1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn hoá,ẩm thực Italy

Chủ đề trong 'Italy' bởi inzaghihuy, 27/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá,ẩm thực Italy

    Thưa các bạn, khi nói đến nước Ý, chúng ta không thể không nhắc đến nền văn hoá ẩm thực của quốc gia này. Có thể nói văn hoá ẩm thực của Ý là một trong những thành tựu lớn trên thế giới và được rất nhiều người hâm mộ.

    Về thức uống,Ý có hai thứ nổi tiếng là rượu và cà phê. Cũng giống như người Pháp, người Ý thường uống rượu nho trong các bữa ăn, đặc biệt là bữa ăn tối.Ý là một trong những quốc gia sản xuất rượu nhiều nhất thế giới. Không những nhiều, rượu Ý còn có tiếng là ngon. Có lẽ không ngon bằng rượu Pháp nhưng dù sao rượu Ý cũng rất đặc biệt. Kỹ thuật nấu rượu của Ý có từ lâu đời. Cho đến nay, bên cạnh những cơ sở chế biến rượu công nghiệp được trang bị với những máy móc hết sức tối tân, ở Ý vẫn còṇ có những lọ̀ rượu thủ công theo lối cổ truyền.

    Ngoài rượu,Ý còṇ đóng góp vào nền văn hoá ẩm thực thế giới một loại thức uống cực kỳ đặc sắc, đó là cà phê.Ý không những nổi tiếng về việc sản xuất cà phê mà còn nổi tiếng với tài pha cà phê. Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia Tây phương, từ Mỹ đến Úc, từ Đức sang Anh, cứ bước vào các quán cà phê là người ta bắt gặp ngay các kiểu pha cà phê đặc biệt của Ý, từ caffe latte đến cappuccino hay espresso. Mỗi loại cà phê đều có hương vị riêng, và tất cả đều khác hẳn với cà phê đen hay cà phê sữa của người Việt chúng ta. Cà phê espresso thường được pha rất đậm, chủ yếu uống với đường nhưng không cho sữa. C̣òn cả cà phê latte lẫn cappuccino đều uống với sữa tươi. Riêng cappuccino c̣n được thêm một ít sôcôla để tạo một hương vị tổng hợp rất đặc biệt. Uống vào, người ta thưởng thức được vị đắng của cà phê hoà tan với vị ngọt của sôcôla và vị béo của sữa.
    Tuy nhiên, Ý có hai món ăn được nhiều dân tộc trên thế giới biết đến là spaghetti và pizza. Lâu nay, một số người trên thế giới cứ tưởng Marco Polo, một thương nhân người Ý, đă theo con đường tơ lụa sang Trung Hoa vào thế kỷ 13 và mang về Ý món mì sợi, về sau biến dạng thành ḿ ống spaghetti của Ý. Thật ra, người Ý đă biết làm mì́ cách đây mấy ngàn năm. Các nhà khảo cổ học đã tì́m thấy trong một ngôi mộ cổ thuộc thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên một số tác phẩm nghệ thuật trên đó có h́ình một cái thớt để cán bột và một dụng cụ nhỏ để cắt bột thành mì.

    Bánh pizza ra đời tại tỉnh Naples thuộc miền nam nước Ý vào thế kỷ 18 như một món ăn b́ình dân, rẻ tiền. Thoạt đầu, pizza được bán trên các sạp ở lề đường và có tên là pizzerie. Năm 1889, một cái bánh pizza được làm để vinh danh Hoàng hậu Margherita, do đó được đặt tên là Margherita. Bánh là một miếng bột đẹp , màu trắng, trên đó có nước xốt cà chua màu đỏ và rau basil màu xanh. Xin lưu ý, màu trắng, màu đỏ và màu xanh lá cây là ba màu cờ của nước Ý. Bánh pizza này thành công đến nổi nhiều thành phố khác cũng nghe danh. Từ đó pizza trở thành món ăn phổ biến khắp nước Ý. Sau này, hễ di cư đến nước nào sinh sống, người Ý cũng vẫn tha thiết với món ăn quê nhà. Nhờ vậy, ngày nay bánh pizza và mì́ spaghetti được nhiều dân tộc trên thế giới cùng thưởng thức với người Ý.
    Ngày hội cổ truyền đặc biệt nhất của nướcÝ, được chiếu trên cả chương tŕnh truyền hình Mỹ, là ngày hội đua ngựa, tiếng Ý gọi là Palio, diễn ra vào ngày 2 tháng 7 và ngày 16 tháng 8 hàng năm tại Siena, cách thành phố Florence khoảng 60 cây số về hướng nam. Là một thị trấn xinh đẹp, nằm trên đồi cao và có thành lũy xưa bao quanh, Siena thu hút được nhiều du khách nhờ có nhiều di tích lịch sử c̣òn lại từ thời trung cổ và cũng nhờ ngày hội đua ngựa độc đáo. Thị trấn Siena được chia ra làm 17 khu phố, mỗi khu phố chọn một con ngựa tham dự cuộc đua.
    Nếu không hiểu rơ về ngày hội Palio, du khách đến Siena có thể bỏ qua một phần khá lý thú. Đó là thánh lễ được tổ chức ở nhà thờ của mỗi khu phố vào 11 giờ sáng, nhằm mục đích chúc lành cho số người tham dự, anh nài và cả con ngựa đua của anh. Bên trong nhà thờ tràn ngập cờ xí, biểu ngữ và phù hiệu mà khu phố đă giành được từ các cuộc đua trong nhiều năm qua. Thông thường, tất cả dân trong khu phố đều tham dự thánh lễ này, nhưng quan trọng hơn cả là con ngựa của khu phố cũng phải có mặt. Mọi giáo dân đều im lặng, ra vẻ tập trung tinh thần vào thánh lễ nhưng thật ra, ai cũng hướng mắt về phía con ngựa và chờ đợi...điều họ mong đợi là con ngựa văi phân ngay trong nhà thờ, v́ì đó là điềm tốt, báo hiệu nó có thể thắng giải cuộc đua. Chinh ví́ sự tin tưởng này mà không có giáo dân nào cho việc con ngựa làm xấu như vậy là xúc phạm nhà Chúa, kể cả vị linh mục, một người cũng ủng hộ màu cờ khu phố mì́nh không kém bất cứ ai. Có người c̣òn nghi ngờ là đôi khi vị linh mục cố tình kéo dài thánh lễ để tạo điều kiện cho con ngựa đem lại niềm hy vọng cho cả khu phố.
    Thưa các bạn tài liệu trên đây là do tôi st từ chị Minh Nguyệt. Cảm ơn chị Minh Nguyệt đã đem nền văn hóa của đất nuớc hình chiếc ủng đến cho chúng em.

    Nguồn acmvn.com
  2. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Roma- thủ đô xinh đẹp
    [​IMG]
    Tiền thân của Roma là thủ đô của đế chế La mã kiêu hùng. Theo truyền thuyết Roma được lập ra bởi Romulus, con trai của thần Mars. Sau khi sinh ra, hai anh em Romulus bị đem thả xuống sông nhưng may mắn được chó sói cứu sống và nuôi dưỡng.
    Roma nằm trên 7 ngọn đồi thuộc miền trung đất nước., cách bờ biển phìa Tây khoảng 25 km. Lúc đầu Roma chỉ là sự hợp nhất của những ngôi làng trên một số ngọn đồi ở miền trung. Vào TK VI và V tr.CN, Roma phát triển nhanh chóng và trở thnàh thủ đô của đế chế La Mã hùng mạnh, thâu tóm gần như toàn bộ các vùng đất ven Địa Trung Hải. Trong thời kỳ hưng thịnh, nhiều công trình kiến đồ sộ được xây dựng và rất nhiều trong số đó còn lưu lại vết tích đến ngày nay. Từ TK III tr.CN, Roma nhiều lần bị xâm chiếm và phá hoại. Sự suy tàn của Roma khiến nó chỉ còn là thủ đô của tôn giáo. Các Giáo hoàng thời Phục hưng cung để lại nhiều công trình xây dựng lớn, chủ yấu tập trung ở Vatican và những vùng phụ cận. Mãi đến cuối TK XIX, khi trở thành thủ đô của nước CH Italia, Roma mới khôi phục lại bộ mặt của mình. Mặt khác, do uy tín của toà thánh ở Roma ngày càng cao, góp phần tạo nên sự phồn thịnh của Roma.
    Roma ngày nay là một Thành phố rộng lớn với khoảng 3 triệu dân, nhiều di tích văn hoá từ thời cổ đại và trung đại. Roma có những bảo tàng nghệ thuật, bảo tàng văn hoá, thư viện vào loại lớn nhất châu Âu cũng như thế giới. Công trình KHKT đầu tiên được xây dựng ở TP là hệ thống tiêu nước của TP, được xây dựng tứ TK VI tr.CN mà những vết tích của nó vẫn còn tốn tại đến ngày hôm nay. Quảng trường Roma, nơi hội họp của nhân dân để bàn việc công cộng cũng được xây dựng từ TK V tr.CN. Lúc đầu nó chỉ là một cái chợ, về sau trở thành trung tâm kinh tế, chính trị và tôn giáo. Dưới sự trị vì của những vị vua độc tài thời đế chế, rất nhiều những công trình lớn được xây dựng quanh quảng trường, như: nhà thờ, nhà thờ của cacnú tu sĩ, đền thờ,... Nổi bật nhất là Colosseo, được xây dựng vào năm 80 sau CN dưới thời vua Tytuxi. Công trình kiến trúc vĩ đại này có chu vi 524 m, 80 bậc ghế ngồi với sức chứa lên đến 87.000 người. Thời cổ, đây là sân đấu võ, diễn ra những cuộc đấu man rợ giữa người và thú. Sân bị hư hại nhiều theo thời gian. năm 1972, chính phủ Italia đã quyết định phục chế lại sân này để thu hút nhiều hơn nữa khách du lịch.
