1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn hoá đồng bằng Bắc Bộ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 01/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hai mảng cốn-Đình Lỗ Hạnh
    [​IMG]
    [​IMG]
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Có lần tôi nói trong box Mỹ thuật rằng các công trình đền
    chùa và các đổ cổ ViệtNam là nghệ thuật, thì bị các sinh
    viên trường Mỹ thuật la ó, bảo tôi không học hành hiểu biết
    Mỹ thuật thì im đi, đừng nói sai để người khác hiểu lầm .
    Các bạn trong box Lịch Sử có thấy nhân dân ViệtNam ta
    có thiên tài Mỹ thuật không ? Các bạn có thấy cái đẹp, cái
    nghệ thuật trong đồ mỹ nghệ không ? Có thấy cái đẹp trong
    tất cả những đồ bàn tay ta làm ra không ? Hay là khi làm ra
    đồ dùng, ông bà chúng ta chỉ nghĩ đến tiện lợi của đồ, mà
    không bao giờ có ý nghĩ làm cho chúng đẹp, không bao giờ
    biết đến nghệ thuật?
  3. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Càc 'Ă? mà? bàn nòi cò ỳ nghìfa LS là? chù? yẮu chứ theo tĂi xèt vĂ? mf̣t nghẶ thuẶt thì? khĂng bf?ng nhưfng 'Ă? già? cĂ? bĂy giơ?. NẮu so sành với càc nước xung quanh như Thài, là?o, CPC thì? chf́c là? khĂng bf?ng 'Ău!
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chủ đề này chìm sâu quá, em kéo lên phát
    Bằng tình yêu quê hương sâu sắc và chất phác, người Lỗ Hạnh đã huyền thoại hoá đất làng thành hình ảnh con rùa khổng lồ bốn chân bám vào bốn làng: Chằm, Chúng, Khoát, Chùa, đầu nhìn quay về hướng tây trông ra các bãi đất có thế cờ, loa, nghiên, bút, tạo ra cái mạch đẹp ?ovăn vua làng Hạnh?. Chính ở cái vị trí lưng rùa đất, nhân dân đã dành để xây dựng công trình văn hoá chung cho cả mấy làng là đình cả Lỗ Hạnh. Đình Lỗ Hạnh từ khi dựng, năm 1576, trong quá trình tồn tại đến nay, đã qua nhiều lần sửa chữa. Văn tự còn ghi ở đình, và phong cách nghệ thuật của các hình chạm, vẽ, đều khẳng định điều đó. Trên một cái kẻ góc, ở góc trong phía bên trái đình, được khắc rất cẩn thận đoạn lý lịch bổ sung của đình: ?oNhân thân niên Chính Hoà thập tam niên tứ nguyệt tu tác công gia phù an xã?, xác nhận năm 1692 có sửa chữa đình để giúp thêm vào việc giữ yên cho xã. Lại trên một cái cột trốn trong bức cốn: ?oĐệ nhất Kinh Bắc?, ta cũng đọc được một đoạn viết bằng sơn đỏ bổ sung khác vào lý lịch của đình, chữ cuối tuy bị mờ nhiều, nhưng đoạn đầu lại còn rất rõ: ?oTuế thứ Mậu tuất niên tứ nguyệt tu tạo??. Lần sửa chữa năm Mậu tuất này, theo chữ viết bà vài mảng nghệ thuật còn thấy, hẳn là vào năm 1838. Bức hoành phi với bốn đại tự ?oThành cung vạn tuế? làm năm Canh Tuất còn muộn hơn nữa (1850 hay 1910?).
    Rõ ràng là đình Lỗ Hạnh là niềm tự hào lớn của dân cả mấy làng, nên từ khi có đình làng đã chăm sóc cẩn thận, và mỗi khi có chỗ nào hư hại, lại làm ?ođẹp cho mới?.
    Ngày nay mặt bằng đình bố cục theo kiểu chữ ?ocông? nhưng rất dễ nhận ra hậu cung mới được làm thêm, chắp nối vào đại đình một cách gượng gạo. Đình Lỗ Hành không có tiền tế, hai dãy tả vu và hữu vư mới làm thêm về sau cũng đã bị phá. Rất dễ hiểu được đình Lỗ Hạnh vốn xưa dựng theo kiểu chữ ?onhất? chỉ có một dãy đại đình duy nhất nằm ngang như những đình cùng loạt với nó, mãi sau, khi tế lễ phát triển mới sửa cho thêm hậu cung vào (Ý này được Chu Quang Trứ và Trần Lâm nêu ra trong tham luận Ngôi đình và làng xã cổ truyền Việt Nam ở Hội nghị làng xã cổ truyền Việt Nam của Viện Sử học (1974); trong thông báo về đình Phù Lưu của Chu Quang Trứ ở Hội nghị thông báo khảo cổ học năm 1974 của Viện Khảo cổ học).
