻ ba mươi sáu tiếng của mẹ. Nhịn được dạy dỗ rằng ở đời, có nhịn thì nên. Sau này Nhịn được biết thêm rằng nhịn nhà mình là gia giáo thâm thuý lắm chứ không phải nhịn bừa bãi vô tổ chức. Như mấy ông bà nhà quê dở buổi làm đồng nhịn dành *** về nhà bón cây, đấy là thói nhịn tiểu nông. Hay như cô Dự hàng xóm, chồng say đánh ngày ba bận, nuốt nước mắt cắm mặt nuôi con, ấy là thứ nhịn đàn bà ngu muội. Nhịn nhà mình đây có chữ thờ đàng hoàng, nét mực Tàu đen xì, nền giấy ố vàng, đồ cổ xịn. Nghe bảo cụ tổ làm quan to, cuối đời ngẫm nghĩ, viết ra độc chữ ấy truyền lại cho con cháu. Cả họ thờ chữ ấy mấy đời, đến đời bố thì cuộn lại, sợ tàn tích phong kiến. Mấy năm sau này, bố lục đục lấy ra, treo lên. Đứng giữa cửa ngắm nghía, bố lớn giọng bảo chúng nó có sắm sa lông, cúp kiếc, giàn karaôkê ôkiếc gì gì thì được chứ đừng hòng sắm nổi truyền thống. Một chữ này của nhà mình, đố thằng trọc phú nào mua nổi. Nhịn hỏi đấy là chữ gì hả bố. Bố cũng không rõ lắm, chắc là chữ " Nguyễn ", họ nhà mình.
    _ Tao học chữ Tây chứ có học chữ Nho đâu. Để hỏi lại xem.
    [​IMG]
    Bố đi hỏi khắp nơi, hoá ra đấy là chữ " Nhẫn ". Bộ " đao " đứng trên bộ " tâm ", " nhẫn " ý như cầm dao cắt gọt con tim nông nổi của mình, nhẫn nhục nuôi chí lớn. Bố vỗ đùi đánh đét, công nhận các cụ thâm thật. Chữ này phải ***g khung kính mà treo mới xứng. Nhưng hỏi giá mấy nơi làm khung đắt quá, mẹ cằn nhằn phí tiền, bố và chữ " nhẫn " đành chờ. Buổi trưa, Nhịn nằm ngọ nguậy trên giường, tay bị bố giữ chặt. Giá được đi chơi thì thích hơn nhưng bố bắt Nhịn phải ngủ trưa để lấy sức chiều học tiếp. Nhịn he hé mắt đếm những vệt *** ruồi bám trên tờ chữ gia bảo, nhiều quá, lần nào cũng đếm dở dang là ngủ mất.
    Gương mặt bố mẹ rạng rỡ tự hào khi đón Nguyên Xuân vào nhà mới. Từ lúc ở nước ngoài, Xuân đã được xem ảnh, nhưng thực tế vẫn làm choáng váng. Cái nhà ba tầng đồ sộ, mái củ tỏi Nghìn lẻ một đêm, cột chống Hi lạp, phòng ốc kiểu Tây nhưng trang trí nội thất Á Đông. Bàn ghế, tủ chè nhất loạt thửa từ Đồng Kỵ, gỗ gụ đen khảm trai óng ánh, tưng bừng những chim những hoa.
    _ Con thấy thế nào ? _ Bố mẹ đồng thanh hỏi.
    _ Đẹp lắm ạ.
    Xuân đáp, đưa mắt khắp phòng cố tìm một vật dụng quen thuộc.
    _ Bức thư pháp " Nhẫn " đâu hả bố ?
    _ Treo cái này hay hơn chứ ! _ Bố chỉ tay vào bức thêu to bằng cái mâm treo cạnh tủ thờ, chữ " Phúc " vàng trên nền kim tuyến đỏ lấp lánh.
    _ Chữ này lộn ngược _ Xuân nhận xét.
    Bố đắc ý :
    _ Ăn nhau ở cái lộn ngược ấy đấy ! Phúc lộn ngược là " Phúc đảo ", đồng âm với " Phúc đáo ", là " phúc đến ", gọi phúc lộc đến nhà mình. Từ hôm treo nó lên, bố mẹ bán nhà cũ được giá, mua đất cát cũng gặp thời nên mới lên được cơ ngơi này đấy con ạ.
    Ngày thứ hai, Xuân chắp tay sau lưng, đứng xa ngắm nghía cái nhà, càng ngắm càng tự hỏi sao lại củ tỏi, sao lại vôi hồng, sao lại cửa sổ xanh lá cây. Mẹ giải thích :
    _ Bố mẹ già rồi, mua nhà xây sẵn cho tiện. Mái củ tỏi hết mốt nên được giảm giá. Củ tỏi trên mái, mình trong nhà, có phải nhìn đâu mà sợ. Kệ thiên hạ.
    Ngày thứ ba, Xuân đi vòng quanh nhà, cố không bình luận về tranh thảm Ba tư, chùm đèn thủy tinh mạ vàng sáng choé, nhưng không nhịn được lại hỏi :
    _ Cái tượng kia ai tặng nhà mình ?
    Bức tượng nàng tiên cá đứng ưỡn vú dưới chữ Phúc lộn ngược. Bố tự hào :
    _ Bố mua từ tận Đà Nẵng đấy. Đá trắng nguyên khối quý lắm, ai cũng phải khen.
    Nàng tiên cá tự biết mình trắng đẹp, ngoảnh mông vào ông Lộc bụng phệ tay nâng thoi vàng miệng cười hể hả. Cạnh ông này là ông Lã Vọng cù rù ngồi câu cá trên hòn non bộ xi măng, một anh nông phu nằm tênh hênh bên cây cầu, con trâu, mái chùa... tất cả to bằng nhau, cùng nép bóng cây si bonsai. Nhìn mãi thấy vui mắt.