    Ở Roma có toà lâu đài mang tên "ngôi nhà vàng", được xây từ thời bạo chúa Néron. Nội thất của toà lâu đài này là những bức tranh đắp nổi hoành tráng và đẹp mắt, mà sau này trở thành mô típ cho các hoạ sĩ Italia trang trí những nơi khác. Những viện bảo tàng ở Roma chứa nhiều những hiện vật quý giá, những tác phẩm điêu khắc và hội hoạ có giá trị. Nhà thờ Jésus là nhà thờ chính được xây dựng năm 1568 theo đồ án của bậc thấy kiến trúc Michelangelo. Ngoài ra, Roma cổ đại còn có 2 bức tường bao quanh 7 ngọn đồi được xây dựng từ TK IV tr.CN mà ngày nay ta vẫn còn bắt gặp những dấu tích cũ. Đầu những con đường đi vào Roma cổ xưa, ngườii ta còn bắt gặp những ngôi mộ và nghĩa địa cổ.
    Giữa lòng Roma ngày nay có 1 bảo tàng nghệ thuật và khí giới. Đó chính là pháo đài thiên thần. Được xây dựng năm 123 sau CN bằng đá ong và đá vôi bọc cẩm thạch. Chu vi pháo đài rộng 64 m, nằm trên một đế hình vuông. Năm 403, hoàng đế Honorius đã biến nơi này thành 1 pháo đài thật sự , và là một trong những tiền đồn quan trọng của bức tường thành Aurelian, hiện còn nguyên vẹn.
    Một công trình nổi tiếng khác của Roma là đài phun nước Trevi, được hoàn tất năm 1762. Đây là một công trình kiến trúc tuyệt đẹp và thơ mộng, những cột nước trắng xoá, những quần thể tượng tuyệt mỹ quyện vào nhau mờ mờ ảo ảo lấp lánh mặt hồ. Theo tập tục, nếu ai đó muốn quay trở lại Roma, hãy quay lưng lại đài phun nước, ném một đồng xu qua đầu rồi ước nguyện...
    [​IMG]
  3. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Milano- thủ đô kinh tế của châu Âu
    [​IMG]
    Milano là một trong những thành phố quan trọng nhất Italia, thủ phủ vùng Lombardia, và là 1 trong 2 thành phố được coi là thủ đô kinh tế của châu Âu (cùng Barcelona). TP nằm trên đồng bằng Padanna, lọt giữa 2 dãy núi Alpes và Po, bao bọc bởi hai con sông Adda và Ticino.
    Lịch sử Milano là câu chuyện về sự giàu sang, những mưu đồ và những cuộc đấu tranh dành độc lập. Trong suốt quá trình phát triển của mình , Milan mới chỉ biết đến thế nào là sự nghèo nàn sau chiến tranh thế giới thứ hai nhưng ngay sau đó lại được tái thiết và phát triển nhanh chóng hơn trước.
    Những ngưòi Gaul đã định cư ở đồng bằng Padanna từ thời đồ đồng và đặt tên cho vùng là Mediolanium ( giữa đồng bằng). Năm 222 tr.CN , hoàng đế La Mã Scipio đã chiếm đóng Milan và biến vùng đất này thành một tỉnh tự trị , là thủ đô của Đế Chế dặt ở phương bắc. Vị trí của Milan khiến nó nhanh chóng trở thành một thành phố hùng mạnh về Kinh Tế của bán đảo Italia và là một phòng tuyến quan trọng chống lại rợ Barbarians khát máu đến từ phía Bắc Châu Âu. Milan đã trở thành một phần của đế chế La Mã vào thế kỉ thứ Ba sau công Nguyên , chỉ thua Rome về sức mạnh chinh phục. Sau đó thánh Ambrose đã biến thành phố thành 1 thế giới mới của Thiên Chúa Giáo.
    Trong suốt 10 TK , Milan phát triển rực rỡ nhờ những hoạt động KT có quy mô lớn và một hệ thống thuỷ lợi tốt nhất thời bấy giờ. Vào TK 15, quyền lực từ dòng họ Visconti rơi vào tay dòng họ Sforza và cuối cùng trở thành thủ phủ của Dukedom of Milan( một vùng được cai quản bởi một quận công) . Đây là thời kì các khu vực của Milan được " chuyên môn hoá" về chức năng như khu đại học Ospedale Maggiore , hay khu văn hoá nghệ thuật Lazzaretto và là nơi thu hút nhiều nhgệ sĩ đến lập nghiệp ...Milan trở thành miếng mồi ngon của các đế quốc hùng mạnh Tay Ban Nha , Áo và Pháp...Cuối cùng dòng họ Sforza để Milan rơi vào tay Napoleon sau khi thopát khỏi ách nô lệ của Tây ban Nha và Áo. Lúc này Milan tiếp nhận hầu hết các nét tinh tuý của kiến trúc Pháp , hệ thống đường phố được quy hoạch tổng thế và còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Vào năm 1848, sau cuộc khởi nghĩa "Năm ngày của Milan" , nhân dân thành phố đã dành được độc lập và vào năm 1861, Milan trở thành một bộ phận của Vưong quốc Italia.
    Ngày nay thành phố hầu như đã được tái thiết hoàn toàn mới sau Thế chiiến thứ II nhưng sự giàu sang quý phái vẫn tồn tại như một nét cố hữu của TP này. Những toà biệt thự của những dòng họ lớn, những đại lộ rợp bóng cây đi qua những hồ thiên nga duyên dáng , nhhững nhà thờ Thiên Chúa uy nghiêm bên cạnh những cửa hiệu với những thương hiệu nổi tiếng và một thế giới kinh doanh sôi động ....tất cả đã làm nên một Milan có sức hút kì diệu....
    Thành phố được chia làm 20 quận và có tên gọi từ lâu đời. Mỗi quận đều có 1 lịch sử thú vị góp vào lịch sử thành phố, từ khu phố cổ Importantisimo cho đến khu chung cư hiện đại San siro.
    Khu phố cổ lại chứa trong mình một quận thời trang khổng lồ là những khu phố có giá thuê cắt cổ . Những khu quán bar , nhà hàng xen lẫn những công viên nhỏ với những hồ thiên nga làm tăng thêm vẻ quý phái cho những toà lâu đài của hơn 20 dòng họ lớn ở Milan.
    Phía Tây thành phố là khu vực Ticinese- Navigli , một vùng có sự giao thoa văn hoá mới cũ rõ rệt. Ở đây có những toà nhà chung cư dành cho công nhân với những ban công sắt uốn cong kiểu đầu thế kỉ ..cho đến những chung cư hiện đại của các hoạ sĩ , nhà thiết kế, kiến trúc sư... Vì thế đây cũng là khu vực sôi động nhất thành phố với những buổi hoà nhạc, triển lãm văn hoá....
    Quận Amendola- Fiera là nơi tập trung nhiều tổng hành dinh của những công ti mẹ khổng lồ . Vittoria là quận của những người trung lưu, quận Molise là nơi có nhiêu chợ trời lớn. Città Studi ( study city) nằm ở phía đông thành phố là một quận lớn tập trung rất nhiều trường Đại Học lâu đời về Khoa học , hoá học , y dược . Những trường ĐH từ những năm 20 vẫn nằm dưới những tán lá cây tạo nên một không khí tách biệt hẳn với bên ngoài.
    Phía Bắc là quận Isolo, nơi có nhà ga trung tâm và những bệnh viện lớn của Italia . Sân San Siro nằm chếch xa hơn một chút về phía bắc, là một sân bóng tập trung hầu hết những người dân Milan vào những ngày cuối tuần bởi đây là nơi diễn ra các buổi ca nhạc và bóng đá- hai mối quan tâm lớn của họ...
    Mùa thời trang ở Milan bắt đầu vào tháng tư và tháng chín..Các show diễn chủ yếu được trình diễn ở khu phố Importantisimo , nơi tập trung những cảnh quan đẹp & những cửa hàng với những thương hiệu nổi tiếng.
    Đường Monte Napoleone được xây dựng từ thế kỉ 19 là con đường xa hoa nhất trong thành phố với những lâu đài và những của hàng lộng lẫy ở một phía. các của hàng trang sức hiệu Cartier, Faraone Tiffany, Buccellati, Cusi , các hiệu giày Salvatore Ferragamo, Vierrie, Bally...và thời trang Versace, Mila Schon...Khu phố gần đó là Sant Andrea cũng không kém phấn sôi động tập trung các hiệu Armani, Moschino, Valentino, Missoni...
    [​IMG]
    Có một vấn đề nhỏ mà bất cứ du khách nào cũng thất vọng. Đó là khi họ đi du lịch vào mùa hè tại Milan và đến các của hiệu thời trang kinh điển chuẩn bị mua sắm thì họ sẽ được một ngày chờ đợi rồi về tay không. Bởi vì tất cả các cửa hàng ở Milan đều đóng cửa suốt mùa hè( trừ cửa hàng thực phẩm).