    Đình Lỗ Hạnh chạy dài năm gian hai chái, lớn nhỏ là bảy gian, cả thảy có 8 vì kèo, trong mỗi vì có 6 hàng chân cột, cộng tất cả là 48 cột. Trên một số cột, ở đoạn gần chân có lỗ mộng lắp dầm sàn. Nhân dân đều còn nhớ sàn mới bị bóc.
    Công trình văn hoá này của làng Hạnh vào loại lớn, nền đình dài 23,5 m, rộng 12,3 m, chiều cao tính đến xà nóc là 6,6 m, từ nền đến diềm mái là 2,1 m. Ngày nay sân đình được tôn cao lên làm sân phơi hợp tác, nhưng trước đây, nền đinh cao vượt lên trên sân 0,7 m. Lòng đình rộng 12,3 m, giãn cách giữa các cột trong một vì như sau: hai cột cái cách nhau 4,5 m, cột cái cách cột quân 2,5 m, và cột quân cách biên đình tới 1,7 m. Các cột khá to, cao: cột cái chu vi 1,42 m, cao 4,61 m, cột quân chu vi 1,08 m, cao 2,7 m (chiều cao kể cả dấu).
    Tám vì kèo trong đình kết cấu không giống nhau. Các vì gian giữa đều theo lối chồng rường-giá chiêng, các vì gian bên làm kiểu kẻ chuyền-giá chiêng? phía trên câu đầu khoảng giưa hai cột cái là giá chiêng, phía dưới câu đầu ở ngoài cột cái là chồng rường (gian giữa) hoặc kẻ chuyền. Cột giá nghiêng là những trụ đỡ ngắn, mập, được chạm hình nghê ngồi hoặc lá. Mảng ván bưng được nong vào giữa hai cột giá chiêng lại chạm rồng hoặc phượng; còn xà quá hải nằm trên hai cột ấy thì trang trí các diềm lá, ván nong ở hai bên xà nóc trang trí guột vân mây cuộn to.
    Các con rường trên xà nách (gian giữa) chồng nhau tạo thành cốn dọc. Có bức cốn dọc được trang trí nhiều hình rất đẹp. Các con rường trên xà đùi (hai gian hồi) tạo thành các cốn ngang. Cốn ngang cũng là một diện trang trí của các nghệ sĩ điêu khắc. Còn các kẻ chuyền đơn giản nhưng rất dài đưa mái ngói xoè rộng ra rất xa xột quân, khiến về sau người ta phải nghi ngờ khả năng đỡ tàu mái của nó, phải gá vào chiếc cột hiên để bảo hiểm. Gian giữa có bốn đầu dư, từ cột cái nhô ra ở phía dưới câu đầu, nay bị mất một, còn ba, đều chạm đầu rồng với những nét dải mây duỗi nhẹ. Phía trên các xà hạ và xà thượng là những ván nong tạo thành một vòng trang trí đẹp quấn quanh phía trong lòng đình.
    Đình Lỗ Hạnh được cấu trúc theo một đồ án cân xứng, chặt chẽ, hai nửa phải và trái đăng đối nhau. Lối cấu trúc này có rất nhiều nét gần gũi với đình Tây Đằng. Những hình nghệ thuật chạm ở đây còn nói lên ?otiếng nói? phong phú hơn kiến trúc, ta sẽ xem ở một phần riêng.
    Đình Lỗ Hạnh còn một mảng nghệ thuật quý, vượt hẳn lên nhiều đình khác, là phần nghệ thuật hội hoạ. Thật ra, hầu hết các đình làng đều được làm đẹp thêm bằng màu sắc và nét vẽ, nhưng thường giới hạn ở việc sơn vẽ các cột, chủ yếu là cột cái, và thời gian không xa đây mấy. Trong sự hiểu biết của nhiều người sưu tầm và nghiên cứu nghệ thuật tạo hình của cha ông, về các tranh vẽ ở đình mới thấy một số lượng rất ít oi. Đình Cam Đà (Hà Tây), đình Lâu Thượng (Vĩnh Phú), có những tranh vẽ từ cuối thé kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, nhưng chỉ còn lại rất ít và hết sức lờ mờ, thật khó mà nhận ra được. Những bức tranh vẽ bằng sơn ở đình làng còn lại khá đầy đủ và rõ ràng, có thể kể đến những bức ở đình Ngọc Canh (Vĩnh Phú) và ở đình Lỗ Hạnh này, đều thuộc thời Nguyễn. Bức vẽ ở đình Ngọc Canh đơn giản hơn, chỉ diễn tả có một cô gái bưng tráp, vẽ ở mặt trước cung thờ, về phong cách nghệ thuật hẳn là muộn hơn những tranh ở đình Lỗ Hạnh.
