1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Vấn đề đổi tiền sau giải phóng miền Nam 30/4/75

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi mytam81, 28/05/2006.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mytam81

    mytam81 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2005
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Vấn đề đổi tiền sau giải phóng miền Nam 30/4/75

    Sau giải phóng miền Nam 30/4/75 chúng ta đã tiến hành đổi tiền chế độ cũ sang tiền của chế độ mới.
    Mình muốn hỏi là hồi đó ta qui đổi theo tỉ giá nào, đồng tiền sài gòn có tỉ giá so với đô la như thế nào, so tỉ giá với đồng tiền miền Bắc ra sao.
    Tình hình thị trường miền Nam trước, trong và sau khi đổi tiền như thế nào nhỉ
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Lúc đổi tiền, tôi đang ở SaiGon .
    Tiền miền Nam vốn có tỷ giá với đôla, nhưng lúc đổi thì không
    còn tỷ giá đó nữa, vì nó chỉ được đổi ra tiền Giải Phóng thôi,
    mà tiền này chỉ có giá trị lúc đó, rất tạm thời . Lúc đó một người
    thợ mộc làm bàn ghế ở ngã tư Bảy Hiền, một ngày công được
    trả 2 đồng Giải phóng.
    Tiền miền Bắc không thể đổi ra tiền Giải Phóng được, nên ở
    thị trường tự do, nó tụt giá ghê gớm, hầu như thành số không .
    Sau khi đổi tiền, tiền giải phóng mất giá nhanh chóng.
    Đã lâu rồi, mà lúc đó tôi ít tiêu tiền (có đâu mà tiêu!), nên không
    nhớ rõ, mong các bạn khác bổ sung thêm .
  3. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    500 đồng Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam lấy 1 đồng Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.
    Nghe mấy người lớn nói lại, chưa kiểm chứng, lúc mới đổi tiền, một đồng tiền giải phóng tương đương với 1 dollar, (tỉ giá thời điểm đó là 500 đồng tiền VNCH/ 1 dollar). Tuy nhiên, sau khi đổi tiền, đồng NHNNVN cắm đầu bay xuống.
  4. mytam81

    mytam81 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2005
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Những mốc son lịch sử của Ngân hàng Việt nam 1951- 2006