  4. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Venezia- Thiên đường trên mặt nước
    [​IMG]
    Venezia là thành phố độc đáo nhất nhì trên thế giới : được xây dựng trên 118 hòn đảo nhỏ trong một vùng nước mặn. Cách đây 1500 năm , người dân Italia đã bắt đầu đóng hàng triệu cọc gỗ xuống đáy khu đầm phá rộng 550km2 ở bờ bắc vịnh Adriatique. Từ những chân gỗ đó người ta lấn được hơn 150 hòn đảo, nối với nhau bằng những kênh rạch. Giữa những toà nhà được xây dựng kiên cố và bề thế là hệ thống kênh đào và thuỷ lộ chằng chịt, đan kết vào nhau tạo thành một mạng lưới giao thông thuận tiện. Người ta tính rằng, trong thành phố có khoảng 200 kênh và 400 cầu để vượt qua các kênh đó. Nhiều cây cầu có từ thời cổ xưa và là những công trình kiến trúc quý giá, trong đó nổi tiếng nhất là cầu Rialto xây từ thế kỷ XVI, chỉ có một vòm bằng đá nối liền hai hòn đảo lớn của thành phố. Lối kiến trúc độc đáo có một không hai của những toà nhà, nhà thờ và cung điện nổi đã làm cho Venezia trở thành một thành phố lãng mạn nhất thế giới.
    Về góc độ hành chính , Venezia là thủ phủ vùng Veneto và là thành phố du lịch lớn nhất Ialia ( cùng Rome, Firenze và Sorrento) với hơn 14 triệu khách tham quan mỗi năm trong khi dân số TP chỉ 310nhgìn người . Về VH nghệ thuật , đây là một tài sản vô giá về kiến trúc ....thành phố còn có một không khí đặc biệt khi "nước lên" nhận chìm các phố chính và khu quảng trường Markus. Hiện nay giữa lòng TP là một hồ nước mặn được UNESCO công nhận là di sản VH thế giới.
    Vào giai đoạn suy tàn thứ nhất , Đế chế La mã đã dừng chân ở Bắc Châu Âu , mang đến chết chóc và sự tàn phá. Những cư dân Byzantine đã di cư đến vùng vịnh Adriatique và lấn biển bằng các cột chống. Vì thế Venezia ra đời từ năm 450tr.CN. và được điều hành bởi các vị tổng trấn do hội đồng nhân dân bầu ra.
    Cách điều hành khôn ngoan cả về ngoại giao lẫn vũ trang đã khiến Venezia chiếm được cả bờ biển Istria, Dalmatia và Puglic, trở thành một thế lực mới , tự trị của dân Byzantine. Những năm huy hoàng của TP la khi nền CH " Serenissima " ( hoà bình) ra đời năm 1202 , tổng trấn Danolo giúp đỡ các hiệp sĩ của cuộc thập tự chinh thứ 4 chinh phục Constantinople. Nền CH này đã đạt được những thành tựu vĩ đại, đưa những con tàu Veneto ngự trị vùng biển Địa Trung Hải . Venezia đạt đến đỉnh cao khi đánh bại Duke of Milan ( tên của Milan lúc đó) và cùng là những thế lực chính của bán đảo Italia. Từ đó là quá trình suy thoái của nền CH Serenisima , năm 1797, Venezia mất quyền tự trị vào tay napoleon Bonarparte . Sau 70 năm , Venezia là lãnh thổ của Vương quốc Italia.
    Văn hoá Venezia
    Vào những ngày lễ hội hoá trang, thành phố này thu hút lượng du khách thật đáng kể. Lễ hội Carnival đầu tháng 2 là một lễ hội đầy màu sắc và sống động. Đây là một nét văn hoá đặc trưng không chỉ của thành phố này mà còn của cả nước Ý. Những chiếc mặt nạ tinh xảo, độc đáo và huyền bí dùng trong đêm hội hoá trang được các nghệ nhân khéo tay của thành phố chế tác đã nổi tiếng khắp mọi nơi. Ngoài ra, người dân Venezia còn tổ chức rất nhiều lễ hội văn hoá khác như: lễ hội đua thuyền Vogalonga; ngày hội đám cưới trên những chiếc thuyền trang trí hoa rực rỡ Festa della Sensa vào tháng 5; lễ hội Festa del Redentore mừng ngày thành phố thoát khỏi bệnh dịch khủng khiếp năm 1576 với những màn pháo bông ấn tượng của tháng 7 và rất nhiều lễ hội mang màu sắc tôn giáo khác trong tháng 11 và 12?
    Bảo tàng Ca''''Rezzonico có từ thế kỷ thứ 18 là một bảo tàng nổi tiếng nhất của Venezia và nó đã mở cửa trở lại vào tháng 6-2001 sau một thời gian dài sửa chữa. Đây là một tin vui cho thành phố và cả khách du lịch vì bảo tàng Ca''''Rezzonico lưu giữ rất nhiều những tấm thảm thêu, đồ sơn mài và những chiếc ghế bành đặc trưng của thế kỷ 18 cũng như những tác phẩm nghệ thuật của các danh hoạ và nhà điêu khắc nổi tiếng như: Canaletto, Rosalba Carriera, Giambaltista Tiepolo và Francesco Guardi?
    Nghệ thuật theo phong cách Byzatine , Gothic & phục hưng là những nét chính trong sự phát triển về NT ở Venezia. Phong cách Byzantine có mặt trong nững thế kỉ đầu tiên. Những cột đá cẩm thạch xuất hiện ở TP từ Trung Đông và những thánh đường duyên dáng thiết kế bởi những kiến trúc sư từ Ravena. Thánh đương San Markus là một công trình vĩ đại tiêu biểu cho phong cách La mã - byzantine , là một điểm sáng chói trong NT KT của dân tộc Veneto.
    [​IMG]
    Bắt đầu TK XIII, phong cách Gothic xuất hiện nhử nó xuất hiện ở hầu hết các TP khác của Italia. Chứng tích kì vĩ nhất của phong cách này là lâu đài House of Gold ( Ca d''''Oro) và Dodge.
    Vào TK XVI, phong cách Phục hưng đã để lại dấu ấn đặc sắc nơi đây bằng các cấy cầu , nhà thờ....Tiếp theo đó là phong cách Baroque và Rocco và nghệ thuật đương đại. Sự pha trộn này đã để lại cho TP một di sản đồ sộ về Mĩ thuật và Kiến trúc.
    Ngày nay, Venezia là một thế giới muôn màu mà bất kì ai cũng không thể không ngưỡng mộ. Mỗi khi thuỷ triêù lên, Venezia là một thế giới cổ tích . các lễ hội Carnival được tổ chức từ TK 18 vào tháng 2 hàng năm với các buổi vũ hội ngoài trời, các buổi hoà nhạc và triển lãm hội hoạ....Lễ hội tháng 3 của người Kito giáo tưởng nhớ những phong tục xưa bằng những con thuyền cổ lướt trên các kênh rạch và kết thúc bằng màn pháo hoa rực rỡ trên mặt nước.
    [​IMG]
    Một điều nữa khiến Venise luôn thu hút được sự chú ý là Liên hoan phim Venise hằng năm? Ngày 6-8-1932, tại sảnh chính của khách sạn Excelsior người ta chiếu bộ phim Bác sĩ Jekyll và ngài Hyde của đạo diễn Rouben Mamoulian. Và ngày nay hàng năm được coi là ngày sinh nhật của LHP Venise. 25 bộ phim đến từ 7 quốc gia được chọn để tham dự LHP hồi ấy chỉ trao bằng khen chứ không có giải thưởng. Vậy là cùng với những thành phố khác của châu Âu như Berlin, Cannes, Venise thơ mộng đã trở thành nơi hội ngộ của các nhà sản xuất phim, đạo diễn, minh tinh màn bạc khắp thế giới. Và cuộc đua tranh giải Sư tử vàng tại LHP Venise lần thứ 59 sẽ diễn ra vào 29-8 đến 8-9-2002. Biểu tượng của LHP là con sư tư vàng cho bộ phim hay nhất( Leone d''''Ôro) cũng là biểu tượng của thành phố. (phần này tên Venise không viết ra tiếng Italia vì để tên quốc tế của nó)
    Tuy nhiên ngày nay người ta đang lo ngại một điều, một lần nữa thuỷ triều dâng lên và nhấn chìm TP như nó đã từng làm trước đó. Nếu như điều này xảy ra thì thật là đau sót cho một phần lịch sử của VH phục hưng.
  5. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Firenzê?" cái nôi của vfn hóa Phục HỈng
    [​IMG]
    UNESCO 'ã th'ng kê rằng, 60% tác phẩm ngh? thuật quan trọng nhất của TG tập trung Y Italia, và ½ trong s' 'ó nằm Y Florence.
    Thành ph' nhỏ bé v>i nửa tri?u dân này là thủ phủ xứ Tuscany nfm Y phía Tây Bắc Italia,'Ỉợc bao bọc bYi những ngọn '"i nho chín mọng của xứ Chianti, trải rTng theo 2 bờ con sông Amo hiền hoà.