    Sang đến ngày thứ tư, Xuân đã tập được thói quen đi vệ sinh xong không giật nước. Bệ xí Thái Lan trắng tinh hiện đại nhưng giật nước ào ào tốn chết. Mẹ cẩn thận đặt cái chậu nhựa đầy nước và cái gáo bên cạnh, xong việc chỉ cần với tay múc đúng hai gáo dội là vừa đủ. Xuân cũng học cách vào nhà vệ sinh không bật đèn khi trời còn sáng và trong bóng tối nhờ nhờ tránh bước thẳng vào chậu nước dội, chậu rửa mặt, chậu ngâm quần áo bày la liệt như bát quái trận đồ trên sàn. Nhà có máy giặt nhưng mẹ thích giặt tay. Giặt máy tuy không phải động chân tay nhưng ngồi rỗi mà nghe nước chảy rồ rồ, máy quay rung tường nhà, tưởng tượng ra con quái vật phàm phũ mỗi phút ngốn bao nhiêu là điện, là nước, là xà phòng, gan vàng dạ sắt nào chịu cho thấu. Nhưng thiếu nó thì không được. Ngày ngày, mẹ âu yếm lau bụi trên máy hút bụi, máy giặt, máy điều hoà, lò vi sóng, đầu video... Rồi mẹ bồi hồi ôn lại ngày xưa, nhà mình chỉ có độc cái tủ với cái phản. Căn phòng mười một mét vuông, sinh hoạt tất tật bên trong, kéo riđô để bố dạy học bên ngoài. Tối tối, hai mẹ con nằm trong giường, cấm nói chuyện sợ ảnh hưởng đến buổi dạy của bố. Con vân vê núm vú mẹ, món đồ chơi duy nhất. Khi ấy, mẹ ôm con vào lòng, ao ước có cái máy khâu để máy hàng thuê phụ bố đỡ vất vả. Mơ có một chỗ nấu ăn, rửa bát trời mưa không bị ướt đầu. Có tiền thì mình sắm cái chạn để chống chuột, mua cho hai bố con chiếc bàn học nhỏ kê ở góc kia. Rồi cả tivi, tủ lạnh. Căn phòng mười một mét vuông chật ních những đồ đạc mơ ước. Đến hôm mua được tủ lạnh, mẹ vui mất ngủ, nghĩ nhà mình thế là có máu mặt trong xóm, chẳng thiếu thứ gì. Mùa hè, cả xóm phải sang xin đá, mẹ xởi lởi đem cho, thật nở mày nở mặt... Mẹ kể, vừa kể vừa cười mình ngày xưa sao khổ thế, khổ mà không biết là mình đang khổ. Chiều muộn, bóng tối lan trùm căn phòng, Xuân với tay định bật đèn nhưng mẹ ngăn lại. Ngồi không có làm gì đâu mà bật đèn cho tốn điện. Xuân bùi ngùi nhìn mẹ ngồi trong bóng tối, kể mãi chuyện đổi đời. Cái xóm ngày xưa, theo lời mẹ, bây giờ nhà nào cũng triệu phú tỉ phú. Bố mẹ bán căn phòng nhỏ ở trung tâm, mua nhà ba tầng ven đô tưởng đã to nhưng thấm vào đâu so với nhà mặt tiền của các chú các bác. Động đến là trăm cây, nghìn cây vàng. Bà Sâm từ độ bán nhà đâm ra lên huyết áp vì lo trấn lột. Nhà mới của bà tường cao kín mít rắc mảnh chai nhưng vẫn phải nuôi thêm chó dữ. Hai con bécgiê ***g lộn đuổi nhau suốt ngày trong mảnh sân kín, mở cửa ra là nước đái chó xông lên người chết cũng phải tỉnh dậy. Bà Sâm lam lũ với hai con chó chả khác nào khi xưa phải tăng gia lợn trong nhà. Chú Thịnh cũng là tỉ phú. Chú mua hơn nghìn mét đất, xây tường bao, kẻ biển " Biệt thự Triệu Bông Hồng ". Chú Thịnh nguyên văn sĩ bỏ nghề về phụ vợ bán cháo lòng, còn tí máu văn chương trút cả vào cái biển, tô vẽ hoa hồng rực rỡ. Cũng phải tâm hồn lãng mạn lắm mới tưởng tượng ra được Triệu Bông Hồng giữa khu đất chó ỉa bên cống thối sông Tô Lịch quanh năm nghẽn đặc rác rưởi, xác mèo, chuột chết trương phềnh.
    Thế là cả xóm lên đời hết. Chữ " Nhẫn " qua lần chuyển nhà thất lạc vào đâu chẳng biết, châm ngôn mới của bố nghe oanh liệt hơn : " Cứ đạn bắn xối xả là xong ". Túi bố luôn có " đạn ", là mấy tờ đô xanh xanh không phải để tiêu mà để làm " chúng nó " sợ. Bố uống bia để bụng phát triển tự nhiên. Bụng phệ cộng với đô la trong ví là tướng giám đốc, đi đâu cũng được vị nể khác thường. Mẹ không còn tiêu những buổi tối vào mơ ước nữa. Cái gì mua được bằng tiền thì đã mua rồi, mẹ đâm buồn. Thú vui của mẹ bây giờ là đi gọi hồn. Nói chuyện với người sống chán rồi, bây giờ mẹ chuyển sang tín nhiệm ma.

    Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

    www.troixanh.allreal.net
  6. grass

    grass Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/12/2001
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    0
    Bà Sâm giới thiệu cho mẹ một cô đồng rất giỏi. Bà là khách thường xuyên của cô đồng, hai tuần đến gọi hồn một lần, khi đi háo hức, khi về bâng khuâng. Mẹ úp mở bà ấy đang có bồ đấy. Bố bực dọc :
    _ Nhảm nhí ! Sắp xuống lỗ rồi còn bồ bịch gì. Đến tai chồng bà ấy thêm rách việc ra.
    Mẹ hứ một tiếng :
    _ Tôi mắt thấy tai nghe nhé, không thèm đặt điều ! Ông có ở đấy đâu mà biết. Không tin thì tuần sau đi với tôi. Mà không, ông đi thì " họ " lại ngượng, vía dữ như hùm ấy. Thôi để con Xuân đi với tôi. Với lại cô đồng này cũng hay lắm, xem một lần cho biết.
    Bà Sâm là chị họ bố, ngót nghét bảy chục tuổi. Bà thuộc loại phụ nữ cổ, chỉ chăm chăm chúi chúi vào chồng con, suốt ngày ru rú trong nhà. Con cái lớn dựng vợ gả chồng ra ở riêng hết, bà sống với ông chồng, tiền bán cái nhà cũ thừa ra, ăn đến chết cũng không hết. Chồng bà còn khoẻ, nhập hội " Ham sống sợ chết ", các cụ già rủng rỉnh, ăn chơi dối già, đi vắng suốt. Còn lại mình bà với hai con chó giữ nhà và màn hình tivi mở từ sáng đến khuya. Bà ngồi, cằm phị xuống tận ngực, chương trình gì cũng mở tới cùng nhưng không ai dám chắc bà đang thức hay ngủ bởi cặp mắt sụp mí, những nếp nhăn trên mặt không động đậy. Thỉnh thoảng như sực tỉnh, bà đấm thùm thụp vào cái chân bị thấp khớp, rên " Ôi giời " bình luận cho tất cả các chương trình từ hoạt hình, phim hài, bạo lực đến tin thời sự động đất, tăng năng suất lúa, cúp bóng đá, thăm viếng ngoại giao. Bà Sâm bây giờ cũng xoay ra bồ bịch thì khiếp thật, mà lại có ông già nào lãng mạn đến mức vắt ra được giọt tình ở bà lão bảy mươi như thế.