    Đình Lỗ Hạnh có hai bức tranh hợp thành một bộ tranh ?obát tiên:, mỗi bức vẽ bốn cô gái trên một mảng ván gồm nhiều mảng dọc ghép liền lại rồi phủ sơn mái đỏ tươi, bóng loáng, dài 2,23 m, cao 1 m, sau đó được bó trong khung gỗ, bào nổi những đường gờ, rồi cũng sơn son như nền tranh. Hai bức tranh gắn sát vào mặt trong của hai bức cốn dọc trên những xà nách hậu của gian giữa, ở trước cửa hậu cung. Nơi ấy đã ở trên cao, lại thường xuyên thiếu sáng, thuộc vị trí trang nghiêm, nên nhiều người đến thăm đình mà không được thấy tranh. ?oBát tiên? chỉ khác người trần là cái không gian hoạt động giữa những đám mây, ngoài ra hoàn toàn là hình ảnh như tám cô thôn nữ trong ngày hội làng. Mỗi cô đứng trên một đám mây từ phía dưới toả lên, và phía trên đầu là những cụm mây dăng hàng. Mây được vẽ dày đặc thành từng mảng cuồn cuộn, giới hạn bởi những đường cong gãy, mỗi mảng một màu, gồm có các màu đỏ, xanh đen và xanh lơ, phân cách ra bởi những nét trắng. Cả tám cô ăn vận khá giống nhau: tóc cuốn trên đỉnh đầu thành hai búi, được buộc lại bằng dải lụa dài bay vắt vẻo ở hai bên; mặc tới ba lớp áo, áo trong có ống tay bó sát lấy tay và dài đến hết cổ tay; áo ngoài dài, vạt xuống dưới gối, ống tay rất rộng, và do đó bị tụt lên khuỷu tay. Ngoài cùng là áo khoác, không có ống tay, cổ lá sen hình khánh; thắt lưng lụa thả dài, đầu thắt lưng bay phấp phới; váy chùng phủ kín cả bàn chân. Kiểu áo và váy giống nhau, nhưng màu của áo và váy mỗi cô được hoà sắc một khác, phổ biến là các màu tối sẫm (xanh lơ đậm, xanh đen, đen), nhưng cũng có điểm vào một số mảng tươi (đỏ, trắng hồng). Các cô đều có khuôn mặt trái xoan và thường ở vào thế nhìn chính diện. Đa số hơi hướng ra, nhưng cũng có cô hướng vào. Các chi tiết trên mặt được vẽ rất rõ: mắt lá răm, miệng nhỏ chúm chím. Da mặt và da tay đều trắng hồng, nên tập trung ngay được sự chú ý của người xem. Cả tám cô đều đang biểu diễn nhạc, mỗi cô một nhạc cụ. Từ trong ra, ở bức bên trái là đàn tỳ bà, nhị, sáo, đàn nguyệt; và ở bức bên phải, vì ván vỡ, nên không thấy được nhạc cụ của cô thứ hai, còn lại là đàn nguyệt, sáo, đàn nguyệt.
    Các cô đều ở thế đứng, tạo nên những trục thẳng, các nhạc cụ phần lớn chếch nghiêng, chỉ có sáo là thẳng ngang. Các hướng đường nét chững chạc, ngay thẳng, được tôn lên bởi các hướng đường cong sinh động của mây và các dải lụa. Các mảng màu đều to và đồng nhất sắc độ. Phương pháp vẽ là tô các mảng to, rồi mới vẽ nét một số các chi tiết lên trên. Lối vẽ này có thể xem như nằm giữa hai dòng tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống ngày nay còn thấy. Chỉ có khác một chút là nghệ sĩ đã cố ý để thoáng nền, lấy màu nền bóng và tươi để làm nổi bật hình. Bộ tranh ?oBát tiên? này là một trong những bức tranh sớm và hoàn chỉnh còn lại đến nay,đã tồn tại vượt qua thời gian khoảng một thế kỷ rưỡi. Vì thế, có thể coi các tác phẩm này có niên đại sớm nhất của thể loại tranh sơn mài đặc sắc của hội hoạ Việt Nam hiện biết.
    Một số tượng tròn ở trên gác của hậu cung, vốn xưa ở nghè bà Chúa tiên mới đưa về, cũng là những tác phẩm nghệ thuật góp phần tăng thêm giá trị của đình Lỗ Hạnh. Tượng bà Chúa tiên Phương Dung ngồi xếp bằng tròn sơn son thếp vàng rực rỡ, toàn thân cân đối và hài hoà, là một tác phẩm của nghệ thuật tạc tượng thời Nguyễn. Còn đôi nghé gỗ sơn son thếp vàng, ngồi chống thẳng hai chân trước, mình có ám một vài tia mây lửa, chắc là được tạo ra vào khoảng thế kỷ XVII.