    Cách đây 55 năm - Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam. Sự kiện trọng đại này đã mở đầu cho một thời kỳ lịch sử vẻ vang của quá trình phát triển nền tiền tệ độc lập và hoạt động Ngân hàng Việt nam thời đại Hồ Chí Minh.
    Nhiệm vụ của Nha Ngân khố quốc gia và Nha Tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính được chuyển giao cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đảm nhận. Ngay sau khi thành lập, ngày 1- 6- 1951, đã phát hành giấy bạc Ngân hàng để có tiền phục vụ kháng chiến và cải thiện đời sống nhân dân, thu hồi dần các loại tiền do Bộ Tài chính phát hành trước đây. Đồng thời ban hành Điều lệ tạm thời về quản lý ngoại hối giữa vùng tự do và vùng bị địch tạm chiếm. Năm 1952 Quyết định thành lập Ngân hàng quốc gia Liên khu V để triển khai hoạt động và lo ngân khố cho Cách mạng ở Khu V và miền Nam. Năm 1953: Phát hành loại giấy bạc Ngân hàng 5000đ; lấy đồng bạc Ngân hàng quốc gia Việt Nam làm đơn vị tiền tệ. Năm 1954, Sau Hiệp nghị Giơ- ne- vơ, ta gấp rút chuẩn bị tiếp quản vùng bị địch tạm chiếm, và thực hiện việc tập kết ra miền Bắc. Đã tiến hành giải thể các chi nhánh Ngân hàng của ta ở miền Nam; thu hồi tiền và tín phiếu do ta phát hành ở miền Nam; thu đổi tiền Đông dương và tiền Liên bang. Thu gọn cấp Ngân hàng khu; chuyển hệ thống Ngân hàng xuất nhập khẩu thành Ngân hàng nội địa. Ngày 10- 10- 1954, tiếp quản Nhà băng Đông Dương ở Hà Nội; đặt trụ sở làm việc của Ngân hàng quốc gia Trung ương; tiếp nhận gần 100 viên chức của Ngân hàng và kho bạc dưới chế độ cũ.
    Ngay sau khi Mỹ hất cẳng Pháp để xâm chiếm nước ta, công việc đầu tiên của Cách mạng là cùng với việc chuyển quân tập kết ra Bắc, ta tiến hành ngay việc ?thu hồi tiền Việt Nam rút lui trận địa tiền tệ miền Nam Việt Nam? thu đổi giấy bạc của ta phát hành ở Nam bộ và tiền tín phiếu phát hành ở Liên khu V (Trung bộ), nhằm mục đích bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ giá trị tiền tệ, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng. Trong giai đoạn này ?othời kỳ chiến tranh Đơn phương và chiến tranh Đặc biệt 1955 ?" 1964?, công tác tiền tệ ngoài việc thanh lý tài sản của Nhà nước và thu hồi tín phiếu, còn phải làm tốt công việc quản lý thị trường tiền tệ và vật giá khá phức tạp trong tình hình mới. Trong những tháng ngắn ngủi trước khi rút đi, Chính quyền Cách mạng còn phải lo giúp đỡ nhân dân phục hồi sản xuất và đảm bảo sinh hoạt bình thường ở những vùng bị địch càn quét và vùng bị thiên tai, tín dụng ngân hàng trong những ngày cuối thời gian tập kết chuyển quân vẫn phải xuất vốn cho nông dân và ngư dân vay để có lương ăn và mua lúa giống, trâu bò cày, lưới đánh cá, đặc biệt là để phục hồi ruộng bỏ hoang hóa trong vành đai trắng. Việc làm này có tác dụng chính trị và kinh tế rất tốt, đã để lại trong lòng nhân dân tình cảm sâu sắc đối với chính quyền cách mạng. Chính sách rút lui trận địa tiền tệ đã có tác dụng để lại trong lòng nhân dân miền Nam những ấn tượng khá sâu sắc về thời kỳ 9 năm ròng sống dưới chính quyền Cách mạng. Đây đúng là một yếu tố vô cùng quan trọng, động viên tinh thần đấu tranh bất khuất bền bỉ sau này trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc.
    Để có tiền chi tiêu trong giai đoạn này, ta phải sử dụng tiền Ngụy và các loại tiền khác kể cả tiền Đô la Mỹ. Các tổ chức hối đoái, quản lý tiền đã được thành lập ở các khu, tỉnh cũng như cấp miền, đã áp dụng nhiều hình thức linh hoạt kể cả phương pháp chuyển khoản giữa các ngân hàng. Ưu điểm lớn của chúng ta trên mặt trận tài chính, tiền tệ trong giai đoạn này là mỗi địa phương đã biết rút kinh nghiệm của thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tự động tổ chức lạc quyên ngay từ đầu để phục vụ kịp thời yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang để tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng.
    Năm 1965, Trung ương cục miền Nam đã ra Nghị quyết XI (tháng 3) và Nghị quyết XII (tháng 12) nhằm ủng cố và tăng cường được Ban kinh tài các cấp từ miền đến tỉnh, huyện. Nhiều chính sách mới được ban hành và được thi hành nghiêm túc, nhờ đó công tác kinh tế, tài chính, ngân hàng đã góp phần hỗ trợ ba mũi đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận giành thắng lợi từng phần ?ochiến tranh Cục bộ?, tiến tới cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968, bắt buộc Mỹ phải chấp nhận họp Hội nghị Paris với ta.
    Ta đặt chế độ đảm phụ nông nghiệp theo tỷ suất lũy tiến, hình thức này được tiến hành thu liên tục ở tất cả các vùng nông thôn, đồng bằng và rừng núi giải phóng, kết hợp thu bằng hình thức lạc quyên tự nguyện hoặc lạc quyên có hướng dẫn mức thu. Ngoài ra, Trung ương lại tăng cường chi viện cho miền Nam bằng tiền mặt, kể cả ngoại tệ. Trong tình hình mới, Trung ương Cục chủ trương chuẩn bị cho in để phát hành tiền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngành ngân hàng trong những năm đầu thành lập, nhưng đã điều vào miền Nam gần 500 cán bộ ngân hàng để chuẩn bị cho công cuộc giải phóng miền Nam.