    Nhưng mà có khi mẹ chẳng nói ngoa... Buổi sáng hôm sang rủ bà Sâm đi gọi hồn, Xuân kinh ngạc thấy một bà Sâm hoàn toàn khác. Tivi vẫn bật nhưng bà không xem mà lăng xăng đi lại. Đồ lễ đó chuẩn bị tươm tất. Gà quay, xôi gấc, hoa quả thượng hạng. Nhất là một bó hồng đỏ lộng lẫy, cành vừa mập vừa dài, mười bông như một, cánh nhung lóng lánh nước đọng, đẹp không chê vào đâu được. Mẹ ghé tai Xuân thì thàoấ: " Hồng tặng bồ đấy. Bà này thế mà lãng mạn lắm !" Bà Sâm hôm nay diện quần tây, áo nhung đen, tóc búi cài trâm, nom nhẹ nhõm, trẻ trung ra cả chục tuổi. Xuân nghi hoặc để ý bà đang trang điểm. Nhìn các bà già son phấn bao giờ cũng cảm động. Giống như hàng rau xót xa vảy đẫm nước vào mớ rau héo chợ chiều, biết chắc là vốn liếng sắp đi tong rồi nhưng vẫn cứ ngồi cố đến khi tàn bóng. Cái cách bà Sâm hôm nay chải chuốt không giống thế. Nó nắn nót, âu yếm trên từng nếp nhăn. Chưa hết, thay vì bôi dầu Nhị Thiên Đường như thường lệ, bà lại xịt tí nước hoa. Bảy chục tuổi, cả đời hết nuôi lợn đến nuôi chó mà bây giờ bỗng dưng thích nước hoa thì nhất định là có vấn đề.
    Nhà cô đồng nằm sâu trong ngõ, trên gác. Cửa chính treo mành mành nhưng cửa sổ mở rộng nên thoáng. Chính giữa phòng là điện thờ, khói hương nghi ngút. Ánh sáng nhiều nên không khí không có vẻ âm u, huyền bí như Xuân tưởng. Bà Sâm nhanh nhẹn bày đồ lễ. Cô đồng dọn ra đĩa gạo, đĩa muối, chén rượu, thuốc lá, bình trà. Mẹ rút nén hương thắp, cắm vào cốc gạo để trước mặt cô đồng. Người nào việc nấy thành thạo, nhịp nhàng. Xong xuôi, ba người quỳ một hàng sau lưng cô đồng. Cô này xuýt xoa khấn vái, gieo âm dương rồi chắp tay, đầu gục xuống. Im phăng phắc. Xuân nhớ ông nội. Hôm ra thăm mộ ông, Xuân khóc. Khóc với người chết dễ hơn với người sống. Không cần giải thích, không cần kể lể, chỉ nước mắt mặn chát rơi xuống, thấm vào đất mộ. Thần giao cách cảm. Ông linh thiêng chắc hiểu vì sao Xuân bỗng dưng bỏ việc, ngàn dặm trở về... Cô đồng chợt rùng mình như có ai đẩy. Cô ngáp, mặt vếch lên bốn nhăm độ, cặp mắt khép hờ toàn lòng trắng liếc xéo sang bên, dài dại :
    _ Trung. Trung đây.
    Mẹ và bà Sâm nhìn nhau. Đồng thanh thưa :
    _ Dạ, không quen hồn nào tên là Trung cả.
    _ Trung họ Vũ. Tìm cô Bé.
    _ Dạ, chắc hồn nhầm người.
    _ Thôi thế hồn đi vậy.
    Cô đồng lại ngáp. Rùng mình. Hồn đi. Nửa tiếng trôi qua, có hồn ông Lục tìm bà Tài, hồn cụ Tô tìm Uyên, hồn cô Vị, hồn bà cả Tẹo tạt qua chơi, không ai nhận lại đi. Mỗi lần hồn nhập, hồn đi, cô đồng lại ngáp. Miệng cô chắc là cửa để hồn chui ra chui vào. Xuân quỳ mãi mỏi chân, lơ đãng ngó ra cửa sổ, tưởng tượng các hồn đang đi mây về gió đông đúc. Mẹ thì thào : " Mãi chưa thấy ông Tuấn về. Mọi khi nhanh lắm cơ." Cô đồng lại ngáp :
    _ Tuấn đây.
    Bà Sâm nhổm lên :
    _ Anh đã về.
    Mẹ bấm tay Xuân. Hai mẹ con dỏng tai nghe. Bà Sâm trách :
    _ Hôm nay anh về chậm thế.
    _ Anh bận đi mua thuốc cho em. Qua đò đông phải chờ lâu quá. Thế hôm nọ ngã có đau không ?
    Bà Sâm bắt đầu sụt sịt :
    _ Em vấp vào cái xích chó, chúi đầu xuống. May mà chỉ tím chân thôi chứ không gẫy xương.
    Cô đồng dịu dàng :
    _ Anh đã gọi mà em không nghe. Anh đỡ cho em đấy. Thế em đó bóp thuốc chưa ?
    Cô đồng cầm tay bà Sâm, nắn bóp nhẹ nhàng. Mắt cô đồng vẫn khem khép, miệng thủ thỉ :
    _ Anh thương em.
    Nước mắt bà Sâm trào ra, giàn dụa :
    _ Sao không về thăm, báo mộng cho em ?
    _ Hôm nọ anh về, là con **** nâu bay quẩn mãi trong bếp của em đấy thôi. Gớm hai con chó nó cứ vừa cắn vừa sủa. Mấy lần khác thì bà cô ông mãnh nhà em không cho anh vào.
    Hồn khoe với bà Sâm đã xin được việc mới, lương khá lắm, bà không phải đốt tiền âm nữa. Hồn lại dặn kỹ tuần sau bà Sâm đi chợ, thấy chị áo xanh bán thuốc thấp khớp thì mua. Thuốc ấy đích thân hồn tìm cho bà, uống vào sẽ đỡ... Trời gần đứng bóng. Nắng chiếu qua cửa sổ sáng rực căn phòng. Xuân kinh dị nhìn bà Sâm với cô đồng ngồi miên man trong nắng, lời tâm sự nửa thật, nửa kỳ quái hoang đường.
    Mẹ và Xuân hôm ấy về không. Thăm nom cũng có giờ, hồn ông bà nội ngoại chắc thấy tình yêu của bà Sâm mãnh liệt quá nên nhường. Mẹ cứ tấm tắc hồn thiêng thật, chuyện bà Sâm ngã, đến ông chồng kề bên cũng không biết, thế mà hồn nói vanh vách. Bà Sâm hỉ mũi, ngậm ngùi :
    _ Ông ấy theo tôi hơn bốn chục năm nay, chuyện gì mà không biết !