  5. dhlv

    dhlv Guest

    Nói chuyện về văn hoá, DHLV có suy nghĩ mang tính cá nhân, mắt thấy tai nghe thôi.
    Nếu quan sát bình thường ở ngoài đời, nếu ở miền Bắc : nhìn đểu hay đại loại khiêu khích là có thể tẩn nhau chí chết. Sống trong nam một dạo mà DHLV chưa thấy vụ đánh nhau nào. TPHCM thì lại khác tập trung tứ xứ và phức tạp hơn.
    Nghe câu chửi "Đ má" của người Nam Bộ thấy hiền hiền chả thấy tức tối gì, chứ miền Bắc mà chỉ cần nói giọng luyến láy hay cười giễu là có thể thù đến già.
    Người Bắc ý chí cao, đại loại những chuyện như làm cách mạng hay bạo loạn thì số đông vẫn nhiều. Thế nên mới có danh từ "giang hồ đất Bắc" là vậy, ngay cả những nhân vật chống Cộng ở nước ngoài thì người gốc Bắc vẫn to kèn hơn.
    Đấy là chuyện ở ngoài đời !
    Trên cái TTVNOL này nếu các bạn vào những box bình dân (chợ giời) như du lịch, võ thuật, làm quen...thì những vụ gây ồn ào, chửi lẫn nhau toàn xuất xứ từ HN là chính .Rồi ngay đến cái môn võ Vovinam mà tôi đang đi quảng cáo, hầu hết môn sinh ở trong Nam và Hải ngoại nhưng những vụ đấu đá nội bộ thì những thành phần gây bất ổn, cải cách toàn là người gốc Bắc ....
    Các ví dụ khác các bạn có thể bổ sung .
    Hôm qua, ngồi nói chuyện với một anh xuất thân ở HN (HN xịn) nhưng đã vào sống ở Sài Gòn khá lâu, anh giải thích như thế này :
    --------------------------------------------------------
    Đại loại là miền Bắc dẫu sao cũng bị ảnh hưởng của Tàu , mà Tàu vốn dân du mục hay cơ động nên trong cách nghĩ và hành động phải có tính bạo lực để mà tồn tại và mở rộng. Hơn nữa qua những cuộc chiến tranh vệ quốc thì cái máu chiến (tự vệ) nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân cho đến vua quan....
    Người miền Nam thì vốn dĩ cũng di dân từ miền Bắc vào, lý do thì nhiều như : tha hương cầu thực, vì truy nã mà trốn, rồi ly khai như Chúa Nguyễn....
    Mà bỏ nhà ra đi thì cũng là bất đắc dĩ thôi .Chả nói đâu xa, ông bác Tôi ở quê thời giải phóng Điện Biên 1954 chán cảnh sống ở HN mà về quê vì có họ hàng làng xóm và có quê hương vẫn sướng hơn.
    Và có lẽ cũng vì tình trạng bất ổn đó , nên khi được "định cư trên vùng đất mới" miền Nam nên con người có tâm trạng muốn yên ổn chăng ? Rồi sự nở rộ của các tôn giáo cũng là liều thuốc về mặt tâm lý cho người dân để quên đi chiến tranh liên miên và sự nghèo đói ban đầu do phải khai khẩn vùng đất mới .Dần dần cái sự hiền hoà nó cứ thấm dần thấm dần vào suy nghĩ của con người Nam Bộ lúc nào ko hay .
    Anh này còn nói thêm :
    "Ra HN dịp Tết thấy ko khí tĩnh mịch, yên ắng nhưng trong tâm hồn lại sôi sùng sục đầy những suy nghĩ vọng động, về Sài Gòn giữa cảnh nhộn nhịp xô bồ của phố phường nhưng tâm hồn luôn thanh thản nhẹ nhàng..."
    Anh còn giải thích thêm một số chuyện nhưng cốt lõi vẫn là những điều nêu trên
    ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    Các bạn có suy nghĩ gì khác không ?
  6. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    TỰ nhiên giả ngây giả ngô hỏi một câu rất buồn cười. Chả nhẽ nghệ thuật hay không không phân biệt được à mà lại bị cái bọn box kia nó tung hỏa mù cho, rồi co rúm lại.
  7. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Thế mới cần anh hùng ra tay nghĩa hiệp chứ ?
  8. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Long Đằng độc nhất nghệ nhân
    Thanh Lan

    Tám mươi tuổi ta. Học nghề làm giấy sắc vàng từ khi còn để chỏm, ấy thế nhưng nghệ nhân Lại Phú Bàn chỉ dám nhận mình mới 7-8 tuổi nghề. Từ năm 1942, chiến tranh ly tán, cả họ Lại không còn làm giấy dó sắc vàng nữa. Những người biết nghề già yếu, lần lượt ra đi. Ông là người cuối cùng của dòng học và cũng làø người duy nhất còn lại của thế giới biết bí quyết làm giấy sắc vàng.
