1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn hoá đồng bằng Bắc Bộ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Văn hoá đồng bằng Bắc Bộ

    Thôi mở đầu năm mới và nhân tiện box được admin mở khoá, em chúc các bác mạnh khoẻ, đóp góp nhiều hơn cho box. Em mong rằng trong năm mới, các bác đừng gây ra vụ gì để bị admin khoá như ngày cuối năm hôm qua nữa.
    Để chào mừng năm, em xin làm một chủ đề Văn hoá đồng bằng Bắc Bộ.

    Trông về Kẻ Dạm

    ?oAi về thăm đất quê em,
    Mà lên núi Dạm xem tiên đánh cờ?
    (Ca dao)

    Mảnh đất của những truyền kỳ

    Kẻ Dạm, được ví như nằm giữa đoạn xương sống của vùng đất Vũ Ninh xưa. Nơi đây, có những quả núi đất dấu vết của những thềm sông cổ, gồ cao lên giữa dải bình nguyên. Và đất với người như cùng gương mặt, nên cũng ở đây nền văn minh tinh thần đã xếp thành tầng, thành lớp với biết bao câu chuyện thần kỳ. Kẻ Dạm-một trung tâm của thần thoại, cổ tích, dân ca và lễ nghi tín ngưỡng.
    Nếu như, vào thuở các vua Hùng dựng lập quốc gia, đất đai ở đây nằm trong cương vực của bộ lạc Rồng-như một số nhà sử học chủ trương-có lẽ cũng bởi vì thế núi sông. Đất Vũ Ninh cứ thoải dần xuống, là bậc thềm tiếp nối giữa vùng đồi núi lô xô và vùng đất trũng lầy. Sông Cầu bọc lấy ở phía bắc, con sông của những vị thần rắn trị vì. Sông Đuống chắn lại ở phía nam, cũng đã được định hình.
    Thư tịch nay đọc được cho hay thế kỷ III, thời thuộc Ngô, tên huyện Vũ Ninh xuất hiện-tên mới của vùng đất Rồng xưa cũ. Có lẽ vậy mà, cho tận tới ngày nay, vùng đất này vẫn còn lắm sông nhiều ngòi. Mùa nước đến, các dòng chảy chứa chan nước bạc tựa những con Rồng trườn mình giữa biển lúa xanh rờn.
    Trong những năm dài bị chính quyền phong kiến phương Bắc đô hộ, tên huyện Vũ Ninh lúc ẩn lúc hiện. Phải đến kỷ nguyên Tổ quốc Đại Việt độc lập-kể từ nhà Lý ?"thì tên gọi ấy mới được vững bền, dù tên ấy chỉ vì kiêng huý, chuyển sang là Vũ Giang-Võ Giang (Thời Lê, do kiêng huý chữ Ninh-Lê Trang Tông tên là Duy Ninh, làm vua từ 1533 đến 1548, nên sau Vũ Ninh đổi sang là Vũ Giang, ta quen gọi là Võ Giang).
    Nằm trọng giữa tiềm thức của người Việt cổ từ buổi khai thiên lập địa, đất Vũ Ninh đã sản sinh ra hình ảnh ông Đổng khổng lồ: thân hình cao vợi, đầu chạm trời, vai đụng mây, chân bước lún đất, tiếng nói như sấm dậy, mắt nhìn như lửa chớp loé. Con người ấy đã xẻ cát thành sông, vun đá thành núi, biến rừng thành ruộng nương. Bát cơm gạo trắng với quả cà là món ăn thường ngày của ông. Khắp nơi, từ rặng Tiên Lát, rặng Dạm, Khám, Che? đâu cũng có dấu chân ông.
    Về Kẻ Dạm, bạn sẽ được bất cứ ai chỉ cho dấu chân ông Đổng. Cái vũ trụ được người xưa nhân hoá từ khối hỗn mang chia ra trời đất, núi cao, biển rộng, sông dài. Cái thiên nhiên kỳ lạ ấy đồ sộ biết bao:
    ?oNúi kia ai đắp mà cao,
    Sông kia ai xẻ, ai đào mà xâu??

    Thì ra, tổ tiên ta đã hoà mình vào thiên nhiên, phóng mình ngang tầm vũ trụ, xếp lại tạo vật để có thứ tự hơn.
    Đất Vũ Ninh đang sống trong khung cảnh ấy, thì từ phương Bắc, giặc Ân tràn đến, chúng đóng chặt núi Trâu, gây bao cảnh bạo ngược hung tàn: bắt dân ta phải trồng cây ngược, phải nuôi ngựa đá bằng cỏ. Ai cũng nóng lòng chờ thời để vùng dậy.
    Thế rồi, những ngọn lửa từ các bễ rèn ở Kẻ Mòi (Mai Cương) ngày đêm rực toả. Tiếng búa đe, tiếng sắt, tiếng người thở, tiếng reo hò ầm ầm góc núi. Ông Hồng, người thợ cả của Kẻ Mòi, với nước da đỏ au, mắt sáng quắc đang chỉ huy hàng trăm, hàng trăm người rèn roi, đúc ngựa cho cậu bé làng Dóng. Đúc đi đúc lại hai lần, cậu bé thần lính ấy mới lên đường giết giặc.
    Ngựa Dóng phi như bay, lửa hờn căm từ miệng phun cháy giặc Ân. Cây roi của Dóng bị gãy một nửa cắm trên đỉnh núi Trâu. Dóng bỏ gậy sắt, dùng ngay tre của vùng Thất Gian quăng vào bọn giặc. Đánh xong, Dóng nghỉ lại ở Bãi Bùng, rồi ghé thăm Kẻ Mòi trên đường về núi Sóc.
    Soi vào trong truyền thuyết, một hiện thực của buổi hồng hoang hiện lên khoẻ đẹp ngời ngời. Từ buổi bình minh của dân tộc, Vũ Ninh đã thay mặt cho đất nước, ghi những dòng đàu tiên cho trang sử dựng nước và giữ nước đầy gian khổ nhưng vẻ vang.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Kẻ Dạm-vùng đất theo cách gọi của dân gian là đất tứ linh: rồng uốn lượn một dải từ Sơn Dương, Tự, Trung và Triều; phượng đậu ở Sơn Đông và Đa Cấu; lân đứng ở Sơn Nam và Đông Dương; quy ngoi đầu lên từ đồng ruộng, nằm cạnh Nga Hoàng.
    Kẻ Dạm-có núi Dạm, còn gọi là Đại Lãm sơn, Cảnh Lãm sơn hoặc Lãm sơn. Đây không phải là quả núi đột khởi giữa đồng bằng, mà cùng một hệ với các rặng bên vùng Tiên Sơn, ở vào đoạn cuối. Trên đỉnh núi Dạm có ?obàn cờ tiên? bị lật ngược, dấu tích trừng phạt của thiên cung đối với các nàng tiên mải mê nơi hạ giới.
    Giờ đây, trèo lên đỉnh núi, dù chẳng được gặp tiên, nhưng cứ phóng tầm mắt ra xa mà ngắm nhìn một vùng phong cảnh quê ta, khác nào tiên cảnh. Thiên nhiên đã ưu đãi cho Kẻ Dạm. Hãy nghe, người Kẻ Dạm ca ngợi sông núi quê mình:
    ?oKẻ Dạm có núi Long Lân,
    Đói ta ắt hẳn đã gần gặp nhau.
    Nhác trông thẳng núi sông Cầu
    Núi có ba trái mà đau đớn lòng?

    Phan Huy Chú đã đi đến Kẻ Dạm và ghi nhận: ?oMười sáu xã chia quanh núi, có rất nhiều chùa cổ, cảnh trí sông núi rất thâm u, tịch mịch, trên núi là chỗ tu của sư Không Lộ, dấu cũ nay hãy còn? (Phan Huy Chú-Lịch triều hiến chương loại chí, tập I. Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội 1960, trang 88). Còn Lê Quý Đôn đã hoạ lại trong thơ của mình:
    ?oLong Hạm đương sơ tác thượng phương
    Cao phong khai đạo thượng lưu phương.