    Mồ ma ông Tuấn si mê bà Sâm từ lúc bà còn con gái nhưng chả được xơ múi gì ngoài một tấm ảnh. Ông chết trận lúc mới hai tư, ảnh người tình trong mộng đút túi áo ngực cũng chôn theo. Cho đến năm vừa rồi đi gọi hồn, bà Sâm mới ngớ ra là mình được yêu suốt mấy chục năm. Hồn kể ra trăm ngàn kỷ niệm, bao nhiêu lần hồn luẩn quẩn bên bà những khi bà ốm đau, buồn giận chuyện chồng con. Một chồng, bốn con với bảy đứa cháu nội ngoại, thế mà ngẫm suốt đời, hoá ra không ai gần gụi bà như hồn. Mà cũng chỉ có ma mới chung tình vô điều kiện như thế ! Bà Sâm cảm tấm lòng ấy nên nhận lời yêu ma sau hơn bốn chục năm âm dương cách trở. Bà Sâm chia tay mẹ con Xuân, đi ngay ra Hàng Mã. Bà đã hứa với hồn là mua sổ tay và bút máy để hồn chép thơ, chắc là thơ tình.
    Nhưng sổ với bút ấy không đến tay được hồn tình. Bà Sâm đang lom khom hoá vàng thì ông chồng ở đâu xồng xộc về. Ông túm tóc bà, lôi thẳng vào buồng. Này thì đồng cốt ! Này thì đú đởn ! Này thì nhân tình nhân bánh ! Không cần tra hỏi, cứ mỗi câu ông thụi cho bà một quả. Hai ông bà già, sức lực chẳng còn mấy, chỉ thấy xương với da đụng nhau lục cục. Bà Sâm không cãi, cũng không đỡ đòn, chỉ khóc. Bà càng khóc, ông càng điên tiết. Mấy chục năm cứ tưởng lấy được con vợ đức hạnh, nào ngờ nó bồ bịch ngay trước mũi ông, làm người ta đồn giăng giăng đến tai ông, rằng ăn ở với vợ ra làm sao mà bà ấy chán đến độ xoay ra mê một cô hồn. Yêu hồn thì làm sao ông kiểm soát được, ai mà biết đêm nào chúng nó cũng tình tẹo với nhau trên giường ông, ông sờ sờ ra đấy mà chúng nó làm gì ông cũng đành chịu. Khốn nạn quá ! Cái sừng vô hình bị ma cắm bốn mươi mấy năm chắc đã sum suê gốc rễ. " Mày yêu ma. Mày có giỏi ngủ với nó được không ? Nó có cái này không ? " Ông hùng hục trật quần, phô bày vốn quý hơn hẳn con ma. Nhưng bất chấp nộ khí xung thiên của ông, thằng cu _ bây giờ gọi là ông lão cũng được _ chỉ rủ xuống rất nhu mì. Hai ông bà nhìn chăm chăm vào nó một lúc. Nó rung rung dịu dàng, không ngẩng lên. Ông đỏ mặt, càng giận hơn, chửi : " Đồ ngu " rồi kéo phắt quần lên. Ông lao ra đá tung chậu vàng mã, đái thẳng vào ngọn lửa đang thoi thóp. Cuốn sổ thơ cháy dở dang thâm đen, những lời tình tự không chỗ đậu theo tàn tro bay tứ tung. Ông hầm hầm lên công an phường tố cáo cô đồng hành nghề mê tín dị đoan. Đòn dương đã vậy, đòn âm, ông thuê hẳn một thày pháp cao tay trấn bùa, mấy lá bùa đỏ ngoằn ngoèo dán từ cổng chính vào buồng ngủ. Ông còn đặt con dao dưới gối, doạ ma nào vớ vẩn mò đến ông chém chết. Họp gia đình, ai cũng trách bà dại dột, tin đồng cốt quàng xiên, cúng bao nhiêu tiền cho nó. Bà Sâm đổ ra ốm một trận tưởng chết. Hôm Xuân sang thăm, bà đã đỡ nhưng còn yếu, chỉ ngồi bất động trước tivi, đến cái câu " Ôi giời " mọi khi cũng không thấy bà nói nữa.
    Xuân một mình tìm đến cô đồng. Biết là chẳng ích gì nhưng vẫn đến. Có một chút niềm tin dù là hoang đường vẫn còn hơn chẳng có gì. Nhà cô đồng khoá cửa im ỉm. Xuân về, ngang qua quán cà phê cũ. Nắng cuối thu lốm đốm rơi qua tán lim già, lá sẫm xanh, bí ẩn. Xanh như mười năm trước, khi Xuân nói " Em sẽ đi xa ", xanh như hôm qua Xuân lại nói " Em muốn trở về ". Hai lần cùng nói với một người. Hai lần người ấy chỉ nhìn Xuân thương xót, thương như Xuân nhìn bà Sâm tình tự với hồn ma. Xuân nhớ lúc ấy có một cái lá lim bay tạt xuống mặt bàn. Nó nằm chơ vơ, con mắt xanh lặng lẽ. Mười năm có khi cũng rơi như thế, mười năm, là một phần mấy của cuộc đời ?
    Xuân ra sân bay vào buổi chiều cuối năm rét ngọt. Xe băng ngang sông Hồng. Dưới chân cầu những xoáy nước đỏ quạch phù sa như vết thương hun hút. Một lá ngô già ngập ngừng nơi mé nước rồi thong thả xuôi dòng. Xuân ngoái ngược trở lại phía những cụm nhà lố nhố ven đô, cố tìm cái mái củ tỏi màu hồng, sao bây giờ ngó thân thương hơn mọi thứ khác. Gió lùa cay mắt. Ngước lên trời cao, chợt thấy mình không phải là người đàn bà cứng cỏi, mạnh mẽ như bạn bè vẫn bảo, chỉ là con bé Nhịn tay bị giữ chặt, buồn nhìn chữ " Nhẫn " bộ " đao " đè lên bộ " tâm " nghiệt ngã. Lưỡi dao vô hình cắt gọt con tim nông nổi, gọt bao nhiêu cho tròn một kiếp người ?
    Xuân ngồi nhìn căn buồng mới thuê trống trải, trang trí duy nhất là cành hoa sữa đã rụng tiệt hoa sau chuyến bay gần trọn một ngày. Tay Xuân luồn trong túi áo mân mê cái chìa khoá ngôi nhà cũ. Nó không quá xa, nửa tiếng chạy xe, Xuân sẽ về lại đấy. Lò sưởi bập bùng, salon bọc da êm ái, và một người đàn ông quen thuộc. Anh ta sẽ đón Xuân vào, đại lượng như đón người đàn bà dại dột, vài năm một lần đem đời mình ra đập vỡ chơi rồi loay hoay hàn gắn lại. Sẽ không đả động gì đến chuyện Xuân đã bỏ việc, đã dọn đi..., những cơn đồng bóng đàn bà. Sẽ bình thản cùng ngồi xem tivi như năm ngoái, năm kia, như mười năm trước. Bình thản cho đến khi anh ta lột chiếc áo ngủ, ấn giúi Xuân xuống nệm. Vùi sâu, xoáy lút những nhát đâm ngoáy vào vết thương chưa bao giờ khép miệng giữa hai người... Xuân rùng mình, rút hẳn chìa khóa ra khỏi túi, tìm một phong bì. Nắn nót viết lên địa chỉ căn nhà cũ. Bỏ chìa khóa vào. Dán kín.
