1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Văn Hóa Hòa Bình -

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi nguyenlytk21, 24/02/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Văn Hóa Hòa Bình -

    Tôi tìm được trên net các tài liệu này về Văn Hóa Hoà Bình, mang vào đây để các bạn cùng thảo luận và góp thêm tài liệu về thời điểm bắt đầu của văn minh Việt Nam, Lạc Việt.

    Theo tài liệu của Metmuseum:
    http://www.metmuseum.org/toah//ht/02/sse/ht02sse.htm , thì tại Hòa Bình, các di tích khảo cổ cho thấy đã có nền văn minh lúa nước từ 13,000 năm Trước Công Nguyên, với các dụng cụ làm nông bằng đá. [1]

    Từ 6500 TCN - 6000 TCN dọc bờ biển vùng này đã có dấu vết nông nghiệp.

    Từ 4000 TCN - 2500 TCN, giống dân Austronesian bắt đầu di dân từ các đảo phía Đông Nam tràn khắp vùng Đông Nam Á, lên dần phía Bắc.

    [​IMG]

    ? ca. 13,000?"4000 B.C. The term Hoabinhian, derived from excavations in former Hoa Binh (now Ha Son Binh) Province, Vietnam, is often used to describe early populations with flaked stone tools. Key sites for these wide-ranging societies include the Spirit and Ongbah ****s in Thailand and Bac Bo in northern Vietnam. Pottery impressed with vines or mats in Vietnam and with cords in other regions is often found in the upper layers of such sites.

    ? ca. 6500?"6000 B.C. The sea level, which around 10,000 B.C. was considerably lower, rises substantially. Rich agricultural settlements, which may have exchanged tools and shells, develop along the coastlines.

    ? ca. 4000?"2500 B.C. Austronesian people spread throughout island Southeast Asia. Austronesian languages, art, and other cultural practices are also ancestral to the present-day cultures of Polynesia and Micronesia in Oceania." [3]

    Theo nghiên cứu của Tiến Sĩ Wilheim G SOLHEIM II, Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawii, thì:

    ·* Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đồng ý với SAWER là những người dân thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hoá cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) ngạc nhiên nếu sự thuần hoá này bắt đầu sớm nhất khoảng 15000 năm trước tây lịch.

    * Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền bắc Australia được đo bằng phóng xạ đồng vị Carbon 14 có niên hiệu khoảng 20000 năm trước tây lịch thuộc về nền văn hoá HOÀ-BÌNH nguyên thuỷ.

    * Trong khi những niên hiệu sớm nhất của những đồ gốm này được biết tới ở Nhật vào khoảng 10000 năm trước tây lịch, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) kỳ vọng rằng khi nhiều địa diểm với những dồ gốm chạm trổ hình dây được xác định niên hiệu, chúng ta sẽ tìm ra những người này đã làm ra những loại đồ gốm chắc chắn trước 10000 năm trước tây lịch, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.

    * Truyền thống tái tạo thời tiền sử của Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá của kỷ nguyên thứ nhất tân thạch khí (sau thời đồ đá) ở bắc Trung-Hoa được biết đến như là nền văn hoá Yangshao thoát thai từ một nền văn hoá phụ thuộc văn hoá HOÀ BÌNH di chuyển lên phía bắc từ phía bắc của Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước tây lịch.

    · Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá sau đó được gọi là văn hoá Lungshan .Đã được phát triển từ nam Trung-Hoa và di chuyển về hướng bắc thay vì đã được giả thuyết là nền văn hoá này lớn mạnh từ văn hoá Yangshao và bùng nổ về hướng đông và đông nam. Cả hai nền văn hoá này đều thoát thai từ văn hoá HOÀ BÌNH.

    · Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước Thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4000 trước tây lịch cây cân bằng được phát minh ở Đông Nam Á thêm vào sự cân bằng cần thiết để đi biển. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm trước tây lịch dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài-Loan và Nhật-Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.

    · Vào một khoảng thời gian nào đó trong thiên niên kỷ thứ ba trước tây lịch, những cư dân Đông Nam Á, bấy giờ là những chuyên viên sử dụng thuyền bè, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippines. Họ đã đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường soắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng trạm trổ trong đồ gốm, đồ gỗ, hình xâm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy ở trên các đồ đồng ĐÔNG-SƠN và đã được giả thuyết là tới từ Đông Âu.

    · Người dân Đông Nam Á cũng di chuyển về phía tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước. Điều này xuất hiện như là một cống hiến quan trọng của họ trong sự thuần hoá cây cỏ cho nền kinh tế Đông Phi Châu.

    · Cũng khoảng thời gian này, sự liên lạc giữa Việt-Nam và Địa Trung Hải bắt đầu có thể bằng đường biển như là kết quả của phát triên giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở ĐÔNG SƠN đã được giả thuyết có nguồn gốc Địa Trung Hải. [4]

    Ngày nay, chúng ta cũng có nhiều di tích về Văn Hóa Mường tại Hòa Bình. Điều này xác nhận nguồn gốc Mường của văn hóa Việt Cổ với chữ Việt Cổ là chữ Mường. [5]


    ____________

    Tham Khảo:

    [1]] [3] http://www.metmuseum.org/toah//ht/02/sse/ht02sse.htm
    [2] http://www.laodong.com.vn/pls/bld/display$.htnoidung(40,148555)
    [[4] http://giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm
    [5] http://64.233.179.104/search?q=cache:fSsiH3SuKWkJ:www.nhandan.org.vn/english
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tài liệu mới này rất hay .
    Từ xưa đã có giả thuyết người Việt và người Mường có chung
    nguồn gốc, và là anh em ruột thịt gần nhất.
    Chắc rằng trong văn hoá Mường, ta tìm thấy những điều trái
    ngược với giá thuyết hồ Động Đình và Thần Nông.
  3. Mr_Hoang