    Toàn vân lục tính tam thiên thụ,
    Bản lĩnh thanh hoàn thập lục hương?.

    (Chùa Long Hạm xưa kia là một cảnh tiên,
    Mở lối lên núi cao tu hành, tiếng thơm nay còn để lại.
    Ba ngàn cây biếc, cao sát tầng mây,
    Một dãy núi xanh vòng quanh cả mười sáu làng)(Phan Huy Chú-Sđd).
    Dịch thơ:
    Long Hạm chùa xưa đẹp cảnh tiên
    Lên cao đắc đạo tiếng thơm truyền.
    Ba ngàn cây biếc, nhoà mây thắm,
    Một dãy núi xanh bọc cả miền.
    Trong An Nam chí nguyện của Cao Hùng Trưng và Đại Nam nhất thống trí đều dành những đoạn ghi chép về núi và chùa ở Kẻ Dạm. An Nam chí nguyện ghi: ?oNgọn núi chơm chởm cao vót, có thể lên cao để nhìn ra xa. Trong núi có chùa Thần Quang, trông ra sông Thiên Đức, thông bách xum xuê xanh mượt, nhìn trông rất dịu mát, cứ mồng 8 tháng Tư, các cử nhân và sĩ phu đều đến hội họp ở đây ca múa, ngâm, vịnh. Họ Trần có thơ rằng:
    ?oTục đa biến thái vân thương cẩu
    Tùng bất tri niên, tăng bạch đầu?.

    (Cuộc đời xoay chuyển nhiều như đám mây luôn biến dạng
    Cây tùng chẳng biết bao nhiêu năm, còn sãi thì bạc đầu).
    Dịch thơ:
    Mây biến sắc khác gì thói tục
    Sư bạc đầu chẳng biết tuổi thông (Cao Hùng Trưng-An Nam chi nguyên, bản dịch của Nguyễn Khắc Đạm, đánh máy, lưu tại Thư viện Hà Bắc).
    Đại Nam nhất thống trí chi ta biết thêm: ?oHàng năm, đến ngày 8 tháng Tư, trai gái thường tụ họp ở đây cùng nhau hát múa? (Đại Nam nhất thống chí, tập IV. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, trang 73). Còn trong Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí nói rõ hơn: ?oVề địa phận Sơn Trung có chùa Đại Lãm, về địa phận Sơn Đông có chùa Bảo Quang, địa phận Sơn Dương có chùa Long Hạm; suối chảy vòng quanh núi, cây cối rườm rà, trông cả vùng như một bức tranh vẽ. Từ xưa ở đây, có tiếng là cảnh danh thắng, thi nhân đề thơ rất nhiều. Trước núi có một con đường nhỏ, đào từ chân núi xuyên qua núi Rùa (Quy Sơn), đường này là một lạch núi chạy ra đến sông Thiên Đức, tục gọi là Đường Con tên? (Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí, tờ 12a và 12b).
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mỏm cuối của núi Rồng là đất Sơn Dương-được gọi là đất Hàm Rồng, do đó ngôi chùa dựng đặt ở đây có tên là Hàm Long. Chùa được dựng ở nơi có cảnh trí thanh tịch, đôi ba ngọn tháp lấp ló cây xanh, suối trong quanh năm róc rách. ?oTương truyền đấy là chỗ tu hành của sư Dương Không Lộ? (Đại Nam nhất thống chí, Sđd. Dương Không Lộ, một dân chài lực lưỡng, kết bạn cùng Nguyễn Minh Không, rủ nhau cắt tóc đi tu, nhưng bao năm đọc kinh gõ mõ mà vẫn chưa đắc đạo. Về sau, hai người quyết trèo non vượt biển sang tận Tây Trúc để thành chính quả. Dọc đường, hò còn kết bạn với Từ Đạo Hạnh và nhận Đạo Hạnh là anh cả. Không lộ là hai và Minh Không là út).
    Bên sườn núi Phượng-Sơn Đông có chùa Bảo Quang mà ?ođỉnh núi có viên đá đứng như hình người? (Đại Nam nhất thống chí, Sđd), do vậy dân vẫn gọi là chùa Bụt Mọc. Chùa được xây đầu thế kỷ XVIII, do sư Như Thông người Yên Phong khởi dựng (Đại Nam nhất thống chí, Sđd). Tuy gần đây, chùa đã bị thực dân Pháp phá huỷ, mà vẫn còn tới 40 cây tháp. Ngày xưa tháp nhiều như rừng, nên chùa Bảo Quang còn có tên là chùa Bách Tháp.
    Cũng thuộc núi Phượng-Đa Cấu có chùa Biến. Tương truyền dòng họ Đặng ?ophù phép đem từ Bình Cầu, bên đất Thuận An về? (Truyền thuyết còn kể dân Bình Cầu có đi tìm. Sang đến chùa Biến, họ nhận ra chùa mình, nhưng ai cũng tin là do tiên phật chuyển dời, nên không đòi lại nữa).
    Đến núi Rùa, ta sẽ được dân Nga Hoàng kể cho nghe một dân tục mà vẫn chưa hiểu được cặn kẽ ý nghĩa của nó. Ở đây, hằng năm vào ngày 7 tháng Giêng, dân tưng bừng mở hội Chen Cầu. Thành hoàng ở đây là một cô gái, lấy thần núi. Để tưởng nhớ những lần nàng vào hang sâu xô đẩy với thần, dân làng lập hội tưởng niệm. Ngày đó dân cả làng Nga Hoàng được dịp chen lấn xô đẩy hả hê (Về sự tích hội chen ở làng Nga Hoàng, trong truyền thuyết gắn liền với cuộc tình duyên của cô gái làng với thần núi, nhưng về tình tiết có sự khác nhau giữa những người kể. Có người kể xưa có người khách lấy được rất nhiều vàng nhưng không mang về nước được, bèn chôn giấu ở núi Rùa, lừa mua một cô gái về giúp việc rồi bắt bỏ vào hang làm thần giữ của. Cô gái được thần núi Rùa cứu, lấy làm vợ. Thần báo mộng cho dân Nga Hoàng chọn ngày sinh của cô-7 tháng Giêng âm lịch, mở hội Chen, sẽ làm ăn thịnh vượng).
    Dân Nga Hoàng còn rất giỏi nghề rèn sắt. Có lẽ thựo rào Kẻ Dạm-Nga Hoàng đã cùng thợ rào Kẻ Mòi (Mai Cương) rèn đúc roi ngựa cho Dóng từ đời Hùng Vương thứ 6. Ông tổ nghề rèn ở đây là Lư Cao Sơn, con người khoẻ mạnh, lắm tài. Đồ sắt và tài nghệ của thợ rào Nga Hoàng đã nổi vang khắp xứ Bắc:
    ?oSắt Nga Hoàng,
    Vàng Định Công,
    Đồng Kẻ Sặt?
    (Ba câu này liên kết thành vòng tròn khép kín, tuy từng nơi nhấn mạnh nghề nghiệp và sản phẩm gì thì đưa câu ấy lên hàng đầu. Có thể thấy ở Định Công đọc là: ?oVàng Định Công, đồng Kẻ Sặt, sắt Nga Hoàng?; ở Sặt lại đọc là: ?oĐồng Kẻ Sặt, sắt Nga Hoàng, vàng Định Công?. Định Công tức làng Định Công thượng huyện Thanh Trì, Hà Nội, có nghề kim hoàn, tương truyền có từ đời Lý Nam Đế (571-603) do ba anh em họ Trần sáng lập).
    Kẻ Sặt tức làng Trang Liệt (còn gọi là Sặt đồng), huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, có nghề làm đồ đồng rất khéo. Tương truyền trong thời Bắc thuộc, có người thợ đúc đồng trong triều đình bỏ về Sặt dạy nghề cho dân; vì sợ triều đình phát hiện, ông dặn dân phải giấu tên ông và giấu nghề, nên ngày nay chỉ biết gọi ông là vị ***** nghề nghiệp.