    [​IMG]
    Khi Xuân từ bưu điện trở về thì pháo lác đác rộ lên. Sắp giao thừa. Xuân mở gói quà mang theo từ Hà Nội. Một bức thư pháp. Mực tàu đen đằm trên nền giấy dó, nét bút tinh anh, phóng khoáng. Chữ " Tâm ". Không có bộ "đao" ở trên, chỉ một chữ " tâm " thật đậm, cái đường móc hất lên, nửa như khát khao, nửa như thách thức. Xuân treo bức thư pháp lên khoảng tường trống gần cửa. Gió lùa qua khe chữ lay nhè nhẹ. Văng vẳng tiếng chuông nhà thờ. Xuân mở tung cửa sổ. Úp mặt vào làn không khí giá băng tinh khiết, nồng nàn hương pháo. Nền trời đen thẫm bùng lên muôn vạn chùm hoa lửa. Nước mắt ấm trên môi, Xuân nhận món quà sinh nhật bố mẹ đã dành cho từ lúc chào đời. Một năm mới phong kín như chưa từng mất mát. Nguyên Xuân.
    Amsterdam 14-12-2002
    Viết cho ngày sinh
    Phạm Hải Anh

    Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

    www.troixanh.allreal.net
  7. pagoda

    pagoda Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Cái này đồ nội xịn :-)
    Trời không nắng trời không mưa
    Mới sáng mà đã đến trưa mất rồi.
    Cánh hoa sắc một lưỡi dao
    Vì yêu tôi cứ cầm vào như không.
    Chiều nay Hồ Tây có giông
    Tôi ngồi trên sóng mà không thấy chìm.
    Ðừng buông giọt mắt xuống sông
    Tôi về dẫu chỉ đò không cũng chìm
    Chăn trâu đốt lửa trên đồng
    Rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều
    Mải mê đuổi một con diều
    Củ khoai nướng để cả chiều thành tro
    Tôi thường đi trên lưỡi dao
    Tay cầm cơn bão đem vào cho em
    Ðã qua nhiều những chông gai
    Thì sau cái chết ban mai phải hồng
    Vớt bùn không lấm bàn tay
    Vịn nắng thấy bão trên cây còn nhiều
    Đã từng gom bão làm chiều
    Thì ai gieo gió đặt điều cũng qua
    Cầm lòng bán cái vàng đi
    Đề mua những thứ nhiều khi không vàng

    TIMSELF
  8. hoaxuandatviet

    hoaxuandatviet Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/01/2003
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Lại có một chủ đề thú vị rồi đây! Trong nhiều năm qua người ta cứ dị ứng với văn chương hải ngoại, bất kể đã đọc hay chưa đọc. Người ta nghĩ những nhà văn hải ngoại là "vong bản" nên văn chương hải ngoại cũng không tránh khỏi cái đó (chống cộng, tuyên truyền...). Nhưng đó là một dòng văn học, cũng giống như nhiều dòng văn học khác mà ta đã từng bỏ qua hay hạ thấp vai trò của nó như văn học lãng mạn 1930-1945, nên cần phải được các nhà nghiên cứu trong và cả ngoài nước nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, tất nhiên là phải bỏ qua những thành kiến chính trị, mà phần lớn là sai lầm và cổ hủ. Nếu đánh giá một cách công bằng thì văn chương hải ngoại có những mặt được mà văn học trong nước do hoàn cảnh không thể có được, đó là tính chất tự do của các nhân vật trong việc truyện, mà nguyên nhân của nó có lẽ không ai nghi ngờ là người cầm bút hải ngoại có sự tự do việc viết văn hơn các tác giả ở trong nước. Qua các tác phẩm đã đọc, dù chưa phải là nhiều một bộ tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác hay một vài tuyển tập các tác giả hải ngoại được in ở VN hay trên một số tạp chí Văn, Việt, Hợp Lưu... tôi đều thấy một cảm hứng chung là nỗi lòng của những người xa quê, những cuộc sống phù du nơi xư người, sự xa lạ trong một xã hội mới và cả những câu chuyện tình khá đặc sắc. Các nhân vật trong đó dù là người mới đến hay ra đi đã lâu đều có một mẫu số chúng là mang nỗi đau của một cuộc đời tha hương, mà đối với nhiều người là mãi mãi. Các tác phẩm và tác giả ở nước ngoài cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh đó. Còn văn học trong nước, nói chung là tôi không tin lắm vào khả năng phát triển, ngoài một số rất ít các tài năng xuất chúng như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh... Họ là những trường hợp hi hữu đã vượt qua được cái giới hạn của một dòng văn học mà nếu nói thật lòng, đã lạc hậu. Ở một mặt nào đó người ta nói văn học hải ngoại là sự nối tiếp của văn học Sài Gòn 1954-1975, điều này là đúng, nhất là đối với giai đoạn trước 1990, nhưng sẽ là sai lầm nếu chúng ta quy kết hết tất cả văn học Việt Nam ở nước ngoài như vậy, vì chính bản thân đời sống tác giả và thời đại (trong và ngoài nước) đã khiến các nhà văn hải ngoại viết đi khác trước nhiều lắm. Tất nhiên là không chỉ có văn học hải ngoại, như Thuỵ Khuê đã nói trong bài viết "Đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường", mà chính văn học trong nước hơn bao giờ hết phải đoạn tuyệt với quá khứ "hào hùng" và "bi tráng" để mà nhìn nhận lại một cách thật sâu sắc những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hai dòng văn học trong và ngoài nước dường như trái ngược nhau nhưng thực ra lại có hằng số chung là sự xa lạ với đời sống con người (ở đây tôi muốn nói tới đời sống của cả người Việt trong và ngoài nước), nhưng nguyên nhân của sự xa lạ này có khác nhau giữa hai bên: một bên đó là kẻ "thất trận" và biệt xứ nên cách nhìn nhận về xã hội người Việt, con người Việt chắc chắn là rất khác, còn một bên là "người thắng trận" tin tưởng trong thời kì đổi mới văn học VN sẽ đổi mới và tiến lên nhưng kì thực dường như những tiến bộ của nó đã đến giới hạn và người ta không thể làm gì hơn là lại phải đào sâu hơn vào quá khứ với hi vọng lấy thêm nguồn cảm hứng từ thời trước đổi mới để rồi nhào nặn và biến đổi cho nó phù hợp hơn với xã hội và thời đại, một công việc thật nhọc nhằn và có lẽ cũng sẽ vô ích. Để kết thúc bài viết này, tôi nghĩ sẽ là không thừa nếu lặp lại câu nói "đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường".