    Từng 'Ỉợc coi là cái nôi của thời kỳ phục hỈng n.i tiếng trong li ba nhn thứ 4 trên thế gi>i v>i chiều cao 153 mét, lòng nhà thờ rTng 'ến 38m. Những thánh 'Ỉờng tại Florence còn mang dấu tích của các bậc thầy hTi hố thời cận 'ại nhỈ de Vinci, Michelangelo và Botticelliqua những tác phẩm ngh? thuật dỈ>i hình thức tranh và tỈợng làm tfng vẻ 'ẹp bên trong cũng nhỈ bên ngoài của các công trình.
    Nhà thờ chính, 1 trong những công trình kiến trúc hoành tráng nhất Firenze xứng 'áng là 'ifm 'ầu tiên 'Ỉợc nhắc 'ến. Mái vòm kh.ng l" của nó n.i bật trên nền trời xanh, lúc nào cũng thu hút tầm nhìn của du khách, bất kf họ 'ứng Y vi phát minh táo bạo, 'ã úp lên phần chính hình tròn 6 cạnh của nhà thờ trung tâm('Ỉợc xây dựng từ 'ầu TK XIV ?" nỈi cầu nguy?n l>n nhất cho tín '" CỈ ''c giáo xứ Tuscane) chiếc mái vòm '" sT có chu vi 42m từ 'T cao 100m. Đây là ví dụ 'ifn hình nhất, mẫu mực nhất cho hàng lốt mái vòm khác của thời 'ại này. Alberti ?" 1 kiến trúc sỈ n.i tiếng khác 'ã nói nó "'ủ l>n 'f tất cả dân chúng xứ Tuscany có thf dỈ>i cái bóng của mình". Chiếc mái vòm này 'Ỉợc nguời 'ời sau gọi là "Sự vĩ 'ại của nhân dân xứ Tuscany". Nfm 1857, mặt tru>c của nhà thờ bi 'Ỉợc phục h"i nguyên trạng bằng hàng chục tấn 'á cẩm thạch xanh và trắng 'p bên ngoài. BỈ>c vào bên trong hẳn không ai không sững sờ trỈ>c nhữg bức bích hố l>n trên tỈờng và trên mô tả quang cảnh 'c khi vỈợt qua 463 bậc thang lên t>i nóc nhà thờ 'f ngắm toàn cảnh TP Firenze.
    Nằm bên cạnh nhà thờ chính '" sT là chiếc Campanile(Tháp Chuông) duyên dáng, mảnh mai 'Ỉợc xây dựng từ nfm 1334 và Bapistery(Nhà nguy?n), từng 'Ỉợc coi là 'ền thờ tà giáo, ngôi nhà nguy?n hình bát giác này là công trình c. nhất Y Firenze còn t"n tại 'ến ngày hôm nay. Nó thu hút du khách bằng những cánh c.ng nặng nề mạ '"ng thau, 'ặc biết Y fía Đông, 'c dân 'i Thiên ĐỈờng"
    Trong su't 27 nfm trời, ngh? sĩ Lorenzo Ghiberti 'ã ghi dấu ấn của mình lên những cánh c.ng này bằng các bức phù 'iêu mô tả lại câu chuy?n trong Kinh Cựu ứỈc.Tác phẩm của ông gần gũi v>i chủ nghĩa hi?n thực 1 cách kỳ lạ. NgỈời ta có thf tìm thấy chân dung của Ghiberti trên cánh c'ng thứ 4, ông 'ã cho 1 nhân vật trong huyền thối mang bT mặt của mình.
    [​IMG]
    Tiền thân của Firenze là 1 trung tâm thỈỈng mại. Ngày nay du khách có thf 'i dạo trên những con 'Ỉờng nhỏ dọc hai bên là những cửa hàng sang trọng mang tên tu.i l>n nhỈ Gucci, Versace, Moschio, Bally, Christian Dior hay Yves Saint Laurent. Đáng tiếc là giá cả Y 'ây lại thuTc lối trên trời.
    Firenze tỈợng trỈng cho mTt trung tâm vfn hoá của châu ,u thời trung c. và ngày nay trY thành 1 trong những trung tâm du li '. về, m-i ngày có 'ến 2.000 xe bus lối 50 ch- cho khách du li chi phí lên 'ến 165.000 euro.
  6. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Vatican
    [​IMG]
    Được hình thành như một đất nước độc lập sau hoà ước Lateran năm 1929, thành phố rộng 0,44km2, nằm dọc bên bờ sông Tiber và vườn Gianicolo. TP có một piazza (giống như một quảng trường, 1 giáo đường San Peters và lâu đài Vatican. Thành phố được bao bọc bởi một bức tường cao và có hệ thống hành chính, ngân hàng riêng biệt. Miễn thuế cho các giám mục và Hồng Y.
    Nhà nước Vatican là một nhà nước Thần quyền. Đứng đầu là Giáo hoàng La Mã. Vị Giáo hoàng được hội đồng Hồng y giáo chủ bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín, và chức vụ này được duy trì cho đến suốt đời. Hội đồng Hồng y giáo chủ gồm 136 người do Giáo hoàng bổ nhiệm. Giáo hoàng nắm quyền lập pháp tối cao và hành pháp. Tên gọi của Vatica xuất phát từ tên gọi của một khu đồi thấp trên bờ sông Tiber. Tại đây, từ thời tiền Trung cổ, người ta đã xây dựng một toà lâu đài nguy nga và đến cuối thế kỷ XIX, nó trở thành nơi trú ngụ thường xuyên của những người đứng đầu giáo hội Thiân Chúa. Sau khi Italia thống nhất và sát nhập TP Roma vào Italia năm 1870 thì quyền lực của Giáo hoàng cũng chấm dứt. Nhưng khoảng thời gian sau đó là mâu thuẫn dai dẳng giữa chính phủ và Giaó hội, để rồi sau đó là sự ra đời của nhầ nước Vatican, biên giới được vạch ra, ngai vàng thiêng liêng được công nhận trên trường Quốc tế.
  7. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Nhà thờ và quảng trường St Peter
    [​IMG]
    Công trình Nhà thờ Thánh Peter kỷ niệm việc Thánh Peter được Chúa Jesus phong làm tông đồ chính. Vì Rome là thủ đô của đế chế La Mã, hai tông đồ Peter và Paul đã tới thành phố này để truyền đạo trong thiên niên kỷ đầu tiên.
    Tuy nhiên, khi những người Thiên chúa giáo bị hành hình vì đức tin của họ, năm 64 sau công lịch, tông đồ Peter bị bắt và đưa tới đấu trường La Mã rồi hành hình trên cây thánh giá. Thi hài của ngài được đưa ra ngoài tường của trường đấu và ngài được chôn cất trong một ngôi mộ nhỏ có mái che ở sườn đồi Vatican.
    Gần 300 năm sau, Constantine, vị đế vương theo đạo Thiên chúa đầu tiên của thành Rome tuyên bố rằng một nhà thờ sẽ được xây lên tại nơi đặt mộ của Thánh Peter. 1300 năm sau thì những chi tiết về ngôi mộ này đã bị quên lãng. Từ những năm 1930, Vatican không thể đưa ra được bằng chứng gì là thánh Peter được chôn cất bên dưới nhà thờ. Tới năm 1939, các công nhân tu sửa khu hầm bên dưới nhà thờ St Peter, nơi mai táng truyền thống của các giáo hoàng, đã có một phát hiện đáng kinh ngạc. Ngay bên dưới sàn nhà, họ phát hiện ra một ngôi mộ La Mã cổ. Và đó không chỉ có một ngôi mộ mà cả thế giới của người chết. Sau nhiều tháng đào bới, những người khai quật đã tìm đến một khu vực những ngôi mộ cổ hơn, gần khu vực bên dưới án thờ. Ngay dưới án thờ, người ta tìm thấy một khu vực chôn cất lớn và một bức tường sơn đỏ. Trong một hốc tường là xương của một người đàn ông.
    Mái vòm của nhà thờ St Peter
    Được xây dựng trong vòng hơn 100 năm, công trình nhà thờ St Peter là viên ngọc trên chiếc vương miện Vatican. Những người trông nom nơi này được gọi là sampietrini, có nghĩa là người của Thánh Peter. Họ trông coi 44 án thờ, 27 nhà thờ nhỏ, 800 chúc đài treo, 390 bức tượng, 135 bức khảm, và hơn 15.000 m2 nền nhà làm bằng đá hoa cương. Một năm 2 lần, các sampietrini lại lau rửa công trình baldachino của Bernini, một mái vòm bằng đồng cao 29 m ở phía trên án thờ của giáo hoàng.
    Đội sampietrini được thành lập nên gần 400 năm về trước. Khả năng làm việc trên những độ cao ngất trời trên nhà thờ và dãy cột đã khiến cho họ có biệt danh là những ?onhà nhào lộn không biết ngã?. Vào những dịp đặc biệt trong quá khứ chẳng hạn như khi một giáo hoàng đăng quang, các sampietrini sẽ chuẩn bị lễ treo đèn kết hoa. Trong dịp này, hàng nghìn chiếc đèn ***g và đuốc dược đặt khắp nơi ở mặt tiền và trên dãy cột nhà thờ St Peter. Thậm chí nơi đỉnh mái vòm chót vót cũng được trang trí bằng những ngọn đèn.