    Còn ở vùng thôn Tự, dân làng lại tự hào về lòng kiên trình của nàng Như Hoa, người con gái của quê làng, sắc đẹp như hoa, chung thuỷ với chồng, không ham giàu sang phú quý và địa vị.
    Rồi Cầu Đôi, Cầu Ma, rồi Đấu Đong quân, rồi ngòi Con tên, đường Cây Thông, giếng Bống? Hàng loạt những truyền kỳ xoay quanh câu chuyện nàng Tấm xứ Bắc, ngàng Ỷ Lan xinh đẹp và tài hoa?
  4. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Văn hoá Bắc Bộ có những cái cực kỳ đặc biệt, mà 1 trong số đó là tinh thần cộng đồng rất cao. Vì vậy mà ngay cả trong thời phong kiến, có thể nhận thấy quyền tham gia vào các hoạt động xã hội của người dân. Người da^n cho dù giàu nghe`o sống rất gắn bó với nhau và sự bóc lột không quá nặng nề. Từ thời nhà Nguyễn, những điều tốt đẹp này bị hạn chế nhiều vì Nguyến Ánh chủ trương xây dựng 1 xã hội giống như Tàu, đưa đất nước thụt lùi hàng trăm năm. Khi quyền lực rơi vào tay 1 kẻ luôn đầy lòng thù hận và hẹp hòi thì hậu quả là như thế đấy. Những việc làm của Nguyễn Ánh có hậu quả lâu dài kéo theo việc mở đường cho việc xâm lược và kiểu cai trị bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp sau này. Nguyễn Ánh là 1 tên tội đồ, vì lợi ích của bản thân mà kéo dài thêm cuộc binh đao, gây ra 1 cuộc thảm sát và để lại trang xấu trong lịch sử vì sự hèn hạ của hắn với nhà TS. Cái công thống nhất đất nước phải thuộc về nhà TS chứ không phải của Ánh. Ánh lại sợ dân Bắc Hà nổi dậy nên cố tình áp dụng các chính sách phân biệt Nam Bắc, kiềm chế người Bắc, các khoản thuế ở Bắc phải đóng cao hơn rất nhiều trong Nam, quan lại và thi cử thì phần lớn chỉ cho người Nam tham gia..... Phải chăng thực dân Pháp về sau đã nghiên cứu điều này và áp dụng 3 chính sách cho 3 miền để gây chia rẽ sau này? Nếu có người nhận xét Lý Phật Tử là chó lợn thì Nguyễn Ánh là Đại Chó Lợn.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    õ?Ư Chuyỏằ?n kỏằf lỏĂi rỏng, chưnh nàng TỏƠm xỏằâ Bỏc-ỏằả Lan phu nhÂn-'Ê xÂy dỏằng ngôi chạa ĐỏĂi lÊm, còn gỏằi là chạa DỏĂm-chạa Cao. Cho nên chạa thỏằ cỏÊ Phỏưt, lỏĂi thỏằ cỏÊ bà TỏƠm.
    Trặỏằ>c kia ỏằY thôn Tỏằ vỏôn còn lặu giỏằ cuỏằ'n thỏĐn tưch Lẵ triỏằu 'ỏằ? tam hoàng hỏưu sỏằ tưch. Tuy nay 'Ê mỏƠt, nhặng bỏƠt cỏằâ ai ỏằY vạng này câng có thỏằf kỏằf ta nghe 'ỏĐu cuỏằ'i cÂu chuyỏằ?n cỏằ. tưch này:
    õ?oõ?Ư Ngày xặa, trong làng Thỏằ. Lỏằ-i nỏm ven bỏằ nam Thiên Đỏằâc giang, có gia 'ơnh ông Lê Công Thiỏt và bà Vâ Thỏằ gơ không 'i xem vua, cô bỏÊo mơnh là con nhà nghăo phỏÊi lo làm fnõ?. Tin ỏƠy 'ỏn tai vua, vua ặỏằ>c ao 'ặỏằÊc gỏãp mỏãt nàng.
    Đỏn nặĂi, vua thỏƠy rỏƠt lỏĂ vỏằ tài sỏc cỏằĐa cô gĂi, băn 'ặa vỏằ Kinh. Lúc ặỏằ>m hài, nàng lỏĂi 'i vỏằôa nhặ in, lỏĂi giỏằ'ng chiỏc nàng còn lỏĂi. Thỏ là nàng trỏằY thành thỏĐn phi, và Thỏằ.i Lỏằ-i, quê nàng, 'ặỏằÊc 'ỏằ.i là Siêu LoỏĂi-mỏÊnh 'ỏƠt 'Ê sinh 'ặỏằÊc ngặỏằi con gĂi 'ỏạp diỏằ?u kỏằ.
    Theo lỏằi cỏằĐa nàng, hỏng nfm, nhà vua vỏôn cỏằư nỏằTi thỏĐn là Nguyỏằ.n Bông vỏằ chạa Linh NhÂn cỏĐu tỏằ. Tfng ĐỏĂi Điên băn mĂch cho Bông cĂch 'ỏằf Bông 'ỏĐu thai làm hoàng tỏằư. Nàng TỏƠm-tỏằâc ỏằả Lan phu nhÂn, có thai mặỏằi bỏằ'n thĂng thơ sinh.
    DặặĂng hỏưu biỏt thỏĐn phi có mang, câng vỏằ có thai và 'ỏằÊi thỏĐn phi sinh nỏằY băn 'em con măo 'Ănh trĂo 'ỏằf hÊm hỏĂi ỏằả Lan. Nhà vua tặỏằYng thỏưt, băn giam ỏằả Lan vào cung lỏĂnh vơ tỏằTi sinh ra muông thú (ỏằz DỏĂm, có ngặỏằi kỏằf hặĂi khĂc mỏằTt vài chi tiỏt. Khi thỏĐn phi bỏằp mỏƠt con trai và bỏằi mỏằi Quỏằã Cỏằ'c 'ỏn hỏằi. Quỏằã Cỏằ'c bỏÊo vơ quÂn bỏƠt trung, thỏĐn bỏƠt chưnh, nên trỏằi 'ỏƠt phỏĂt; muỏằ'n khỏằi hỏĂn phỏÊi mỏằi Bao Công Chuỏân vỏằ. Bao Công Chuỏân 'ặỏằÊc triỏằ?u hỏằ"i và phỏằƠc chỏằâc, mỏằ>i thuỏưt lỏĂi chuyỏằ?n xặa. Lẵ NhÂn Tông băn sai ông dỏôn mỏằTt 'ỏĂo qu 'i tơm mỏạ mơnh. ĐỏĂo quÂn 'i 'Ê nhiỏằu nặĂi mà không tơm ra thỏĐn phi, mỏằTt hôm qua chỏằÊ, gió nỏằ.i lên làm dỏÊi mâ cỏằĐa Bao Công Chuỏân vặỏằ>ng vào quanh gĂnh cỏằĐa anh hàng hành. QuÂn lưnh nghi anh hàng hành fn cỏp, băn giỏằ lỏĂi. QuĂ trặa, anh