  9. grass

    grass Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/12/2001
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    0
    Em Hoaxuan câu trước đá câu sau, vừa đoạn tuyệt với quá khứ, vừa phải vào đào sâu vào nó, thế cuối cùng thì phải làm gì với cái quá khứ đấy hả em? Với cả "tính chất tự do của các nhân vật trong việc truyện" là cái gì hở em?
    Về văn chương hải ngoại, trước khi khẳng định "đó là một dòng văn học, cũng giống như nhiều dòng văn học khác" như đinh đóng cột thế thì phải xem xem nó có phải là 1 "dòng văn học" không đã? Vì văn chương hải ngoại nối kết lại bằng lý do ngoài-văn-học: chính trị và địa lý.
    Có 1 cái buồn cười em nói là văn chương trong nước không có ai ngoài 1 số tài năng xuất chúng. 1 thế hệ văn chương chỉ có thể có vài gương mặt để lại dấu ấn, hi hi, không thể có bách hoa tranh phóng được.
    Có 1 cái chị không đồng ý lắm, hí hí, em nói "không tin vào khả năng phát triển của văn học trong nước". Có 1 cái hiển nhiên là nếu phát triển, thì chỉ có thể là văn học trong nước thôi. Văn chương hải ngoại, ngoài lớp nhà văn trước 75 ra, đến thế hệ sinh khoảng năm 70, là may ra còn viết văn tiếng Việt. Thế hệ sau đấy, nếu có đóng góp gì cho văn chương, sẽ được tính là văn học Mỹ / Pháp, hi hi.
    Về văn chương hải ngoại, hi hi, cái "tự do" là 1 cái tương đối nhỏ trong "thời thế tạo anh hùng". Văn chương hải ngoại có 1 số thứ, trước nhất là tâm thức của người tha hương, người thất trận trước đồng bào mình, nhìn và hoài nhớ về một tổ quốc không còn của mình. Thứ hai là giao thoa văn hoá, hình như đâu đấy Đinh Linh có tự gọi mình là chàng hảng qua hai nền văn hoá. Những thứ đấy có thể tạo nên các kết quả đáng kể, là chị nghĩ thế. CHứ chưa đọc nhiều, trong số đọc chưa thấy có gì đáng kể. Nguyễn Mộng Giác, hình như tác phẩm chính là Sông Côn mùa lũ chị chưa đọc, có đọc 1 bộ tiểu thuyết Mùa biển động, về mặt văn học thì không có gì đáng chú ý. Em có vẻ đọc nhiều hơn, gương mặt hải ngoại nào, theo em, là đáng kể?
    Cuối cùng, cái Tri Âm của PHA, tìm được, cho em bộ đội, hi hi
    TRI ÂM
    "Đoạn trường sổ rút tên ra
    Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau"
    Truyện Kiều ?" Nguyễn Du
    Đến hôm qua thì Kiều lại muốn giở cái khăn che đàn. Đàn lên một bản cho hả. Nhưng đã trót thề rồi. Rằng từ rày xin chừa không đàn địch gì cả kẻo lại vận vào thân. Đàn bà con gái, chừng này tuổi mà ở một mình thì chỉ nên gõ mõ tụng kinh. Mượn nước cành dương tưới xèo cái tâm sự ngùn ngụt lúc đêm về.
    ?" Em đã nói hết nhẽ rồi. Anh đừng đến nữa.
    ?" Thì mình có làm gì đâu. Chơi một ván cờ thôi mà.
    ?" Vợ anh không thích thế đâu.
    ?" Kệ nó chứ. Chính nó xướng lên việc này cơ mà.
    Từ ngày Kiều về đây, Kim Trọng đâm ra nghiện cờ. Bảo đấy là thú chơi tinh thần lành mạnh. Hôm nào mà không làm được ván cờ với bà chị vợ, mặt Kim Trọng thẫn thờ thấy rõ. Cô vợ không nói gì. Nhưng mỗi lần Kim Trọng rủ Kiều đánh cờ thì lại có trẻ con chạy sang, chơi loắng quắng bên cạnh.
    Gặp lại nhau, Kim Trọng cầm tay Kiều ngậm ngùi: "Khổ tận đến ngày cam lai rồi!". Lúc ấy ngôn ngữ còn cổ lỗ thế. Bây giờ Trọng cập nhật hơn, không dùng Hán ngữ nữa mà trích dẫn Anh, Mỹ, Nhật. Chả gì cũng hơn hai trăm năm rồi. Hai trăm năm ở chung một mái nhà mà chỉ có rủ cố nhân đánh cờ. Hôm qua Thúy Vân sang thăm Kiều, bảo:
    ?" Chị đi mười lăm năm. Thời gian với anh Thúc, anh Từ chị cũng sướng, trừ ra vị chi còn lại chỉ hơn mười năm khổ. Thế mà chị hưởng thú đánh cờ với chồng tôi hơn hai trăm năm nay. Quá lãi. Chỉ có tôi dạo đó ngu dại...
    Con bé kể ra cũng tốt nhịn. Bọn nhân vật thời nay ở hoàn cảnh nó là đã hăm he tạt axít, mèng nhất cũng đâm đơn ra tòa rồi. Có đâu lại để chồng với bà chị cờ quạt ung dung trước mũi suốt mấy trăm năm như thế. Nhưng mà sự thể không thay đổi được nữa rồi. Kiều rơm rớm nước mắt:
    ?" Không phải em đâu. Tại chị...
    Chuyện này thì Vân không biết thật. Kim Trọng cũng không biết. Mà Kiều thì ngậm đắng nuốt cay, mình làm mình chịu.
    Hôm ấy trời dở mưa dở nắng rất khó chịu. Kiều cáo ốm không tiếp khách. Tú Bà vào:
    ?" Dậy trang điểm đi con. Khách đang chờ.
    ?" Mẹ cáo lỗi giúp con. Con thấy mệt trong người lắm. Cả chàng Thúc hôm nay con cũng có tiếp được đâu.
    ?" Đám này không tiếp không được con ạ. Mà mình lại chẳng được xu nào đâu.
    Mặt mụ Tú đau khổ như người bị mất cắp. Mụ đã chịu thế, hẳn ông khách này có thế lực lắm. Nhưng mà không phải.
    Ông khách tới bằng cửa sau. Không lòe loẹt sang trọng, không quan dạng hống hách, lại có vẻ hơi lén lút sợ người ta bắt gặp. Kiều chắc chắn mình chưa gặp ông ta bao giờ, nhưng mới nhìn đã cảm thấy vô cùng thân thuộc. Môi ông ta run lên khi gọi tên Kiều:
    ?" Nàng. Nàng Kiều!