    Mr_Hoang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/12/2004
    Bài viết:
    8.879
    Đã được thích:
    10.411
  4. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Cái này là chuyện không thể, thời ấy mà đã có thể đi được từ VN đến Địa Trung Hải bằng đường biển thì xấu hổ cho Magienlăng, Vasco de Gamma quá, ngay cả việc đi biển đến eo Hồng Hải (vị trí kênh đào Suez ngày nay) cũng chưa chắc là thực hiện được.
    [/QUOTE]
    Vâng, tôi đồng ý với Mr. Hoàng nếu chúng ta dùng địa lý ngày hôm nay để tìm hiểu cổ sử. Trong phát biểu, chỉ nói là có "giả thuyết". , mà chưa thể xác định.
    Giả thuyết này một phần dựa vào các đường nét kỷ hà khắc trên trống đồng, đồ đồng, cũng như đồ gốm đào được. Người ta cho rằng có nét tương tự như văn minh Địa Trung Hải. Nhưng cũng rất có thể là do giới hạn của khả năng con người trong thiên nhiên, lúc ấy những người tại Hòa Bình và những người tại Địa Trung Hải chỉ có thể đạt tới các nét kỷ hà giống nhau khi đục, đẽo, hay đúc.
    Khi tôi đi thăm Mexico, tôi cũng nhận ra vài nét tương tự trong hình thể con rồng có nét rắn thời Lý của thổ dân Mexico. Thật là tương hợp.
    Một điều nữa, là tôi đoán có những thay đổi về địa lý, địa chất to lớn, thí dụ động đất, hồng thủy, và có thể có sự chuyển đổi của một nhóm người hay di vật do thiên tai đến một nơi hoàn toàn xa cách, mà hiện tại chúng ta chưa giải thích được.
    Từ 1975, người Việt đã phân tán đi khắp nơi trên địa cầu.
    Tôi đoán năm 19750, các nhà khảo cổ học và địa văn hóa học sẽ có nhiều giả thuyết thích thú về nguồn gốc người Việt.
  5. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    ÁNH SÁNG MỚI TRÊN MỘT QUÁ KHỨ LÃNG QUÊN
    Nguyên tác ?o New Light on a Forgotten Past?
    của Tíến Sĩ WILHELM G SOLHEIM II

    Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawaii
    National Geographic, Vol. 139, No. 3
    Tháng 3 năm 1971

    Người dịch: HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT
    Lới người dịch:
    Khi chúng tôi còn lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học, thầy chúng tôi là một người cách mạng, người đã từng lưu lạc qua Trung-Hoa, đã kể cho chúng tôi một câu chuyện rất lý thú. Từ ngày đó cho đến nay đã gần 50 năm, không lúc nào chúng tôi quên được.
    Câu chuyện như sau: Khi cách mạng dân quốc của Trung-Hoa chưa thành công, lãnh tụ Tôn-Dật-Tiên qua cầu viện nước Nhật, tại đây Tôn-Dật-Tiên có gặp ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị (một chính khách Nhật cũng là một nhà mạnh thường quân của cách mạng Việt-Nam), trong câu chuyện hàn huyên, khi đề cập tới Việt-Nam, Tôn-Dật-Tiên đã bĩu môi chê dân tộc Việt-Nam, họ Tôn nói với ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị như sau:
    ?o Dân An-Nam là một dân tộc nô lệ, trước họ nô lệ chúng tôi, nay họ nô lệ người Pháp, họ là một dân tộc có đầu óc nô lệ làm sao giúp họ độc lập được?
    Ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị đã cắt lời Tôn-Dật-Tiên như sau:
    ?o Tôi xin được phép ngắt lời ngài ở đây, ngài đã có những nhận xét không đúng về dân tộc đó(dân tộc Việt-Nam: lời người dịch), bây giờ họ thua người Pháp vì họ không có khí giới tối tân chống lại người Pháp, mai sau khi họ có khí giới tối tân họ sẽ đánh bại người Pháp( lời tiên đoán này đúng với chiến thắng Điện-Biên-Phủ sau này). Ngài nên nhớ rằng dân tộc Lạc Việt này là một chi duy nhất còn lại của Bách Việt đã chống lại sự đồng hoá của người Trung-Hoa giữ nền độc lập của tổ tiên họ trong khi các chi Việt khác như Mân Việt đã bị đồng hoá cả ngàn năm?
    Khi nghe tới đây, Tôn-Dật-Tiên đỏ bừng mặt xin lỗi ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị và xin cáo lui. Tôn-Dật-Tiên xấu hổ vì Tôn-Dật-Tiên là người Quảng Đông (Mân Việt).
    (bỏ một đoạn)
    Do đó nhớ lại lời dạy của thầy chúng tôi gần 50 năm trước, chúng tôi xin trích dịch bài này để thành kính dâng lên anh hồn các vị anh hùng , nữ kiệt đã hy sinh cho tổ quốc, nhắc nhở các thế hệ hiện tại và mai sau về công lao của tổ tiên ta với nền văn minh thế giới, tự hào ta là người Việt-Nam yêu quê hương, dân tộc cũng như chúng ta thề THÀ MẤT CHÚA CHỨ KHÔNG MẤT NƯỚC không như bọn nô lệ, súc vật trên.
    Trong thập niên qua ( thập niên 1960 : lời người dịch), thế giới quay sự chú ý về miền Đông Nam Á nhưng sự chú ý này chỉ dồn về cuộc chiến Việt-Nam. Những ảnh hưởng nặng nề của những biến cố quân sự đã làm lu mờ những khám phá đáng ngạc nhiên về thời cổ sử của vùng này cũng như các dân tộc sống ở đó.
    Nhưng trong trường kỳ, những khám phá này, chính yếu là những khám phá mới về khảo cổ, sẽ ảnh hưởng hơn cả cuộc chiến hay kết cuộc của cuộc chiến về đường lối chúng ta (người Tây phương: ghi chú của người dịch) suy nghĩ về vùng Đông-Nam-Á, về các dân tộc sống trong vùng này, cảm nghĩ của các dân tộc bản địa về chinh họ.
    Ngay cả địa vị người Tây phương và vị trí của trong cuộc tiến hoá của nền văn minh thế giới sẽ bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Những dấu hiệu mạnh mẽ và rõ ràng đang kết tụ cho thấy những giai đoạn đầu tiên để hướng về văn minh bắt đầu từ vùng Đông Nam Á.

