1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn hoá đồng bằng Bắc Bộ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    II.
    Vậy thì, có thể hiểu tâm hồn, cốt cách Thăng Long - Hà Nội trong văn học là gì? Nếu không phải đó là cái gì được tinh kết từ mọi con người đã tìm về đây hiện diện? Thăng Long là biểu tượng chung của quốc gia, tâm hồn Thăng Long mang những nét đặc trưng cho tâm hồn của cả cộng đồng dân tộc, và văn học Thăng Long - Hà Nội cũng chính là phần tinh hoa nhất, là trái tim văn học của cả cộng đồng. Đã đành, nói như thế không có nghĩa là đánh đồng cái phần tiêu biểu của văn học cả nước với văn học Thăng Long. Trước sau vẫn phải tính đến một tiêu chí có ý nghĩa khu biệt: văn học cả nước là văn học đã tổng hòa thành bản sắc Việt Nam còn văn học Thăng Long thì lại thể hiện bản sắc Việt Nam chủ yếu thông qua cái tươi rói của tính cách "Tràng An" độc đáo, trong đó in sâu tư chất, lối sống, cách giao tiếp, tập quán xã hội... của con người Thăng Long nhiều đời. Chỉ cho ra cái tính cách "Tràng An" độc đáo này là điều không dễ, nhưng với sự trải nghiệm của lịch sử, ta cũng có thể phần nào cảm nhận được nó thông qua những biểu hiện có tính định lượng, những gì là đặc điểm bộc lộ ra bên ngoài. Có thể nói, đây là một nền văn học vừa nặng tính chất chính thống quan phương lại vừa chứa đựng tiềm năng dân chủ hóa, vừa giàu chất trí tuệ lại vừa đậm sắc thái trữ tình.
    Tính chính thống, quan phương của văn học Thăng Long bắt nguồn từ một thực tế: Thăng Long là nơi dựng nghiệp của nhiều vương triều, cũng là nơi phát ngôn bằng văn chương bút mực của chế độ thống trị qua nhiều thời đại. Các bậc vua chúa hay chữ, các trí thức tài hoa gắn mình với chế độ... đã khởi đi từ Thăng Long một dòng văn học chính thống, mang chức năng tuyên truyền chính trị, và người dân Thăng Long cũng dần dần quen nhạy cảm với chính trị qua thơ văn. Do uy tín và cả quyền lực của người cầm bút, do tính cấp thiết của đề tài chính trị vào thời điểm phát ngôn, văn chương chính trị thường được tôn sùng hơn nhiều loại hình văn chương khác, và dạng thức nhà văn trữ tình chính trị(1) là dạng dễ được ca ngợi trong văn học Thăng Long từ cổ đại đến nay. Cũng giống như cuộc đời của một con người, Kinh đô đã trải nhiều phen dâu bể, không ít những chặng thăng trầm, đau khổ xen lẫn niềm vui, gắn liền với số phận của đất nước. Thời nào cũng có những nhà chính trị đại diện cho những thế lực nhất định, dùng thơ văn làm lợi khí để cổ vũ dân chúng tin theo đường lối của họ, nhằm ban bố một "tân chính sách", tôn phù một "đấng minh quân" hoặc đánh đổ một dòng họ "tiếm quyền" đang ngự trị... Nhưng chỉ có những cuộc đấu tranh chống xâm lăng trong trường kỳ lịch sử là quan hệ trực tiếp đến vận mệnh hàng triệu con người, nên văn chương kêu gọi chống giặc cứu nước cũng đọng lại trong tâm can người đọc sâu bền hơn cả. Vì thế, với thời gian, nhiều đề tài nóng hổi một thời đều lần lượt rơi rụng, duy có dòng văn học yêu nước chống xâm lăng với những hịch, cáo, thơ, phú, biểu, chiếu, tuyên ngôn... là vẫn lung linh giá trị.
    Như một nghịch lý khó tin, văn học Thăng Long nặng tính chính thống quan phương mà lại cũng giàu tiềm năng dân chủ. Nhưng sự thực là thế, hầu hết mọi vương triều nối tiếp ở Thăng Long, khi chưa đi vào suy thoái, đều không ít thì nhiều biết đặt cái gốc ở dân. Cho nên yếu tố dân chủ sơ khai, hiểu theo một nghĩa nào đấy, vốn không phải nảy sinh từ dưới lên mà mới đầu cũng được manh nha từ trên, từ các nhà chấp chính, các bậc thức giả của cung đình dội xuống. Khái niệm "dân" được Lý Thường Kiệt khởi đầu trong Lộ bố văn, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh trong Di chúc, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông thể nghiệm trong Hội nghị Bình Than và Hội nghị Diên Hồng (1284), Trần Minh Tông nhắc đến trong Nghệ An hành điện, Trần Nguyên Đán (1325-1390) hoài vọng trong Nhâm dần niên lục nguyệt tác, Nguyễn Trãi tổng kết trong Bình Ngô đại cáo và trong nhiều bài thơ chữ Hán... đều là kết quả của việc vận dụng lý thuyết "dân vi quý" của Nho giáo, cộng với sự chiêm nghiệm sâu sắc trong hoạt động thực tiễn của từng người. Dưới thời Lý - Trần, cảm hứng dân chủ sơ khai còn nằm trong tiềm thức người lãnh đạo đất nước nhờ họ đều thấm nhuần tư tưởng bình đẳng bác ái của Phật giáo. Lời khuyên của vị quốc sư Phù Vân ở trên núi Yên Tử đối với vua Trần Thái Tông chắc chắn đã trở thành một mục tiêu trị nước của nhà vua trong suốt những năm ông chấp chính.
    Lâu về sau, cùng với các bước tiến của lịch sử, một đội ngũ trí thức tương đối tự do sẽ dần dần xuất hiện trong xã hội Thăng Long(2), kế tục phát huy các yếu tố dân chủ buổi đầu thêm một bước, làm cho chúng từ chỗ chỉ mới là vô thức (Phật giáo), hoặc mới như những cái khuôn xa lạ áp đặt vào đời sống người Việt (Nho giáo), bỗng trở thành có đường nét tư tưởng cụ thể và bắt rễ vào đời sống tinh thần như những nhân tố nội sinh. Lời bàn về Lẽ hưng vong trị loạn của Thiền sư Nguyễn Nguyên Ức, Thất trảm sớ của Chu Văn An (1299-1370), Thôn cư cảm sự trình Băng Hồ tướng công của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428), Biểu dâng 14 điều nói thẳng của Lương Đắc Bằng (1472-?), Thư xin chém 18 lộng thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Khải can gián Trịnh Tông của Phạm Nguyễn Du (1740-1785), Sớ điều trần của Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Nguyễn Tư Giản (1823-1890), Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục (1907), phong trào Mặt trận dân chủ (1936-1939), những bài diễn văn nổi tiếng của Hội nghị báo giới Bắc Kỳ (1937), phong trào Nhân văn-Giai phẩm (1956-1957)... đều nói lên sức bền của truyền thống ấy. Tất nhiên, giữa cái mầm mống dân chủ của thời cổ đại và những tư tưởng dân chủ ở thế kỷ XX đã có một sự đổi thay về chất, nhờ bước chuyển quan trọng từ phạm trù văn hóa phương Đông sang quỹ đạo văn hóa châu Âu. Nhưng trong tinh thần lõi cốt, bước chuyển ấy vẫn không dẫn đến một sự đoạn tuyệt với quá khứ, đúng hơn, sự kế tiếp trước và sau vẫn diễn ra nhuần nhị, hữu cơ, trong đó bản sắc của truyền thống dưới hình thức này hay hình thức khác, được bảo lưu một cách khá rõ ràng.