    Tha thiết như với cố nhân bao lâu không gặp. Lại thương như cha gọi con. Mới gặp lần đầu ở chốn đào lý này mà đã nặng lòng với nhau vậy ư ? Ông khách tiến đến sát Kiều, cái nhìn ấy, hơn hai trăm năm Kiều vẫn chưa quên. Mừng vui, bỡ ngỡ, đau đớn, yêu thương, mà lại cả tôn thờ nữa. Kiều hơi co người lại. Ông khách thu tay về, bối rối:
    ?" Ta làm nàng e sợ ư? Đúng rồi. Nàng chưa biết ta. Chưa biết rằng ta gần gũi, thân thiết với nàng hơn cả chính nàng nữa. Hoặc là ngược lại. Ta đến đây chỉ để chiêm ngưỡng nàng thôi. Và chia xẻ với nàng nỗi cô đơn cùng cực. Ta biết nàng đau khổ vô cùng.
    ?" Quan nhân là ai mà... ?
    ?" Đừng gọi ta như vậy. Nàng có thể tin ta. Ta biết nàng từ buổi nàng khóc lóc bên mộ Đạm Tiên. Ta cũng biết cái đêm nàng xé rào sang nhà Kim Trọng. Cái lúc nàng dấu dao trong chéo áo định quyên sinh... Ta luôn ở bên nàng, dù nàng không thấy. Nàng ngồi xuống đi. Thế. Hãy để cho ta được ngắm nàng. Trời ơi, ta đâu ngờ nàng lại đẹp đến nhường này.
    Ông khách cúi nâng tà áo lụa của Kiều, ấp vào mặt, hít thật sâu. Khi buông tay ra, mắt ông ta dường như ngấn lệ. Kiều bưng cho ông ta chung trà, ướm hỏi :
    ?" Thiếp có thể làm gì mua vui cho chàng? Hay để thiếp soạn đàn, gảy khúc "Thanh bình điệu".
    Ông khách cười, khóe miệng cay đắng:
    ?" Nàng vẫn nghĩ ta như những người khách khác ư? Đêm qua, có phải nàng đã làm mấy câu thơ thế này không: Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó mặn mà với ai. Thờ ơ gió trúc mưa mai. Ngẩn ngơ trăm mối, dùi mài một thân... Rồi nàng tính nước gá duyên với Thúc Sinh, phải thế không? Bây giờ nàng đã đủ tin ta hiểu nàng chưa?
    ?" Chàng là ai?
    ?" Đừng hỏi nữa. Nàng hãy đàn cho ta nghe đi. Cung đàn Bạc Mệnh mà nàng phổ lúc còn thơ. Ta đã so dây, nắn phím cho nàng đấy. Bây giờ ta muốn tận tai được nghe.
    Chưa bao giờ Kiều đàn như vậy. Đàn từ lúc mặt trời đang nắng vụt tối đen, đàn đến khi trăng lên đỏ như máu. Gió ngừng thở. Tiếng đàn nức vạn lời ai oán. Những đóa trà mi ngoài sân nhất loạt nở bung rồi héo quắt. Ông khách nâng mười ngón tay rớm máu của Kiều, khóc:
    ?" Ta đã làm khổ nàng.
    ?" Chàng có làm gì đâu?
    ?" Nàng không biết. Nhưng ta biết. Biết rằng nàng đã khổ, mà còn khổ nữa. Ta biết mà không làm gì được.
    ?" Chuyện gì sẽ xảy đến với thiếp nữa?
    ?" Nàng sẽ bị lửa ghen đày đọa cho dở sống dở chết. Nàng sẽ phải làm tôi mọi cho người ta. Nàng còn bị đem bán trao tay nhiều nữa. Sẽ bị sỉ nhục, đánh đập, lừa lọc. Và chết thê thảm trên sông. Ta sẽ cho nàng số phận khổ nhục như thế đấy. Mà ta còn yêu nàng hơn chính bản thân ta nữa.
    Những giọt nước mắt đàn ông xuyên buốt mười ngón tay Kiều. Chàng ơi, tại sao yêu nhau lại phải đầy đọa nhau dường ấy?
    Ông khách đã ở lại suốt đêm. Sau này nhớ lại, Kiều không hiểu sao hồi ấy lại lắm nước mắt thế. Đến gần sáng thì Kiều biết ông khách là ai. Kiều tỉ tê bắt đền:
    ?" Thiếu gì nghề mà chàng bắt thiếp làm cái nghề ô nhục này?
    ?" Nàng phải đi đến tận cùng sự sỉ nhục thì mới thấm thía lẽ đời. Ta muốn nàng là biểu tượng của cái Đẹp bị dập vùi. Có thế người ta mới cảm thương, nhắc nhớ tới nàng đời đời.
    ?" Đành là thế. Nhưng chàng để thiếp chết khổ chết sở. Chết là hết rồi, người ta có nhắc thế chứ nhắc nữa thiếp cũng có sống mà nghe được đâu. Hay là mình thay đổi đi?
    ?" Cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã thế rồi. Cô Kiều phải chết.
    ?" Kệ ông ấy. Chàng đã tạo ra thiếp thì cũng có thể cứu sống thiếp.Thiếp xin chàng. Chẳng gì thì mình đã biết nhau đêm nay, chàng có thể vì thiếp sửa đi tí tẹo. Cái ông Thanh Tâm ấy chết rồi, chẳng làm gì mình được đâu.
    Ông khách nhìn Kiều âu yếm:
    ?" Vì một đêm nay, ta có thể cho nàng tất cả. Thế nàng muốn kết cục thế nào?
    Kiều tính toán:
    ?" Thiếp sẽ không chết chứ? Nhảy xuống sông Tiền Đường giữa lúc đêm hôm, nguy hiểm lắm.
    ?" Ta sẽ bảo vãi Giác Duyên đợi sẵn ở đấy, tính giờ thật trúng, nàng nhảy xuống là vớt liền. Đảm bảo chỉ hơi bị lạnh tí thôi chứ không chết.
    ?" Cho thiếp gặp lại bố mẹ.
    ?" Nàng thật là có hiếu. Nàng sẽ được gặp cả song thân. Ta sẽ để hai cụ vừa khỏe, vừa minh mẫn y như hồi nàng đi.
    ?" Thiếp nghề ngỗng chẳng có. Gặp rồi biết lấy gì nuôi các cụ? Chả nhẽ lại hành nghề lại?
    ?" Nàng không phải đi làm. Vất vả chừng ấy năm là đủ rồi. Ta sẽ chọn người chăm sóc cho cả nàng lẫn song thân. Hay là cho Vương Quan em nàng đỗ làm quan nhé. Nàng còn muốn gì nữa không?
    Kiều bẽn lẽn:
    ?" Thiếp chỉ còn một ước nguyện. Hồi ấy đã trót thề bồi...
    Ông khách chau mày:
    ?" Nàng vẫn nặng tình với Kim Trọng thế sao?