    NƠI NÀO LÀ NƠI ĐẦU TIÊN LOÀI NGƯỜI TRỒNG TRỌT CÂY TRÁI VÀ ĐÚC ĐỒNG?
    Các sử gia Âu Mỹ thường lập luận rằng nền văn minh nhân loại đã bắt rễ từ vùng bán nguyệt Cận Đông hay trên những vùng đồi phụ cận của miền này. Ở đó, từ lâu chúng ta tin rằng con người nguyên thuỷ đã phát triển canh nông và học cách làm đồ gốm, đồ đồng. Khoa khảo cổ đã hổ trợ niềm tin này một phần vì các nhà khảo cổ đã đào xới, khai quật nhiều nhất vùng bán nguyệt Cận Đông mầu mỡ này. Tuy nhiên, những khám phá bây giờ ở trong miền Đông Nam Á đang buộc chúng ta phải khảo nghiệm lại các truyền thống này .Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã trồng cây , làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới, trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này.
    Những chứng cớ đến từ những địa điểm khảo cổ trong vùng đông bắc và tây bắc Thái-Lan, với những tiếp trợ từ những khai quật ở Đài-Loan, Bắc và Nam Việt-Nam, các khu vực khác ở Thái-Lan, Mã-Lai, Philippine, và ngay cả từ miền Bắc Australia cho thấy các vật liệu được khám phá và khảo nghiệm bằng carbon 14 cho thấy rằng những di tích của những dân tộc mà tổ tịên họ đã trồng cây, chế tạo đồ đá, đồ gốm hàng ngàn năm trước các dân tộc sống ở vùng Cận Đông, Ấn-Độ, và Trung-Hoa.
    Trong một địa điểm khai quật ở bắc Thái-Lan, các nhà khảo cổ đã tìm thấy đồng được đúc trong những khuôn đôi vào khoảng từ 2300 năm đến hơn 3000 năm trước tây lịch. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy công việc đúc đồng này đã có trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, cũng như trước cả các đồ đồng đúc ở miền Cận Đông mãi tới bây các chuyên gia vẫn còn tin là nơi luyện kim đồng đầu tiên trên thế giới.
    Có người nêu ra lý do hỏi rằng nếu sự việc này quá quan trọng như vậy tại sao vai trò của vùng Đông Nam Á cùng các dân tộc trong vùng trong thời tiền sử không được biết đến cho tới bây giờ. Có vài lời giải thích về việc này nhưng lý do chính rất đơn giàn là rất ít cuộc khảo cứu về khảo cổ được hoàn tất trước năm 1950. Ngay cả bây giờ công việc khảo cổ mới tiến hành một cách sơ lược. Các viên chức thuộc địa đã không đặt ưu tịên cao về các khảo cứu của thời tiền sử ở vùng này chỉ có một số ít người nghiên cứu về công việc khảo cổ được huấn luyện về nghề nghiệp cẩn thận. Không một phúc trình toàn bộ nào về các địa điểm khai quật được chấp nhận theo tiêu chuẩn hiện đại được xuất bản trước năm 1950. Thứ nữa là những điều các nhà khảo cổ tìm ra đã được diễn dịch trên một giả thuyết là sự phát triển văn hoá được đông tiến và nam tiến.
    Các nhà chuyên môn này đã nêu ra lý thuyết cho rằng nền văn minh nhân loại bắt đầu trong vùng Cận Đông lan ra vùng Nhĩ Hà, Ai-Cập và sau đó là Hy-Lạp và La-Mã. Nền văn minh cũng di chuyển đông tiến tới Ấn-Độ và Trung-Hoa. Đông Nam Á thì quá xa điểm khởi thuỷ do đó chỉ tiếp nhận nền văn minh sau các vùng trên.
    Các người Âu châu tìm ra các nền văn hoá cao ở Ấn-Độ và Trung-Hoa, do đó khi họ tìm ra các kiến trúc và lối sống của các quốc gia trên và miền Đông Nam Á giống nhau, người Âu châu cho rằng Ấn-Độ và Trung-Hoa ảnh hưởng vùng này. Ngay cả tên họ đặt cho vùng là Ấn ?"Trung cũng phản ảnh lại thái độ của họ.
    NHỮNG DI DÂN VÀ ?oNHỮNG ĐỢT SÓNG VĂN HOÁ?
    Trong mụcđích tìm về thời tiền sử ở Đông Nam Á, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cho rằng văn minh Đông Nam Á phải được trải rộng ra tới những khu vực có các nền văn hoá liên hệ. Từ ngữ tiền sử Đông Nam Á mà tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sử dụng chứa đựng hai phần. Phần thứ nhất hay là phần đất chính Đông Nam Á được trải dài từ rặng núi Tần-Lĩnh phía bắc sông Hoàng-Hà của Trung-Hoa cho tới Singapore và từ miền Đông hải tây tiến tới Miến-Điện vào tận Asssam của Ấn-Độ. Phần khác được gọi là quần đảo Đông Nam Á đánh một vòng cung từ quần đảo Andaman ở miền nam Miến-Điện trải dài tới Đài-Loan bao gồm Indonesia và Philippine.
    Nhà nhân chủng học người Áo ROBERT HEINE-GELDERN xuất bản đại cương truyền thống về thời tiền sử ở Đông Nam Á vào năm 1932. Ông ta đã đề xướng một loạt những đợt sóng văn hoá có nghĩa là những làn sóng người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính đã được tìm thấy ngày nay ở khu vực này.
    Ông ROBERT HEINE-GELDERN cũng cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là đợt di dân của những người đã chế ra một dụng cụ hình chữ nhật được gọi là cái rìu. Những người di dân trong đợt sóng này đã đến từ miền bắc Trung-Hoa di cư xuống Đông Nam Á và lan xuống miền Sumatra, Java, Borneo, Philppines, Đái-Loan và Nhật-Bản.
    Sau đó ông ROBERT HEINE-GELDERN ĐÃ giải quyết về sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau : ông ta giả thuyết cho rằng đồ đồng nguyên thuỷ ở Đông Nam Á được du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm trước tây lịch do những di dân. Ông ROBERT HEINE-GELDERN tin rằng những di dân trong đợt di dân này di chuyển vào phía đông và phía nam vào Trung-Hoa vào thời Tây Châu (khoảng từ năm 1122 ?" năm 771 trước tây lịch). Những di dân này đã đem đi với họ không những chỉ có các kiến thức về chế tạo đồng , họ còn đem tới nghệ thuật kỷ hà mới với các đường thẳng , d(ường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật.
    Nghệ thuật này đã được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á được cả hai ông ROBERT HEINE-GELDERN và BERNHARD KARLGREN( môt học giả Thuỵ-Điển) gọi là nền văn hoá ĐÔNG SƠN theo tên Đông Sơn, một địa điểm ở miền bắc Việt-Nam