    Giấy sắc vàng họ Lại vốn được chúa Trịnh Tráng ban cho cái tên Kim Tiên. Long Đằng (rồng bay) chỉ là cái tên mới xuất hiện mấy năm gần đây, do GS.Sakamoto-một nhà nghiên cứu văn hoá người Nhật Bản đặt. Ấy thế mà thành cái tên được nhiều người biết đến.

    Thời vang bóng
    Nghề làm giấy xuất hiện ở Việt Nam từ thế kỷ mười một với những làng giấy nổi tiếng như Lĩnh Nam, Yên Thái. Nhưng nghề làm giấy sắc vàng mới chỉ xuất hiện khoảng hơn 300 năm nay, từ thời chúa Trịnh Tráng. Sản phẩm độc đáo ấy chỉ có duy nhất ở họ Lại làng Nghè, tổng Bưởi, phủ Hoài Đức, Hà Tây (nay là phường Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội). Đặc ân này do chúa Trịnh Tráng ban cho phò mã Thái sơn hầu Lại Thế Giáp, chồng quận chúa Diễm Châu Trịnh Thị Tú An, ông tổ họ Lại làng Nghè. Từ đó trở thành một định chế đặc quyền của họ Lại: ?oHọ Lại làm giấy sắc vua/Nghĩa Đô thêm nghĩa nghìn xưa mặn mà?.
    Đều đặn, mỗi năm làng cung cấp cho triều đình khoảng 2.000 tờ giấy sắc vàng Nghè, dùng làm sắc phong ban cho bách quan bách thần đất Việt. Theo nghiên cứu của Viện Viễn Đông bác cổ, trong 90 huyện ở đồng bằng Bắc bộ, hơn 300 năm qua, các triều vua đã ban hơn 40.000 sắc phong. Tất cả đều sử dụng giấy sắc của dòng học Lại Nghĩa Đô. Trong ký ức ông Lại Phú Bàn vẫn nhớ, theo các cụ tổ dòng họ thống kê, triều Khải Định sử dụng giấy sắc nhiều nhất. Năm Khải Định 38 tuổi, được thần dân dâng thêm hai tuổi, tổ chức ?oTứ tuần đại khánh?, cả họ Lại phải tập trung làm ngày làm đêm cho đủ 10.000 tờ. Tiếng chày giã bìa, chày nghè giấy vang rộn khắp đường trên xóm dưới... Mới đó, chưa đầy trăm năm, khoảng cách tính bằng ba thế hệ, nghề giấy sắc đã gần như biến mất. Mẻ giấy cuối cùng xuất xưởng vào quãng giữa năm 1944, cho triều đình Bảo Đại.
    Sau 1945, đến ngày toàn quốc kháng chiến. Dân kẻ Bưởi toả đi khắp các vùng tự do, làm giấy phục vụ bình dân học vụ, phục vụ kháng chiến. Chàng thanh niên hăm hai tuổi Lại Phú Bàn cũng lên đường ra vùng tự do Sơn Tây, sau chạy giặc vào đến Ninh Bình. Ở vùng tự do anh phụ trách công tác sản xuất giấy của Ban kinh tế tài chính tỉnh uỷ Sơn Tây, rồi Ninh Bình. Năm 1952, anh chuyển sang nghề dệt, và gắn bó với nghề này suốt đời, cho đến khi về hưu năm 1990. Có khi, nhớ nghề, ông Bàn lại làm mấy chục tờ để tặng mấy người bạn tri âm ở CLB Unesco thư pháp Văn Miếu (Hà Nội). Ông làm để tự an ủi lòng mình và để cho bạn bè, con cháu biết cái nghề máu thịt đã gắn bó với tổ tông, mà ông là truyền nhân đời thứ 30. Và cũng không biết có phải là nghệ nhân Long Đằng cuối cùng của dòng không nữa?

    Số một...
    Không phải ngẫu nhiên, giấy Long Đằng được các vị vua phong kiến lựa chọn để viết ý chỉ, truyền mệnh lệnh, sắc phong. Giấy có độ bền rất cao, giấy mềm như lụa, dai, không hút ẩm. Trong điều kiện độ ẩm cao, khi hậu khắc nghiện, một tờ sắc phong chỉ đựng trong các hộp giấy hay ống quyển mà có thể lưu giữ được 400-500 năm. Trong khi, giấy công nghiệp tốt nhất hiện nay cũng chỉ tồn tại 50 năm. Cùng là cây dó, Yên Thái, Hồ Khẩu trong tổng Bưởi cũng làm giấy. Giấy sắc Long Đằng có một số khác biệt, để làm giấy sắc, nguyên liệu phải là cây dó mọc hai bên bờ sông Thao, Phú Thọ. Dó mang về, phải ngâm nước lạnh và nước vôi, sau đó cho vào vạc nấu chín bằng hơi. Để đạt tiêu chuẩn riêng của họ Lại, người ta thường mời thợ chuyên đắp vạc to mãi mạn Đại Từ (Thái Nguyên) làm. Ngoài một số công đoạn thông thường, giấy sắc còn phải thêm một số kỹ thuật nhác như bồi keo, nhuộm vàng...