    Cho đến năm 1506, nhà thờ St Peter, nhà thờ chính ở Vatican vẫn còn rất nhỏ và ọp ẹp. Học theo các hoàng đế và sultan, Giáo hoàng ****** II quyết định tạo cho nhà thờ xưa cũ một mái vòm. Ông thuê kiến trúc sư Donato Bramante làm việc này. Ý tưởng của Bramante khá đơn giản: một chữ thập kiểu Hy Lạp với những cánh toả ra chung quanh mái vòm trung tâm. Nhưng cả Bramante lẫn giáo hoàng đều qua đời trước khi công trình được hoàn thành. Năm 1546, một chàng nghệ sĩ trẻ từ Florence có tên Michelangelo được toàn quyền xây nhà thờ St Peter, nhà thờ lớn nhất của đạo Thiên chúa giáo.
    Mặc dù thiết kế đại đa phần Nhà thờ St Peter (hoàn tất năm 1626), Michelangelo từ chối nhận tiền thù lao cho công trình của mình.
    Trước khi chết, ông Bramante thuyết phục Giáo hoàng lệnh cho Michelangelo vẽ trên trần nhà thờ Sistine, vì nghĩ rằng Michelangelo - một nhà điêu khắc chứ không phải một hoạ sĩ - sẽ làm hỏng việc. Bramante đã lầm to. Những bức tranh vẽ trên tường Nhà thờ Sistine được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nghệ thuật phương Tây.
    Michelangelo đã thiết kế lên một mái vòm khiến cho công trình Pantheon gần đó cũng phải lu mờ. Về đường kính thì nó nhỏ hơn Pantheon, nhưng cao hơn nhiều. Làm gần như hoàn toàn bằng đá nặng, công trình vòm có đường kính 42 m và chiều cao 138 m. Để đỡ được một mái vòm khổng lồ như thế, các thợ xây phải đặt 3 vòng sắt bên trong lớp đá của mái vòng. Công trình được hoàn thành vào năm Tuy nhiên, về sau những vết rạn đã xuất hiện xung quanh chân mái vòm. Đến thế kỷ 16, các kỹ sư của Vatican phải thêm vài vòng đỡ khác, trong một đợt sửa chữa khẩn cấp. May sao, giải pháp này đã đương đầu được với thời gian.
    Quảng trường St Peter
    Bernini thiết kế quảng trường St Peter, dưới thời Giáo hoàng Alexander VII (1655 -1667). Mục đích của ông là mở rộng mặt tiền nhà thờ để hàng nghìn người có thể nhìn thấy và được giáo hoàng ban phước.
    Vì vậy ông tạo ra một hình êlip, với 4 dãy cột bao bọc quảng truờng. Những dãy cột tượng trưng cho những cánh tay của nhà thờ. Phía trên có tổng cộng 140 bức tượng thánh. 90 bức là tác phẩm của những phụ tá của Bernini, chủ yếu là Lazzaro Morelli và Giovanni Maria de Rossi. Năm 1702, giáo hoàng Clemens XI quyết định đưa thêm 50 bức tượng. Nổi lên ở giữa là huy hiệu khổng lồ của Alexander VII.
    Ở trung tâm của quảng trường là một tượng đài Ai Cập cổ cao 25,5 m, nặng 320 tấn. Năm 1586, khi các công nhân chuyển nó về đây theo lệnh của Giáo hoàng Sixtus V, họ đã cẩn thận xem kỹ quả cầu bằng kim loại ở phía trên tượng đài. Theo lời đồn đại thì hài cốt của Caesar được giấu ở đây, nhưng họ không tìm được gì.
    Một vài nét về Vatican
    Hiến pháp: Hiến pháp tòa thánh 1967
    Quyền bỏ phiếu: các hồng y dưới 80 tuổi.
    Cơ quan hành pháp: Đứng đầu chính phủ: Giáo hoàng Paul II.
    Ngoại trưởng: Hồng y Angelo Sodano
    Nội các: Ban tòa thánh do giáo hoàng chỉ định.
    Bầu cử: Giáo hoàng được Hội đồng các hồng y bầu ra và đảm nhiệm chức vụ suốt đời. Kỳ bầu cử gần đây nhất được tiến hành vào ngày 16/10/1978. Chức vụ ngoại trưởng do giáo hoàng chỉ định.
    Cơ quan lập pháp: Ban tòa thánh một viện.
    Cơ quan tư pháp: không có, thường do Italy đảm trách.
    Quân sự: Quốc phòng là trách nhiệm của Italy. Các lính gác Thuỵ Sĩ canh giữ các lối vào thành phố Vatican để đảm bảo an ninh và bảo vệ giáo hoàng.
    Ngày nghỉ quốc gia: ngày đăng quang của Giáo hoàng John Paul II, 22/10.
  8. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    ****** Caesar
    80 tr CN lần đầu tiên Tham gia quân đội ở bên Thổ. Tại đây ông đoạt được biểu tượng cao qyuý của công dân vì lòng can đảm riêng của ông
    60tr CN Caesar cùng với Gnaeus Pompeus và Marus Crassus thành lập thế chế Tam Nhân đầu tiên và được chọn làm quan Tống trấn năm 59 tr CN
    58-50 tr CN Chinh phục Gaul
    49 tr CN Caesar đẩy mạnh cuộc nội chiến
    45 tr CN Caesar được chỉ định làm nhà lãnh đạo tối cao mãi mãi
    15 tháng 3 năm 44 tr CN Caesar bị ám sát tại La mã
    [​IMG]
    Caesar là còn ngưòi có tài hùng biện, viết văn, chiến đấu và làm chính trị, Ngoài trận tuyến ông chứng tỏ là một người chỉ huy xây dựng chiến thuật và tổ chức bậc thầy. Nhiều khi ông tỏ ra tàn nhẫn trong việc theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình.
    Với tư cách là quan Tống trấn, ông đưa vào nhũng sự thay đổi có tính cách xây dựng. Rồi chiên dịch 8 năm với đầu óc của bậc quan sư tuỵệt vời của ông đã chinh phục đựoc toàn đất Gaul. Năm 49 tr.CN ông trở về nhận phần thưởng cho những đạo quân trung thành và vinh dự cho bản thân ông, nhưng ông nhận thấy mình bị công bố là kẻ thù của công chúng. Vì vậy ông đem toàn bộ binh mã về La mã đánh đuổi những người đối kháng và trở thành nhà độc tài năm 40 trCN. Ông đã có nhiều cuộc cải cách mang tính chất sâu rộng. Đáng tiếc năm 44 trCN Caesar bị ám sát. Mark Antony - bạn ông và Octavius - người cháu và là con nuôi của ông đã báo thù cho cái chết này. Năm 31 trCN Octavius trở thành chủ nhân của thế giời La Mã (Mark Antony và Octavius cãi nhau rồi xảy ra chiến tranh , Antony thua trận), và năm 27 trCN lấy tên là Augustus. Tiếp tục xây dựng thời kỳ hưng thịnh nhất của đế chế La mã.
  9. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    Trong thời Trung Cổ, không một người châu Âu nào đã đi du lịch qua phía đông quá xa như Marco Polo và đã mang về các tin tức của một xứ sở xa lạ là nước Trung Hoa. Cuộc viễn du của Marco Polo đã đóng góp vào sự hiểu biết của người tây phương về châu Á, mở ra các đối thoại và mậu dịch với châu Á, giúp công vào việc làm giầu cho xứ Venice cùng các thành phố khác của nước Ý nhờ đó Thời Phục Hưng đã phát triển.
    [​IMG]
    Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên tới được Bắc Kinh nhưng là người đầu tiên mô tả từng chi tiết về các cung điện, lối sống và triều đình của Đại Hãn nhà Nguyên tại Bắc Kinh, người đầu tiên nói về các miền đất Java, Sumatra, Thái Lan và Miến Điện. Sự giàu có của nước Trung Hoa vào thế kỷ 14 đã là điều nghi ngờ và mơ ước của các người tây phương, họ hỏi làm sao tới được miền đất trù phú đó, nếu không bằng đường bộ thì bằng đường biển. Marco Polo đã trải qua 24 năm tại một thế giới xa lạ và còn bí ẩn đối với người châu Âu, sự bí ẩn giống như của các hành tinh đối với chúng ta ngày nay. Câu chuyện kể của Marco Polo về nước Trung Hoa được coi là một loại huyền thoại và trong 200 năm, cuốn sách "Mô tả về Thế Giới" của ông đã là nguồn tin tức chính về một xứ phương đông chưa được biết tới.
    1/ Chuyến đi buôn của người cha, Nicolo Polo.
    Vào thế kỷ 13, châu Âu đã trải qua Thời Kỳ Đen Tối (the Dark Ages) và cô lập, chuyển sang giai đoạn phát triển về thương mại và chiến tranh với vùng Cận Đông. Dân chúng của châu Âu gia tăng, các thành phố bắt đầu mở rộng khiến cho có nhu cầu về hàng hóa. Vào thời đại đó, các nhà quý tộc thường khinh rẻ ngành buôn bán nên đã xuất hiện một tầng lớp trung lưu gồm các thương nhân tại một số thành phố lớn nhỏ. Trong các địa điểm đông dân cư đang phát triển, không nơi nào thích hợp với công việc mậu dịch hơn thành phố Venice của nước Ý. Đây là nơi lý tưởng, nằm trên biển Adriatic và hướng về phương Đông.