  2. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Lâu nay ta hay nhắc đến mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" với ý nghĩa đây là những người nhiều chữ nghĩa và giàu khí khái. Nói cho cùng, "sĩ phu Bắc Hà" cũng là sĩ phu Thăng Long vì chỉ có trong môi trường học vấn Thăng Long xưa kia chứ không phải ở đâu khác, chữ nghĩa mới được đào tạo bài bản, và khí khái, được ươm mầm từ những truyền thống dân chủ có sẵn, mới trở thành một bản ngã, một sự sành sỏi đến mức lưu danh. Vào năm 1073, dưới triều ông vua Lý Nhân Tông non trẻ, Thái úy Lý Thường Kiệt đã tổ chức thành công một cuộc chính biến động trời, giết Dương Thái hậu và 72 cung nữ, đưa Nguyên phi ỷ Lan lên nhiếp chính, và giáng chức Tể tướng Lý Đạo Thành vốn đang đầy uy vọng, bắt ông về Nghệ An để mình thay quyền. Tình thế của nhà Lý trở nên bất ổn. Thế nhưng chỉ một năm sau (1074), cũng lại chính Lý Thường Kiệt đã cho mời Lý Đạo Thành ra nhận chức trở lại để mình được rảnh tay dốc sức vào việc binh bị nhằm đối phó với nhà Tống đang lăm le nhòm ngó Việt Nam. Cùng với quyết định này, triều đình nhà Lý còn ra sắc chỉ cho quan và dân phải tôn trọng những người có học vấn trong cả nước, và cho phép các bậc đại thần kỳ lão vào chầu vua không phải lạy quỳ(3). Quyết định "trả chức" của Lý Thường Kiệt là một việc làm kỳ lạ, chưa từng thấy xưa nay, chứng tỏ ông là một người có tầm thước lớn trong lịch sử. Nhưng chắc chắn quyết định đó cũng chỉ có thể nảy ra từ một con người thấm sâu văn hóa Thăng Long tận trong huyết quản, và từ trong tâm thức, đã tiên cảm được cái yêu cầu dân chủ của nền văn hóa này.
    Một câu chuyện khác: vào thế kỷ XIX nhà thi sĩ tài danh Cao Bá Quát có để lại một bài hát nói trong đó có những câu rất đáng kinh ngạc:
    Bóng thiều quang thấp thoáng mé Nam san,
    Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
    (Chén rượu tiêu sầu)
    Ai cũng biết "cửu hoàn" là vũ trụ, tuy từ này không có trong từ điển Trung Hoa. Nhưng trong văn cảnh ngữ nghĩa ở đây "cửu hoàn" còn có nghĩa là gì? Tại sao Cao Bá Quát lại viết tiếp: "Khoảng trời đất cổ kim kim cổ, Mảnh hình hài không có có không, Lọ là thiên tứ vạn chung"? "Thiên tứ vạn chung" - ấy là ân sủng cao quý bậc nhất dành cho bề tôi của đấng thiên tử. Cao Bá Quát tỏ ra xem thường cái đó vì đứng trên quan điểm vũ trụ mà xét, mọi vật tồn tại trong thời gian chỉ là nháy mắt, cổ và kim cũng chỉ là trong vòng quay không ngừng của tạo hóa, còn đứng trên quan điểm nhà Phật mà xét, cái gọi là sắc thân - hình hài - có đó mà cũng là không. Rõ ràng "cửu hoàn" trong cách dùng của Cao Bá Quát khiến ta không thể không nghĩ đến chữ "cửu trùng", mang nghĩa song quan, vừa là trời đất, vừa là biểu trưng cao quý của nơi nhà vua ở. Và từ cái nghĩa song quan này, có thể thấy dưới con mắt họ Cao, dường như mọi thứ đều bị xem nhẹ, dẫu là những vật lớn lao, trường tồn như trời đất, hay thâm nghiêm thăm thẳm như bệ ngọc của đấng chí tôn. Nói về khí phách thì dám chắc có nhiều nhân vật sản sinh ở miền này vùng kia còn có khí phách tương đương hoặc lẫm liệt hơn Cao Bá Quát, như Nguyễn Hữu Cầu (?-1750) với bài hát nói Chim trong ***g ấp ủ khát vọng tự do : "Phá vòng vây bạn với kim ô"â. Tuy nhiên, phải nói, khát vọng tự do của Nguyễn Hữu Cầu, dẫu là cao cả, cũng không ngoài chuyện "tranh bá đồ vương", trái lại, với Cao Bá Quát, khát vọng thảnh thơi, tự tại, lại là hiện thân của một tinh thần dân chủ. Ông muốn nói rằng không thể có sự cao thấp khác nhau giữa một hàn sĩ như ông và một ông vua địa vị cao sang, xét về thực chất giá trị. Cái ý tưởng bất chợt đó quả là lớn và cũng phải với môi trường văn hóa giàu tiềm năng dân chủ như Thăng Long mới cấp cho Cao Chu Thần cái nhìn vượt thời đại như vậy.
    Lại như trường hợp Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) ở đầu thế kỷ XX. Một lần có viên Tổng đốc nọ muốn mời ông đến tư dinh uống rượu. Ông thản nhiên trả lời viên Tri huyện sứ giả của Tổng đốc rằng: "Nếu cụ lớn - một ông quan Thủ hiến - muốn đòi tên dân Nguyễn Khắc Hiếu đến công đường thì xin có trát, Hiếu sẽ đi ngay. Còn nếu như quan Thủ hiến là một kẻ nhân đọc thơ tôi mà có bụng liên mến, muốn đàm đạo thơ ca với thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu thì tôi xin mời cụ phải quá bộ đến đây, dẫu một túp nhà cỏ, để Hiếu hầu rượu cụ"(4). Khẩu khí ấy liệu có sức nặng của nó hay không, nếu không tựa trên một truyền thống văn hóa Thăng Long vốn thấm đậm chất dân chủ qua nhiều thời đại?
    Do sự phân hóa, tranh chấp quyền lực trong nội bộ các tập đoàn thống trị nhiều đời, mà bắt đầu là từ thời Lê - Trịnh, tầng lớp "sĩ phu Bắc Hà", với thân phận những bề tôi trực tiếp, gần gũi nhất, không khỏi phải tìm cách đối phó, và do đó cũng chịu nhiều hạn chế trong cung cách ứng xử. Bản tính gọi là cứng cỏi, thẳng thắn của họ đôi khi phải biểu hiện dưới hình thức nước đôi, tránh né, dưới sức ép của cả chúa lẫn vua. Lâu dần, thói quen này thấm sâu vào tính cách, tạo nên một hình ảnh mặt trái về họ: vừa mang cái vẻ ngoài rất "khuôn phép", lại vừa có cái ranh mãnh ngầm, cái phản ứng thâm thúy của lớp người rất giỏi trò chơi chữ. Mặt khác, cái dân chủ dội từ trên xuống và cái dân chủ nẩy sinh từ trong lòng xã hội trước sau cũng phải tìm thấy một mẫu số chung, phải nhượng bộ lẫn nhau để cùng tồn tại. Đó là một thực tế phức tạp, có sự đan chéo giữa mặt hay và mặt dở, mặt lưng chừng và mặt cấp tiến, mặt "khuôn phép hóa" và mặt "vùng ra khỏi khuôn phép", mà văn học Thăng Long - Hà Nội thời nào cũng không khó tìm ra dẫn chứng. Ở thế kỷ XVIII, giữa không khí sục sôi tinh thần nhân văn chủ nghĩa, đã có một tiếng cười làm mất mặt đấng chí tôn của Trạng Quỳnh, một cái lườm nguýt làm xiêu đổ "hiền nhân quân tử" của Hồ Xuân Hương, và cũng đã có không ít những tiếng chửi đổng làm ra vẻ "phản tỉnh" của kẻ mới được giữ địa vị "chăn dân", muốn đoạn tuyệt với cuộc sống được "cởi trói" bấy lâu để lại tự nguyện chui vào cái vòng "kim cô" của giai cấp thống trị kiểu như Chiêu Hổ... Ngay đến thời đương đại, dân chủ từ trên và dân chủ bột phát từ xã hội công dân đi vào văn học vẫn là hai yếu tố song hành, nhiều lúc tưởng có gì "trái cựa", nhưng xét cho cùng, đấy cũng là sự thúc đẩy tất yếu lẫn nhau, có cái này mới có được cái kia. Và đó chính là kết quả khách quan của sự mở rộng cảm hứng dân chủ của đời sống văn chương diễn ra trong vòng một thập niên đổi mới cho đến sát trước khi bước sang thế kỷ XXI - một vụ mùa chưa thể gọi là bội thu, cũng chưa hẳn đã như ý muốn của người này hay người kia, nhưng nó là sản phẩm không thể đòi hỏi khác hơn của một mô hình văn hóa trong đó quá khứ vẫn còn chi phối và ám ảnh đối với hiện tại - giữa một thời đại thông tin và mở cửa. Một hiện tượng truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, và truyện ngắn của nhiều cây bút trẻ khác, một Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, hay một Cát bụi chân ai, một Chiều chiều của Tô Hoài, và gần đây hơn nữa là một Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (nếu ta trở lại với mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" trong nguyên nghĩa của nó)... thoạt kỳ thủy đều gây sửng sốt, tạo nên những "cú sốc", có cảm giác là những hiện tượng "không đi vào quy củ", nhưng rồi dần dần, thời gian đã phán xét, điều chỉnh, xác nhận lại sự hiện diện của chúng. Ở đây dường như là có sự tiếp nối cùng lúc vừa cái khôn ngoan, thâm thúy, tưng tửng nước đôi, lại vừa là cái dằn mặt sỗ sàng, táo tợn, của "sĩ phu Bắc Hà", của những truyền thống văn chương cổ xưa của con người Hà Nội.