hàng hành xin cho vỏằ nhà nỏƠu cặĂm cho mỏạ già loĂ, băn 'ặỏằÊc tha. Vỏằ nhà, anh kỏằf lỏĂi chuyỏằ?n cho mỏạ nghe. ThỏĐn phi hỏằi diỏằ?n mỏĂo viên tặỏằ>ng và sau 'ó bỏÊo anh ra mỏằi vỏằ 'ỏằf nói chuyỏằ?n. Bao Công Chuỏân theo anh hàng hành vỏằ lò gỏĂch, nhặng thỏƠy thỏĐn phi gỏĐy yỏu nên không nhỏưn ra. ThỏĐn phi bỏÊo con trai ta ỏằY tay chÂn có bỏằ'n chỏằ õ?oSặĂn-Hà-XÊ-Tỏcõ?. Bao Công Chuỏân cho ngặỏằi vỏằ kinh hỏằi vua thơ quỏÊ là nhặ vỏưy, Lẵ NhÂn Tông băn 'i 'ón mỏạ, và mỏt thỏĐn phi lỏĂi sĂng ra. Vỏằ ngòi Con Tên, có ngặỏằi bỏÊo xặa kia tên giỏãc kiêm thỏĐy phạ thuỏằã Cao Biỏằn thỏƠy kiỏằfu 'ỏƠt ỏằY 'Ây là õ?otỏằâ linh hỏằTi tỏằƠõ? sỏẵ sinh ra nhÂn tài, y băn giỏằY trò ma thuỏưt bỏn 'ỏằât cỏằ. con rạa 'ỏằf triỏằ?t long mỏĂch. ĐỏĐu rạa 'ỏằât vfng ra phưa trặỏằ>c ỏằY làng PhặặĂng Lặu. ThÂn rạa nỏm lỏĂi tỏĂi chỏằ-, vỏôn rỏằ? ra hai dòng nặỏằ>c trong và 'ỏằƠc là mĂu và mỏằĐ cỏằĐa nó. Xem thêm Phong ChÂu: TỏƠm CĂm có thỏưt ỏằY Viỏằ?t Nam không? Tỏưp san Nghiên cỏằâu Vfn Sỏằư Đỏằi biỏt chưnh mỏạ mơnh 'ang bỏằi Nguyỏằ.n Ánh là chó lỏằÊn 'ặỏằÊc không? Chuyỏằ?n Nguyỏằ.n Ánh sỏằÊ sâ phu Bỏc Hà thơ ai câng biỏt mà, bĂc không cỏĐn bàn nhiỏằu. ChỏằĐ 'ỏằ cỏằĐa em vỏằ Vfn hoĂ 'ỏằ"ng bỏng Bỏc BỏằT nhặng em mỏằ>i chỏằ? kiỏm 'ặỏằÊc tài liỏằ?u vỏằ di tưch lỏằ<ch sỏằư thôi, bĂc có thỏằf thêm nhỏằng nỏằTi dung khĂc 'ặỏằÊc không? Không bàn chuyỏằ?n dÂn chỏằĐ ỏằY 'Ây, em không muỏằ'n phỏÊi xoĂ bài bĂc nhặ lúc chiỏằu nỏằa 'Âu!
  6. mabun

    mabun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2005
    Bài viết:
    1.036
    Đã được thích:
    1
    õ?Ư Chuyỏằ?n kỏằf lỏĂi rỏng, chưnh nàng TỏƠm xỏằâ Bỏc-ỏằả Lan phu nhÂn-'Ê xÂy dỏằng ngôi chạa ĐỏĂi lÊm, còn gỏằi là chạa DỏĂm-chạa Cao. Cho nên chạa thỏằ cỏÊ Phỏưt, lỏĂi thỏằ cỏÊ bà TỏƠm.
    Trặỏằ>c kia ỏằY thôn Tỏằ vỏôn còn lặu giỏằ cuỏằ'n thỏĐn tưch Lẵ triỏằu 'ỏằ? tam hoàng hỏưu sỏằ tưch. Tuy nay 'Ê mỏƠt, nhặng bỏƠt cỏằâ ai ỏằY vạng này câng có thỏằf kỏằf ta nghe 'ỏĐu cuỏằ'i cÂu chuyỏằ?n cỏằ. tưch này:
    õ?oõ?Ư Ngày xặa, trong làng Thỏằ. Lỏằ-i nỏm ven bỏằ nam Thiên Đỏằâc giang, có gia 'ơnh ông Lê Công Thiỏt và bà Vâ Thỏằ gơ không 'i xem vua, cô bỏÊo mơnh là con nhà nghăo phỏÊi lo làm fnõ?. Tin ỏƠy 'ỏn tai vua, vua ặỏằ>c ao 'ặỏằÊc gỏãp mỏãt nàng.
    Đỏn nặĂi, vua thỏƠy rỏƠt lỏĂ vỏằ tài sỏc cỏằĐa cô gĂi, băn 'ặa vỏằ Kinh. Lúc ặỏằ>m hài, nàng lỏĂi 'i vỏằôa nhặ in, lỏĂi giỏằ'ng chiỏc nàng còn lỏĂi. Thỏ là nàng trỏằY thành thỏĐn phi, và Thỏằ.i Lỏằ-i, quê nàng, 'ặỏằÊc 'ỏằ.i là Siêu LoỏĂi-mỏÊnh 'ỏƠt 'Ê sinh 'ặỏằÊc ngặỏằi con gĂi 'ỏạp diỏằ?u kỏằ.
    Theo lỏằi cỏằĐa nàng, hỏng nfm, nhà vua vỏôn cỏằư nỏằTi thỏĐn là Nguyỏằ.n Bông vỏằ chạa Linh NhÂn cỏĐu tỏằ. Tfng ĐỏĂi Điên băn mĂch cho Bông cĂch 'ỏằf Bông 'ỏĐu thai làm hoàng tỏằư. Nàng TỏƠm-tỏằâc ỏằả Lan phu nhÂn, có thai mặỏằi bỏằ'n thĂng thơ sinh.
    DặặĂng hỏưu biỏt thỏĐn phi có mang, câng vỏằ có thai và 'ỏằÊi thỏĐn phi sinh nỏằY băn 'em con măo 'Ănh trĂo 'ỏằf hÊm hỏĂi ỏằả Lan. Nhà vua tặỏằYng thỏưt, băn giam ỏằả Lan vào cung lỏĂnh vơ tỏằTi sinh ra muông thú (ỏằz DỏĂm, có ngặỏằi kỏằf hặĂi khĂc mỏằTt vài chi tiỏt. Khi thỏĐn phi bỏằp mỏƠt con trai và bỏằi mỏằi Quỏằã Cỏằ'c 'ỏn hỏằi. Quỏằã Cỏằ'c bỏÊo vơ quÂn bỏƠt trung, thỏĐn bỏƠt chưnh, nên trỏằi 'ỏƠt phỏĂt; muỏằ'n khỏằi hỏĂn phỏÊi mỏằi Bao Công Chuỏân vỏằ. Bao Công Chuỏân 'ặỏằÊc triỏằ?u hỏằ"i và phỏằƠc chỏằâc, mỏằ>i thuỏưt lỏĂi chuyỏằ?n xặa. Lẵ NhÂn Tông băn sai ông dỏôn mỏằTt 'ỏĂo qu 'i tơm mỏạ mơnh. ĐỏĂo quÂn 'i 'Ê nhiỏằu nặĂi mà không tơm ra thỏĐn phi, mỏằTt hôm qua chỏằÊ, gió nỏằ.i lên làm dỏÊi mâ cỏằĐa Bao Công Chuỏân vặỏằ>ng vào quanh gĂnh cỏằĐa anh hàng hành. QuÂn lưnh nghi anh hàng hành fn cỏp, băn giỏằ lỏĂi. QuĂ trặa, anh hàng hành xin cho vỏằ nhà nỏƠu cặĂm cho mỏạ già loĂ, băn 'ặỏằÊc tha. Vỏằ nhà, anh kỏằf lỏĂi chuyỏằ?n cho mỏạ nghe. ThỏĐn phi hỏằi diỏằ?n mỏĂo viên tặỏằ>ng và sau 'ó bỏÊo anh ra mỏằi vỏằ 'ỏằf nói chuyỏằ?n. Bao Công Chuỏân theo anh hàng hành vỏằ lò gỏĂch, nhặng thỏƠy thỏĐn phi gỏĐy yỏu nên không nhỏưn