    Năm 1254, ông Nicolo Polo cùng người em trai tên là Maffeo, là hai thương nhân về nữ trang, đã thực hiện một chuyến đi xa, tới thành phố Constantinople, rồi cũng do công việc thương mại, hai người này đã đi khá xa về phía đông, tới tận Bukhara, sâu vào bên trong miền đất thời bấy giờ thuộc quyền kiểm soát của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ đã từ phần đất phía bắc của nước Trung Hoa, tràn qua đánh chiếm châu Âu và lập nên các lãnh thổ mới do các Khả Hãn cai trị. Tại nước Nga, người Mông Cổ được gọi là rợ Thát Đát (Tartars).
    Hai anh em thương nhân này đã bị mắc kẹt trong xứ của người Thát Đát trong 3 năm vì các trận chiến quanh vùng, vì các bọn cướp đe dọa đường về. Cuối cùng, nhân một chuyến về thăm triều đình Đại Hãn tại Trung Hoa của một vương hầu Thát Đát, hai anh em Polo được mời đi theo. Đây là cơ hội rời khỏi miền Bukhara một cách an toàn, nên hai thương nhân này đã nhận lời theo đoàn sứ quân ra đi.
    Năm 1265, sau hơn một năm trời gian nan trên đường trường, hai anh em Nicolo và Maffeo đã tới được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và được Đại Hãn Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) đón tiếp niềm nở. Đại Hãn là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, vị hoàng đế đã lập nên đế quốc Mông Cổ rất rộng lớn, trải dài từ miền bắc châu Á tới tận các phần đất phía đông của châu Âu.
    [​IMG]
    Bản đồ cuộc hành trình của M.Polo 1271-1297
    20 năm về trước, đã có vài người châu Âu là các thương nhân hay các tu sĩ tới được nước Trung Hoa và xứ Mông Cổ, nhưng Nicolo và Maffeo là hai người châu Âu đầu tiên được trình diện trước triều đình của Đại Hãn. Hai thương nhân miền Venice khi tới Yên Kinh, đã rất ngạc nhiên về nhiều điều mới lạ.
    Kinh đô này có các bức tường thành cao bao vây chung quanh và phần bên trong tường thành được phân chia thành nhiều vùng với lâu đài hoàng gia ở giữa. Anh em nhà Polo cũng rất cảm kích trước lòng hiếu khách của Đại Hãn và sự xuất hiện của những người xa lạ, từ một xứ chưa được biết tới, đã khiến cho Đại Hãn Hốt Tất Liệt phải quan tâm. Đại Hãn cũng thắc mắc về đạo Thiên Chúa nên khi anh em Polo rời khỏi Trung Hoa, nhà vua đã yêu cầu họ mang một bức thư gửi cho Giáo Hoàng, yêu cầu phái đến triều đình Mông Cổ 100 tu sĩ học giả. Đại Hãn cũng chân thành mời anh em Polo trở lại Trung Hoa đồng thời cấp cho họ một giấy phép có đóng mộc vàng, để bảo đảm an toàn lúc đi đường.
    Năm 1269, hai anh em Polo đã về tới Venice thì được biết bà vợ của Nicolo đã qua đời sau lần sinh hạ một cậu con trai đặt tên là Marco Polo và cậu này được một người trong gia đình nuôi dưỡng. Lúc này, cậu Marco Polo đã là một thiếu niên 15 tuổi, lanh lẹ, tháo vát, thường lân la chơi đùa tại bến tầu và quen biết với khá nhiều thủy thủ.
    2/ Chuyến đi xa của Marco Polo.
    Hai năm sau ngày trở về, ông Nicolo lại cùng với người em trai xuống tầu từ Venice và trong lần viễn du này, có dẫn theo cậu con trai Marco. Khi đến Jerusalem thì vị Giáo Hoàng quen biết khi trước đã qua đời trong khi đó các hồng y chưa bầu ra được một Giáo Hoàng mới. Anh em nhà Polo đành quyết định vẫn ra đi với 2 tu sĩ và một số dầu thánh (holy oil). Đường đi gian truân đã làm cho 2 tu sĩ nản lòng rồi vì lo sợ cho sự an toàn, họ đã giả vờ bệnh nặng và trở về, còn các thương nhân Venice vẫn tiếp tục lên đường. Marco Polo lúc này là cậu thanh niên yêu thích thiên nhiên, có đầu óc thực tế, biết nhận xét những điều xa lạ, nên đã giữ sổ nhật ký, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc hành trình.
    Rời Jerusalem bằng thuyền, hai thương nhân tới thị trấn Acre rồi thị trấn Ayas. Tại nơi này họ lên bờ, đi theo đoàn lạc đà. Khi hai thương nhân đã rời khỏi Jerusalem thì được tin Theobald of Piacenza được bầu làm Giáo Hoàng Gregori X. Để tránh nơi giao tranh giữa hai lực lượng Thập Tự Chinh (Crusaders) và các quân Hồi Giáo, họ đã đi về phía bắc, hướng tới Hắc Hải rồi vòng qua hướng đông, tới gần núi Ararat, nơi mà nhiều người tin rằng con thuyền lớn của ông Noah đã được kéo lên bờ. Đoàn lữ hành cũng đã đi qua các ngọn đồi của miền nam xứ Georgia thuộc nước Nga ngày nay. Các vùng đất này đều quen thuộc với các thương nhân châu Aâu nhưng riêng với Marco Polo, cậu rất ngạc nhiên trước các loài chim lạ, loại đá muối, các loại hồng ngọc và các giếng dầu. Loại dầu này không dùng để ăn mà được người dân địa phương chữa các bệnh ngoài da cho người và lạc đà, và dùng để đốt đèn vào ban đêm.
    Khi vào xứ Iran, anh em nhà Polo đã dừng chân tại Saba, nơi mà theo chuyện kể, 3 tu sĩ Magi đã mang quà tặng, theo chỉ hướng của các vì sao tới thăm viếng Chúa Hài Đồng tại Bethlehem. Tới lúc này, đoàn thương nhân đã đi quá xa, tới vùng xa lạ và nguy hiểm, đi rất chậm với tốc độ từ 10 tới 20 dậm một ngày, qua các thung lũng lạnh lẽo, các xa mạc nóng bỏng và toàn sỏi đá, không còn thấy các cây cối xanh tươi. Khi đến thị trấn Kerman, anh em Polo cho rằng nên dùng đường biển để tới Trung Hoa, họ đã đổi hướng về phía nam, tiến tới hải cảng Hormuz nằm trong vịnh Ba Tư. Trên đường đi, họ đã thấy các làng mạc ẩn hiện sau các bức tường thành cao đắp bằng đất để ngăn cản loại quân chuyên cướp bóc Karaunas. Bỗng nhiên, bầu trời tối sầm lại và trong trận bão cát, đoàn thương nhân bị quân cướp kể trên ập tới đánh phá. Marco Polo đã kể lại rằng người Karaunas biết dùng phép phù thủy khiến cho trời quang trở thành tối tăm, mọi người khó nhìn thấy mặt nhau trừ khi đứng rất gần nhau. Trong trận đánh cướp này, cha và chú Polo cũng như Marco đã thoát nạn nhờ may mắn, một số người cùng đi đường bị bắt, nhiều kẻ bị giết. Cuối cùng, đoàn lữ hành cũng tới được hải cảng Hormuz. Tại nơi này, khi nhìn thấy các con thuyền đi biển mỏng manh, may bằng sợi dây dừa, các kẻ viễn du đã phải đổi ý, quay trở lại thị trấn Kerman, theo Con Đường Tơ Lụa hướng lên phía bắc rồi đi về phía đông, tới thành phố Balkh tại mạn bắc của xứ Afghanistan.
    Balkh 50 năm về trước là một thành phố với các lâu đài tráng lệ xây bằng đá hoa trắng, là kinh đô của xứ Bactria và cũng chính tại nơi đây, Đại Đế Alexander đã cưới công chúa của vua Ba Tư Davis. Nhưng vào lúc này, Marco Polo thấy thành phố đã bị cháy rụi, trở thành bình địa, tàn phá do đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi rời khỏi Balkh, gia đình Polo đã đi về hướng Badakhshan là một tỉnh nằm về phía bắc của rặng núi Hindu Kush và cũng là nơi có nhiều mỏ đá màu xanh da trời, gọi tên là ?olapis lazuli?. Marco Polo cũng ghi nhận rằng nơi này sản xuất ra các loại hồng ngọc rất quý và đây cũng là nơi có khí hậu rất tốt, sớm làm phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. Từ Badakhshan, đoàn lữ hành đi qua cao nguyên Pamir, một vùng mà Marco Polo đã thấy có rất nhiều loại hươu sừng rất dài. Rồi đoàn người leo lên trên một cao nguyên 12,000 bộ, được gọi là "Mái nhà của thế giới" (the Roof of the World). Marco Polo đã ghi trong sổ rằng: "không thấy có chim muông nào trên miền núi" và "lửa không còn cho cùng sức nóng như ở các mạn dưới thấp".