    ?" Thì thiếp cũng muốn gặp, xem người ta có còn giữ lời với mình không. Bao nhiêu năm toàn gặp phường lừa đảo, thiếp mất lòng tin...
    ?" Nàng quên là đã lạy lục nhờ Thúy Vân chắp mối tơ thừa hay sao ? Từ bấy đến nay, vợ chồng người ta đã mấy mặt con...
    Kiều khóc :
    ?" Ra là người ta cũng chóng quên nhỉ. Thiếp cực chẳng đã mới nói thế, chứ người ta nào có bị ép uổng gì mà nhận lời ngay được. Rõ là lòng dạ đàn ông nhé.
    ?" Thôi đừng khóc nữa. Nước mắt nàng làm ta rối cả ruột. Thế bây giờ cho nàng gặp lại Kim Trọng nhé. Vẫn chung tình như xưa nhé. Ta sẽ bảo chính Thúy Vân tự nguyện nhường chồng để nàng khỏi mang tiếng nhé. Rồi thì con đàn cháu lũ, nàng muốn bao nhiêu với Kim Trọng cũng có. Tùy nàng hết đấy.
    Kiều băn khoăn :
    ?" Thế thì thành ra chị tranh chồng của em à ? Thôi thiếp chả làm cái việc thất đức ấy. Thiếp chỉ muốn gặp lại người ta thôi. Miễn là người ta còn yêu thương mình là đủ.
    ?" Nàng muốn thế cũng được. Kim Trọng sống với Thúy Vân nhưng trong lòng chỉ có nàng thôi. Gặp nhau xong rồi thì nàng muốn gì nữa?
    Kiều ngẫm nghĩ:
    ?" Thiếp chán cảnh long đong lắm rồi. Gặp rồi thì ở luôn với nhau cho nó tiện. Chứ ngần này tuổi đầu, lại đi tìm quan hệ khác, chả biết nó ra làm sao.
    Ông khách bóp trán:
    ?" Kể ra nàng ở với Kim Trọng thì tiện thật. Nhưng mà xoàng lắm. Đàn bà mà chồng con yên ấm là tẻ nhạt ngay, mà nhan sắc thì phai tàn. Nàng đã phi thường như thế, lẽ nào cam chịu một kết cục tầm thường. Lấy chồng, có con thì đần như Thuý Vân cũng làm được... Hay là thế này. Ta sẽ để cho nàng làm bạn tri âm với Kim Trọng. Vẫn yêu nhau, gần bên nhau suốt cuộc đời, nhưng mãi mãi không có được nhau. Những dằn vặt ngọt ngào. Thú đau thương.Thế mới gọi là lãng mạn. Nàng có chịu được thế không?
    Kiều quỳ xuống:
    ?" Thiếp xin đa tạ tri âm.
    Ông khách ra về. Để lại tấm danh thiếp. Họ Nguyễn. Đấy là lần duy nhất hai người gặp nhau. Kiều vĩnh viễn chôn sâu bí mật ấy, sợ ông khách mang tiếng hủ hoá với nhân vật.
    Kết cục là Kiều cứ phải đánh cờ mãi với Kim Trọng. Suốt hơn hai thế kỷ, mà sẽ còn đánh nữa. Ông khách mất đã từ lâu. Bây giờ Kiều đành phải sống đời mình đã chọn. Chẳng nì nèo thay đổi gì được. Nhìn sang đời các nhân vật nữ xung quanh mà phát thèm. Chúng nó đi nhảy, đi tắm hơi, hôn hít, ********, bồ bịch, đánh ghen loạn xạ, khóc lóc tự tử mùi mẫn. Đã đành là chúng nó chẳng nổi tiếng thục nữ chí cao, nhưng mà giá Kiều có thể chọn lại.
    Chuông cửa reo. Kiều thong thả châm điếu thuốc. Chẳng làm gì mà vội. Còn ai vào đấy nữa. Chắc chắn là Kim Trọng lù khù sang rủ đánh cờ?
    Phạm Hải Anh
    Amsterdam, 13/06/2002

    Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

    www.troixanh.allreal.net
  10. hoaxuandatviet

    hoaxuandatviet Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/01/2003
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Rất cám ơn chị grass đã có nhã ý đọc bài viết của tôi. Sau đây tôi xin trả lời chị một vài câu hỏi mà chị đã nêu:
    1/ Chắc chị đọc chưa kĩ đó thôi chứ kì thực tôi không "câu trước đá câu sau" trong việc nhận định về nền văn học hải ngoại. Trong bài viết, một mặt vừa xem xét và đánh giá những giá trị của văn học VN ở nước ngoài, đồng thời so sánh nó với văn học trong nước và khẳng định cả hai dòng văn học đều "phải đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường" chứ không phải đào sâu vào nó (tính anh hùng, tính nhân dân, của văn học miền bắc hay sự thù hận của một bô phận nào đó của những nhà văn hải ngoại). Về phía hải ngoại thì có lẽ không nói làm gì vì dòng văn học trong nước luôn được coi là chính thống, nhưng đối với văn học trong nước thì qua "Tổng tập văn học quân đội" em thấy các tác giả vẫn tôn vinh cái quá khứ một cách khốn khổ cuộc chiến tranh và những con người của thời đó cũng như sau này. Sự đổi mới luôn luôn là cầm chừng, theo kiểu "cởi rồi lại trói" chắc chắn sẽ không mang lại được điều gì.
    2/ Khi nói đến "tính chất tự do của các nhân vật trong truyện" tôi muốn nói tới những con người cá nhân hơn, sống thực với mình hơn, khát vọng hơn và cũng đau khổ hơn, chứ không phải như những nhân vật Đứng trước biển để mà ngẫm nghĩ về một vấn đề bình thường. Chị có thể so sánh nó với cái tôi tự do trong phong trào văn học lãng mạn ngày trước vậy.
    3/ ***** cũng đã từng viết văn ở nước ngoài nhưng chúng ta vẫn tính là văn học trong nước chứ không phải văn học lưu vong. Tôi nghĩ các nhà văn hải ngoại tuy có viết bằng tiếng Anh dù chỉ một ít (như Nguyễn Hưng Quốc đã nói sống thì dễ chứ viết văn bằng tiếng Anh thì khó lắm), vẫn nên coi là một dòng văn học của VN nhưng được viết ở nước ngoài.
    4/ Chị thử tìm hộ cho em là văn học 1945 - 1987 có ai xuất chúng không?
    5/ Cuối cùng em muốn so sánh với văn học TQ, một quốc gia XHCN như VN. Họ có những Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn, Vương Sóc... Thế hệ các nhà văn phải trải qua cách mạng văn hoá của TQ đã đánh giá lại CMVH một cách thật sự hơn là các nhà văn chúng ta trải qua thời chiến tranh và bao cấp đánh giá lại những gì mình đã trải qua.

Chia sẻ trang này