    Ông Lại Phú Bàn cho biết, bí quyết bồi, seo giấy dó để tạo ra giấy sắc vàng chỉ được dạy cho các con dâu để lưu truyền. Đàn ông đảm nhiệm việc vẽ rồng. Rồng trên giấy sắc có hai loại: độc long và ám long (rồng ẩn trong mây). Mặt trước của đạo sắc vẽ rồng, mặt sau vẽ linh vật-những tín hiệu ngầm phân biệt thứ bậc, địa vị xã hội. Hình vẽ ở cả hai mặt được vẽ bằng bột vàng, bột bạc thì hình vẽ mới bền. Những người vẽ cao tay nhất, mỗi ngày cũng chỉ vẽ được dăm bảy tờ.
    Nghề làm giấy Long Đằng đã được nâng lên hàng nghệ thuật. Trước đây, ông Bàn cũng chỉ biết nghề gia truyền của mình hiếm lắm. Nhưng ông không biết rằng, hiếm đến mức trên thế giới chỉ còn lại mình ông. Cách đây vài năm, khi giáo sư Sakamoto tìm đến, ông mới biết, hoá ra trên thế giới ngoài Việt Nam, các nước Trung Quốc, Hàn Quốc Nhật Bản, Ấn Độ... cũng có giấy Long Đằng. Nhưng nghề làm giấy này cũng đã thất truyền. Ông tự hào ngầm lắm. Mà không tự hào sao được, ?ocái ông người Nhật ấy có mang cho tôi mấy tờ giấy do nghệ nhân Nhật Bản làm còn lưu lại được. Xem ra, kỹ thuật làm giấy của họ còn kém xa giấy họ Lại ở mức độ tinh xảo. Giấy các nước dù rất bền màu, rất dai nhưng vẫn để lại những nếp nhăn, gập...?.

    Không chỉ là nguy cơ thất truyền
    Mãi đến một cuộc hội thảo và triển lãm giấy Long Đằng diễn ra ở Hà Nội và Huế giữa tháng sáu, nhờ những công bố của giáo sư Sakamoto, giới nghiên cứu quốc nội mới té ngửa: hoá ông Lại Phú Bàn được coi là người duy nhất trên thế giới, duy nhất của họ Lại còn giữ được bí quyết gia truyền của nghề làm giấy sắc phong. Vì thế, cũng chẳng có gì là quá đáng khi coi ông là ?oLong Đằng độc nhất nghệ nhân?, dẫu rằng ông chưa bao giờ được phong danh hiệu ấy. Và cũng không ham: Kim Tiên (ông không thể gọi thứ giấy độc đáo của dòng họ mình là Long Đằng) vốn không phải là thứ giấy phổ thông, ai cũng có thể dùng được. Giống như trong lĩnh vực âm nhạc dân tộc, ca trù không phải là thứ nhạc dân gian mà là nhạc bác học, vì vậy không thể gọi đó là nghệ nhân được- ông bày tỏ niềm kiêu hãnh kín đáo của mình.
    Nghĩa Đô giờ đã thành phường nội thành. Nhà cửa san sát, tất đất vài tấc vàng. Cả tổng Bưởi xưa nổi tiếng với nghề làm giấy dó, vang vang câu ca ?onhịp chày Yên Thái? giờ xa xôi quá, chẳng mấy nỗi nữa mà nhạt nhoà ký ức. Còn ai làm giấy nữa đâu mà nghe tiếng chày giã dó. Nhà ông Bàn ở giữa làng. Cả cơ ngơi đồ sộ, toạ lạc trên hơn 1.000 m2 giữa thời buổi tấc đất vài tấc vàng. Nhưng ông vẫn buồn. Cả bẩy người con, không ai có ý định theo nghề cha, dù chỉ là để giữ lấy chút nghiệp tổ tông. ?oMà cũng trách sao được-ông Bàn tự dãi bày-bao nhiêu đời họ Lại ở đất làng Nghè này, có ai giàu được bằng nghề làm giấy đâu. Xưa vinh thì vinh thực nhưng anh tính, mỗi năm cả họ chỉ sản xuất được vài ngàn tờ giấy thì giàu sao được??. Các con ông, sáu cô con gái đã yên phận nuôi con chiều chồng. Cậu con trai thì không hiểu ông, cho rằng nghề này chẳng danh giá gì. Có theo cũng tốn thời gian mà không có tiền nuôi cháu ông. Thiết nghĩ, không chỉ anh con trai không hiểu mà chính những người được giao trách nhiệm bảo tồn văn hoá cũng không hiểu.