    Từ miền núi cao, đoàn lữ hành xuống thấp dần, lọt vào vùng Tân Cương, một vùng có các ốc đảo xanh tươi và bờ sông đầy loại đá hoa cương. Khi tới thị trấn Lop, đoàn lữ hành chuẩn bị băng qua phần phía nam của Sa Mạc Takla Makan. Theo lời ghi chép của Marco Polo thì ?onhững người sửa soạn vượt qua sa mạc đã nghỉ ngơi tại thị trấn này một tuần lễ để phục hồi người và vật, rồi họ lo một tháng thực phẩm cho cuộc hành trình. Khi rời thị trấn này, họ đi vào sa mạc. Chiều dài của sa mạc lớn tới độ người ta nói rằng phải mất một năm hay hơn để đi từ đầu này tới đầu kia, và đi theo chiều ngang ngắn nhất cũng phải mất một tháng?. Người dân địa phương tin rằng sa mạc Takla Makan có các loại ma quỷ, gọi tên người, giả làm kẻ đồng hành và đưa các kẻ lữ hành tới chỗ chết. Vì vậy anh em nhà Polo đã phải rất cẩn thận trước sa mạc cát nóng, tạo ra các ảo ảnh. Trong nhiều tuần lễ, họ đã đi men theo phía nam của sa mạc Gobi, tới được thị trấn Kumul rồi vào xứ Mông Cổ. Đây là phần đất có giống người Thát Đát cư ngụ. Marco Polo đã thấy tận mắt loại thạch miên (asbetos), nhìn thấy bức tượng Phật nằm rất lớn và đã ghi chép các nhận xét chính xác về người Mông Cổ : "các người Thát Đát giàu có mặc y phục bằng lụa và vàng, bằng da và lông của các thú vật với các kiểu cách sang trọng. Người Thát Đát rất gan dạ trong trận chiến, tới độ cực đoan. Họ có thể chịu đựng mọi loại thiếu thốn và khi cần, có thể sống cả tháng bằng sữa của lừa ngựa hoang mà họ săn bắt được. Các người đàn ông Thát Đát được huấn luyện sống trên lưng ngựa hai ngày mà không xuống đất, ngủ trên lưng ngựa khi ngựa ăn cỏ. Không một giống dân nào trên trái đất vượt hơn họ về cách chịu đựng các khó khăn và kiên nhẫn. Nếu hoàn cảnh cần đến, họ có thể đi bộ 10 ngày mà không đốt lửa hay dùng bữa. Trong thời gian này, ho sống bằng máu ngựa".
    Sau khi rời thành phố Venice trong 3 năm rưỡi, anh em Polo đã vượt qua 8,000 dậm đường, băng qua các miền đất rất khó đi và nguy hiểm. Sự việc đoàn lữ hành tới đất Mông Cổ đã được báo về cho Đại Hãn rõ và nhà vua đã cho người đón trước ở khoảng cách 40 ngày đường, ra lệnh cho mỗi nơi dừng chân dành cho họ các tiện nghi tối đa.
    Mùa hè năm 1275, đoàn lữ hành tiến vào cung thành Mông Cổ là Thượng Đô (Shangtu), nơi có các lâu đài mùa hè rất lớn bằng đá hoa rực rỡ, tọa lạc trên vùng đất rộng 16 dậm vuông, với các suối nước và thật nhiều hươu nai cùng các con thú khác mà Đại Hãn đã săn bắt được bằng các con báo rừng hay diều hâu. Vào thời kỳ này, đế quốc Mông Cổ là miền đất rộng lớn nhất chưa từng thấy, trải dài từ bờ biển Trung Hoa ở phía đông tới tận xứ Hungari ở phía tây. Hai ông Polo và cậu Marco được dẫn tới một đại sảnh có dát vàng rực rỡ. Ở giữa cung điện và ngồi trên ngai vàng là ĐaÏi Hãn Hốt Tất Liệt mặc áo lụa thêu chỉ vàng, vào cỡ tuổi 60, là một nhân vật oai vệ, có chiều cao trung bình nhưng vạm vỡ, với đôi má hồng và "đôi mắt đẹp màu đen". Sau khi quỳ lậy, ông Nicolo trình diện cậu Marco là "kẻ hầu của nhà vua và cũng là con trai của tôi" thì được ĐaÏi Hãn trả lời là rất vui mừng đón tiếp, rồi nhà vua hạ lệnh tổ chức tiệc rượu.
    Thượng Đô là nơi nghỉ mùa hè của Đại Hãn, tọa lạc về phía bắc 200 dậm và không xa Vạn Lý Trường Thành. Tới cuối tháng 8, nhà vua lại dọn về sống tại Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh), một nơi có các cung điện rực rỡ hơn. Marco Polo dần dần trở nên một trong các cận thần của vua Mông Cổ nên chàng thanh niên xứ Venice này đã có nhiều cơ hội quan sát và ghi chép về lối sinh hoạt tại triều đình. Đại Hãn Hốt Tất Liệt tuy bản chất là người Mông Cổ nhưng đã chấp nhận nhiều lối sống văn minh của người Hán. Nhà vua có 4 hoàng hậu với cả ngàn người hầu cận. Trong các buổi thiết triều, một trong các hoàng hậu cũng được ngồi vào ghế danh dự, ngang hàng với nhà vua. Đại Hãn còn có hàng trăm cung tần và mỗi hai năm, từ 30 tới 40 thiếu nữ mới được tuyển lựa cẩn thận vào cung theo các tiêu chuẩn về nhan sắc và các đặc điểm khác như khi ngủ không ngáy to, thân thể không tiết ra thứ mùi khó chịu. Cha mẹ của các cung tần này thường hãnh diện khi có con gái được tuyển mộ vào cung cấm và sau vài năm sống tại hậu cung, các cung tần được nhà vua gả cho các quan trong triều. Đại Hãn là một con người nhân từ, thường ra lệnh cấp ngũ cốc và gia súc cho những miền đất bị thiên tai, hạn hán.
    Đại Hãn còn có một đội ngũ các chiêm tinh gia, đúng hơn là các thầy phù thủy và Marco Polo đã mô tả họ là loại người thô lỗ, dơ bẩn, thường khoe khoang kiểm soát được gió mưa và có các khả năng huyền bí. Chung quanh Đại Hãn có các võ tướng người Mông Cổ, một số học giả người Trung Hoa và nhà vua còn dùng vài người ngoại quốc trong việc cai trị xứ sở. Đế quốc Mông Cổ vào thời kỳ này rất rộng lớn, gồm 34 tỉnh do 12 vương hầu cai trị và chịu trách nhiệm trước Đại Hãn. Tuy là một miền đất bao la nhưng người Mông Cổ đã tổ chức được một mạng lưới thông tin hữu hiệu với khoảng cách 25 dậm có một trạm liên lạc, với ngựa khỏe và thông tin viên sẵn sàng mang các văn thư, hiệu lệnh của Đại Hãn tới các nơi xa xôi trong một thời gian kỷ lục. Marco Polo đã kể lại rằng một kỵ mã thông tin có thể vượt 250 dậm trong một ngày nhờ đó vào mùa hè, trái cây được hái buổi sáng tại Yên Kinh, đã được đưa đến Thượng Đô vào buổi chiều ngày hôm sau, trên một hành trình mà bình thường cần tới 10 ngày đi đường. Marco Polo còn mô tả về tiền giấy, một thứ tiền được chấp nhận tại mọi nơi trong đế quốc Mông Cổ, nhờ đó các lái buôn, các kẻ lữ hành đã không gặp khó khăn khi phải mang tiền đi xa. Người Trung Hoa đã dùng vỏ cây dâu, đâm vụn thành một thứ bột giấy giống như bông gòn và làm ra một loại giấy màu đen rồi trên đó có đóng triện đỏ của nhà vua. Việc làm bạc giả bị trừng phạt bằng tội tử hình.
  10. inzaghihuy

    inzaghihuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2002
    Bài viết:
    1.595
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Chân dung Marco Polo
    Trong vài năm sống tại triều đình của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, Marco Polo đã quan sát và học hỏi được nhiều phong tục, tập quán của các người Á châu, lại nói được ít nhất bốn ngôn ngữ địa phương của đế quốc Mông Cổ, khiến cho Đại Hãn rất khâm phục trí thông minh của cậu và đã nhờ chàng thanh niên này thi hành các sứ mạng tại miền nam Trung Hoa, tại các xứ Bengal và Miến Điện. Do Đại Hãn ưa thích nghe kể về những gì chưa được biết tới, Marco Polo đã ghi chép nhiều chi tiết về những miền đất đã đi qua. Trong 17 năm trường phục vụ cho Đại Hãn, Marco Polo đã đặt chân tới từ miền bắc xứ Mông Cổ tới tận miền nam là Vân Nam, từ các tỉnh bờ biển phía đông tới xứ Tây Tạng về phía tây và còn được bổ nhiệm làm quan tại Hàng Châu (Hangchow). Marco Polo đã mô tả thành phố này giống như Venice của xứ Ý, được xây dựng trên các giòng sông với chu vi vào khoảng 100 dậm. Nơi này có hai ngàn cây cầu bắc qua sông và con đường lớn của thành phố rộng tới 40 bộ theo chiều ngang. Trên đại lộ chính này, có tới 10 trung tâm thương mại với các cửa tiệm bán thực phẩm, rượu, gia vị, và cả các nữ trang như ngọc trai. Mỗi tuần, người dân tại nơi đây họp chợ 2 hay 3 kỳ và Marco Polo đã mô tả cảnh phồn thịnh của sinh hoạt tại Hàng Châu. Nơi chợ có đủ mặt hàng, từ các thú vật như hươu, nai, công, trĩ, tới bò, heo, gà, vịt, các loại lá cây và trái cây, mùa nào thức nấy không thiếu chi. Trong khi cha Nicolo và chú Maffeo mải lo buôn bán nữ trang thì Marco Polo đã đi công tác qua nhiều địa phương, biết rõ về đất nước Trung Hoa hơn phần lớn các người Mông Cổ và người Hán. Các lần đi công tác xa xôi không phải là an toàn vì dọc đường thường có các trộm cướp, các dã thú, các thác ghềnh... Các đoàn lữ hành thường phải đóng trại vào ban đêm, đốt lửa để xua đuổi mãnh thú. Marco Polo đã có dịp tới Tứ Xuyên, Vân Nam và Tây Tạng, một nơi đặc biệt tiêu xài bằng thứ tiền muối. Nơi đây có các suối muối và người dân đun muối trong các chảo nóng. Khi đã sôi trong một giờ, muối được cô đọng lại thành một loại bánh nặng chừng 3 gam, mặt dưới phẳng, mặt trên cong trên đó có đóng triện của nhà vua, để trở thành một thứ tiền tệ lưu hành trong dân chúng.