    , phía nam Hà-Nội , nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông HEINE-GELDERN và KARKGREN đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật trạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.
    Phần lớn thời tiền sử dược tái tạo theo truyền thống đó nhưng có một đôi điều đã không phù hợp với truyền thống này. Thí dụ như một số nhà thực vật học nghiên cứu về nguồn gốc thuần hoá của cây cỏ đã đề xướng là Đông Nam Á là một trung tâm thuần hoá cây cỏ rất sớm.
    Năm 1952, nhà địa chất học CARL SAWER đã đi một bước xa hơn. Ông CARL SAWER đã đưa ra giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hoá ở Đông Nam Á.. Ông SAWER đã phỏng đoán rằng cây cỏ được thuần hoá được mang tới do những người sống trong nền văn hoá trước thời kỳ văn hoá Đông Sơn xa. Những người dân sống trong trong một nền văn hoá nguyên thuỷ được biết đến như là nền văn hoá HOÀ BÌNH nhưng các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này của ông CARL SAWER.
    (còn tiếp)
    __________
    http://giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 12:58 ngày 27/02/2006
  6. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG ĐẬP NƯỚC ĐÃ THÊM VÀO MỘT YẾU TỐ KHẨN CẤP
    Khoảng những năm 1920, bà MADELEINE COLANI, một nhà thực học Pháp sau trở thành nhà nghiên cứu Cổ Sinh Vật Học và cuối cùng trở thành nhà Khảo Cổ là người đầu tiên đặt ra sự hiện hữu của nền văn hoá HOÀ BÌNH . Bà COLANI căn cứ trên những khai quật của những hầm và động đá ở những địa điểm trong miền Bắc Việt-Nam, những hầm và hang đá này được tìm thấy trước tiên ở ngôi làng trong tỉnh Hoà-Bình.
    Những cổ vật tiêu biểu trong những địa điểm này bao gồm những dụng cụ bằng đá hình bầu dục, hình tròn, hay hình tam giác được mài dũa một bên, một bên để nguyên. Những đá mài xinh sắn được tìm thấy ở phần lớn các địa điểm khai quật cùng với nhiều vụn đá. Những tầng trên của của các hầm và động đá thường để giữ các đồ gốm và một ít dụng cụ bằng đá khác với đầu để sử dụng thì sắc bén. Xương thú vât và một số lượng lớn vỏ sò cũng hiện diện.
    Các nhà khảo cổ nghĩ rằng đồ gốm cùng với các dụng cụ của nền văn hoá Hoà-Bình xuất hiện ngẫu nhiên và do những người có một nền văn hoá cao hơn sống gần đó chế tạo có thể là những nông dân đã di cư từ miền bắc xuống. Các nhà khảo cổ cũng nghĩ rằng những dụng cụ đá mài được học từ người bên ngoài. Nhưng không có địa điểm nào của những nông dân phía bắc được tìm thấy.
    Năm 1963, tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã tổ chức một đoàn liên hợp khảo cổ cấp thời phối hợp giữa BỘ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN và ĐẠI HỌC HAWAII để làm công việc cứu vớt khảo cổ ở những khu vực sẽ bị lụt do công việc xây dựng những đập nước mới trên sông CỬU LONG và những chi nhánh của sông này. Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) phải bắt đầu làm việc trong miền bắc THÁI-LAN, nơi những đập nước đầu tiên được xây dựng.
    Không có một hệ tnống khảo cứu về thời tiền sử ở vùng này được hoàn tất. Tôi( tiến sĩ SOLHEIM II) cảm thấy cần khẩn cấp bắt đầu hàng loạt khai quật trước khi vùng này chìm ngập dưới nước.
    NHỮNG NGẠC NHIÊN ĐẾN TỪ MỘT GÒ ĐẤT KHÔNG ĐÁNG QUAN TẬM
    Trong mùa khảo cứu dã ngoại đầu tiên chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) đã xác định vị trí của hơn hai mươi địa điểm, trong mùa thứ hai đoàn đã khai quật một vài nơi của các địa điểm này trong khi thử nghiệm các nơi khác; trong năm 1965-1966, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) đã làm một cuộc khai quật chính ở NON NOK THA. Trong lúc thử nghiệm với đồng vị phóng xạ carbon-14 để xác định thời gian của các cổ vật hiện ra vài vấn đề, chúng đã đề xướng một cách mạnh mẽ là có dấu hiệu của sự liên tục về đời sống của con người (với vài sự ngắt quãng) đi ngược về thời gian trước năm 3500 trước tây lịch.
    NON NOK THA là một gò đất rộng khoảng sáu mẫu Anh(acre) nhô lên các ruộng lúa bao quanh khoảng sáu bộ Anh(foot). Trong khi làm việc tại đó, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) sống ở làng BAN NA DI, cách gò đất khoảng một hai trăm mét.
    Chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II)làm việc bốn tháng tại nơi khai quật đầu tiên. Ông HAMILTON PARKER thuộc đại học OTAGO, nước TÂN-TÂY-LAN chịu trách nhiệm trong năm đầu tiên. DONN BAYARD, một sinh viên học trò của tiến sĩ SOLHEIM II, trở lại NON NOK THA trong năm 1968 để làm cuộc khai quật thứ hai cho luận án tiến sĩ của ông ta. Từ đó hai đại học OTAGO và HAWAII đã liên tục yểm trợ cho công việc của đoàn liên hợp khảo cổ như một chương tình liên kết phối hợp với bộ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN.
    Những kết quả của các cuộc khai quật cho tới bây giờ (năm 1971: lời người dịch) đi vào năm thứ 7 đã làm kinh ngạc nhưng mới chỉ mở ra một cách chậm chạp khi những phân tích của chúng tôi tìm ra từ phòng thí nghiệm ở HONOLULU. Ngay khi chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIM II) bắt đầu nhận kết quả đồng vị phóng xạ CARBON-14 định vị thời gian, chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng dịa điểm này là một địa điểm thực sự mở ra một cuộc cách mạng của ngành khảo cổ.