ra. ThỏĐn phi bỏÊo con trai ta ỏằY tay chÂn có bỏằ'n chỏằ õ?oSặĂn-Hà-XÊ-Tỏcõ?. Bao Công Chuỏân cho ngặỏằi vỏằ kinh hỏằi vua thơ quỏÊ là nhặ vỏưy, Lẵ NhÂn Tông băn 'i 'ón mỏạ, và mỏt thỏĐn phi lỏĂi sĂng ra. Vỏằ ngòi Con Tên, có ngặỏằi bỏÊo xặa kia tên giỏãc kiêm thỏĐy phạ thuỏằã Cao Biỏằn thỏƠy kiỏằfu 'ỏƠt ỏằY 'Ây là õ?otỏằâ linh hỏằTi tỏằƠõ? sỏẵ sinh ra nhÂn tài, y băn giỏằY trò ma thuỏưt bỏn 'ỏằât cỏằ. con rạa 'ỏằf triỏằ?t long mỏĂch. ĐỏĐu rạa 'ỏằât vfng ra phưa trặỏằ>c ỏằY làng PhặặĂng Lặu. ThÂn rạa nỏm lỏĂi tỏĂi chỏằ-, vỏôn rỏằ? ra hai dòng nặỏằ>c trong và 'ỏằƠc là mĂu và mỏằĐ cỏằĐa nó. Xem thêm Phong ChÂu: TỏƠm CĂm có thỏưt ỏằY Viỏằ?t Nam không? Tỏưp san Nghiên cỏằâu Vfn Sỏằư Đỏằi biỏt chưnh mỏạ mơnh 'ang bỏằ kiỏn thỏằâc hỏằ. lỏằ'n 'ặỏằÊc nhât vào 1 nhÂn vỏưt ỏằả Lan. Bao gỏằ"m:
    Truyỏằ?n cỏằ. tưch TỏƠm CĂm : TỏƠm biỏn thành ỏằả Lan, Hoàng tỏằư thành vua Lư ThĂnh Tông, ông BỏằƠt (Buda- Phỏưt?) biỏn thành sặ ĐỏĂi Điên.... chỏằ? thiỏu ỏằả Lan biỏn thành chim vàng anh hay chui ra tỏằô qỏằĐa thỏằc thỏĐn[/B]
    ĐoỏĂn ThỏĐn Phi sinh ra măo fn trỏằTm tỏằô truyỏằ?n Tàu: Linh miêu trĂo Chúa kỏằf vỏằ QuĂch Hòe nhà Tỏằ'ng hay Bao Công xỏằư Ăn QuĂch Hoă. Bao Chỏằưng biỏn thành Bao Công Chuỏân. Ngặỏằi kỏằf còn fn cỏp trỏng trỏằÊn chuyỏằ?n Lư ThỏĐn Phi 'ặỏằÊc 1 'ỏằâa trỏằ bĂn bĂnh (cỏÊi biên thành bĂn hành) nuôi trong lò gỏĂch khi mạ loà. Nhặng fn cỏp k 'ỏn 'ỏĐu 'ỏn 'âa lên 'ỏằc nghe lỏằĐng cỏằĐng rỏằ'i rỏm mà vô lư: hoàng tỏằư biỏn thành thú vỏưy Càn Đỏằâc là con ai mà lên ngôi thành Lư NhÂn Tông? ỏằả Lan là Nguyên Phi lỏĂi biỏn thành ThỏĐn Phi.
    Đỏằf thêm phỏĐn li kơ tĂc giỏÊ còn nhât thêm nhÂn vỏưt truyỏằn thuyỏt QỏằĐy Cỏằ'c bên Tàu (sặ phỏằƠ cỏằĐa Tôn Tỏôn Bàng Quyên ) vào cÂu truyỏằ?n cho 'ỏằĐ bỏằT.
    Tóm lỏĂi :'Ây là món trỏằTn lỏằ.n nhỏằ.n khó có thỏằf chỏƠp nhỏưn dạ chỏằ? là dỏĂng truyỏằn thuyỏt mà thôi. BỏĂn lên chỏằn lỏằc khi kỏằf ra 'Ây kỏằo phỏÊn tĂc dỏằƠng
    Truyỏằ?n vỏằ ỏằả Lan tôi nhỏằ> 'ỏĂi khĂi thỏ này:
    Bà sinh ra ỏằY làng Thỏằ. Lỏằ-i ,gia 'ơnh lỏ** nghỏằ nuôi tỏm dỏằ?t lỏằƠa. Khi vua Lư du hành qua quê bà ,'i ngang ruỏằTng dÂu thỏƠy 1 ngặỏằi con gĂi 'ỏằâng tỏằa gỏằ'c dÂu cỏ** liỏằm hĂt rỏng:
    Tay cỏ** bĂn nguyỏằ?t xênh xang
    Vơ dÂn ta phỏÊi sỏằưa sang cài bỏằ​
    Vua lỏƠy làm lỏĂ băn cho gỏằi lên nói chuyỏằ?n. ThỏƠy bà thông tuỏằ? lỏĂi xinh 'ỏạp lên 'em lòng yêu lên vua 'ón vỏằ cung 'ỏãt tên là ỏằả Lan (tỏằa gỏằ'c dÂu) và phong làm Nguyên phi. Khi 'i bà có xin 'em theo ngặỏằi em gĂi cạng cha khĂc mỏạ ,ngặỏằi này 'ặỏằÊc phong là Tài nhÂn (sau ganh ghât vỏằ>i chỏằi yên tÂm 'i 'Ănh tiỏp.
    Khi vua Lư ThĂnh Tông bfng hà, vua mỏằ>i là Lư NhÂn Tông là con ỏằả lan lên nỏằ'i ngôi. ỏằả Lan lên làm thĂi hỏưu, Bà cho chôn sỏằ'ng rỏƠt nhiỏằu cung nỏằ theo tiên 'ỏ . Truyỏằn thuyỏt rỏng nhỏằng hỏằ"n cung nỏằ chỏt oan này uỏƠt khư k tan thặỏằng quỏƠy nhiỏằ.u Bà. Do 'ó bà rỏƠt chfm xÂy chạa trong 'ó có ngôi chạa DỏĂm mà bỏĂn kỏằf ,mặỏằÊn ĐỏĂo Phỏưt 'ỏằf lòng yên tânh.
    Thỏằc ra ỏằả lan trong lỏằi ThĂi uẵ Lư Thặỏằng Kiỏằ?t ,kỏt bă cĂnh 'ỏằ'i chỏằi lỏĂi vỏằ>i phe cĂnh ThặỏằÊng DặặĂng và Tô Hiỏn Thành nhỏm 'ặa con mơnh lên nỏằ'i ngôi. LỏĂi tàn bỏĂo, nhÂn khi Lư ThĂnh Tông bfng chôn sỏằ'ng bao cung nỏằ mơnh k ặa . Tuy nhiên ,'ó là nhỏằng viỏằ?c nỏằTi bỏằT trong cung. Còn 'ỏằ'i vỏằ>i dÂn vỏằ>i nặỏằ>c bà là ngặỏằi có công lỏằ>n vơ thỏ nhÂn dÂn ĐỏĂi Viỏằ?t tôn vinh Bà.
    Có 2 tĂc phỏâm vỏằ Bà mà tôi thỏƠy 'ặỏằÊc:
    1- BỏằT 3 tĂc phỏâm chăo : bài ca giỏằ nặỏằ>c cỏằĐa Tào MỏĂt
    2-Tiỏằfu thuyỏt Giàn thiêu cỏằĐa Và Thỏằ< HỏÊo
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Báo cáo bác monarchy, tài liệu này em lấy ở quyển "Hà Bắc-Ngàn năm văn hiến mà". Sách là của 2 tác giả Phương Anh-Thanh Hương, do Ty văn hoá Hà Bắc xuất bản năm 1976. Mà đoạn em vừa gửi chỉ là các tác giả ghi lại chuyện nghe kể thôi, có phải chính sử đâu.
    Em sẽ gửi tiếp đoạn sau nói về chính sử viết Ỷ Lan phu nhân. Giờ em gửi nốt phần dã sử (có thể gọi thế được không nhỉ?)