    17 năm sống tại Trung Hoa, một thời gian quá lâu, đã làm cho các thương nhân này nhớ nhà, mong đợi được trở về thành phố Venice thân yêu. Marco Polo đã ghi lại rằng càng ngày, gia đình Polo càng quyết tâm quay về vì Đại Hãn càng già, nếu qua đời bất ngờ thì khó lòng xin được các ân sủng để trở về xứ sở. Rồi vào một ngày đẹp trời, Marco Polo chờ lúc Đại Hãn vui vẻ, đã sụp lậy dưới chân để xin cho mình và gia đình được phép ra đi. Vào lúc này, Đại Hãn đã tỏ ra bất bình. Nhà vua có quyền tuyệt đối, việc từ chối thường xẩy ra và ba người Ý sẽ trở thành các người tù mãn đời trên đất Trung Hoa, và châu Âu sẽ không có cơ may được nghe kể về một xứ sở giàu sang, rực rỡ nhất vào thời đại đó.
    3/ Cuộc trở về của Marco Polo.
    Vào khoảng năm 1286, một thân nhân của Đại Hãn là Khả Hãn Tốc Bất Đài (Arghyn Khan) hiện đang cai trị xứ Ba Tư, đã phái sứ giả về Trung Hoa yêu cầu Đại Hãn kén chọn cho một cô vợ mới. Một thiếu nữ 17 tuổi, đầy đủ tài sắc, đã được tuyển lựa và phái đoàn này đã lên đường về Ba Tư theo đường bộ. Nhưng sau một năm, đoàn lữ hành đã phải quay lại Yên Kinh vì chiến tranh giữa các bộ lạc địa phương. Chính vào thời gian này, Marco Polo cũng mới trở về sau một chuyến đi công tác xa và đã được phái đoàn Mông Cổ tại xứ Ba Tư yêu cầu hướng dẫn họ bằng đường biển. Chương trình cuộc trở về châu Au được trình lên Đại Hãn và nhà vua bất đắc dĩ phải nhận lời, bằng lòng để Marco Polo với cha và chú ra đi, đồng thời Đại Hãn cũng gửi theo đoàn vài bức thư viết cho các nhà vua của châu Âu.
    [​IMG]
    Marco, Matteo và Niccoló Polo chuẩn bị lên đường chinh phục thế giới
    Năm 1292, một đoàn thuyền gồm 14 chiếc với hàng trăm người hộ tống, gồm có đoàn sứ giả Mông Cổ từ Ba Tư với cô dâu mới, gia đình Polo, đã ra khơi từ Hàng Châu, xuôi về phía nam, qua gần bờ biển Việt Nam, tới Singapore, Sumatra, ghé Ấn Độ, Tích Lan rồi men theo mỏm cực nam của lục địa Ấn Độ và tới hải cảng Hormuz. Cuộc hành trình này kéo dài mất hai năm và trên đường đi, Marco Polo đã ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe về đất đai, con người, sinh vật... mà người châu Âu chưa từng biết tới. Marco Polo đã mô tả con tê giác là loại thú có một sừng, kể chuyện về cướp biển... Các gian nguy trên đường về đã cướp đi nhiều mạng sống. Cuối cùng, đoàn sứ giả cũng tới được nước Ba Tư và cô dâu được giao cho triều đình Mông Cổ địa phương nhưng Khả Hãn Tốc Bất Đài đã qua đời và cô dâu được gả cho người con của Khả Hãn. Đường về từ xứ Ba Tư tới thành phố Venice còn khá xa. Marco Polo đã theo đường bộ, băng qua xứ Ba Tư, tới thành phố Trebizond bên bờ Hắc Hải rồi dùng thuyền, qua Constantinople. Trong cuộc hành trình, Marco Polo nghe tin báo rằng Đại Hãn đã qua đời năm 1294.
    Cuối cùng vào năm 1295, hai ông Nicolo và Maffeo cùng với Marco Polo đã cập bến cảng Venice, sau 24 năm vắng mặt và cuộc hành trình đi và về dài 15,000 dậm hay 24,000 cây số. Dân địa phương và các người họ hàng đã không nhận ra và nhớ được ba kẻ lữ hành này vì họ đã vắng mặt quá lâu, tiếng nói pha lẫn giọng phát âm Mông Cổ. Ông Nicolo đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi các người trong giòng họ và bạn thân rồi sau bữa ăn, ba thương nhân Polo đã dùng dao, rạch các chiếc áo mà họ đã mặc trên đường trở về từ xứ Trung Hoa, đổ lên bàn nào là vàng bạc, ngọc trai, kim cương, hồng ngọc và các loại đá quý khác. Vào lúc này, Marco Polo ở vào tuổi trên 40 và không còn nghĩ tới chuyện đi xa nữa.
    Đã từ lâu, Genoa và Venice là hai thành phố thù nghịch nhau. Năm 1296, quân lính Genoa đã đánh chiếm Venice và Marco Polo bị bắt. Không có sử gia nào cho biết về các lý do bị cầm tù này. Khi nằm trong nhà tù, Marco Polo đã kể lại các lần đi xa của mình và trong số các bạn tù ngồi nghe, có một văn sĩ chuyên nghiệp từ miền Pisa, tên là Rustichello. Vì bị hấp dẫn bởi cuộc hành trình, Rustichello đã yêu cầu Marco Polo cho mượn cuốn sổ ghi chép. Từ các câu chuyện kể lại và cuốn nhật ký, Rustichello đã dùng lối viết văn của minh, mô tả lại chuyến viễn du của Marco Polo và cuốn truyện được hoàn tất một năm trước khi Marco Polo được thả ra khỏi nhà tù vào năm 1299.
    Cuốn truyện có tên là "Mô tả về Thế Giới" (Description of the World) được Rustichello viết bằng tiếng Pháp cổ, là ngôn ngữ văn chương của nước Ý vào thời kỳ đó. Cuốn truyện cho biết các tin tức đầu tiên về nước Trung Hoa mà vào thời đó còn được gọi là "Cathay" và Marco Polo đã kể về sự giàu sang của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, về cách khai mỏ và dùng than đá, một loại nhiên liệu mà người châu Âu chưa được biết tới. Marco Polo cũng mô tả cách dùng tiền giấy trên đó có dấu ấn của nhà vua, các phong tục của xứ Trung Hoa, các lâu đài tráng lệ, cùng nhiều sự việc mà người châu Âu thời đó đã không tin, một phần cũng do Marco Polo nói quá sự thật.
    Vào đầu thế kỷ 14, ngành ấn loát chưa được phát minh ra tại châu Âu. Cuốn truyện "Mô tả về Thế Giới" của Marco Polo đã được một số học giả chép tay và phổ biến, gợi trí tò mò, gây ảnh hưởng tới các nhà thám hiểm. Sau khi hai xứ Genoa và Venice tái lập hòa bình năm 1299, Marco Polo được thả ra khỏi tù. Ông lập gia đình và đã có ba con gái nhưng không giàu có lúc qua đời vào năm 1324 mặc dù các vàng ngọc mang về từ xứ Trung Hoa. Marco Polo trở nên nổi tiếng tại địa phương nhờ các câu chuyện hấp dẫn, khó tin và khi đó nhiều người bạn hỏi nhà thám hiểm có muốn bỏ bớt những phần nói quá sự thật không, thì ông đã trả lời " tôi mới chỉ kể ra một nửa những gì trông thấy".
    Các điều quan sát và tường thuật của Marco Polo đã gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ, tới các học giả, các nhà địa dư, các thợ vẽ bản đồ và các nhà thám hiểm. Một trong các nhầm lẫn của Marco Polo là đã đặt xứ Nhật Bản giữa Trung Hoa và châu Âu. Sự giàu sang của châu Á đã hấp dẫn các nhà thám hiểm như Christopher Columbus. Họ tin tưởng rằng con người nếu không dùng đường bộ, thì có thể dùng đường biển để tới được xứ Trung Hoa.
    Trong thời Trung Cổ tại châu Âu, chưa có nhà thám hiểm nào đi xa về phía đông như Marco Polo, một nhân vật đã kể về các nền văn hóa khác, xa lạ với những điều hiểu biết của người đương thời, đã đóng góp vào việc mở ra các liên lạc đông tây về mậu dịch và kiến thức.

Chia sẻ trang này