    Từ 1969, chúng ta đã mở rộng thêm công tác Ngân khố, Tín dụng. Tổ chức Kho bạc được tổ chức theo hệ thống dọc 4 cấp Trung ương (tức Kho bạc miền) khu, tỉnh và huyện để thực hiện cấp phát chi tiền ngân sách và phát triển một số mặt nghiệp vụ ngân hàng như: thanh toán chuyển khoản, cho vay phục vụ sản xuất.v.v... Ngân khố bắt đầu tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt giữa ngân sách với đơn vị và giữa cơ quan với nhau. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt được tiến hành qua các tài khoản của các cơ quan mở tại ngân tín. Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, ta đã dùng Séc định ngạch có bảo chi. Các hình thức thanh toán trên mặc dù còn hạn chế nhưng đã bước đầu góp phần vào việc tăng cường quản lý tài chính vùng căn cứ giải phóng miền Nam. Công tác ngoại hối có ý nghĩa đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng ở miền Nam. Nhiệm vụ đổi Đô la để có tiền Sài gòn và tiền Ria Campuchia đáp ứng cho nhu cầu chiến đấu nhất là trong giai đoạn cuối cùng nầy của cuộc cách mạng giải phóng Miền Nam trở thành một nhiệm vụ nặng nề và phức tạp. Trong giai đoạn này ta đã phải mất đi hàng trăm cán bộ chiến sĩ vừa bị hy sinh vừa bị địch bắt, trong đó có tới 40 cán bộ chiến sĩ ngân hàng bị hy sinh phần lớn trong các vụ đổi tiền và vận chuyển tiền.
    Từ sau Hiệp định Paris, công tác tín dụng được tiến hành bằng vốn ngân sách do Trung ương chi viện. Lúc đầu chỉ phục vụ sản xuất tự túc và cải thiện cho những cơ quan đơn vị, về sau được mở rộng cho nhân dân trong vùng địch kiểm soát. Nó đã có tác dụng mở rộng hoạt động thương nghiệp quốc doanh, hình thành ở vùng căn cứ các công ty bông vải sợi, bách hóa, công nghệ phẩm, lương thực thực phẩm và những cửa hàng cung cấp bán lẻ phục vụ cán bộ, bộ đội và nhân dân. Tuy số tiền cho vay chưa nhiều lắm nhưng ngoài ý nghĩa kinh tế trên đây nó cũng nói lên được ý nghĩa chính trị của công tác này. Trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn nhưng Ngân hàng và chính quyền cách mạng không bao giờ sao nhãng một nhiệm vụ quan trọng là tổ chức sản xuất, xây dựng kinh tế, tìm cách cải thiện đời sống cho nhân dân.
    Ngày 3/5/1975, tiếp quản các Ngân hàng ở Sài Gòn. Hệ thống Ngân hàng dưới chế độ Nguỵ quyền có 36 Ngân hàng, trong đó có: 6 Ngân hàng công nghiệp và coi như công lập, 16 Ngân hàng tư doanh; 14 Ngân hàng của người nước ngoài, tất cả có 384 chi nhánh. Sau ngày 30- 4- 1975, có khoảng 11.000 nhân viên Ngân hàng cũ ra trình diện. Trong số này có: 4762 nhân viên Ngân hàng công lập và 6352 nhân viên Ngân hàng tư (cả Việt Nam và nước ngoài). Tiếp quản Sài Gòn, Chính quyền Cách Mạng cho phép nhân dân được dùng các loại tiền của Nguỵ quyền Sài Gòn để mua bán, trao đổi. Ngân hàng Quốc gia Việt nam- cơ quan Trung ương của Chính phủ cách mạng Lâm thời cộng hoà miền Nam- do đồng chí Trần Dương làm Thống đốc, tuyên bố hoạt động từ ngày 6- 6- 1975. Từ cuối năm 1974 và sang 1975 chuẩn bị lần thứ ba cho phát hành tiền, ta đã vận chuyển từ miền Bắc vào miền Nam, nhưng đến ngày 22 tháng 9 / 1975 sau hơn 4 tháng hoàn toàn giải phóng miền Nam chúng ta mới thực hiện được chủ trương đã có từ 10 năm trước, phát hành tiền cách mạng thay cho tiền Ngụy.
    Năm 1976: Thống nhất Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (miền Nam) vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nghị định số 163/ CP ngày 16/ 6/ 1977 hình thành 5 Ngân hàng chuyên nghiệp nằm trong cơ cấu của NHNN. Ngày 3/5/1978, phát hành các loại tiền mới của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả 2 miền Nam, Bắc thống nhất tiền tệ trong cả nước.
    Giai đoạn 1979 - 1986: Là thời kỳ hết sức khó khăn của Ngân hàng. Trong khi phảI củng cố hệ thống tổ chức, cán bộ chưa được như mong miốn thì lạm phát tăng kỷ lục làm phá làm cho hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế hết sức khó khăn. Một mặt phảI củng cố và cho ra đời trường trung học, cao đẳng, đại học ngân hàng ở một số địa phương để đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ ngân hàng; Một mặt khuyến khích chuyển ngoại tệ vào Việt Nam; đồng thời củng cố và mở rộng mạng lưới thu, trả tiền gửi tiết kiệm ở các tỉnh thành phố để đáp ứng nhu cầu vốn, nhất là phân phối lưu thông. Ngày 14- 9- 1985, phát hành tiền Ngân hàng mới, thu đổi tiền Ngân hàng cũ 1 đ mới = 10đ tiền NH cũ.