    Nhiều người còn kể thêm là, lúc về già, bà Tấm đã về ở hẳn chùa này, lấy 100 mẫu ruộng để tế tự, cho mở hội ngay dưới chân núi, trước cửa chùa.
    ?oTrên chùa dưới chợ
    Hàng phố hai bên
    Núi Rồng ở trên
    Ngòi tên ở dưới??.
    Rôi bà Tấm sai đào một con ngòi kéo ra tận dòng Thiên Đức để nhà vua tiện về thăm. Lệnh truyền phải đào trong một đêm. Người từ các nơi về đông như kiến, phải dồn vào Đấu Đong quân để tính. Ai đến Cầu Đôi thì được tha, ai mới đi đến Cầu ma thì bị tội. Do đó ai cũng cợ mình bị chậm trễ. Làm đêm, lại vội, nên xén đất xén cả vào ngón chân, ngón tay.
    Ngòi thẳng tắp chỉ trong một đêm, nên gọi là ngòi Con Tên. Trên bờ, 100 câu thông được trồng, nhưng chẳng may hai cây bị chết nên không đủ cho 100 phượng hoàng về đậu. Do đó thông cũng chết dần.
    Từ khi ấy, các vua Lý vẫn thường về mở ?oLãm sơn dạ yến?. Voi nhà vua được thả ở chân núi Rùa. Đó là cánh đồng Cỏ Voi.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Lần trong chính sử, ta có thể gặp một nàng Tấm được ghi lại khá đầy đủ và chân xác. Sử sách cho ta biết, từ khi Ỷ Lan sinh con trai, được đứng đầu các phi (Ỷ Lan nguyên phi). Năm 1069, Lý Thánh Tông đi đánh giặc xa, nàng đã thay vua trị nước, làm bốn cõi đều yên bình. Khi quay về đến Cư Liên, nghe dân kể về tài trị nước của nàng, nhà vua xấu hổ, than rằng: ?oNgười ta là đàn bà còn giỏi vậy, huống chi ta là đàn ông mà tầm thường vậy sao??. Bèn quay trở lại, thắng giặc liên tục.
    Khi nhà Tống sang xâm lược (1075-1077), Lý Nhân Tông mới mười tuổi, nàng đã thay con lo việc triều đình, củng cố hậu phương, để cho Lý Thường Kiệt yên lòng thắng địch. Ỷ Lan lại còn đem của cải ra chuộc số chị em bị bán cho nhà giàu rồi dựng vợ gả chồng cho họ. Nàng cũng không quên nhắc vua ra nhiều luật lệ bảo vệ trâu bò-sức kéo chủ yếu của nghề nông (Phần sách sử nói về Ỷ Lan, xem Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967 và Thiền uyển tập anh).
    Và chúng ta cũng có thể dễ nhận biết được điều này, vì để đề cao Ỷ Lan phu nhân, giai cấp thống trị, ở mức độ nào đó, đã bắt mạch được nhiệt tình yêu mến của quần chúng đối với nàng-do đó đã lịch sử hoá bà ta cho tiện bề cai trị.
    Hai mục đích khác nhau nhưng gặp nhau ở một chỗ. Huyền sử và lịch sử hoà vào nhau, để đến tận bây giờ, người ta có thể chỉ ra biết bao địa điểm và di tích minh chứng cho câu chuyện họ đã xây đắp.
    Còn đây là những điều mà Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại về Ỷ Lan phu nhân.
    Phần về Lý Thánh Tông
    -Quý Mão (1063): Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó-Lan phu nhân có mang, sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông, (Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các chùa quán, xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ nép trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu, phong làm-Lan phu nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đào ở chùa Thánh Chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hoá. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Đồng Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn.
    -Bính Ngọ (1066): Mùa xuân, tháng Giêng, ngày 25, giờ Hợi, hoàng tử Càn Đức sinh. Ngày hôm sau, lập làm hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá phong mẹ thái tử là-Lan phu nhân làm Thần phi.
    Phần về Lý Nhân Tông
    -Quý Sửu (1073):? Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: ?oMẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu??. Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Nhân Tông là người nhân hiếu, Linh Nhân là người sùng Phật, sao lại đến nỗi giết đích thái hậu, hãm hại người vô tội, tàn nhẫn đến thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi lại là mẹ đẻ mà không được dự chính sự. Linh Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải kêu với vua. Bây giờ vua hãy còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái sư Lý Đạo Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián?
  9. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Nhân đây tôi post bài của GS. Nguyến Huệ Chi với nhan đề "Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ"
    Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ
    Nguyễn Huệ Chi

    I.
    Văn học Thăng Long - mấy tiếng ấy thật có sức gợi cảm đối với bạn đọc, nhưng mặt khác cũng không phải không gây nên trong nhiều nhà nghiên cứu một đôi điều thắc mắc nghi ngờ. Có thật đã từng tồn tại trong lịch sử văn học dân tộc bao nhiêu đời qua một khu vực riêng biệt gọi là văn học Thăng Long, và mọi sáng tác thuộc khu vực này, tự chúng đã mang một xu thế không cưỡng được là cố kết lại với nhau? Hay đây cũng là một danh từ giống như những cụm từ có phần tương tự: "văn học Kinh Bắc", "văn học Nghệ - Tĩnh", "văn học Sơn Nam hạ" v.v. vốn chỉ là những khái niệm nặng tính chất thống kê, ra đời do yêu cầu tập hợp văn học theo đơn vị "vùng" mà bộ môn địa lý học lịch sử, đặc biệt là địa phương chí, phát triển sôi nổi khoảng vài thập kỷ lại đây, bắt buộc đòi hỏi?
    Lẽ tự nhiên, nếu hiểu theo một nghĩa hẹp nào đấy thì khái niệm "văn học Thăng Long" cũng không khác bao nhiêu so với những khái niệm về các vùng văn học mà ta vừa dẫn. Là một khu vực địa lý trong hàng mấy chục khu vực khác nhau được đăng ký từ lâu đời trên bản đồ Đại Việt, mảnh đất Thăng Long cũng đã có vinh dự sản sinh ra nhiều cây bút tài danh đóng góp vào lịch sử văn học dân tộc, và khi cần tập hợp họ lại theo sinh quán, ta không thể gọi họ bằng một khái niệm nào khác hơn, rằng đó là những văn nhân - danh sĩ Thăng Long.
    Thế nhưng, hiểu "văn học Thăng Long" theo nghĩa hẹp hình như vẫn chưa phải là cách hiểu cần được minh giải cặn kẽ đối với chúng ta, bởi khả năng hàm chứa của mấy chữ "văn học Thăng Long" lại chủ yếu không phải là ở đấy. Người ta sẽ tự hỏi: vấn đề văn học Thăng Long có thể nào nhìn nhận đơn thuần như văn học của bất kỳ một địa phương nào trong nước, khi mà mối quan hệ giữa mảnh đất Thăng Long với cả nước trong thực tế lịch sử không phải là mối quan hệ giữa một khu vực với cả cộng đồng? Hoàn toàn đúng thôi! Kể từ đầu thế kỷ XI, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" (Chiếu dời đô) - một trung tâm đô hội bậc nhất trong suốt chiều dài lịch sử gần mười thế kỷ. Đây chính là đặc điểm mà ngay hai trung tâm đô hội khác là Sài Gòn - thủ phủ của Lục tỉnh Nam Kỳ, và Phú Xuân (Huế), Kinh đô của triều đại Nguyễn, dù về nhiều mặt có thể tương đương thậm chí vượt hẳn Thăng Long, riêng mặt này cũng không thể sánh được. Và với ưu thế có một không hai như vậy, nói đến "văn học Thăng Long" hẳn phải tính đến một cái gì khác hơn là sự tập hợp của những nhà văn cùng sinh quán, một sự thăng hoa theo nhiều cấp độ khác nhau, dù là nhìn ở số lượng hay chất lượng, và nếu không đạt được sự thăng hoa này thì rõ ràng lịch sử thiếu sót biết chừng nào!