    Văn học Thăng Long còn giàu chất trí tuệ bởi Thăng Long trong nhiều thời kỳ lịch sử đã từng là nơi kết tinh những nhà văn hóa, tư tưởng có tầm vóc thời đại, mà họ đồng thời cũng là nhà thơ nhà văn. Chúng ta có một Hưng Đạo đại vương, nhà tư tưởng quân sự kiệt xuất, tài ba, và một Trần Quốc Tuấn viết những câu văn hịch hùng hồn, làm sục sôi tinh thần tướng sĩ. Có một Tuệ Trung thi sĩ tiêu dao, phóng khoáng và một Tuệ Trung Thượng sĩ đề xuất bản thể luận Phật giáo và tổng kết phép biện chứng trong cách nhìn sự vật ở thế kỷ XIII:
    Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh,
    Đông lưu phó hải khởi hồi ba.
    (Thế thái hư huyễn)
    (Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại,
    Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua).
    Có một Nguyễn Trãi văn hào "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời"(5) và một Nguyễn Trãi phát ngôn tư tưởng "nhân nghĩa", một mệnh đề Nho giáo mà ông sáng tạo lại để chung đúc vào đấy tinh hoa của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam ở thế kỷ XV. Có một Lê Quý Đôn biên soạn những cuốn sách thông kim bác cổ và một Lê Quý Đôn là người bác bỏ xuất sắc "lý khí nhị nguyên" hay "lý gốc khí ngọn" của Chu - Trình, ở thế kỷ XVIII: "Lý còn không có hình tích, nhờ có khí nó mới hiện ra được. Lý ở ngay trong khí"(6). Có một "Thánh Quát" văn chương "vô Tiền Hán", và một Cao Bá Quát lãnh tụ nông dân khởi nghĩa, trong thơ lấp lóe cái chân lý: phải có cách mạng bạo liệt mới thật sự đưa đất nước đến một cuộc đổi đời, ở nửa đầu thế kỷ XIX:
    Tạc dạ xuân lai phá cựu hàn,
    Kim triêu hồng tử đấu thiên ban.
    Hà đương thế sự như hoa sự,ï
    Phong vũ, giang san tận cải quan.
    (Lập xuân hậu nhất nhật tân bình)
    (Hôm qua xuân đến rét tan,
    Sáng nay hồng tía muôn ngàn khoe tươi.
    Việc hoa ước cũng việc đời,
    Gió mưa, thoắt đã rạng ngời núi sông)
    Có một Hồ Chí Minh làm thơ giữa cảnh tù ngục, đặt vấn đề tự do như một quyền sống thiêng liêng của từng con người cá thể :
    Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
    Cay đắng chi bằng mất tự do.
    Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
    Để cho người dắt tựa trâu bò.
    (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi, II)
    và một Hồ Chí Minh nêu chân lý bất hủ cho cả dân tộc, khi đã là *************: "Không có gì quý hơn độc lập tự do", ở thế kỷ này. Ngoài ra, còn bao nhiêu gương mặt văn hóa khác, tầm vóc và diện mạo có khác nhau : một Lương Văn Can từng đề xướng phong trào chấn hưng doanh nghiệp của người Việt theo đầu óc thái Tây ngay từ đầu thế kỷ mà sau này Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà... sẽ là những nhà thực hành nổi tiếng, một Phạm Quỳnh từng nêu khẩu hiệu "Thổ nạp Á Âu" đầu những năm 20, một Cao Xuân Huy với phát kiến về phương pháp luận "chủ toàn và chủ biệt" giữa Đông và Tây khoảng giữa những năm 50, một Trần Huy Liệu "Thử xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ" sát ngay sau cải cách ruộng đất, một Nguyễn Mạnh Tường công khai đề xuất dân chủ pháp quyền từ năm 1956, một Nguyễn Khắc Viện dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng của chế độ bao cấp giữa những năm 80 từ 7, 8 năm về trước, và một Trần Độ tướng lĩnh trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ lại cũng là người chuẩn bị "bếp núc" cho Nghị quyết 05 của Đại hội Đảng lần thứ 6 chứa đựng tinh thần "cởi trói" cho văn nghệ sĩ... Thử làm một dấu nối giữa các các gương mặt tiêu biểu ấy. Thực hiếm có một vùng đất nào mà hiện tượng sóng đôi giữa các đỉnh cao nghệ thuật và trí tuệ lại xuất hiện liên tục, dồi dào như trong văn học Thăng Long. Cái đẹp của văn học Thăng Long - Hà Nội vì thế có thể nói là cái đẹp của một tiềm năng tự phát sáng và tỏa lan ánh sáng đến nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, kích thích những biến đổi mạnh mẽ về tư tưởng, văn hóa, văn học ở nhiều vùng đất nước, khơi nguồn cho các trào lưu, các dòng phái, các hiện tượng văn học trong từng thời kỳ sinh sôi nảy nở.
    Nhưng văn học Thăng Long rất trí tuệ mà lại không kém ý vị trữ tình. Cảm xúc trữ tình từng là thế mạnh của văn học nhiều vùng, như văn học Kinh Bắc, văn học Nghệ - Tĩnh... Tuy thế, sắc thái trữ tình của văn học Thăng Long vẫn có nét ưu mĩ của nó, ở chỗ phong cách biểu hiện của dòng văn học này là sự tài hoa thanh lịch, là cái sang trọng của tình cảm kết tinh thành chữ nghĩa, và là cái sang trọng của chữ nghĩa cất lên thành tiếng nói thi ca.
    Chỉ một giây phút trầm tư trong bức tranh giai nhân thêu gấm của nhà sư thi sĩ Huyền Quang (1254-1334), cũng đủ gợi lên tất cả chiều sâu tâm lý và dáng dấp phong tao, kiều diễm của những người đẹp kinh thành:
    Nhị bát giai nhân thích tú trì,
    Tử kinh hoa hạ, chuyển hoàng li.
    Khả liên vô hạn thương xuân ý,
    Tận tại đình châm bất ngữ thì.
    (Xuân nhật tức sự)(7)
    (Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
    Hoa hợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
    Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
    Là khi không nói, chợt dừng thêu).
    Lại cũng dường như có một cái gì thật sang trọng, có phần khuê các nữa, ẩn sâu trong những vần thơ thanh nhã của nữ sĩ Ngô Chi Lan (?-?) khi bà từ trong môi trường cung cấm Thăng Long ở thế kỷ XV mà viết về hoa sen và các cô gái trẻ:
    Liên hoa viễn cận hương,
    Thái thái tổng sơn trang.
    Mạc khiển phong xuy mấn,
    Băng cơ nguyên tự lương.
    (Thái liên khúc, II)
    (Sen ngát khắp gần xa,
    Đầy thôn tiếng hái hoa.