    Trong một mảnh gốm vỡ vụn nhỏ hơn 1 inch vuông, chúng tôi đã tìm ra dấu vết của vỏ trấu. Từ thử nghiệm phóng xạ đồng vị CARBON ở một mức trên mảnh gốm này, chúng tôi(tiến sĩ SOLHEIMM II) được biết rằng hạt gạo này có niên đại ít nhất là 3500 năm trước tây lịch. Điều này chứng tỏ rằng lúa gạo đã được trồng tại đây trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, nơi một vài nhà khảo cổ cho rằng là nơi thuần hoá lúa gạo đầu tiên, cả ngàn năm.
    Từ CARBON phóng xạ đồng vị của than liên hệ, chúng tôi (Tiến sĩ SOLHEIMM II) biết rằng những rìu đồng đúc trongnhững khuôn đôi bằng sa thạch được làm ra ở NON NOK THA sớm hơn 2300 năm trước tây lịch có thể là 3000 năm trước tây lịch. Đây là hơn 500 năm trước kỹ thuật đúc đồng ở Ấn-Độ, và 1000 năm trước khi đồng được biết đến ở Trung-Hoa. Địa điểm này cũng chứng tỏ là lâu đời hơn những địa điểm ở Cận Đông vẫn được coi là nơi chế tác đồng đầu tiên.
    Khuôn chữ nhật mà chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm thấy ở NON NOK THA đều theo cặp đôi , chỉ rõ ràng chúng được đặt chung với nhau ở nơi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm ra chứ không phải bị thất lạc hay vứt bỏ. Quan tâm toàn thể khu vực và những lò nấu kim loại bị hư hỏng và những cục đồng nhỏ vương vãi chúng tôi (đoàn tiến sĩ SOLHEIM II) không còn nhi ngờ gì nữa chúng tôi đã khai quật một khu vực đúc đồng, hay chính xác hơn một nhà máy làm rìu cổ.
    Những phần của gia súc được chôn chung với những mộ cổ xua ở NON NOK THA. Những phần này đã được nhận ra như gia súc tương tự mhư loái bò có u. Điều này chứng tỏ những gia súc đã được thuần hoá sớm ở Đông Á Châu.
    CHESTER GORMAN, một sinh viên của tôi ở trường đại học HAWAII, là người xác định vị trí của NON NOK THA bằng cách tìm ra những mảnh gốm đã bị soi mòntrên gò đất. Năm 1965, anh ta trở lại Thái-Lan cho luận án tiến sĩ của anh ta. CHESTER GORMAN muốm thử nghiệm lại giả thuyết do CARL SAWER và các nhà khảo cổ khác cho rằng người dân thuộc nền văn hoá HÒA-BÌNH đã thuần hoá cây cỏ. Anh ta đã khám phá ra HẦM TINH THẦN (SPIRIT ****) ở xa về phía bắc biên giới Thái-Lan và Miến-Điện, tại đây CHESTER GORMAN đã tìm ra được những gì anh ta muốn tìm
    HẦM CỦA THẦN CHẾT LÀM VỮNG CHÃI CÁC NIÊN HIỆU
    HẦM TINH THẦN (SPIRIT ****) trồi lên cao bên cạnh lớp đá vôi nhìn xuống dòng suối chẩy vào sông SALWEEN ở Miến-Điện. Hầm này được dùng như một hầm mộ do đó được mang tên là hầm mộ.
    Khi khai quật sàn của hầm mộ, CHESTER GORMAN đã tìm thấy những phần còn lại của cây cỏ hoá than bao gồm hai hạt đậu Hoà-Lan, củ năng(water chestnut), hột ớt, nhũng đoạn dây bầu bí và dưa chuột tất cả những vật này kết hợp với những dụng cụ bằng đá đặc trưng của người dân có nền văn hoá HOÀ ?"BÌNH.
    Các mảnh xương của thú vật được cắt ra từng miếng nhỏ không thấy dấu vết cháy chứng tỏ rằng thịt đã được nấu chín tại đây chứ không phải nướng trên ngọn lửa, thịt được sào trong những đồ vật bằng tre xanh vẫn thấy dùng ở Đông Nam Á ngày nay.
    Một loạt khảo nghiệm bằng đồng vị phóng xạ Carbon 14 cho thấy các vật liệu tìm ra ở đây có niên hiệu từ khoảng 6000 năm cho tới 9700 năm trước tây lịch. Vẫn còn những cổ vật xưa hơn nằm trong những lớp đất đào sâu hơn chưa xác định được thời gian. Vào khoảng 6600 năm tước tây lịch, các cổ vật này đã được đưa vào địa điểm này. Những cổ vật này bao gồm đồ gốm hoàn chỉnh, sắc xảo và được đánh dấu bằng những sợi dệt trong tiến trình chế tạo, cùng những dụng cụ bằng đá hình chữ nhật được đánh bóng và những lưỡi dao nhỏ. Các dụng cụ và cây cỏ được thuần hoá thuộc nền văn hoá Hoà-Bình được tiếp tục khám phá ra gần đây.
    Chúng tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) quan tâm đến những khám phá tại hầm TINH THẦN (SPIRIT ****) ít nhất như là bước khởi đầu để bổ sung cho giả thuyết của CARL SAWER, những cuộc thám hiểm khác đang thêm những chứng cớ của một sự trải rộng và phức tạp của nền văn hoá HOÀ-BÌNH. Ông U AUNG THAW, giám đốc cơ quan khảo cổ Miến-Điện đã khai quật trong năm 1969 một địa điểm đáng lưu ý thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH tại những hầm mộ PADAH-LIN ở phía đông Miến-Điện. Địa điểm này chứa đựng nhiều vật khác trong đó có nhiều hoạ phẩm. Đây là địa điểm xa nhất về hướng tây thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH được báo cáo.
    Những cuộc khai quật ở Đài-Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐÀI LOAN và ĐẠI HỌC YALE dưới sự hướng dẫn của giáo sư KWANG-CHIH-CHANG thuộc ĐẠI HỌC YALE đã tìm ra một nền văn hoá với những hình dây và những đồ gốm sắc bén, dụng cụ bằng đá đánh bóng, và những phiến đá mỏng được đánh bóng đã xuất hiện từ lâu khoảng 2500 năm trước tây lịch.
    VẤN ĐỀ KHÓ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC SẮP XẾP PHÙ HỢP VỚI NHAU
    Tôi ( Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã tóm tắt ý kiến về những cuộc khai quật mới cùng những niên hiệu tại đây và các nơi khác, tôi đã không chú ý tới việc nghiên cứu sự tái thiết thời tiền sử ở Đông Nam Á, trong một ngày nào đó có lẽ hai việc này cũng quan trọng ngang nhau. Trong một số bài viết được xuất bản, tôi(Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã bắt đầu về việc này. Hầu hết những ý kiến đó, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề xướng ra như là giả thuyết hay phỏng đoán. Những giả thuyết hoặc phỏng đoán này cần được khảo cứu nhiều thêm để chấp nhận hay bác bỏ.
    Trong số những giả thuyết này :
    · Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đồng ý với SAWER là những người dân thuộc nền văn hoá HOÀ-BÌNH là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hoá cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) ngạc nhiên nếu sự thuần hoá này bắt đầu sớm nhất khoảng 15000 năm trước tây lịch.
    Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền bắc Australia được đo bằng phóng xạ đồng vị Carbon 14 có niên hiệu khoảng 20000 năm trước tây lịch thuộc về nền văn hoá HOÀ-BÌNH nguyên thuỷ.
    · Trong khi những niên hiệu sớm nhất của những đồ gốm này được biết tới ở Nhật vào khoảng 10000 năm trước tây lịch, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) kỳ vọng rằng khi nhiều địa diểm với những dồ gốm chạm trổ hình dây được xác định niên hiệu, chúng ta sẽ tìm ra những người này đã làm ra những loại đồ gốm chắc chắn trước 10000 năm trước tây lịch, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.
    * Truyền thống tái tạo thời tiền sử cua Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá của kỷ nguyên thứ nhất tân thạch khí (sau thời đồ đá) ở bắc Trung-Hoa được biết đến như là nền văn hoá Yangshao thoát thai từ một nền văn hoá phụ thuộc văn hoá HOÀ BÌNH di chuyển lên phía bắc từ phía bắc của Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước tây lịch.
    · Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hoá sau đó được gọi là văn hoá Lungshan .Đã được phát triển từ nam Trung-Hoa và di chuyển về hướng bắc thay vì đã được giả thuyết là nền văn hoá này lớn mạnh từ văn hoá Yangshao và bùng nổ về hướng đông và đông nam. Cả hai nền văn hoá này đều thoát thai từ văn hoá HOÀ BÌNH.
    · Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước Thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4000 trước tây lịch cây cân bằng được phát minh ở Đông Nam Á thêm vào sự cân bằng cần thiết để đi biển. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm trước tây lịch dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài-Loan và Nhật-Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.
    · Vào một khoảng thời gian nào đó trong thiên niên kỷ thứ ba trước tây lịch, những cư dân Đông Nam Á, bấy giờ là những chuyên viên sử dụng thuyền bè, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippines. Họ đã đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường soắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng trạm trổ trong đồ gốm, đồ gỗ, hình xâm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy ở trên các đồ đồng ĐÔNG-SƠN và đã được giả thuyết là tới từ Đông Âu.
    · Người dân Đông Nam Á cũng di chuyển về phía tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước. Điều này xuất hiện như là một cống hiến quan trọng của họ trong sự thuần hoá cây cỏ cho nền kinh tế Đông Phi Châu.
    · Cũng khoảng thời gian này, sự liên lạc giữa Việt-Nam và Địa Trung Hải bắt đầu có thể bằng đường biển như là kết quả của phát triên giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở ĐÔNG SƠN đã được giả thuyết có nguồn gốc Địa Trung Hải.
    QUÁ KHỨ CÓ THỂ GIÚP THẮP SÁNG HIỆN TẠI
    Cách tái kiến trúc thời tiền sử Đông Nam Á được tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) trình bày ở đây căn cứ trên dữ kiện từ một ít địa điểm khai quật và một sự giải thích lại dữ kiện cũ. Nhiều sự diễn giảI khác có thể có được. Nhiều khai quật phong phú, nhiều niên hiệu phong phú ở các địa điểm khai quật đều cần thiết cho thấy nếu đây là cái sườn của công việc tổng quát căn bản này cho được gần hơn với sự tái kiến trúc của HEINE-GELDERN thời tiền sử ở Đông Nam Á. Burma và Assam tuyệt nhiên không được biết đến trong tiền sử, tôi ( Tiến Sĩ SOLHEIM II) nghi ngờ chúng là một phần quan trọng của thời tiền sử Đông Nam Á.
    Hầu hết những điều cần thiết là nhiều chi tiết hơn về những khu vực nhỏ có những đặc tính riêng biệt. Tăng cường sự khảo sát trong những khu vực nhỏ bằng cách hợp tác việc phát triển văn hoá địa phương và sự chấp nhận tiến hoá môi sinh tìm xem cách sống của người dân phù hợp với sườn của thời tiền sử. Sau cùng, đây là người dân chúng ta (Tiến Sĩ SOLHEIM II và đoàn thám hiểm cua ông) muốn tìm hiểu, và điều thăm dò này có thể giúp chúng ta vài sự thông suốt trong sự phản ứng giữa những người dân Đông Nam Á với nhau và với những đổi thay của họ trong vùng Đông Nam Á.
    Dịch xong lần đầu năm 1995, sửa chữa và hoàn tất ngày 24 tháng 4 năm 2002
    HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT
    http://giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm
    Được nguyenlytk21 sửa chữa / chuyển vào 12:55 ngày 27/02/2006
  7. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Phụ lục hình ảnh:
    [​IMG]
    Người hoàn tất tiền sử mang các đầu mối như bình gốm cổ 5000 năm từ NON NOK THA trong miền đông bắc Thái-Lan và các nhà truy tầm khảo cổ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, ?o Nơi nào nền văn minh bắt đầu??. Tiến sĩ SOLHEIM II( hình trên) được những nhà tiền sử học đặt danh hiệu là ÔNG ĐÔNG NAM Á đặt giả thuyết cách mạng trên những trang giấy này cho rằng những người ĐÔNG NAM Á có thể là những người đầu tiên làm ra đồ gốm, mài và đánh bóng những dụng cụ bằng đá, trồng lúa, và đúc đồng. ​
    [​IMG]
    Hình nắp bình đựng tro người chết bằng đồng trong thế kỷ thứ hai trước tây lịch từ Vân-Nam, Trung-Hoa diễn tả dân làng trong một buổi lễ giết người tế thần. ​
    [​IMG]
    Hình trống đồng ĐÔNG-SƠN được chế tạo từ thế kỷ thứ ba hay sớm hơn tại ĐÔNG-SƠN, phía nam HÀ-NỘI, bắc VIỆT-NAM. ​
    __________
    http://giaodiem.com/doithoai/hhnk_vhhoabinh.htm
  8. nguyenlytk21