    Quyết định số 218/CP ngày 3- 7- 1987 của Chính phủ cho làm thử việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN. Mặc dù còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, cơ sở pháp lý chưa đủ điều kiện cho việc đổi mới, nhưng đây là bước đột phá, mở đường cho sự nghiệp đổi mới ngân hàng sau này. Giai đoạn này các hợp tác xã tín dụng đã đổ vỡ hàng loạt sau khi phát triển mạnh mẽ nhưng thiếu cơ chế kiểm soát an toàn. Nghị định số 53/HĐBT ngày 26- 3- 1988 về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Vịêt Nam, cho phép hình thành ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước Việt nam làm chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng; các tổ chức tín dụng trực tiếp kinh doanh là bước đi táo bạo tiếp theo cho sự nghiệp đổi mới. Nghị định số 138/HĐBT ngày 8- 5- 1990 tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy ngành Ngân hàng 2 cấp. Nhưng phải đến khi ?oPháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam? và ?oPháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính? có hiệu lực từ năm 1991 mới thực sự là hành lang pháp lý đầy đủ cho việc tách bạch hệ thống ngân hàng 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước lúc này mới thực sự trở thành ngân hàng trung ương và là cơ quan quản lý nhà nước đối với các hoạt động ngân hàng; các tổ chức tín dụng mới bắt đầu hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Theo đây, hàng loạt các tổ chức tín dụng với nhiều hình thức sở hữu đã được thành lập và đi vào hoạt động, là nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
    Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB?), mở rộng quan hệ song phương với hàng trăm ngân hàng trung ương các nước trên thế giới. Ngân hàng Việt Nam đã tranh thủ sự trợ giúp về nhiều mặt của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế.
    Năm 1995: Thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo (tiền thân của Ngân hàng Chính sách xã hội sau này) và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, là hai tổ chức tín dụng nhằm xoá đói giảm nghèo và cung ứng vốn cho các hộ nông dân phát triển kinh tế. Ngày 9/11/1999, Bảo hiểm tiền gửi VN ra đời đã góp phần đảm bảo quyền lơi cho người gửi tiền, góp phần an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
    Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997), đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ nhất từ trước tới nay cho hoạt động ngân hàng. Theo đó, hàng loạt các cơ chế, chính sách mới đã được ban hành, đảm bảo cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ đạt hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng kinh doanh theo cơ chế thị trường và theo thông lệ quốc tế phát triển, đảm bảo an toàn trong tình hình mới.Chủ động kiểm soát được lạm phát, kéo chỉ số lạm phát từ 774,7% trong năm 1986 xuống ở mức hai con số và 1 con số liên tục 13 năm từ năm 1992 đến năm 2005. Chuyển cơ chế cung ứng tiền từ chỗ căn cứ lượng tiền mặt cơ bản (Mb) sang điều hành thông qua tổng phương tiện thanh toán (M2). Nhờ đó, tỷ lệ tiền mặt chiếm trong cơ cấu của tổng phương tiện thanh toán đã giảm dần từ trên 40% năm 1990 xuống còn 20% như hiện nay. Việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ được chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp hành chính sang việc sử dụng chủ yếu bằng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường. Tự do hoá lãi suất, điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu của thị trường. Thị trường nội tệ liên NH; thị trường ngoại tệ liên NH lần lượt ra đời, phát triển mạnh và trở thành những công cụ điều hành gián tiếp phổ biến của chính sách tiền tệ, ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế.
    Thiết lập được hệ thống các tổ chức tín dụng lớn mạnh về quy mô, đa dạng về sở hưu: Hiện có 5 ngân hàng thương mại Nhà nước, 1 ngân hàng chính sách xã hội; 25 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị; 11 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn; 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 4 ngân hàng liên doanh; 44 văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; 5 công ty tài chính; 9 công ty cho thuê tài chính; 905 quỹ tín dụng nhân dân. Hoạt động ngân hàng đã ?ophủ sóng? đến 100% số huyện, thị trong cả nước; mật độ bình quân 4 xã có một chi nhánh, thực hiện bám dân, bám đất và bám làng nghề, bám doanh nghiệp để cung ứng vốn.
    Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước là vô cùng vĩ đại. Trong sự nghiệp chung đó, có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng trong suất 55 qua. Những kết quả đạt được đều phải đổi bằng mồ hôi, thậm chí bằng xương máu của nhiều chiến sĩ ngân hàng. Mỗi cán bộ ngân hàng hôm nay sẽ là những chiến sỹ trên mặt trận mới tô thêm những chiến công để khắc họa thêm cho bức tranh lịch sử hào hùng của Ngành và của dân tộc vang dội tới mai sau.
    Ngô Quang Lương NHNN