    Một số thông tin thêm :
    Một cơ quan văn hóa Nhật đưa ra giá 1 triệu đôla để ông Bàn trao cho họ bí quyết làm giấy swác, nhưng ông thằng thừng từ chối vì ông cho rằng, đó là di sản văn hoá dân tộc không thể truyền cho người ngoài.
    Ông Lại Phú Bàn, nghệ nhân làm giấy swác cuối cùng của Việt Nam và thế giới đã ra đi.
  9. monarchy

    monarchy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Để làm được những tờ giấy dó người thợ Yên Thái, Hồ Khẩu, Nghĩa Đô, vùng Bưởi phải có tay nghề thuần thục cùng những bí quyết nhiều đời truyền lại. Công việc của họ thật cực nhọc trăm phần. Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ dó tươi, người thợ phải lặn lội đi dọc sông Thao lên tận phố Ẻn để mua. Vì vậy mà có câu ca dao:
    Ai ơi mua dó khó lòng
    Không đi bên Ẻn thì mong nỗi gì.
    Vỏ dó tươi đem về ngâm nước lã một ngày, sau đó vớt lên ngâm vào nước vôi loãng hai ngày, rồi cho vào vạc nấu cách thủy liền 4 ngày và làm tiếp các công đoạn khác. Xưa kia làng Yên Thái thường đắp lò nấu dó ngay bên bờ sông Tô, vì địa thế này thuận tiện cả cho việc ngâm, dặm và đãi vỏ dó. Cũng ở đây có một cái giếng làng, dân vừa lấy nước để ăn lại vừa lấy nước để sản xuất. Cứ vào dịp tháng 3 âm lịch hàng năm, dân làng lại nạo vét giếng cho nước thêm sạch, thêm trong:
    Ai ơi đứng lại mà trông
    Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa
    Kìa giếng Yên Thái như kia
    Giếng sâu chín trượng nước thì trong xanh
    Qua khảo sát ở phường Nghĩa Đô và lời kể của các cụ trong dòng họ Lại cho thấy: họ Lại làng Nghĩa Đô khởi nghiệp làm giấy sắc từ thời Lê-Trịnh, rồi phát triển mãi đến hiện nay trong suốt mấy trăm năm. Có lẽ trước đó, ở nước ta đã làm được loại giấy đặc biệt này rồi, nhưng sản xuất ở đâu thì chưa nghiên cứu được. Các cụ ở đây cho biết, làm giấy dó đã công phu, làm giấy sắc còn công phu hơn nhiều. Giấy sắc dùng để phong sắc cho hàng nhất phẩm (phẩm trật hàng đầu) phải có 5 thợ cùng làm một lúc mới xeo nổi 1 tờ. Giấy để phong sắc cho hàng phẩm trật thấp hơn (từ nhị phẩm xuống cửu phẩm), khổ giấy hẹp, cũng phải 3 người thợ làm 1 tờ. Khâu tinh xảo đòi hỏi tay nghề rất cao là phần vẽ rồng trên giấy sắc - đây là công đoạn cuối cùng, khó nhất, cầu kỳ nhất và cũng là nghệ thuật nhất. Những người thợ giỏi như các cụ Tám Hoàn, cụ Sáu Tơ, cụ Xã Lịch thì vẽ "chạy". Những thợ kém hơn thì chỉ vẽ "đồ", tức là cứ theo nét "chạy" mà tô kim nhũ, vàng, bạc.
    Ngoài những công đoạn cơ bản như sản xuất các loại giấy dó khác - giấy sắc có thêm một số công đoạn kỳ công, phức tạp mà các loại giấy dó thông thường không phải làm như bôi keo, nhuộm và làm "nghè". Bôi keo là làm cho giấy thêm dai, không hút ẩm và chống mối mọt. Nhuộm là để co giấy có màu sắc đặc trưng. Thường người ta nhuộm giấy bằng bột hoa hòe giã nhỏ. Khi nhuộm phải nhuộm cả hai mặt thì giấy mới có màu vàng bóng và dày dặn. "Nghè" là công đoạn làm cho giấy mỏng hơn và dai hơn. Nghè tức là dùng vổ chày giã, đập lên một chồng, một xếp giấy khoảng 4-5 tờ trên một đe đá. Khi nghè nghe tiếng chày giã đanh, giấy đã mỏng và bóng là được, thợ Nghè phải có sức khỏe và khéo léo. Những người có kinh nghiệm mới được đảm nhiệm công việc này.