    nguyenlytk21 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0

    Khảo cổ học một năm lên rừng xuống biển
    PGS-TS Trịnh Sinh
    Theo vết chân 50 người con lên rừng, 50 người con xuống biển của Lạc Long Quân và Âu Cơ, các nhà khảo cổ lần mò đi tìm dấu vết tổ tiên. Tôi lại theo chân họ suốt một năm trời để tìm câu giải đáp: Có những phát hiện mới nào mà lôi cuốn họ đến thế trong một công việc tưởng chừng chẳng ăn nhập gì với thời buổi kinh tế thị trường. Đó là lội ngược dòng về với quá khứ.
    Năm 2005 quả là một năm đầy ấn tượng đối với khảo cổ học với con số 30 cuộc khai quật lớn, ấy là chưa kể các cuộc điều tra điền dã và các hiện vật được phát hiện một cách ngẫu nhiên được người dân thu thập và báo lại cho các cơ quan quản lý văn hoá.
    Sự lôi cuốn của rừng xem ra hơn sức hút của biển, khi mà các công trình lớn được khai quật ở các hang động nổi tiếng vùng núi. Có thể kể ra cuộc khai quật hang Chổ, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Nơi các nhà khảo cổ Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia cùng chụm đầu với các nhà khoa học VN tìm thấy từng dấu tích bếp lửa của người văn hoá Hoà Bình cách đây vạn năm mà tưởng chừng còn vương khói đâu đây. Lại còn tìm được chính những người đã từng nhóm lửa nữa. Cuộc khai quật đã hơn một lần đưa ra kết luận khoa học: Chính nhóm người Hoà Bình này là tổ tiên xa của người Việt hiện nay.
    Vùng rừng núi Tuyên Quang cũng được xới lên do việc nơi đây sắp có một công trình thuỷ điện lớn là công trình Na Hang. Một hang động của người văn hoá Hoà Bình sẽ bị ngập nước, vì thế cần phải khai quật gấp.
    Sau cuộc khai quật Lung Leng để giải phóng "đất" cho thuỷ điện Yaly, thì đến nay lại bắt tay vào một cuộc khai quật Tây Nguyên nữa mang tầm vóc ngang ngửa: Đó là giải phóng lòng hồ Plei Krông nơi có 12 di chỉ thời tiền sử với diện tích khai quật lên đến 13 ngàn mét vuông. Cuộc khai quật này ban đầu hết sức trắc trở. Thật đáng tiếc thay vì biết bao đồ gốm cổ đã thêm một lần mủn nát mà lại không phải do thời gian mà chính do con người. Tầng văn hoá cũng bị dòng nước làm cho xô lệch. Nay thì mọi việc đã tạm ổn, nước sẽ rút và công trình trọng điểm này lại tiếp tục lôi cuốn hầu hết lực lượng khảo cổ trong nước tham gia. Đây là một công trình khảo cổ thời tiền sử có quy mô lớn nhất Đông Nam AÁ, còn hơn cả Lung Leng.
    Một năm qua cũng ghi dấu ấn của việc hợp tác quốc tế nhằm giúp khảo cổ học VN trên con đường hội nhập với khảo cổ học thế giới. Các nhà khảo cổ Nhật Bản, Australia, đã cùng các nhà khảo cổ nước ta khai quật địa điểm Mán Bạc, Ninh Bình và khu mộ thuyền Động Xá, Hưng Yên. Đáng lưu ý là ở khu mộ thuyền này đã tìm được một chiếc quan tài vốn là một con thuyền thực thụ của người Việt cổ.
    Còn cuộc khai quật Gò Quê năm 2005 ở xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi chính là một bằng chứng về mối quan hệ mật thiết giữa người Việt cổ và người Chăm cổ cách đây khoảng 2.400 năm. Lần đầu tiên, bằng chứng về mối giao hảo giữa hai tộc người cổ đại trên đất nước ta lại rõ ràng đến thế.
    Năm qua, một câu hỏi ám ảnh suốt gần nửa thế kỷ qua đã được giải đáp. Đó là, khi tìm được kho mũi tên đồng gần 2 vạn chiếc ở khu vực Cầu Vực, Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội, ở vị trí bên ngoài thành Cổ Loa. Các nhà khoa học phân vân không rõ đây là kho vũ khí của An Dương Vương hay lại là vũ khí để công thành của Triệu Đà xâm lược. Cuộc khai quật mới nhất 2005 đã tìm được cả lò đúc, nồi nấu đồng, xỉ đồng và cả 57 khuôn đúc mũi tên 3 cạnh ở ngay chân thành nội Cổ Loa. Không nghi ngờ gì nữa, kho tên đồng xưa là của An Dương Vương và quân dân trong thành Cổ Loa đúc.
    Năm 2005 cũng là năm mà khảo cổ học chạm được vào các mảnh đất đế đô và thành quách qua nhiều triều đại.