    Tóc đâu cần gió thổi,
    Thơm mát tự trong da).
    Trong một bài thi ở Thăng Long vào đầu thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (?-?) đã bằng ngòi bút hóm hỉnh, chỉ trong mấy nét lột tả được rất đắt cung cách ăn chơi hào hoa mà vẫn không kém vẻ nền nã của các chàng trai cô gái kinh kỳ:
    Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần,
    Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;
    Gái éo le rủ yếm dôi quần.
    Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;
    Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân.
    (Phụng thành xuân sắc phú)
    Đến thế kỷ XVIII, văn học Thăng Long bước vào thời kỳ hoàng kim với trào lưu nhân đạo chủ nghĩa làm sinh sắc hẳn cả hai dòng văn học chữ Nôm và chữ Hán, thổi vào thơ văn cái xôn xao rạo rực của những trái tim khao khát yêu đương, và làm cho văn chương trở nên gân cốt, chuẩn mực bởi tính hiện thực đậm nét, lại cũng trau chuốt đến kỳ khu, mềm mại đến thần tình bởi sự bộc lộ tâm trạng cá thể cá nhân. Một Ngô Thì Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, một Phạm Thái với Sơ kính tân trang, một Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc, một Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) với Cung oán ngâm khúc, một Lê Ngọc Hân (1770-1799) với Ai tư vãn, một Nguyễn Khản với các khúc hát giáo phường thanh thú... đều là sự thể hiện tâm trạng cá nhân dằn vặt ấy, các tình cảm yêu đương bức xúc ấy, và thứ ngôn ngữ cao sang, tân kỳ, rất mực Hà thành ấy.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Công trình của 9 thế kỷ đã qua
    Sau thắng lợi trên sông Cầu, ?oNam quốc sơn hà? với nền độc lập trường cửu đã được sách trời ghi nhận rành rành. Niềm hưng khởi đó, càng thúc đẩy mọi mặt kinh tế-chính trị-văn hoá Đại Việt sải những bước dài.
    Từ năm 1085, Ỷ Lan ?odạo chơi núi sông, ý muốn xây dựng chùa tháp? (Ngô Sĩ Liên, sđd, tập I, trang 240), và đến năm 1086, Nhà nước ra lệnh ?olàm chùa Đại Lãm sơn? (Ngô Sĩ Liên, sđd, tập I, trang 240). Rồi tới năm 1087, ?ovua ngự đến chùa Lãm sơn, đến đêm ban yến cho các quan. Vua thân làm hai bài thơ Lãm sơn dạ yến? (Ngô Sĩ Liên, sđd, tập I, trang 240).
    Công việc xây dựng phải kéo dài mãi tới năm 1094 thì ?ochùa Lãm sơn làm xong. Vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh?, ?olại thân đề biển bằng chữ triện? (Việt sử lược, Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, 1969, trang 117), để cho gần bốn ngàn ngày sau, năm 1105, lại ?oxây tháp bằng đá ở Lãm sơn? (Việt sử lược, trang 122).
    Như thế là chùa Dạm bắt đầu khởi đặt từ mùa đông năm 1086, đến mùa thua năm 1094 mới hoàn thành. Công việc xây dựng tháp cứ dần được bổ sung về sau. Lý Nhân Tông rất chăm lo đến công trình chùa Dạm. Nhà vua từng thân hành về thăm, đề thơ, viết biển và đặt tên cho chùa. Thời gian dài, có sự gia công và đầu tư đặc biệt của Nhà nước, đã nói rõ cái quy mô rộng của chùa Dạm. Chẳng thế mà, sau này, Trần Nhân Tông ghé qua chùa Dạm đã viết:
    ?oThập nhị lâu đài khai hoạ túc.
    Tam thiên thế giới nhập thị màu?.

    Nghĩa là:
    Bức tranh kiến trúc mười hai lớp
    Mắt thấy thiên nhiên rộng vạn lần (Trần Nhân Tông: Đại lãm Thần Quang tự).
    Cái quy mô to lớn ấy, ta còn tìm thấy trong một câu ca tính thời gian ví bằng thời điểm mọc trăng. Tương truyền, cửa chùa Dạm nhiều đến nỗi phải đóng từ chiều đến giờ ?omám trấu? mới xong:
    ?oMười rằm trăng náu
    Mười sáu trăng treo
    Mười bảy phẩy giường chiếu
    Mười tám đóng (xong) cửa chùa Dạm??

    Cái đồ sộ, rộng rãi của chùa xưa không còn nữa. Nhưng nó được ghi chép lại rất sâu trong ký ức của người dân Kẻ Dạm, của những lớp mặt bằng mênh mông, những thành nền vững chãi, những khu đất vuông-tròn được kè lại bằng đá chạm sóng nước, là cột đá chạm rồng cao ngất?
    Nến chùa Dạm còn bốn lớp cao dần, trải ra trên một diện tích rộng gần 8.000 m2. Bề mặt của mỗi lớp nền rộng chừng 65 m và chiều sâu của bốn lớp nên khoảng 120 m. Bốn lớp nền dựa lưng vào núi, có đá xếp để chống xói lở. Các vách đá đó cao độ 5-6 m, gồm ba bức thành xếp so le gối nhau, thành hình tam cấp, có chân hơi choãi, bề mặt phẳng lỳ, các đường mạch ngang thẳng rõ ràng, trông xa như tường gạch xây. Từng viên đá đều được đẽo gọt có góc vuông cạnh thẳng, dài rộng chừng 0,5-0,6 m.
    Nối các tầng nền với nhau là những bậc thềm, trong đó có một tầng bậc lên chính tầm cao rộng tới 16m. Ở tầng bậc lên lớp nền đầu tiên, các bậc cấp đều cao và rộng, phù hợp với bước chân đang náo nức lên chùa. Khi đã lên tầng nền đầu, du khách thường lên lớp tầng trên bằng cửa giữa. Lẽ đương nhiên, khi đã vào đất Phật, mọi người đã bước vào thế giới đó phải tuân theo ý niệm của đạo Phật bằng ba lối, tượng trưng của ba điều nên. Như vậy, lên lớp nền thứ hai có tới ba cửa, mỗi cửa hẹp hơn, bậc đã thấp hơn và du khách lên các tầng nền thứ ba và thứ tư, chỉ cần bậc cửa ở hai bên thôi. Các tầng bậc cửa phụ ở hai bên đều hình chữ T ngược, phía dưới khá rộng, lên cao hẹp hun hút như đi vào một chốn thẳm cùng, để rồi khi đã vượt qua các bậc cửa tới tầng nền trên, du khách bỗng thấy mở ra một thế giới mới. Cứ thế, lên mỗi tầng, tầm mắt ta lại phóng thêm xa, gặp thêm cảnh lạ. Sáu cửa phụ thuộc ba tầng nền trên bố trí cân xứng, đối nhau qua một trục cắt dọc theo chính giữa chùa, tất cả đều dựng theo một quy cách thống nhất nhưng không hoàn toàn giống nhau, không gây cảm giác đơn điệu.
    Hai khu đất vuông và tròn khá lớn ở ngay hai bên cửa chùa, vừa đảm bảo sự cân đối trong mặt bằng kiến trúc, vừa mang lại cho du khách nhận thức về vũ trụ, về phép tắc trong xã hội và trong sáng tạo nghệ thuật. Vũ trụ ấy, phép tắc ấy được nước là nguồn sóng nuôi dưỡng và che chở, nên mặt đá bao quanh nó đều chạm thành các hình sóng lừng và sóng xô.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phía trên khu đất hình tròn, ở ngay chính giữa, được dựng đứng thẳng một cột đá lớn liền khối. Không kể phần chìm ở dưới đất bị gãy mất, thân cột vẫn còn cao khoảng 5 m. Dáng chung của cây cột đá gồm hai phần, khối hộp ở dưới và khối trụ ở trên. Phần khối hộp có tiết diện gần vuông, cạnh 1,4 m và 1,6 m. Phần khối trụ có tiết diệt gần tròn, đường kính khoảng 1,3 m. Hai khối vuông và tròn rất khác nhau, nhưng đặt chồng nhau lại ăn ý và hợp tình, hợp lý, lại nói lên một thế giới mới nữa có trời có đất, có khuôn phép xử thế.