    Hãy nhìn ở sự thăng hoa về số lượng. Không thể không thừa nhận bằng vị trí đặc biệt nói trên, Thăng Long đã thường xuyên mang trong nó hai khả năng phát triển song song về văn hóa: khả năng tự sản sinh ngay trong lòng nền văn hóa Thăng Long (khu vực) và khả năng thu hút các thành tố văn hóa mới mẻ từ mọi miền đất nước dồn về. Thăng Long vào buổi bình minh của chế độ phong kiến tự chủ đã xuất hiện một khuôn mặt kỳ vĩ - khuôn mặt người anh hùng Lý Thường Kiệt (1019-1105), tức Ngô Tuấn, sinh ra và lớn lên ở phường Cơ Xá, về sau là đất cấm thành, với chiến công lẫy lừng đánh Tống và với hai áng văn thuộc loại tác phẩm khai sáng cho nền văn học viết dân tộc: bài thơ huyền thoại Nam quốc sơn hà và hịch Lộ bố văn. Nhưng Thăng Long vào thời đại đó cũng tự hào đón nhận Lý Công Uẩn (974-1028), tức Lý Thái Tổ, ông vua mở đầu triều đại Lý, với tác phẩm văn xuôi bất hủ Chiếu dời đô. Có lẽ nào chỉ vì Lý Công Uẩn vốn quê đất Kinh Bắc mà gạt Chiếu dời đô ra khỏi "văn học Thăng Long", trong khi chính áng văn này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của lịch sử văn hiến Thủ đô? Thăng Long vào hai thế kỷ XIII và XIV là nơi quy tụ những nhân tài kiệt xuất thuộc dòng dõi họ Trần, vốn quê gốc ở Thiên Trường (Nam Định), đến thay chân nhà Lý mở ra triều đại Trần cường thịnh, đồng thời cũng cung cấp cho văn học cả một "dàn hợp xướng" đa giọng điệu - có sáng tác yêu nước, có sáng tác Phật giáo, có sáng tác trữ tình - với không ít tên tuổi chói lọi: Trần Thái Tông (1218-1277), Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (?-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Thánh Tông (1240-1290), Trần Nhân Tông (1258-1308), Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Quang Triều (1287-1325)... Hẳn không vì đây là những con người xuất thân dân chài vùng Tức Mặc mà văn học Thăng Long đành bỏ trống cả một thời đại rực rỡ, thung dung hòa quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo, và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ lục, thi ca? Thăng Long vào thế kỷ XV chứng kiến hai tầm vóc tiêu biểu đứng đối cực với nhau ở hai đầu thế kỷ - Nguyễn Trãi (1380-1442) và Lê Thánh Tông (1442-1497). Cả hai người có lẽ đều sinh và mất ở Thăng Long, nhưng nếu truy nguyên quê quán thì họ đều không phải là dân Thăng Long quê gốc. Họ trở thành những nhà văn nổi tiếng bậc nhất Thăng Long và cả nước, góp phần quyết định cho sự trưởng thành của thơ nôm dân tộc. "Văn học Thăng Long" chẳng lẽ lại cố tình gạt bỏ họ? Ấy thế mà lịch sử đã đặt họ lên đất Kinh đô như một tất yếu. Còn nhiều nữa. Vào thế kỷ XVIII, chúng ta có thiên ký sự đột xuất Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720-1791) - một thầy thuốc người Hải Dương và mai danh ẩn tích lâu năm tại Nghệ - Tĩnh; có cuốn tiểu thuyết giàu chất liệu thời sự nóng hổi Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì - một dòng họ lớn ở Tả Thanh Oai, lúc bấy giờ còn thuộc trấn Sơn Nam; có những cuốn tùy bút danh tiếng Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839) - người làng Đan Loan (Hải Dương) đến trú ngụ ở phường Hà Khẩu; có Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (1770-1815) - người làng Vân Điềm (Kinh Bắc). Phải chăng có thể loại ra ngoài "văn học Thăng Long" những tác phẩm trên vì lý do quê quán tác giả, mà không cần biết rằng đó là những sáng tác hiếm có viết về cuộc sống hiện thực của Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt Nam những năm 70 và 80 của thế kỷ XVIII? Và chỉ cách đây mới hơn một thế kỷ thôi, ngay giữa Thăng Long còn tơi bời đạn lửa sau một buổi cầm cự với cuộc tập kích lần thứ hai của quân xâm lược Pháp (1882), có một vị Tổng đốc người Quảng Nam trước khi quyên sinh vì nghĩa đã để lại một bài Biểu trần tình. Bài biểu không phải là một bức tranh sinh hoạt về xã hội Thăng Long nhưng lại mang đầy đủ sinh lực của Thăng Long vào một thời điểm nóng bỏng nhất. Đó là tiếng khóc anh hùng về một Thăng Long anh hùng trong giờ thất thủ. Có thể nào vì Hoàng Diệu (1828-1882) người Quảng Nam mà "văn học Thăng Long" không thừa nhận tiếng khóc lẫm liệt ấy?
  10. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Quả tình không thể chỉ bó hẹp khái niệm "văn học Thăng Long" trong bộ phận văn học do những người sinh trưởng ở đây viết ra mà còn phải đưa vào khái niệm đó những tác phẩm ưu tú của biết bao con người từ bốn phương đất nước hội tụ về, coi Thăng Long - Hà Nội là quê hương mình, viết một cách sâu sắc về Kinh đô và cống hiến những năng lực sáng tạo hết mình cho mảnh đất yêu dấu này. Nếu vẻ đẹp riêng của mỗi vùng đất đã tạo nên những giá trị lớn lao cho những tác phẩm viết về vùng đất ấy, thì vẻ đẹp Thăng Long hẳn cũng không thể đẹp hơn một vùng nào khác, vì trên đất nước ta, nơi đâu mà chẳng có một hương vị riêng không nơi nào có. Nhưng nếu vẻ đẹp khách quan của một vùng đất phải thông qua người nhận thức cái đẹp, tức là chủ thể thẩm mỹ, mới trở thành cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật, thì phải nói Thăng Long có một ưu thế trội hơn hẳn, vì tình yêu đối với Thăng Long không còn là sở hữu riêng của những người sinh ra tại Thăng Long - Hà Nội mà là của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu quý Thủ đô.
    Tất nhiên, nói đến chiều hướng thu hút nhân tài, thu hút các thành tố văn hóa ở mọi miền về Thăng Long không phải chỉ tính đến những con số cộng. Mà ở đây nhất thiết phải dẫn đến một sự thăng hoa về chất, một sự bồi đắp cho những yếu tố cổ truyền bằng yếu tố hiện đại, một sự chuyển hóa, đổi mới do giao lưu, vận động, làm cho văn hóa trở thành nhu cầu sinh tồn thực sự, thành sự sống hàng ngày. Trong mối giao tiếp thường xuyên của nhiều dòng tư tưởng, trong sự chen đua của tài năng sáng tạo, sinh hoạt văn hóa Thăng Long trước sau thế nào cũng xuất hiện những sự kiện có ý nghĩa đổi mới, có sự "bùng nổ" mà phạm vi ảnh hưởng không còn chỉ bó hẹp trong địa bàn Thăng Long. Ta nói đến một Lý Công Uẩn được đón nhận vào "văn học Thăng Long" như một trong những người viết áng văn xuôi sớm nhất. Nhưng cùng nhập tịch vào Thăng Long với Lý Công Uẩn còn có cả một nền văn hóa Phật giáo vốn sinh hoa kết quả lâu dài trên đất Kinh Bắc, nơi chôn rau cắt rốn của họ Lý và phải với môi trường Thăng Long, thành tố văn hóa này mới được cải tạo lại, trở nên năng động, có sinh khí hơn, để trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến trong cả nước, phản ánh được cái bản sắc độc đáo của đời sống tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần. Ta cũng đã nói đến Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, hai cây đại thụ trong văn học thế kỷ XV. Nhưng điều cần nói thêm là với hai nhân vật này, đặt trong môi trường xã hội trí thức Thăng Long ở thế kỷ XV, đã hình thành nên hai văn phái sớm nhất trong lịch sử, góp phần đưa văn chương Việt Nam đi vào những chuẩn mực ổn định - một văn phái yêu nước thân dân, lấy thiên nhiên làm đối tượng gửi gắm tấm lòng ưu ái, với Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên (?-?), Nguyễn Mộng Tuân (?-?), Lý Tử Tấn (1378-1458), Vũ Mộng Nguyên (1394-?) và một Tao đàn nhị thập bát tú có tính chất cung đình, ca ngợi "vua sáng tôi hiền", "giang sơn cẩm tú"..., với Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung (1418-1499), Đỗ Nhuận (1446-?), Thái Thuận (1441-?), Lương Thế Vinh (1460-?) cùng nhiều triều thần hay chữ khác.