  5. mytam81

    mytam81 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2005
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Trong thời kỳ Việt Nam là một phần của Đông Dương dưới sự kiểm soát của Pháp, đơn vị tiền tệ của khu này là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi "bạc". Sau khi quân Pháp rời khỏi Việt Nam, miền bắc và miền nam có hai chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, tiền miền nam phải đổi thành tiền giải phóng với giá 500 đồng miền nam cho mỗi đồng giải phóng.
    Vào năm 1978, sau khi thống nhất đất nước, đã có một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền bắc là 1 đồng cũ thành 1 đồng thống nhất trong khi tại miền nam 1 đồng giải phóng thành 8 hào tiền thống nhất.
    Lần đổi tiền thứ ba xảy ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới.
  6. TLV1987

    TLV1987 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    281
    Đã được thích:
    0
    ôi tờ tiền này đẹp quá, tớ là tớ chỉ thích những đồng tiền in hình cảnh vật hiền hoà nên thớ, chứ tớ chẳng thích in hình mấy cái thằng ngưòi lên tiền đâu, tự nhiên thấy dơ quá!
  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Ừa, từ sau đừng có mó tay vào đồng dollar, Sterling, yen, Sing dollar,...nhé. Toàn ngoại tệ mạnh cả.
  8. nguyensg

    nguyensg Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    13/02/2002
    Bài viết:
    526
    Đã được thích:
    1
    Nè không được quá lộ liểu
    Theo thống kê có 37% dân Anh muốn in hình cầu thủ Beckham lên tờ tiền của họ . VN thì đam mê '' Điên cuồng '' bóng đá , mê cầu thủ đẹp trai tài năng Beckham.....
    Hay là in hình Beckham lên một trong những tờ tiền VN chắc chú không phản đối ?
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này