    Đoạn dưới của phần cột tròn, nghệ sĩ thời Lý đã chạm nổi cao đôi rồng ngoắc đuôi nhau, quấn quanh cột, đầu ngóc cao chầu nhau vào một viên ngọc đang toả sáng. Đôi rồng này có đầy đủ đặc điểm của con rồng rắn thời Lý rất Việt Nam và rất hoàn chỉnh, khác với con rông trong nghệ thuật Trung Hoa, và cũng khác với con rắn trong nghệ thuật Ấn Độ cùng thời, tổng hợp dáng của con rắn khổng lồ với những chit iết của nhiều con vật khác, còn để lại tên trong trò chơi ?oRồng rắn đi xin thuốc? của các em nhỏ. Đầu rồng có mào lửa bốc lên, có bờm cờ bay lướt, có dấu hiệu giống chữ S là ký hiệu về mây mưa sấm chớp?; thân rồng tròn lẳn, có vẩy kép, uốn khúc thoăn thoắt; chân rồng ở đây năm móng, cong và nhọn sắc như móng chim, chân trước đưa lên cao trịnh trọng nâng hòn ngọc bốc lửa. Bên cạnh nhiều chi tiết to lớn, nhiều đường lượn khoẻ chắc, có nhiều hoa văn dây móc cuồn cuộn chạm tinh tế, nên nhìn ta xa hay ở gần ngay cạnh, ta đều thoả mãn và tìm thấy ở đấy mơ ước của người xưa về một cuộc sống thái bình, no ấm, mưa thuận, gió hoà?
    Chùa Linh Xứng (Thanh Hoá) dựng thời Lý, theo văn bia của chùa thì trước chùa cũng có cột đá và gọi là ?oCột biểu?. Cái tên này phần nào gợi ý sự liên tưởng tên gọi cột đá chùa Dạm được chăng? Có người cho cột đá chùa Dạm phải đỡ một tấm kiến trúc ở trên đỉnh nó, như kiểu chùa Một Cột (Hà Nội). Nhưng quan sát kỹ ta thấy những cái hốc quanh đầu cột rải ra không đều, chỗ thì quá nan, chỗ lại quá thưa, tất cả 6 lỗ mà có đoạn tới một phần ba vòng thân cột không có lỗ nào. Dẫu sao có một trí tưởng tượng tới mức cao độ cũng khó có thể vẽ nên một kiểu nhà xây trên cột này được.
    Tìm hiểu ý nghĩa của cột đá chùa Dạm, không thể không bắt đầu từ một lịch sử lâu đời của những cột đá.
    Những cây cột đá xuất hiện trong lịch sử nhân loại có từ nền văn minh cự thạch, thường dùng để vây quanh các một táng. Đã có nhiều ý kiến khác nhau giải thích ý nghĩa của hiện tượng này, nhưng có một điều nguời ta có thể thống nhất được rằng, những cự thạch (megalit) chắc chắn có liên quan tới tôn giáo. Đến khi nhân loại bước vào nền văn minh nông nghiệp, thì ý nghĩa của cự thạch được trả lời rõ hơn: nó là vật biểu tượng sinh thực khi cần mong phồn thực, sự sinh sôi nảy nở. Những tư tưởng này đã sống một cách dai dẳng tới tận xã hội nông nghiệp tiền tư bản vẫn còn mang đầy đủ ý nghĩa của nó.
    Bước vào chế độ phòng không, tín ngưỡng này trở thành đa dạng và được diễn tả ra nhiều cách.
    Tìm hiểu những kinh sách cổ Ấn Độ, người ta thấy cây được coi như có nhiều đức tính mầu nhiệm. Cây thần thoai đầy mầu nhiệm đã phân phát phúc lành và sự sinh sôi. Trong các nghi thức đối chiếu, cây hương ở trung tâm Phật giáo là một cây bật rễ trơ trọi một cành, sau này được trồng lại nhờ bùa chú phục hồi cho nó những đức tính cơ bản được siêu hoá. Nó là cây vũ trụ vừa từ dưới đất mọc lên, lại từ trên trời rơi xuống để bảo vệ hai thế giới cách biệt: thiên đình và hạ giới.
    ?oChắc chắn rằng tục thờ cây cổ truyền ở Ấn Độ đã được Phật giáo thâu nhận, nhất là ở hình thức cây nhân cách hoá, cho nên ở thần thoại về những kiếp trước của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người ta thấy rất nhiều sự tích liên hệ đến thần linh cây cối, và chính tại dưới cây bồ đề mà đức Phật Thích Ca đã đắc đạo chính giáo? (Nguyễn Đăng thục: Văn hoá đình làng-Tư tưởng, số 7 tháng 9 và 10-1973). Mặc dù đã được Phật hoá như vậy, cột đá vẫn còn lưu ảnh các tư tưởng cổ truyền xưa: ở nhiều nơi vẫn nhận ra đó la hình lanh-ga và kèm theo đó là quan niệm vũ trụ: trời tròn-đất vuông, của các cư dân nông nghiệp.
    Phật giáo Việt Nam, cột biểu-cây vũ trụ-dựng ở chùa Dạm cũng mang những ý nghĩa đó. Nhưng nó còn ghi thêm những biểu tượng riêng của nó-con rồng, vật biểu trưng của một tín ngưỡng địa phương.
    Vẫn ở lớp nền thứ hai này, còn có dấu vết của một cái giếng cổ, nhân dân Kẻ Dạm có người vẫn gọi là giếng Bống do Bà Tấm sai đào để nhắc lại kỷ niệm hồi nhỏ.
    Trên lớp nền thứ ba, có một trang lý lịch bổ sung vào hồ sơ chùa Dạm. Đó là tấm bia nhỏ 0,65 m, rộng 0,46 m, khắc năm Chính Hoà 17 (1696), bị đổ lăn lóc. Chùi đất, phủi bụi, ta nhận ra bài văn ?oĐại lãm Thần Quang tự tân tạo hộ pháp?, cho biết chùa này trước chưa có tượng hộ pháp, năm Ất Hợi (1695), ngàn người đồng lòng, không tiếc của nhà, cố làm việc phúc, dựng buồng oản một toà ba gian, lại làm hai tượng hộ pháp. Bia cũng xác nhận sự đóng góp cho chùa của người Kẻ Dạm và của người ở quanh vùng này. Cũng ở bia này, ta còn đọc được những ngôn ngữ tạo hình: đôi phượng đang bay hai bên mặt trời.
    Trong khu vực chùa Dạm, ta còn tìm thấy tượng đầu người bằng đá, nhiều mảnh đất nung chạm hình con vịt, rồng, hoa lá? Tất cả nói lên một giai đoạn huy hoàng của chùa Dạm đã tập trung được trí tuệ của dân tộc ta về xây dựng và chạm khắc.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đầu xuân em kéo chủ đề này lên phát cho các bác đọc!
    Ý tươ?ng ngươ?i xưa va? ti?nh ca?m ngươ?i nay
    Tư? thị xaf Bắc Ninh, có thê? đến chu?a Dạm bă?ng hai đươ?ng: đi theo quốc lộ số 18 (đươ?ng đi Pha? Lại), đến cây số 6 thi? ref tay pha?i va?o ngay trong xaf Nam Sơn, hoặc đi theo ti?nh lộ 38 (đươ?ng đi Hô?) đến cây số 4 thi? ref tay trái cufng va?o ngay xaf Nam Sơn. Nhưng không pha?i chi? khi na?o va?o hă?n Nam Sơn mới thấy chu?a Dạm. Tư? trên đươ?ng ti?nh lộ 38, ta đaf thấy nhưfng lớp nê?n chu?a va? cột đá chạm rô?ng, va? ca? bia nưfa, dựa lưng va?o vách núi, nô?i bật dưới nê?n trơ?i, la? dấu hiệu khă?ng định một tha?nh tựu trí tuệ tư? nga?n xưa.