    Chỉ thu hẹp trong cá nhân một nhà trí thức - nghệ sĩ nào đấy, sự thăng hoa cũng đã thấy rõ. Ta nói đến Lê Quý Đôn (1726-1784) ở thế kỷ XVIII, một nhân vật có tầm vóc uyên bác ít thấy xưa nay, nhưng Lê Quý Đôn sẽ không là Lê Quý Đôn nếu ông không sớm rời bỏ "lối học luộm thuộm" ở tỉnh nhà để lên Kinh đô ngay từ lứa tuổi 15, chọn học những nhà trường nổi tiếng ở Kinh đô, học một cách có phương pháp "với những ông thầy giỏi nhất" (Ngô Thì Sĩ). Nói Thăng Long rèn đúc nên nhà bác học họ Lê hẳn cũng chẳng phải là nói ngoa mấy tí. Ta lại cũng nói đến một Nguyễn Du (1765-1820) thiên tài, xuất hiện như một ngôi sao làm rạng rỡ hẳn bầu trời văn học dân tộc; Nguyễn Du ấy với bút pháp hiện thực trữ tình có một, như nhiều người đã từng nhận định, quyết không thể có được nếu chỉ là một chàng trai suốt đời ở xứ Nghệ, nếu không tiếp thu được từ tuổi nhỏ cái cốt cách đa tình của người mẹ, một cô gái vùng quê Kinh Bắc, đặc biệt nếu không từng có một thời trai trẻ sống trong xã hội hào hoa ở Thăng Long, tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Nguyễn Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Thăng Long, Người gảy đàn ở Long Thành... Chính Thăng Long đã góp phần hình thành nên thiên tài Nguyễn Du và cũng làm cho những giá trị của thiên tài trở thành tiêu biểu, vượt lên tầm cả nước.
    Cho nên, cũng khó nói trong mối quan hệ giữa "nội sinh" và "ngoại nhập" của văn học Thăng Long, yếu tố nào là chính, yếu tố nào là phụ. Hai phương diện này đã gắn bó, tác động lẫn nhau trong đời sống thực tiễn, làm cho văn học nghệ thuật sinh hoa kết quả, và làm cho mọi thành tựu càng được nhân lên. Tài năng của một Đặng Trần Côn (?-?) (Thăng Long) đã kêu gọi tài năng của một Đoàn Thị Điểm (1705-1748) (Kinh Bắc), và đến lượt Đoàn Thị Điểm lại kêu gọi rất nhiều tài năng khác, những Phan Huy Ích (1751-1822) (Sơn Tây), Nguyễn Khản (1734-1786) (Nghệ - Tĩnh)... những người đã sống quá nhiều trong những thế giới đài các kiểu nàng chinh phụ, lại cũng hiểu quá rõ tâm sự chàng danh sĩ làng Mọc ngán chiến tranh đến phải đào hầm xuống nằm đọc sách kiểu Đặng Trần Côn. Thi tài của một chàng nho sinh họ Cao đất Hà Nội đã làm cảm động một thi tài khác ở Phú Xuân: Miên Thẩm (1819-1870), và bằng tình bạn chân thành với Cao Bá Quát (1808-1855), anh em Miên Thẩm đã có dịp hiểu rõ hơn về người và cảnh Hà Nội, sau này có dịp ra Hà Nội họ đã có những bài thơ đầy xúc cảm về phong cảnh Hồ Tây.
    Về một phương diện khác, là nơi góp mặt của nhiều thế hệ danh nhân tứ xứ, cũng có thể nghĩ rằng môi trường văn hóa Thăng Long là miếng đất thuận lợi để tạo ra sự đối chọi giữa nhiều kiểu dạng tài năng rất khác nhau, và đối chọi chính là điều kiện để văn học Thăng Long, hơn bất kỳ một vùng miền nào khác, không xuôi chiều đơn điệu mà thường khi vẫn tồn tại những xu hướng, những phong cách trái ngược, làm cho bộ mặt văn học sống động hẳn lên, và tiếng nói văn chương trở nên đa nghĩa. Thi tài viết phú "thêu hoa dệt gấm" của một Nguyễn Huy Lượng (?-1808) chẳng đã kích thích khả năng khích bác, ỡm ờ của một ngọn bút trữ tình như Phạm Thái (1777-1813) mà ngày nay bình tâm mà xét, cái ngôn ngữ chửi đổng chua ngoa đó không phải không làm cho thể phú mở ra một giọng điệu mới : sự bác học hóa ngôn ngữ thông tục bình dân trong văn phú. Cũng như hồn thơ mực thước, tao nhã đến gần như khép kín của một bà huyện Thanh Quan (?-?) biết đâu lại không phải là sự phản ứng gián tiếp và từ trong vô thức đối với giọng thơ trẻ trung, nghịch ngợm, chói gắt đến sỗ sàng của một Hồ Xuân Hương (?-?)? Chấp nhận được tất cả mọi sự đối nghịch ấy, để chúng cùng sinh sôi nảy nở, đó mới là bản lĩnh của văn học Thăng Long. Cũng vậy, trước đây, chỉ xem xét văn học đơn thuần bằng sự quy chiếu của hệ tư tưởng, ta chẳng đã từng đặt các dòng, phái của văn học Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX vào những nấc thang giá trị không thực, cứ làm như có thơ ca cách mạng thì phong trào "thơ mới" không còn bao nhiêu ý nghĩa, có các nhà văn hiện thực thì có thể quay lưng lại với Tự lực văn đoàn, có Đông Kinh nghĩa thục thì Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí trở thành những con số không... Ta cũng dễ dàng quy kết với thái độ không mấy thiện chí, rằng nhóm Xuân thu nhã tập là siêu hình siêu thực, là tắc tỵ về chữ nghĩa, rằng tạp chí Thanh nghị là diễn đàn của thượng lưu tư sản, tạp chí Tri tân là chui vào tháp ngà phục cổ, là viện dẫn tờ a tờ b không ích gì cho cuộc sống xung quanh... Sự thật, quy luật diễn biến của một trung tâm văn hóa như Hà Nội đã bác bỏ cái nhìn thiển cận của chúng ta, bởi lẽ đời sống tinh thần càng phong phú bao nhiêu thì nhu cầu và thị hiếu đối với văn hóa, văn học nghệ thuật của con người lại càng không đơn giản, không phải chỉ cần nhắm mắt tin theo một trường phái, một khuynh hướng nào đấy như một thứ thánh kinh là đủ. Mà đây mới là xu thế phát triển hợp quy luật của hiện đại hóa, là sự đòi hỏi vươn tới tất nhiên, nhằm thỏa mãn trí tuệ nhiều mặt của con người hiện đại. Sự bộn bề của văn học Hà Nội thời này chứng tỏ dung lượng của nó có một bước phát triển vượt lên so với giai đoạn trước cũng như so với tầm cả nước. Nó bao chứa hết những vấn đề của thời đại, và đủ sức tiếp nhận, thanh lọc và chưng cất mọi giá trị.

Chia sẻ trang này