    Các nhà khảo cổ đã khai quật khu tháp Hắc Y thời Trần ở Yên Bái đã chứng tỏ nhà Trần rất chú trọng đến Phật giáo ở những vùng xa kinh đô và các vua Trần cũng có chính sách liên kết các tộc người thiểu số trong công cuộc 3 lần chống quân Nguyên Mông.
    Trở lại Lam Kinh, các nhà khoa học cũng đã phát hiện ra sân rồng lát gạch vuông và cả lối đi lên chính điện, nơi Vua Lê đã từng ngự triều. Bên cạnh đó, khu vực tả vu và hữu vu cũng được khai quật làm rõ.
    Thành Hoàng Đế của Vua Quang Trung ở Bình Định cũng đã được khai quật và kết quả đã tìm được một dấu tích của Tử Cấm Thành, trung tâm quyền lực cao nhất triều Tây Sơn của người anh hùng áo vải cờ đào.
    Khu vực đồng bằng Nam Bộ cũng là mối quan tâm của khảo cổ học năm vừa qua. Nơi đây có các cuộc khai quật lớn như ở Giồng Lớn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. YÁ nghĩa của những phát hiện khảo cổ ở vùng Nam Bộ thật lớn: Khẳng định được trên mảnh đất này từ xa xưa đã có người ở, như trăm suối đổ về một dòng sông. Các nền văn hoá thời kỳ Tiền Óc Eo hội tụ lại thành nền văn hoá OÁc Eo rực rỡ.
    Chia tay các nhà khảo cổ sau một năm cùng gắn bó trên một vài công trường khai quật, tôi lại nghĩ đến hình ảnh một DonKihote cưỡi con ngựa gầy, tay cầm giáo xông lên, liệu hy vọng bảo vệ di tích văn hoá khảo cổ của họ có lạc lõng trong thời buổi người ta cần làm kinh tế hơn là ngồi ngắm một chiếc bình gốm đẹp và giữ gìn lại cho đời sau?
    ________
    LĐ số 26 Ngày 27.01.2006 Cập nhật: 10:32:00 - 26.01.2006
    http://www.laodong.com.vn/pls/bld/display$.htnoidung(40,148555)
  9. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Hôm nọ xem truyền hình Trung Quốc thấy nó cũng có 1 chương trình về mấy cái trống đồng này, đặc biệt là hình cái nắp đựng tro trên thấy nó quay rất kỹ xong rồi làm phim 3D dựng lại cảnh đó. Ngoài ra nó còn quay cả 1 số trống đồng có hoạ tiết rất giống với trống Ngọc Lũ nhưng đơn giản hơn rất nhiều. Nó còn quay cả cảnh dân tộc Trung Quốc ( không rõ dân tộc nào) có cảnh nhảy múa đánh trống đồng thời bây giờ cách đánh là treo trống lên để gõ, gần giống với cách đánh của người Mường.
  10. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bài trích khá hay, nhưng đoạn tôi trích trên thì lạc đề và đụng
    chạm quá . Nói thẳng ra, tôi theo phái Thà mất nước chứ không
    mất Chúa.
    Từ xưa, tranh cãi và giết nhau ở ViệtNam phần chính là vì
    chính trị chứ không phải vì tín ngưỡng. Ở Trung Quốc cũng vậy .
    Phe Cộng thì chửi phe Quốc . Phe Quốc thì chửi phe Cộng .
    Ai cũng cho mình là yêu nước, còn phe kia là mất nước .
    Vậy cái khái niệm "mất nước" phải hiểu thế nào?
    Người ViệtNam vượt biên trốn ra nước ngoài thì có mất nước
    không ? Sao còn gọi những người đó là yêu nước ? Vậy khái
    niệm "yêu nước" phải hiểu thế nào ?
    Ngày xưa ở ViệtNam, vài linh mục Công Giáo chống cộng, còn
    Đảng và Nhà nước thì đàn áp Công Giáo . Ấy là chuyện chính trị
    chứ đâu phải chuyện tín ngưỡng . Người di cư vào nam vì lý do
    tín ngưỡng bị cấm đoán, cũng là lý do chính trị . Phải chăng
    người viết muốn lấy lời bóng gió mà chửi họ là nô lệ, súc vật ?
    Tôi tách rời chuyện đời (chính trị) và chuyện đạo (tín ngưỡng)
    nên tôi không tranh cãi chính trị (mất nước, bán nước) mà chỉ
    lo tu thân cho mình khỏi trở thành kẻ thù ghét quê hương láng
    giềng (lo mất Chúa) . Cái lý của tôi, mong mọi người mở lòng
    mà nhìn thấy cho rõ . Đừng hời hợt lấy ý mình mà phán xét tôi
    là kẻ mất nước .
    Bài này của tôi cũng lạc đề ở đây, và có thể bị coi là nhạy cảm
    và có thể bị xoá . Dù sao, tôi vẫn mạnh dạn nói lên để mọi người
    hiểu, khi người ta nói việc mất nước mất Chúa, thì có nghĩa gì .

Chia sẻ trang này