    Đến chân núi Dạm, tre?o sươ?n núi thoai thoa?i nhưfng cấp bậc thang đê? lên ngay nê?n chu?a. Va? tư? nê?n chu?a nhi?n gâ?n nhi?n xa, ta đê?u ca?m thụ được ý tươ?ng nha? kiến trúc xưa. Chu?a Dạm có quy mô lớn, bốn lớp bê?n trươ?n theo sươ?n núi lên núi cao dâ?n, nhưng tất ca? vâfn biết giưf mi?nh lại ơ? lưng chư?ng núi, dựa hă?n va?o sươ?n núi đê? trơ? tha?nh một bộ phận đột xuất cu?a thiên nhiên, ho?a hợp với hi?nh khe thế núi, với cây cối, với mây trơ?i. Nha? kiến trúc xưa đaf ti?m thấy ơ? thiên nhiên, va? lợi dụng thiên nhiên đê? nhân cái đẹp cu?a công tri?nh mi?nh. Chu?a Dạm biết dư?ng ơ? đúng độ cao, nên duyên dáng va? thân mật, nguy nga đấy ma? vâfn ấm cúng. Phật tư? xưa va?o chu?a vư?a thấy thế giới tiên phật, vư?a thấy cofi trâ?n, bi?nh tha?n va? trong sạch. Rô?i tư? đấy, môfi buô?i sớm mai hay khi chiê?u ta?, tư? trong nhưfng lu?m cây, nhưfng mái chu?a lại vang lên tiếng chuông ?ophá niê?m tục thức ke? mé, khuyên điê?u thiện răn ke? ác!?...
    Chu?a ơ? phía nam núi nhi?n xuống la?ng xóm va? đô?ng ruộng, nhi?n xa ra tận sông Đuống, thấy đất, thấy nước, đón gió mát, đo bóng mặt trơ?i chuyê?n qua tư? trái sang pha?i.
    Chu?a Dạm co?n la? một bă?ng chứng cu?a kyf thuật chế tác đá ráp cu?a dân tộc ta ơ? thơ?i Lý đaf ơ? mức rất cao. Đá ke? các tâ?ng nê?n, đá chạm sóng nước ke? các khu đất vuông va? tro?n, rô?i cột đá chạm rô?ng, rô?i tượng đâ?u ngươ?i... ơ? chu?a Dạm đê?u bă?ng đá ráp, đê?u được chế tác thuâ?n thục, tinh xa?o. Ơ? hâ?u hết các di tích thơ?i Lý, tư? đá ke? tha?nh nê?n các chu?a Phật Tích, Vifnh Phú, chu?a Dạm (ơ? Ha? Bắc), ke? chân tháp Chương Sơn (Nam Ha?), đến đá bia chu?a Đọi (Nam Ha?), đá chạm nô?i thấp va? chạm nô?i cao ơ? chu?a Ba? Tấm (Ha? Nội), chu?a Hương Lafng (Ha?i Hưng), chu?a Đọi va? Chương Sơn, đá la?m tượng tro?n ơ? Phật Tích (dafy tượng thú), ơ? chu?a Ba? Tấm va? Hươfng Lafng... đê?u la? đá ráp, va? đê?u được nghệ sif thơ?i Lý biến tha?nh nhưfng tác phâ?m nghệ thuật tuyệt khéo, có cuộc sống, có tâm hô?n. Sự thực na?y hoa?n toa?n phu? nhận ý kiến cho ră?ng ?ongươ?i Việt miê?n Bắc xưa nay coi như không quen biết gi? đối với nê?n kyf thuật đefo, khắc, chạm trên đá ráp ca?? (Đào Tử Khai: Vài ý kiến về chùa Dạm-Quản lý văn vật, số 1, 1974).
    Vốn xưa đê? lại không pha?i chi? cho riêng ngươ?i Ke? Dạm, ma? cho ca? dân tộc nhưng ngươ?i Ke? Dạm có vinh dự được dân tộc trao cho quyê?n qua?n lý. Yêu cô Tấm trong truyện kê? dân gian, tư? bao thế ky? nay ngươ?i Ke? Dạm vâfn gọi tấm gạo la? ?ođớn?.
    Yêu quê hương, người Kẻ Dạm vẫn thấy từng hình khe thế núi, từng miếng đất và cái cầu, từng con người và đường đi? đều có cuộc sống phong phú, có tâm hồn.
    Yêu văn hóa dân gian, người Kẻ Dạm vẫn cho phép con em mình, trai và gái được vượt ra ngoài kỷ cương phong kiến, hằng năm vui chơi với nhau thỏa chí trong hội chen mồng 7 tháng Giêng, hội chùa Hàm Long rằm tháng Hai, hội Phật đản mồng 8 tháng Tư, và đặc biệt trong hội chùa Dạm mồng 8 tháng Chín hàng năm?
    Vui chơi rồi, trai gái Kẻ Dạm trở lại sản xuất đòi đất cho gạo, đòi nước cho cá? và tập luyện bảo vệ xóm làng.
    Chùa Dạm xưa chưa dễ được tất cả người dân xứ Bắc biết đến, sử sách có viết đến nhưng mấy ai đọc được; nay chùa Dạm thành tài sản quốc gia, thành niềm tự hào của cả dân tộc, thành sự ngạc nhiên đến khâm phục của bầu bạn khắp nơi. Nền chùa Dạm được nghiên cứu phục hồi, cột đá chạm rồng chùa Dạm được phục nguyên đúng kích thước, hình khe thế núi vùng Dạm được ghi chép trên bản đồ tỉ mỉ.
    Và tất cả những di sản mà người xưa để lại tới nay, đã vĩnh viễn có mặt trong những nhà bảo tàng của Tổ quốc.
  6. ChienV

    ChienV Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/05/2001
    Bài viết:
    597
    Đã được thích:
    0
    Xin lỗi monarchy và các bạn, say sưa nên xì pam một tý.
    Bạn monarchy thân mến, đất Kẻ Chợ xưa, những vùng đất Địa linh Nhân Kiệt (sản sinh ra nhiều người đức cao vọng trọng, học rộng hiểu sâu) là vùng Diễn, Nhổn, Hà Tây, Đông Anh, Bắc Ninh ...... cơ bạn ạ. Còn công thần các vùng tụ về đất này nhiều lắm, nhà Trần xuất phát từ Hưng Yên, nhà Lê từ Thanh Hóa, nhà Đinh _ Lê từ Ninh Bình ....... tụ về đất này cũng vì vậy mà thôi.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đình Lỗ Hạnh-Công trình nghệ thuật ?oĐệ nhất Kinh Bắc?
    ?oChợ Lữ có ba sáu cây đa,
    Có một cây cọ thờ bà Chúa tiên?
    (Ca dao)
    Quê ta chợ Lữ
    Cùng biết bao miền quê bình dị khác, Đông Lữ chưa đi vào sử sách bằng những dòng chữ chói ngời, hiển hách. Vốn khiêm nhường, chất phác, vùng đồng bằng quê ấy chỉ biết giới thiệu với bạn gần xa những sản phẩm cấy trồng từ mảnh đất quê mình:
    ?oTương Vân Cầu,
    Bầu Đông Lữ,
    Chữ Đông Ngàn?
    .
    Quả bầu xiết bao tình nghĩa. Bát canh bầu ngào ngạt dù chỉ nấu với ?orâu tôm? vẫn ấm nồng tình nghĩa lứa đôi, nghèo mọn nhưng thân thương, như bắt đầu từ thuở mới dựng xóm dựng làng. Cũng bởi thế, quả bầu đã được dùng là mô-típ về sự ra đời của các dân tộc cùng chung một nguồn cội. Không phải chỉ ở nước ta, mà nhiều dân tộc khác ở vùng Đông Nam Á cũng thấy hình ảnh quả bầu khai sáng cho dân tộc mình.
    Đông Lữ gửi bầu đi bán khắp nơi. Người sành ăn tìm thấy bầu Đông Lữ ở chợ Thắng (Hiệp Hoà), chợ Nếnh (Việt Yên), chợ Giầu (Tiên Sơn), chợ Nhớn (Bắc Ninh) và tận mãi ở phố Ni, phố Cò (Bắc Thái).