    Nghệ nhân làm giấy sắc luôn giữ bí quyết kỹ thuật "đánh vàng, đánh bạc". Dụng cụ đánh vàng bạc là chầy và những cái bát cực lớn. Để giữ bí mật nghề nghiệp, các cụ thường làm công việc này ở nơi kín đáo nhất trong nhà, nhằm tránh người ngoài học lỏm. Chẳng hạn nhà cụ Tám Hoàn có bàn thờ lớn, gần bàn thờ bố trí một diện tích khá rộng, đây là nơi cụ chuyên làm công việc đánh vàng, đánh bạc hết sức bí mật này. Đáng tiếc là cụ Tám Hoàn đã mất từ lâu mà dường như sinh thời cũng chưa truyền lại nghề cho ai, kể cả con cháu của cụ - ở đó hiện còn một tảng đá xanh, mặt rất phẳng, rộng khoảng 60x80cm, xưa dùng để "nghè" giấy. Đấy là kỷ vật duy nhất của cụ Tám còn để lại, các dụng cụ đánh vàng, bạc của nghệ nhân này đã mất cả.
    Cũng theo các cụ trong dòng họ Lại kể: Tại Nghĩa Đô trước đây không chỉ có một người, một nhà làm. Dưới triều Nguyễn - vào thời vua Khải Định - có năm Nhà nước đặt thợ Nghĩa Đô làm hàng vạn tờ giấy sắc. Năm 1925, vua Khải Định làm lễ "Tứ tuần đại khánh" dùng giấy sắc phong tước cho bách quan, bách thần nên năm đó làng Nghĩa Đô làm nhiều giấy sắc nhất. Giá giấy sắc rất cao, mỗi tờ giấy sắc thời đó là một đồng bạc Đông Dương (tương đương một lượng vàng), bởi giấy sắc làm rất khó nguyên vật liệu để trang trí đều là vàng, bạc nguyên chất. Họ Lại ở đây có nhiều gia đình làm giấy sắc như: nhà cụ Xã Vi, cụ Phó Nhiệm, cụ Trương Lại, cụ Trương Xứ, cụ Xã Lịch, cụ Phó Nhiên, cụ Bếp Kiệm.
    Nói về giấy sắc Nghĩa Đô, dân gian Hà Nội còn lưu truyền những câu ca đầy tự hào:
    Họ Lại làm giấy sắc vua
    Làng Láng kéo cờ mở hội hùng ghê!
    Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
    Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ.
    Bây giờ tới Nghĩa Đô, dấu tích nghề giấy sắc còn lại chẳng là bao. Những thợ giỏi hầu hết qua đời. Chi họ Lại đông người hơn ngày xưa gấp nhiều lần mà chỉ còn lại hai người biết làm giấy sắc: Cụ Lại Thị Phương thợ xeo và cụ Lại Phú Bàn thợ vẽ, các cụ tuổi đều đã cao (trên dưới 80 tuổi).
    Làng nghề sản xuất giấy dó, giấy sắc truyền thống ở nước ta nói chung, Hà Nội nói riêng đã có một bề dày lịch sử. Giấy dó, giấy sắc với các chỉ tiêu chất lượng đặc biệt mà các loại giấy thông thường khác không có được, là một sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam. Sự ra đời, phát triển và hoàn thiện của nghề làm giấy dó, giấy sắc gắn bó mật thiết với dân tộc, với Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, thể hiện sinh động khả năng lao động sáng tạo, đức tính cần cù chịu khó của nhiều thế hệ nghệ nhân, thợ thủ công làng nghề thủ công truyền thống.
    Giấy dó, giấy sắc phong còn là một sản phẩm đặc trưng một thời của người "Kẻ Chợ" gắn bó mật thiết với lịch sử hình thành và phát triển của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến. Làng nghề giấy dó, giấy sắc phong truyền thống ở Bưởi và Nghĩa Đô đã cung cấp đầy đủ nhu cầu các loại sản phẩm giấy cho xã hội trong suốt cả một thời gian dài của lịch sử. Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn đã được viết trên nền giấy dó. Tiếng chày giã dó ở làng Yên Thái còn vọng mãi trong tiềm thức của nhiều lớp người Hà Nội, chắc hẳn không thể chỉ là những kỷ niệm để người ta nhớ về như những phút hoài cổ đầy luyến tiếc. Tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, cùng với tiếng cồng, tiếng chiêng, với thuyền rồng, tiếng chày giã dó của một làng nghề truyền thống ngay giữa lòng Thủ đô sẽ là khúc nhạc đầy ấn tượng.
  10. X_3winofall

    X_3winofall Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.209
    Đã được thích:
    1
    Hãy tìm hiểu kỹ về Nguyễn Ánh đi , rồi mới biết Nguyễn Ánh là 1 anh hùng thời loạn.
    Còn việc thuế phía Bắc đóng cao hơn phía Nam là đương nhiên. Đất đai miền Bắc đã khai phá từ lâu, còn trong miền Nam thì nhiều đất hoang. Miền Nam được giảm thuế, để khuyến khích mở rộng diện tích đất đai chứ...
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 15:17 ngày 17/04/2007

Chia sẻ trang này