    Vào một phiên chợ Lữ nào đó, mời bạn hãy qua thăm. Với cái ồn ào và oi ả của một phiên chợ vùng trung du thuần hậu. Từ các ngả đường kéo đến, cùng với bụi đường bám đỏ, các sản phẩm ở trong vùng kéo về tụ họp. Thóc vàng, lạc đỏ, đậu xanh, gạo trắng làm vui thêm cảnh quan của một vùng đất vốn nhiều sỏi đá. Ba mươi sáu cây đa cổ thụ che kín cả khu chợ, rợp mát kẻ mua người bán, đến mãi gần đây vẫn còn. Và bà Chúa tiên, không rõ tự thuở nào, đã hun đúc cho người Lữ một truyền thống yêu nước.
    Trong thần tích và trí nhớ của người làng, vị thành hoàng của đình là Cao Sơn, sinh ở đất Hồng Châu, đời vua Hùng thứ 17. Cao Sơn đã từng giúp nhà Hùng đánh giặc, đã từng đóng quân ở Lữ. Khi Cao Sơn mất, dân làng tâu lên vua Hùng và được phép thờ cúng bái vọng. Bên cạnh Cao Sơn còn có cả Phương Dung công chúa cũng được thờ ở đây, vì nàng có công báo mộng và giúp cho Cao Sơn chiếc áo tàng hình. Chúng ta cũng không lấy gì làm lạ, hội xuân ngày 9 tháng Giêng, dân Lữ vẫn rước tượng thánh mẫu Phương Dung từ Nghè về đình để cùng Cao Sơn chung vui với dân làng một tuần, đến chiều hôm rằm mới hoàn cung trở lại nghè (Theo thần tích đình Lỗ Hạnh và một số người địa phương thì chỉ nhắc đến hai vị thần Cao Sơn và Phương Dung. Lại còn có người thêm Quý Minh vào nữa, hoặc nói là Cao Sơn Quý Minh đại vương, hoặc nói là Cao Sơn và Quý Minh. Nhiều nơi khác cũng hay thờ cặp đôi Cao Sơn và Quý Minh, nhưng nhiều người già cũng hay gắn hai tên làm một.
    Vẫn chuyện Hùng-Thục, nhưng nhiều người kể thêm đoạn sau có ?ohậu?: Đất nước yên bình rồi, Hùng Duệ Vương nhiều lần ngỏ ý truyền ngôi cho Tản Viên, nhưng lần nào Tản Viên cũng từ chối, sau cùng phải khuyên vua Hùng gọi Thục Phán là người trong tông phái họ Hùng lại trẻ và có tài, về mà trao cho ngôi báu. Hùng Vương y theo: Thục Phán được lên ngôi vua, gọi là Thục An Dương Vương, lập cột đá thề trên núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú): ?oNguyên có trời cao chứng giám, xin đời đời gìn giữ núi sông và trông nom đền miếu họ Hùng?, lại lập đền thờ mẹ Tản Viên.
    Riêng về nhân vật Phương Dung, nhân dân địa phương vẫn nhớ duệ hiệu của bà nhưng lại gọi là bà Liễu Hạnh quen thuộc trong tín ngưỡng dân gian).
    Hơn hai nghìn năm lịch sử, bao ý niệm của nhiều thế hệ, bao thứ tôn giáo đã phủ dày lên truyền thuyết, đan xen lẫn nhau. Vì vậy, chúng ta khó mà phân biệt đâu là cái cốt lõi từ buổi đầu mới lập xóm làng. Có một điều, đã rõ ràng, cũng như ở nhiều địa phương khác ở Hà Bắc, việc thờ phụng trong chốn đình trung, các vị thần núi đã là một hiện tương rất phổ biến ở bên kia bờ con sông Cầu.
    Trên cánh đồng xanh lúa, còn ghi lại khá đậm đà những câu chuyện của người thủ lĩnh nghĩa quân Đại Trận. Đại Trận quê mãi tận Nọc Lý, vùng Yên Thế (nay thuộc Tân Yên), nhà nghèo, bị áp bức, đã vùng dậy, cùng em chiêu mộ nghĩa quân chống lại triều đình nhà Nguyễn. Đại Trân đã thắng quân triều đình một trận lớn ở làng Ngò (Ngọc Vân-Tân Yên) rồi thừa thắn truy kích địch đến tận Bằng Gồi (Hà Nam), quay trở về Tam Đảo rồi cuối cùng kéo quân về đóng chặt ở ba làng Lữ,
    Cùng lúc ấy, quân triều lại kéo đến bao vây nghĩa quân. Đại Trân đã dùng kế ?ohoả ngưu?,-dùng những con trâu to khoẻ nhất, tẩm dầu, đốt lửa cho xông vào bên địch. Trận chiến đấu nổ ra ngày càng ác liệt. Cuối cùng, Đại Trân bị quân triều dồn vào một thửa ruộng rồi đốt chết.
    Trận đấy, quân hai bên chết nhiều đến mức dân đinh của các làng Lữ phải chôn tới 10 ngàn xác vẫn không hết, và nhân dân vẫn gọi đó là Trận Giặc Lá. Tấm gương và sự hy sinh dũng cảm của Đại Trân mãi mãi làm cho người thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế Hoàng Hoa Thám cảm phục. Cụ Đề đã cho dựng đền miếu để phụng thờ. Những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở đây lại có Cai Biểu mộ quân nổi lên chống Pháp. Nhưng vì tổ chức kém,thiếu đường lối rõ ràng, nên cuộc khởi nghĩa này đã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng:
    ?oCai Biểu ngồi ở trong ngai,
    Mộ quân ảy ngày được một ngàn ba.
    Cai Biểu thực đáng tài khoa?
    ,
    ?
    Sau khi trỗi dậy không thành, một đêm tháng Chạp, Cai Biểu cùng một vài người bạn chiến đấu của mình lạn lội sang núi rừng Yên Thế đứng vào hàng ngũ nghĩa quân Cụ Đề, lập được nhiều công tích.
    Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, người dân Lữ cũng lập nhiều kỳ tích. Từ năm 1949 đến 1954, ta đã đánh Pháp hơn mười trận ở vùng này, mà tiêu biểu nhất là trận ngày 25-7-1951.
    ?oHai nhăm tháng bảy vừa rồi,
    Quân ta phục kích từ mười giờ đêm.
    Năm giờ Tây mới kéo lên,
    Quân ta nổ súng trung liên đoàng hoàng.
    Vừa Tây vừa lính bảo hoàng,
    Quân ta đánh đuổi giáp làng Bù Nông?
    .
    Rồi đến trận ngày 21-10-1952, địch đã vây kín cả xã, ta phục trong đình đón đánh. Khi chúng chỉ cách còn một cái ao, quân ta mới nổ súng. Địch chạy rạp cả lúa, chỉ mong được thoát thân.
    Nay giặc đã sạch bóng quê ta rồi nhưng vết nhơ của chúng nghìn đời chửa tan. Và, đối lập lại cái truyền thống vẻ vang của người Lữ mãi mãi sống cùng đất trời.
    Lữ là tên gọi chung cho cả vùng. Xã nay mang tên là Đông Lỗ, có tới 9 làng chia làm hai mảng. Bên kia đường có bốn làng: Đông Lỗ, Hưng Đạo, Vân Cẩm, Yên Linh và ấp Nghĩa Tiến mới thành lập. Bên này đường có năm làng: Chằm, Chúng, Khoát, Chùa, và Hạnh-xưa chung một xã, một đình: Lỗ Hạnh, thuộc tổg Đông Lỗ (Làng Hạnh khoảng một trăm năm mươi năm nay mới tách biệt ra làm một giáp, và năm Kỷ Mão (1939) dựng riêng môt ngôi đình năm gian. Làng Hạnh vốn nổi tiếng là một làng văn học, yêu nhau bằng tấm lòng. Câu ca địa phương nêu từng đặc điểm của năm làng ấy,cũng dành cho là Hạnh một vẻ hào hoa: ?oVăn vua làng Hạnh?).
    Chợ Lữ quê ta đó. Bạn từ Bắc Ninh ngược sông Cầu, qua đến đó Gầm, theo con đường về Thắng vài ba cây số là đến. Còn nếu đi từ Bắc Giang, đến Thắng, bạn xuôi con đường đất đỏ, chỉ dăm bảy cây số, qua phố Nứa là tới nơi.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Vàng mười cầm ở trong tay
    Đình cả Lỗ Hạnh nằm mấp mé mãi sau làng. Khách vãng lai nếu không để tâm tìm thì khó lòng trông thấy. Suốt mấy thế kỷ tồn tại, đình Lỗ Hạnh ít được dân ngoài làng xã biết đến. Cái đẹp của nó hầu như bị ngõ lối quanh co giữ lại. Nhưng trong mấy năm gần đây, các cán bộ bảo tàng của Ty Văn hoá Hà Bắc đã tìm ra vật quý báu này.
    Ngôi đình vẫn điềm đạm đứng đó. Trầm tĩnh, đơn sơ. Xung quanh đình này đã mở rộng thành sân phơi của hợp tác xã Lỗ Hạnh. Bản thân ngôi đình, tường gạch đã xây bít bốn xung quanh, chỉ có mấy cửa ra vào ghép ván đơn giản. Ba trong số bốn đầu đao của đình đã bị hỏng hẳn. Bờ nóc cũ cũng không còn. Ngay cả ngói cũng bị thay nhiều. Rồi đến các đầu kẻ đều trơn. Nhìn bên ngoài, đình Lỗ Hạnh như một ngôi đình bình thường mới mẻ chứ không phải là một ngôi đình cổ kính, vì toà hậu cung của nó, với những vật liệu kiến trúc mới mẻ đã lừa người qua. Nga cả toà đại đình, những vật liệu kiến trúc mới tu bổ cũng làm cho ta tưởng ngôi đình muộn đi mấy trăm ?otuổi?.
    Nhưng, vào hẳn trong đình, ta có thể thấy ngay cái giá trị đặc biệt của một công trình văn hoá này. Vì, cho tới nay, Lỗ Hạnh không chỉ là một ngôi đình sớm nhất tỉnh nhà, mà trong cả nước nó vẫn giữ tiêu chuẩn số 1 để xếp những công trình cùng phong cách với nó. Điều đó không ngoa chút nào. Chính cha ông xưa khi dựng đình với tính khiêm nhường rất mực, và chỉ bằng con mắt nhìn quan trong xứ Bắc, cũng phải tự hào ghi ngay trên đó vị trí văn hoá hàng đầu của nó: ?oĐệ Nhất Kinh Bắc?. Dòng chữ ngắn ngủi và chạm thành hình trang trí kín đáo ở mặt sau của một bức cốn dọc trên xà đùi, ngay từ phút đầu đã tạo ra sự chú ý cho người nghiên cứu nghệ thuật.
    Vai trò ?ođệ nhất? ấy trước hết là ở loạt đầu trong dòng thời gian của những đình làng còn thấy. Vẫn bức cốn ấy, mặt trước đập ngay vào mắt mọi người, có một dòng chữ chạm thủng thành hình trang trí, hoàn toàn có đầy đủ giá trị tờ giấy khai sinh cho ngôi đình: ?oSùng Khang (mất một chữ) niên chính nguyệt thất (mất hai chữ)? (Chứ ?ochính? chạm theo lối viết trang trí như một hoa văn rất khó nhận ra. Hai chữ bị mất ở cuối, nhìn nét hằn trên gỗ ván sau lưng, phỏng đoán không sợ sai là ?onhật tạo?. Chữ thứ ba bị mất không đoán được. Cả câu có nghĩa là: làm đình ngày mồng bảy tháng Giêng nă, Sùng Khang thứ? Sùng Khang là niên hiệu của Mạc Mậu Hợp 1566-1577). Mặc dầu đã mất mấy chữ, ta vẫn nhận ra dòng chữ ấy một cách dứt khoát rằng đình Lỗ Hạnh được dựng trong khoảng 1566-1577.
    Ở bức cốn trên xà đùi đầu đình bên kia, đối xứng với bức cốn trên qua trục đình chạy xuyên gian giữa, mặt trước cũng được chạm một tờ giấy khai sinh khác còn nguyên vẹn là dòng chứ ?oTuế thứ Bính Tý mạnh xuân tân tạo?. Hình chạm trên hai bức cốn khẳng định có chung một phong cách nghệ thuật. Vậy năm Bính Tý chạm ở đây phải là năm 1576 (Theo cách tính âm lịch, cứ 60 năm lại một hội lại trở lại năm cùng tên (cả can và chi). Năm Bính Tý ứng với niên hiệu Sùng Khang là năm 1576. Năm 1576 là năm ?oSùng Khang thập nhất niên?, giữa chữ ?oKhang? và chữ ?oniên? phải có hai chữ. Ở cốn bên kia, giữa chữ ?oKhang? và chữ ?oniên? chỉ có một chữ (?). Dù sao đấy chỉ là một giả thuyết). Và cả dòng chữ khẳng định một lần nữa rằng đình Lỗ Hạnh được ựng mới vào tháng Giêng năm Bính Tý (1576).
    Cho tới trước khi phát hiện ra ngồi đình này, trong bản thống kê các đình có ghi niên đại trên miền Bắc, ta thấy niên hiệu sớm nhất ghi rõ ở đình là Chính Hoà (1680-1705), mà thật chặt chẽ thì chỉ là Chính Hoà năm thứ 7 (1686) ở đình làng Thổ Hà (Xem ?oThổ Hà quê em?, trong Hà Bắc ngàn năm văn hiến tập 1, Ty Văn hoá Hà Bắc, 1973). Còn ?ođọc? qua ngôn ngữ tạo hình, thì ngồi đình sớm nhất mà ta còn thấy là đình Tây Đằng (Hà Tây) dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVI. Như vậy là có khoảng trống rất dài từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII ?ochưa được lấp? bằng một ngôi đình nào.
    Đình Lỗ Hạnh với niên đại tuyệt đối 1576 vừa mới được phát hiện, là cơ sở khá chắc chắn, về việc đoán định sự ra đời của đình Tây Đằng vào đầu thế kỷ XVI là hợp lý; đồng thời là cái cầu quan trọng nối giữa đình Tây Đằng với đình Thổ Hà, và chặt chẽ hơn nữa, với việc phát hiện ra đình Phù Lưu dựng khoảng chuyển giếp của hai thế kỷ XVI-XVII (Xem bài ?oAi lên quán dốc chợ Giầu), cũng trong tập này, trang 33-43.), thì đình Lỗ Hạnh là cái gạch nối đáng tin giữa đình Tây Đằng với đình Phù Lưu, mà niên đại chỉ có thể phỏng đoán tương đối. Cái cầu nghệ thuật đình làng tuy có nhịp thưa nhịp mau, nhưng như thế là qua các di tích hiện còn, đã bắc được khá trọn vẹn từ đầu thế kỷ XVI đến nay. Đó là ý nghĩa hết sức quan trọng của việc phát hiện ra đình Lỗ Hạnh (và cả cả đình Phù Lưu nữa).
    Ta chưa biết được tất cả các đình làng trên quê xứ Bắc, dù chỉ là những đình làng hiện còn, nhưng với thời điểm ra đời rất sớm của đình Lỗ Hạnh, và với giá trị nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc của nó, đình Lỗ Hạnh rất xứng đáng được cha ông xếp hạng ở vị trí hàng đầu trong xứ: ?oĐệ nhất Kinh Bắc?.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cột đá chạm rồng-Chùa Dạm
    [​IMG]
    Nền chùa Dạm-Mô hình của Viện Bảo tàng Mỹ thuật
    [​IMG]
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một vế bộ tranh sơn mài "Bát tiên"-Đình Lỗ Hạnh
    [​IMG]
    Bộ cánh cửa giả trang trí-Đình Lỗ Hạnh
    [​IMG]

Chia sẻ trang này